Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam Sứ Bộ Phan Thanh Giản TS Nguyễn Xuân Thọ https://sachhiem.net/NGXUANTHO/BuocMoDau_07.php
Chương 6 - Những Biện Pháp Đầu Tiên Của Chánh Phủ Pháp Tại Nam Kỳ, Sứ Bộ Phan Thanh Giản Tại Pháp Quốc Và Hiệp Ước Aubaret (1864) Ngay từ khi Hiệp ước Sài Gòn được ký kết và không đợi sự phê chuẩn của hai chánh phủ, Đô đốc Bonard thống đốc xứ Nam kỳ thuộc Pháp đã bắt đầu tổ chức bộ máy cai trị của xứ thuộc địa mới. Ông ta quy định, như chúng ta đã thấy, có sự hợp tác giữa người Pháp với người Việt Nam. Việt Nam chỉ giữ một vài nhiệm vụ trong việc cai trị, cũng như trong việc hành chánh quản lý. Ngay từ đầu, ông ta đã vấp phải nhiều trở ngại ở sự thiếu tinh thần trách nhiệm của những phần tử thực dân cực đoan, trước tiên là các giáo sĩ; ở thái độ thù địch của người Việt Nam không chịu hợp tác. Còn sự giúp đỡ của Paris thì đúng là vô vọng và ông Thống đốc không tìm thấy chút gì tích cực ở sự giúp đỡ ấy cả. Bonard là người rất kinh nghiệm về cuộc sống của người Việt Nam; ông hiểu sâu sắc sức mạnh của truyền thống Khổng giáo, cũng như sự bền vững của chế độ quan liêu và thôn xã, mặc dù nặng tính chất phong kiến (1). Ông chấp nhận rằng nước Pháp có thể dung hòa sự cai trị của mình với sự duy trì chế độ quan liêu đó mà không suy giảm địa vị. Dưới thời Minh Mạng, việc quản lý quốc gia đã được tổ chức lại. Hệ thống quan chức Việt Nam chia làm 9 bậc “phẩm”, mỗi bậc có hai hạng “chánh” và “tùng”. Một Viện Cơ mật (Cơ mật Viện) đã được thiết lập năm 1861, tựu hợp các quan chức cao cấp từ tam phẩm trở lên, nhằm giải quyết những đại sự quốc gia. Công việc hành chánh thực dân vẫn sử dụng lại cơ cấu quan chức đó. Các quan lại từ tứ phẩm trở lên, đối với chánh phủ thực dân, là thuộc ngạch quan lại cao cấp những người gọi là “quan lớn”. Chỉ có các vị quan từ nhị phẩm trở lên mới được mang danh hiệu “đại thần”, trong công văn giấy tờ hoặc trong giao tiếp, xưng hô. Sau đó ít lâu, ta sẽ thấy người Pháp bắt buộc người Việt Nam gọi, không phân biệt, “quan lớn” tất cả các công chức Pháp hoặc Việt Nam, to hay nhỏ của chánh phủ bảo hộ. Bonard chắc chắn rằng chánh phủ Huế đã thấy rõ không thể nào chống lại nổi Pháp, đành hy sinh ba tỉnh Nam kỳ để cứu lấy phần còn lại của đất nước. Pháp sẽ phát huy một ảnh hưởng đúng mức với Việt Nam: Việt Nam trước kia vốn chư hầu của Trung Quốc, thì từ nay sẽ là chư hầu của Pháp; nước Pháp sẽ có một căn cứ vững vàng để tác động dần dần đến toàn bộ khu vực Viễn Đông, bằng cách lôi cuốn dần dần vào dòng thương mại của Pháp, việc khai thác những vùng đất rộng lớn và giàu có này. Ông Đô đốc hy vọng, với sự khôn ngoan và sự cứng rắn, áp dụng được nguyên tắc thứ nhất ấy mà không gặp khó khăn gì, ngoại trừ những khó khăn vụn vặt có thể khắc phục tại chỗ và không cần phải phô trương lực lượng. Đó cũng là ý kiến cơ bản, về nguyên tắc, của Paris. Vừa bắt đầu hoàn chỉnh hệ thống cai trị thuộc địa mới này của ông ta, Bonard chờ đợi hai bên phê chuẩn hiệp ước. Việc phê chuẩn đó không nhanh chóng chút nào. Tây Ban Nha muốn dứt điểm vấn đề để khỏi phải lo đến nữa, đã ký đầu tiên. Nước Pháp là nước đã được nhiều cái lợi lớn ngoài mong đợi, không có lý do gì để chần chừ, ngoài sự chậm trễ của bộ phận văn phòng. Vậy là được hai nước phê chuẩn, các đại sứ chỉ còn chờ sự phê chuẩn của vua Tự Đức. Người ta thông báo cho vị đại diện toàn quyền Việt Nam rằng trong một tháng nữa, đại diện hai chánh phủ Pháp và Tây Ban Nha sẽ tới Huế để long trọng tổ chức lễ trao đổi văn bản hiệp ước. Trước sự do dự triều đình Huế, khi phải đau đớn mà cắt nhượng đi một phần quan trọng của lãnh thổ cha ông, các đại diện toàn quyền Pháp và Tây Ban Nha liền gửi cho Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, ngày 28/2/1863, một tối hậu thư đặt chánh phủ Việt Nam trước một sự lựa chọn bắt buộc: phê chuẩn hay khước từ: “… Chúng tôi trân trọng báo tin Ngài rằng: Hòa ước ngày 5/6/1862 đã được Hoàng đế Pháp phê chuẩn và mang dấu ấn vũ khí vinh quang của Người, được Nữ hoàng các nước Tây Ban Nha phê chuẩn và mang dấu ấn vũ khí vinh quang của Người đã đến Sài Gòn. Đúng như chúng tôi đã viết trước đây, các đại sứ toàn quyền của nước Pháp và nước Tây Ban Nha, một tháng sau khi bức công hàm đó được gửi đi, sẽ sẵn sàng có mặt tại Huế. Chúng tôi phải báo trước cho Ngài biết rằng chữ ký của Hoàng đế Pháp và của Nữ hoàng Tây Ban Nha phải được đón nhận tại kinh đô của Ngài, không bàn cãi, không điều kiện và với một sự tôn kính tối đa như nó được tôn kính trên khắp toàn cầu. Nhằm tránh mọi sự hiểu lầm, chúng tôi yêu cầu Ngài trực tiếp trao tay cho thiếu tá hải quân, chỉ huy chiến hạm hiện có mặt bờ biển trước Huế, một bức thư tuyên bố rành rỏi: 1/ Các vị đại diện toàn quyền sẽ được đón tiếp với tất cả nghi thức cần thiết đối với các vị những đại diện của các quốc vương vĩ đại; 2/ Ngay sau khi hoàn tất những trao đổi các hiệp ước đã được các vị quốc vương Pháp và Tây Ban Nha phê chuẩn, triều đình Huế sẽ trao lại cho mỗi vị toàn quyền một văn bản hiệp ước đó đã được Đức vua An Nam phê chuẩn và mang dấu hoàng gia. Mặc dù chúng tôi nhiệt tình mong muốn giữ hòa bình và đóng góp phần vào sự an ninh của vương quốc An Nam, mặc dù chúng đã chứng minh một cách cụ thể và cao thượng lòng mong muốn của chúng tôi bằng việc chối từ mọi quan hệ với những quân nổi loạn ở Bắc kỳ, chúng tôi phải tuyên bố rõ ràng với Ngài rằng: Nếu trong 48 giờ sau khi nhận bức công hàm này, Ngài không trả lời cụ thể ‘Đồng ý’ cho những yêu cầu chính đáng của chúng tôi, thì vương quốc Ngài từ đây sẽ bị tước mất những điều thỏa thuận hòa bình và hữu nghị liên kết ba nước ta lại với nhau và sẽ thấy chúng tôi sẵn sàng dùng sức mạnh buộc nó phải thỏa mãn chúng tôi về những yêu sách to lớn hơn gấp bội, so với những yêu sách được ghi trong hiệp ước ngày 5/6/1862. Vậy phải nên suy nghĩ chín chắn trước khi đáp ứng những điều chúng tôi yêu cầu, thu gọn trong một chữ ‘ĐỒNG Ý’ hay ‘KHÔNG ĐỒNG Ý’. ‘Đồng ý’, là chấm dứt hết những bất hạnh của nhân dân và vương quốc An Nam. ‘Không đồng ý’ là sự sụp đổ của vương quốc Ngài, bởi nó kéo theo, một cách tất yếu, sự viện trợ của chúng tôi cho bọn nổi loạn Bắc kỳ và sự chiếm đóng tức thời ba tỉnh miền Nam: Vương quốc Ngài sẽ cùng một lúc mất cả Nam kỳ, lẫn Bắc kỳ. “Ngài nên biết rằng chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình, nhưng chúng tôi muốn hòa bình không bàn cãi và đúng như những thỏa thuận đã được ký kết giữa các đại sứ toàn quyền của ba nước. Ngài hãy biết rằng nếu chánh phủ An Nam không chấp nhận hiệp ước trong những điều đã thảo luận đó, chúng tôi sẵn sàng buộc người ta phải tôn trọng chữ ký các quốc vương chúng tôi.”(2) Quả là đáng ngạc nhiên khi thấy để có được một chữ ký, người ta lại dùng những lời lẽ “phi ngoại giao” và một sức ép thô bạo đối với một nước mà người ta đã ký kết hòa bình như vậy. Phải chăng, người ta lấy cớ, bất chấp sự chậm trễ rất dễ hiểu của phía chánh phủ Việt Nam, là tại Nam kỳ đang có những cuộc nổi loạn do nhân dân không thừa nhận bản hiệp ước quá thiệt thòi cho họ, đã được ký kết giữa đại diện toàn quyền của vua Tự Đức với đại diện toàn quyền của những kẻ xâm lăng và tiếp tục chiến đấu? Thái độ của ông Đô đốc phải chăng đã bị chi phối do việc triều đình Huế phủ nhận những quyền hạn của viên toàn quyền Pháp, coi như quyền hạn đó không cho phép ông ta được quyết định như ông ta đã làm, việc nước Pháp chiếm hữu đất đai bị chạm lòng tự ái và cảm thấy sẽ phải đương đầu với một “trường hợp phá án” không thể nào bác bỏ nổi. Ông Đô đốc tìm cách lẩn tránh bằng một bức tối hậu thư, đặt triều đình Huế trước một “sự việc đã rồi” không thể bàn trở lại nữa? Cái giọng quyết liệt của bức tối hậu thư ấy chứng tỏ vị “Đô đốc-ngoại giao” ấy quả là chẳng ngoại giao chút nào. Đất nước không thể cùng một lúc, vừa đấu tranh chống lại quân Pháp - Tây Ban Nha, vừa tiễu trừ bọn nổi loạn ở Bắc kỳ. Cho nên, mặc dầu phe chống hòa bình đông và mạnh, phe này dựa vào Thái hậu Từ Dũ, Tự Đức đã miễn cưỡng quyết định phê chuẩn hiệp ước. Sau cuộc họp sơ bộ ngày 31/3, lễ trao đổi phê chuẩn hiệp ước được diễn ra tại Huế ngày 14/4/1863. Ngày 6/5, sau khi đã bàn giao quyền binh cho Đô đốc De la Grandière, Bonard xuống tàu với Palanca, mang theo hiệp ước đã được Tự Đức phê chuẩn về Pháp. Cuộc viễn chinh chấm dứt. Nước Pháp coi mình như kẻ sở hữu hợp pháp đối với ba tỉnh Nam kỳ và có quan hệ hữu nghị với Việt Nam và nhà vua Việt Nam. Nhưng triều đình Huế thì không quan niệm như vậy. Lần này không phải do tư tưởng kéo dài. Đây là một hiệp ước không những được ký kết một cách không hợp lệ dưới những sự đe dọa mà không cả có giá trị so với công pháp quốc tế. Ngay khi vừa phê chuẩn, triều đình Huế đã cho biết, bằng những tư liệu rất chính xác, rằng triều đình không thừa nhận việc nhượng ba tỉnh Nam kỳ là dứt khoát, vĩnh viễn. Còn dân chúng Việt Nam, họ cũng không có thái độ ôn hòa hơn sau khi hiệp ước được phê chuẩn hoặc sau những lời hứa hoa mỹ của ông Đô đốc toàn quyền. Họ không chấp nhận chế độ thực dân. Với sự đồng ý ngầm ngày càng rõ rệt, mặc dầu lặng lẽ của triều đình Huế, những phong trào nổi dậy chống thực dân Pháp tại Nam kỳ ngày càng phát triển. Nông dân vẫn thù địch với Bonard và những người thay chân ông. Phần lớn các quan lại từ chối hợp tác với chế độ mới. Họ bỏ ra đi dần, mặc dầu Bonard đã cố gắng nhiều để xoa dịu họ và giữ lại một phần lớn các phong tục tập quán địa phương, vì những cố gắng đó mà ông Đô đốc toàn quyền bị các tên thực dân và các giáo sĩ phê trách quyết liệt. Theo như nhà sử học Cultru nói, “Tầng lớp có khả năng cai trị thì hoặc vắng mặt hoặc xấu bụng, đó là ‘cuộc ra đi’” hàng loạt của các bậc sĩ phu và của dân chúng rời bỏ các tỉnh miền đông Nam kỳ bị người Pháp chiếm đóng để về vùng tự do ở miền Tây và tổ chức kháng chiến. Thái độ bất hợp tác chung khắp nơi đó buộc các Đô đốc toàn quyền muốn duy trì bộ máy hành chánh Pháp tại Nam kỳ, chỉ còn sử dụng được một số tối thiểu những công chức Việt Nam (phiên dịch, thư ký) mà thôi. Và duy chỉ có những phần tử kém hạnh kiểm nhất trong dân, tình nguyện đứng ra phục vụ cho những ông chủ mới… “‘Chúng tôi chỉ có với mình’, Đô đốc Rieunier, sau này nói, ‘những giáo dân và bọn du thủ du thực’”(3). ‘“Bọn lang bạt bị trục xuất khỏi làng vì đói rét hoặc vì tội phạm,’ đại tá Bernard viết, ‘xô về đây với cái lưng mềm dễ uốn, họ tham sống sợ chết; họ hoàn toàn hững hờ với cuộc đấu tranh của dân tộc mình, sẵn sàng phụng sự bất cứ những ông chủ nào… Người ta sẽ tuyển dụng trong số họ, tất cả nhân viên hành chánh cần thiết cho nhà nước, hoặc những người giúp việc gia đình: làm đầy tớ, làm khuân vác, làm người chạy giấy và cả những tên phiên dịch, hoặc những người ghi chép được đào tạo thô sơ qua các nhà trường của Hội truyền giáo; chính là qua sự tiếp xúc với những kẻ khốn nạn này mà bọn thực dân và công chức, vừa mới đổ bộ lên, làm quen với dân tộc Việt Nam.” Nhà sử học Cultru kết luận: “Hoàn toàn hời hợt về cái gọi là giáo dục phương Tây mà họ đã được tiếp thu, những thanh niên Việt Nam này đã trở thành những ông thống, ông phán, ông ký, kiểm soát, phiên dịch… ấy, lập thành tại xứ sở thuộc địa một tầng lớp những người tha hóa, chuyên lợi dụng địa vị chính thức của chúng để, nhân danh chánh phủ Pháp lúc này không đủ biện pháp cai quản họ, để áp bức, đục khoét dân chúng buộc lòng phải nhờ đến sự trung gian của họ. … Tại Nam kỳ, chính là từ trong những người Công giáo An Nam mà người ta tuyển chọn những kẻ giúp việc cho chánh phủ Pháp, Phạm Quỳnh đã viết, ‘Họ có tài cán gì?... Phần lớn chỉ là những tay dạy giáo lý Cơ đốc, vì hạnh kiểm kém mà bị các Giám mục đuổi về và dưới một cái tên Latin (bởi vì họ nói lõm bõm tiếng Latin), là đại diện sơ lược của thủ đoạn, của sự vô trách nhiệm, và sự thoái hóa của châu Á”. Những phong trào cách mạng lớn tiếp tục, đáng chú ý nhất là các phong trào Quản Định, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Quản Lịch, Quản Thanh không ngừng gương cao ngọn cờ kháng chiến và gây nhiều khó khăn cho bọn chiếm đóng. Những sĩ phu và quan lại từ chối làm việc với Pháp, những nông dân rời bỏ vùng quê bị giặc chiếm; chẳng ai ngạc nhiên khi thấy ở vùng tự do tất cả những người kháng chiến đó đều được nhân dân ủng hộ nhiệt tình. Hơn nữa, sau khi một hiệp ước không hợp lệ đã phê chuẩn, triều đình Huế tìm mọi cách cụ thể và công khai yêu cầu chánh phủ Pháp sửa đổi lại các điều khoản; họ hy vọng sẽ tìm chánh phủ Pháp sự trung thực, biết điều. Phái Bộ Phan Thanh Giản Tại Pháp Hiệp Ước 5/6/1862 “Điều 6: … Nếu không có việc quan trọng mà một trong ba bên muốn gửi lời chúc mừng cho hai bên kia thì có thể cử một đại diện...” Dựa vào điều khoản trên đây của Hiệp ước, Tự Đức tỏ ra sẵn sàng vận dụng nó: Nhà vua muốn gửi lời chúc mừng tới Napoléon III; nhà vua còn gửi theo tặng phẩm. Nhà vua báo trước chính thức cho chánh phủ Pháp. Chánh phủ Pháp chẳng tỏ ra hoan hỉ chút nào về cử chỉ lịch sự này. Paris không ngờ rằng mục đích chính của phái đoàn dự định là xin với Hoàng đế Pháp sửa đổi lại hiệp ước là điều trái ý muốn các giới chính trị. Không do dự trước những biện pháp nhỏ nhen nhất, ông Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Drouyn de Lhuys viết, ngày 23/6/1863, cho đồng nghiệp của ông ta là Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa một bức thư như sau: “… Vì chánh phủ Việt Nam có ý chờ đợi chúng ta lo sự chuyên chở các sứ giả của họ, rất dễ dàng cho Phó Đô đốc De la Grandière viện cớ không nhận được chỉ thị cần thiết để hoãn lại vô thời hạn sự di chuyển phái đoàn Nam kỳ. … Nếu như tôi nghĩ, không có gì trở ngại ông viết cho ông thống đốc De la Grandière một bức thư theo chiều hướng đó; tôi rất mong ông viết để gửi theo chuyến thư sắp tới và tôi cám ơn ông được ông thông báo cho biết.”(4) Hành vi nhỏ nhen ấy không có kết quả. Phái đoàn Việt Nam vẫn đi được bằng một chiếc tàu của Pháp, chiếc “Européen”. Tự Đức không khó khăn gì trong việc tìm một trưởng phái bộ: nhà vua cho triệu ông tổng trấn Vĩnh Long, vừa bị thất sủng, sau khi ký Hiệp ước 1862, Phan Thanh Giản. Ngày 21/4/1863, sau khi dự một buổi tiếp tân long trọng tại bộ Lễ, ba sứ giả của phái đoàn rời Huế: Đó là Phan Thanh Giản, lần thứ hai làm phó Kinh lược, Phạm Phú Thứ, phó chánh án, tòa án quan lại và Ngụy Khắc Đản, phụ trách các đại lễ; họ mang theo một đoàn tùy tùng 70 người. Ngày 4/7/1863, tại Sài Gòn, họ lên tàu “Européen”. La Grandière cử một đoàn hộ tống, do đại úy hải quân Rieunier, giám đốc “Phòng bản xứ”, chỉ huy. Viên sĩ quan này được giao trách nhiệm gây cảm tình với Phan Thanh Giản để nắm được ý đồ của ông. Vốn là một tên thực dân tận xương tủy, y sẽ tìm mọi cách ngăn chặn không để cho phái đoàn thực hiện được mục tiêu dự định. Ngoài ra, còn có thuyền trưởng hải quân hộ tống Aubaret cùng đi. Aubaret là thông dịch viên, mà là người tán thành các yêu sách của phái đoàn và mong muốn nước Pháp sẽ chấp nhận những yêu sách của Việt Nam. Phái đoàn cập bến Toulon ngày 9/9/1863 và đến Paris ngày 13. Bonard lúc này đang nghỉ phép được chánh phủ Pháp biệt phái sang bên cạnh phái đoàn. Napoléon III, trong thời gian đó, đang nghỉ mát ở Biarritz(5). Phái đoàn được ông Bộ trưởng Ngoại giao Drouyn de Lhuys tiếp, rồi sau đó được dẫn đi dạo chơi trong lúc đợi Napoléon III về. Hoàng đế về hôm 21/10, mời phái đoàn Việt Nam dự một cuộc duyệt binh. Phái đoàn khước từ vì chưa được hội kiến với triều đình Pháp. Mãi đến ngày 15/11/1863, phái đoàn mới được chính thức đón tiếp tại điện Tuileries ở Paris, là nơi ở của các vua Pháp xưa kia. Sau cách mạng 1789 là trụ sở chánh phủ. Từ Đế chế trở đi, là nơi ở của Hoàng đế và các vua Pháp. Ở Paris, dĩ nhiên có những ý kiến khác nhau, ngay trong nội bộ chánh phủ về cách đáp ứng những yêu cầu của phái đoàn. Một tài liệu của Rieunier viết, nó vừa phản ảnh một cách khái quát không khí chung của hôm khai mạc đàm phán, nó vừa bộc lộ quan điểm của tác giả: “… Ngày phái đoàn đến Toulon, trong tháng 9/1863, có một tin đồng đăng trên báo ‘Nền độc lập của nước Bỉ’ do một bàn tay vụ lợi nào đó, và được đăng lại trên tất cả các tờ báo Pháp, thông báo rằng vua Tự Đức xin nộp 85 triệu francs để chuộc lại ba tỉnh đã bị Pháp chiếm nhưng vẫn để cảng Sài Gòn cho chúng ta. Bộ trưởng Tài chính của chúng ta đang gặp nhiều khó khăn trong việc cân bằng ngân sách, những khó khăn đó do cuộc viễn chinh Mexique (Mêhicô) gây nên. Cho nên điều đó rất dễ hiểu - ông là người trước tiên nhiệt liệt tán thành những đề nghị của phái đoàn. Một báo cáo viết tay và chỉ in thành 50 bản đã được trình lên Hoàng đế và chuyển cho các Bộ trưởng và các quan chức cao cấp có liên quan đến vấn đề… Liền sau khi tình cờ chúng ta nhận được bản báo cáo này, chúng ta đã quyết định sẽ chống đối ác liệt ngay khi có dịp bàn đến… Vả lại, những lời đầu tiên mà Hoàng đế nói trong bài đáp từ sau bài diễn văn của vị đệ nhất sứ giả, là những lời hết sức nghiêm khắc trong cách diễn đạt của nó…”(6) Quả nhiên sau khi đã trao các tặng phẩm là mục tiêu chính thức của cuộc thăm viếng nước Pháp của Phái đoàn, Phan Thanh Giản đọc và trao lại cho Napoléon III một bức thư của Tự Đức viết bằng chữ Hán và đề ngày 3 tháng 5 thứ 16 niên hiệu Tự Đức (18/6/1863). Trong bức thư sau khi đề cập tới hiệp ước mà nước Việt Nam vừa ký kết với nước Pháp, nhà vua Việt Nam đã viết rõ ràng, không chút mập mờ như sau: “… Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng bức thư do vị đại sứ toàn quyền của Hoàng thượng đệ trình, chúng tôi thấy ủy nhiệm thư chỉ nói đến hai vấn đề là việc truyền giảng đạo Thiên chúa và tự do buôn bán. Trong ủy nhiệm thư của Nữ hoàng Tây Ban Nha cũng vậy. Trong các quyền toàn vẹn đó, không hề nói, bất cứ bằng cách nào, đến vấn đề yêu sách một mảnh đất cỏn con nào. … Vậy mà qua hiệp ước ấy, chúng tôi cưỡng bách phải trả 4 triệu đô la, ngoài ra còn phải cắt nhường toàn vẹn lãnh thổ ba tỉnh… Tuy nhiên, trong tinh thần ‘hòa bình và hòa hợp’ - Nhà vua đề nghị… hoặc giảm số chiến phí ấy xuống hoặc kéo dài thời hạn thanh toán từ 20 đến 30 năm”. Phản ứng tức thời duy nhất khi nghe Phan Thanh Giản đọc bức thư lên là một câu phiên dịch sai mà Rieunier nói đến trong lời tựa chúng tôi đã trích dẫn, ở phần trên: “… Những người An Nam [trong phái đoàn] đã chờ đợi suốt một tháng trong lo âu cái giờ hội kiến với Hoàng đế, đã bải hoải rụng rời sau câu nói, mà nội dung ý nghĩa nhìn chung là áp dụng cho tình huống của họ. Họ tưởng mục đích của họ đã đạt được. Hôm sau, họ nhận được thông báo rằng thư trả lời cho phái đoàn sẽ được gửi sang Huế trong thời hạn một năm. Đồng thời, người ta yêu cầu họ cho biết có những đề nghị gì về vấn đề quan hệ buôn bán giữa hai nước. Từ lúc này, mặt mày họ lại bắt đầu rạng rỡ. Họ hiểu rằng họ có thể ra về với ít nhiều hy vọng thành công. Ý nghĩa câu nói gây hoang mang cho phái đoàn là: Nước Pháp, có lòng nhân ái với mọi dân tộc và là kẻ bảo vệ những kẻ yếu, phổ biến khắp nơi nền văn minh dịu ngọt và bổ ích của nó; nhưng nó cũng rất nghiêm khắc với những ai cản trở nó trên bước đường nó đi. Đoạn cuối của câu trên, dịch ra tiếng Việt bằng ba từ nhằm tác động tinh thần phái đoàn: ‘Phải có sợ’ (il’fauttrembler)”. Đáng lẽ chỉ cần tuyên bố đơn giản là bác bỏ Hiệp ước 1862 như nhà vua có toàn quyền tuyên bố và nói cho chánh phủ Pháp rõ hiệp ước hoàn toàn không có giá trị pháp lý do hoàn cảnh trong đó nó được ký bởi một đại diện toàn quyền vượt quá quyền hạn của mình và đề xướng việc chiếm đóng đất đai, thì Tự Đức lại muốn có một cuộc thảo luận thẳng thắn và trung thực với Napoléon III, nhằm đạt tới một sự hợp tác chân thực và lâu dài. Trong trường hợp, người ta không thể phê phán phía Việt Nam là thiếu thiện chí. Bức thư mà Phan Thanh Giản đọc trước mặt Napoléon III được viết bằng giọng văn rất lịch sự và có lý có tình. Phái đoàn không có điều gì đáng ngại về sự phản ứng của Hoàng đế Napoléon III; tất cả đều do lỗi của người phiên dịch không biết nói diễn đạt đúng đắn tiếng Việt. (“Phải có sợ”). Đương nhiên là Rieunier lấy hài lòng thấy phái đoàn Việt Nam bị hoang mang choáng váng, may chỉ trong chốc lát trước một sự hiểu lầm tai hại như vậy. Sau đó, các sứ giả Việt Nam có những buổi hội kiến riêng với Napoléon III và Bộ trưởng Ngoại giao Pháp. Họ đã đưa ra những đề nghị gì? Và họ đã nhận được những bảo đảm gì đáp lại những đề nghị cởi mở của họ? Thực tế, chúng ta không thể nào biết được điều ấy, vì trong kho lưu trữ của Bộ Ngoại giao Pháp không thấy có tài liệu nào liên quan những cuộc hội kiến này cả. Trong hai tháng phái đoàn lưu lại Paris, người ta có tổ chức những cuộc tiếp đãi và thăm viếng cho phái đoàn. Với một thái độ khiêm tốn, phái đoàn Việt Nam không xuất hiện trong các buổi tiếp tân dưới hình thức long trọng quen thuộc của phương Đông, mà dường như cảm thấy nhục hơn là hãnh diện về chuyến đi sứ của mình. Các vị lãnh đạo phái đoàn tỏ ra luôn luôn bị ám ảnh về bao nhiêu điều cần lo lắng. Họ nhìn bằng con mắt thụ động và xa vời trước sự giàu có của nước Pháp, những lâu đài đồ sộ, quân đội, tất cả những gì mà người ta cố ý khoa trương ra trước con mắt họ, nhằm làm cho họ nhận thức được sức mạnh hùng cường của nước bảo hộ. Họ lặng lẽ và ít nói. Rõ ràng là họ có một mục đích cao cả hơn là chỉ đến Pháp để thay mặt cho vua mình chào mừng Hoàng đế nước Pháp, dấu hiệu hữu nghị và hòa bình như đã ghi trong hiệp ước. Phan Thanh Giản ý thức được một cách sâu sắc tình thế của đất nước. Ông đã nhanh chóng thoáng thấy phần lớn dư luận Pháp, theo quan điểm của ông, có chiều hướng tốt. Người này nghĩ rằng tư tưởng Viễn Đông và tư tưởng Âu châu quá xa lạ nhau để có thể đưa vào đây một nền văn minh và một phương pháp cai trị kiểu Âu châu được. Kẻ khác thì cho rằng những thuộc địa mới chiếm được là một vực thẳm khoét sâu thêm sự thiếu hụt ngân sách, ngày càng nghiêm trọng, của chính quốc. Kẻ khác nữa cho rằng đường sá xa xôi là một trở ngại lớn cho việc thiết lập các thuộc địa. Sau cùng cuộc thất bại tại Mêhicô(7), đồng thời thắng lợi của những cuộc bầu cử năm 1863 nghiêng về cánh tả, làm cho chánh phủ hoang mang. Những hiệp ước thương mại có lợi, phù hợp với những tư tưởng tự do mậu dịch đương thời, đang được ngưỡng mộ. Bên cạnh những cuộc tiếp đãi và thăm viếng chính thức ấy, Phan Thanh Giản có những cuộc gặp gỡ với đôi ba nhân vật khác. Cùng với Aubaret mà ông ta quen biết lâu nay như một kẻ có cảm tình, ông phác ra những nét khái quát của một hiệp ước mà ông hằng muốn có: chấm dứt vấn đề thuộc địa, trả lại ba tỉnh đã nhượng, thiết lập những cơ sở buôn bán, trả một số tiền bồi thường… Ngày 8/11/1863, phái đoàn đi Madrid, ở lại đây một tháng, rồi trở về Sài Gòn ngày 18/3/1864. Phái đoàn có thể hy vọng đạt kết quả toàn diện của chuyến đi và hoàn thành thắng lợi sứ mệnh cuối cùng mà nhà vua đã tin tưởng giao phó. Hiệp Ước AUBARET Tại Paris, phái đoàn Phan Thanh Giản đã đi rồi. Người ta đã hẹn có thư trả lời trong thời hạn một năm. Đầu năm 1864, Drouyn de Lhuys không còn giữ những quan điểm năm ngoái, khi ông ta định hoãn vô thời hạn chuyến đi Pháp của phái đoàn Việt Nam. Giờ đây có vẻ như muốn tán đồng những điều gợi ý của Việt Nam. Napoléon III, bản chất luôn luôn do dự, dường như cũng có xúc động trước những lời đề nghị đó. Những đường nét lớn vạch ra trong những cuộc hội đàm tại Paris giữa Phan Thanh Giản và Aubaret, cuối cùng được nước Pháp chấp nhận làm cơ sở cho một hiệp ước mới thay cho Hiệp ước Sài Gòn. Gabrièl Aubaret cùng một lúc được cử làm lãnh sự Pháp tại Bangkok và nhận lệnh đến Huế để tiến hành đàm phán và ký kết với Tự Đức một hiệp ước mới. Vai trò của ông thật khó khăn: một mặt, ông không có một chức vị quan trọng trong lãnh vực ngoại giao, cũng như trong quân đội. Mặt khác, mối cảm tình của ông đối với Việt Nam khiến cho ông trở thành “khả nghi”, dưới con mắt các quan chức cao cấp. Ông ta trở lại Sài Gòn, trình bày dự án một hiệp ước mới với triều đình Huế, cùng với một hiệp ước ký kết với Campuchia; La Grandière là người không cùng quan điểm với Aubaret, đã tiếp đón ông một cách nhạt nhẽo. Hơn nữa về vấn đề Campuchia, thấy Aubaret trở về với chức vụ lãnh sự tại Bangkok, Bonard nghi kỵ ông ta đã phóng đại mối nguy cơ của một nước Xiêm bất bình với chế độ bảo hộ Pháp và sẵn sàng gây khó khăn, nếu Pháp muốn thôn tính Campuchia như đã thôn tính Nam kỳ. Ngày 9/1/1864, Drouyn de Lhuys viết cho La Grandière: “… Căn cứ trên những đề nghị đã được các sứ giả của vua Tự Đức trình bày và Hoàng thượng đã nhận thấy hoàn toàn có thể phù hợp với quyền lợi của chúng ta, Hoàng thượng đã đồng ý ký kết với triều đình Huế một hiệp ước mới, sửa đổi các điều khoản của hiệp ước đã ký tại Sài Gòn ngày 5/6/1862. Dự thảo hiệp ước mới đã chuyển cho ông Aubaret, với nhiệm vụ đến Huế đàm phán. … Tôi đã soạn thảo ra bản dự án hiệp ước ấy đúng theo quan điểm của Hoàng thượng, sau khi có sự thỏa thuận với Bộ trưởng Hải quân. Ông Aubaret sẽ trình bày với ông về nội dung bản thảo hiệp ước đó. … Tôi xin giới thiệu và tin cậy ông sẽ vui lòng đón tiếp ông Phó Đô đốc với ông sẽ giúp ông ta thực hiện đầy đủ những chỉ thị tôi đã giao cho ông ta. Tôi cũng tin những cuộc hội đàm đó sẽ tạo điều kiện cho những việc trao đổi thông tin, tất yếu phải có giữa hai người, nhằm phụng sự Hoàng thượng được thuận tiện và dễ dàng. Sau khi đã có sự trao đổi ý kiến nhất trí với ông rồi, ông Aubaret phải đi ngay ra Huế không được chậm trễ, để tiếp tục tại đó cuộc đàm phán được ủy thác vào một mình ông ta. Mặc dù giờ đây, ông ta chỉ có nhiệm vụ báo cáo cho duy nhất một mình bộ tôi về tiến trình của cuộc đàm phán, tôi vẫn yêu cầu ông ta báo lại cho ông, bằng con đường không chính thức, những kết quả của cuộc đàm phán, ngay khi đạt kết quả tốt, hoặc không may tan vỡ…”(8) Vậy chúng ta có thể nói rằng phái đoàn Phan Thanh Giản đã hoàn toàn thắng lợi trong chuyến đi sứ của ông. Đồng ý ký kết một hiệp ước mới thay cho hiệp ước do Bonard đàm phán, ký kết và quyết liệt bảo vệ. Napoléon III đã thừa nhận qua đó rằng, những khiếu nại của vua Tự Đức là hoàn toàn chính đáng và có căn cứ. Bản dự thảo hiệp ước, như chúng ta biết, đã được các Bộ liên quan chuẩn bị, Bộ Ngoại giao và Bộ Hải quân, đúng với cách nhìn của Napoléon III. Một đại sứ toàn quyền đã được ủy nhiệm một cách hợp thức để đến Huế chỉ đạo cuộc đàm phán. Ông toàn quyền Nam kỳ được thông báo hẳn hoi về sự kiện này. Chúng ta có thể tin rằng: trong những điều kiện cực kỳ thuận lợi như vậy, lại có một quyết tâm sắt đá của chánh phủ Pháp hỗ trợ thì cuộc đàm phán bảo đảm chắc chắn sẽ đưa đến những kết quả tốt đẹp. Ngay việc chọn lựa nhân vật Aubaret đã có tính chất khích lệ và đầy ý nghĩa, bởi vì chính Aubaret là người có nhiều thiện cảm với Việt Nam. Tất cả hứa hẹn cuộc đàm phán sẽ được tiến hành dễ dàng. Tuy nhiên, có biết chăng, không những lời văn của hiệp ước mới được coi như rất phóng khoáng, không thích hợp với nguyện vọng của bọn thực dân, mà ngay bản chất của người điều đình sẽ là một trong những lý do sâu xa khiến sứ bộ Pháp điều đình thất bại trong khi sự phản ứng của các giới tài chính và kỹ nghệ bắt đầu biểu thị một cách quyết liệt. Sau vài hôm ở Sài Gòn, ngày 11/6/1864, Aubaret lên tàu “Enstrecasteaux” đến sông Hương trước kinh thành Huế. Ông được trao toàn quyền để điều đình và nhân danh nước Pháp ký kết một hiệp ước với Việt Nam. Ông đã có trong tay dự án hiệp ước đó, do Bộ trưởng Ngoại giao soạn thảo cùng với những chỉ thị cụ thể. Trong những ngày này, hai vị quan cao cấp từng đi theo phái đoàn sang Pháp, túc trực chờ đón vị đại diện của chánh phủ Pháp. Aubaret được mời lên một chiếc thuyền lớn vào cửa Thuận An, và được đón tiếp ngay chiến lũy với tất cả lễ nghi long trọng và không có dấu hiệu ngại ngùng nào từ phía các nhà chức trách địa phương. Người ta để cho ông tự do ngược dòng sông Hương. Tại Huế, ông được Phan Thanh Giản đón tiếp long trọng và bố trí nơi ăn chốn ở chu đáo không phải như đối với các phái viên năm trước tại một doanh trại khá xa, mà ngay trong thành phố theo nguyện vọng của ông đã nói ra, giữa lòng nhân dân xung quanh hoàng thành. Người ta cho cả một tiểu đội danh dự sang phục vụ. Tóm lại, người ta biểu thị một lòng tin rất lớn đối với ông, bởi vì hơn cả đối với vị Hoàng đế của ông đại diện, mọi người rất trân trọng tấm lòng trung thực của ông đối với những người Việt Nam mà ông rất muốn tìm hiểu. Ngay từ khi mới đến, Aubaret nhận thấy và nói rõ trong bức công hàm đầu tiên của ông, ngày 18/6/1864 gửi Bộ trưởng Ngoại giao “… rằng xứ sở này đang chìm trong cảnh đói nghèo cùng cực; nạn đói đang hoành hành nhiều nơi: tất cả đều là dấu hiệu của sự khốn cùng”(9). Hôm trước ngày đàm phán, Aubaret được hội kiến riêng với vua Tự Đức, lần này cũng vậy ông được vua tiếp ngay trong nội điện với tất cả tấm lòng trân trọng chứ không phải chỉ ở khu thành nội như Bonard. Aubaret đọc bài diễn văn chính thức của ông bằng tiếng Việt. Sau đó ông được dẫn tới cạnh ngai vàng và được trò chuyện trực tiếp với Tự Đức. Nhà vua mong muốn trao đổi ý kiến riêng giữa hai người. Sau khi ngợi khen cá nhân ông, nhà vua kêu gọi tinh thần công bằng của ông trong những cuộc tranh luận sắp sửa diễn ra. Vì đất nước đang lâm cảnh đói nghèo, cho nên điều nhà vua chú ý hơn cả là vấn đề số tiền chiến phí phải bồi thường. Hôm sau, 22/6/1864, là xác nhận quyền hạn của phái viên rồi cuộc hội đàm bắt đầu. Suốt ngày 23/6 dành hoàn toàn cho việc thảo luận cái điểm khó khăn nhất: điều khoản XIX liên quan đến vấn đề bồi thường chiến phí. Trong bản dự thảo Aubaret mang theo từ Paris, điều khoản ấy được viết như sau: “Đức vua Việt Nam cam đoan, đáp lại những nhượng bộ của Hoàng đế Pháp và tri ân về sự bảo hộ của Người, sẽ trả cho Người số tiền cống nạp ba triệu francs cho mỗi năm tiếp theo, ngoài số tiền bồi thường đã quy định trong Hiệp ước Sài Gòn.” Như chúng ta đã thấy, Aubaret đã có thể tự mình chứng kiến và trình bày với chánh phủ Pháp về tình trạng quá nghèo của Việt Nam. Ông thừa nhận tình trạng đó là do chiến tranh và loạn lạc sau đó gây ra. Trong công hàm ngày 18/6/1864, ông đã nêu rõ: “… Những khó khăn hiển hiện trước mắt và có thể sau này khiến chánh phủ Việt Nam, dù chấp nhận hết tất cả các điều khoản của hiệp ước đi chăng nữa, cũng vẫn trở thành một con nợ tồi tệ nhất và cũng vô phương chi trả nhất, trong các con nợ”(10). Muốn tôn trọng chữ ký của các đại sứ toàn quyền, ngay từ hôm sau, Tự Đức, một lần nữa lại cho gọi Aubaret tới hội kiến riêng với nhà vua. Trong hai giờ liền, cuộc trò chuyện được tập trung vào điều khoản XIX về vấn đề cống nộp thường niên. Một mặt, nó nhắc lại quá nhiều cái địa vị chư hầu, trước đây của Việt Nam đối với Trung Quốc; mặt khác, một lần nữa Tự Đức nhấn mạnh đến sự nghèo khổ cùng cực của đất nước mình và sự bất lực của nó trong việc thanh toán. Ông đại diện toàn quyền Pháp chỉ biết lưu ý nhà vua rằng điều khoản này là một trong những điều khoản mà ông ta không có quyền thảo luận. Tự Đức bèn yêu cầu ông đệ trình lên chánh phủ Pháp xét, bằng cách báo cáo rõ ràng về tình trạng bi đát hiện nay của Việt Nam. Các đại diện Việt Nam vẫn do Phan Thanh Giản lãnh đạo nhận xét rằng về phía họ không thể chấp nhận điều khoản XIX ấy đành gác lại. Tuy nhiên, phía Việt Nam soạn thảo điều khoản XIX lại theo nội dung khác và mong muốn thay nó vào cái điều khoản đang tranh chấp. Họ sẽ ký dưới điều khoản đó một mình và Aubaret sẽ chuyển cho chánh phủ Pháp sau bởi ông ta cũng cho là hợp lý. Trong một công hàm ngày 24/6/1864 gửi Bộ trưởng Ngoại giao, ông ta viết về vấn đề này như sau: “… Nhưng tôi chỉ đồng ý chuyển lời yêu cầu của triều đình Huế, trong chừng mực mà triều đình Huế cam kết sẽ trả, trong thời hạn 20 năm liền một số tiền là hai triệu; đương nhiên là không kể số chiến phí 20 triệu đã được quy định trong Hiệp ước 5/6/1862. … Tôi cần phải nói thêm rằng chúng ta phải biết ơn triều đình Huế về sự khước từ rõ ràng và dứt khoát của họ. Họ không phải không biết cái nguy cơ mà họ sẽ đương đầu nếu không chuộc lại được ba tỉnh của họ, điều mà họ xiết bao mong muốn. Cái triều đình ấy, đã có thể, với tính cách xảo trá quen thuộc của nó, ký kết những điều khoản không thể nào chấp nhận gấp mấy lần như vậy nữa kia. Tôi cho rằng bước đầu trung trực ấy, của triều đình Huế, phần lớn là nhờ Phan Thanh Giản”(11). Trong điều khoản XIX đó, những mục được bàn cãi lâu hơn hết, dành riêng 10 ngày, là sự thiết lập một lãnh sự ở Huế, chế độ bảo hộ ở cả sáu tỉnh Nam kỳ (ba tỉnh đã chiếm đóng trước kia và ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên), nhất là mục cuối cùng này rất khó lòng mà triều đình Huế chấp nhận. Cần phải nói rõ về chi tiết tính chất của nền bảo hộ đó không hàm ý nghĩa là một chế độ chư hầu. Về vấn đề đặt một lãnh sự làm cơ sở quan hệ mọi mặt với chánh phủ Việt Nam thì Aubaret đã thuyết minh rõ và không còn có điều gì đáng ngại. Vậy là hiệp ước được ký kết, (trừ điều khoản XIX) và từ Huế, viên đại sứ toàn quyền Pháp đã báo về hôm 18/7/1864, cho Bộ trưởng Ngoại giao qua một bức công hàm, trong đó ông nhận xét: “… Hiệp ước này, đúng như văn bản hiện tại, chỉ ký kết được sau 10 ngày tranh luận sôi nổi; trong 10 ngày đó, tôi đã hai ba lần có dịp đề nghị một cách nghiêm túc chấm dứt các cuộc đàm phán. Những mục bị phản đối nhất, sau mục ‘bồi thường’, mà chúng tôi đã phải tách riêng ra cuộc tranh luận, là những vấn đề: mặt một lãnh sự tại Huế và chế độ bảo hộ sáu tỉnh Nam kỳ. Nhất là mục cuối cùng này thật là khó khăn vô cùng mới tranh thủ được sự chấp thuận của triều đình Huế. Ngài Bộ trưởng sẽ thấy rằng để giải thích cho được bản chất của nền bảo hộ đó, tôi đã phải nói thêm rằng nó không thể kéo theo một ý niệm ‘chư hầu’ nào cả. Còn về việc đặt lãnh sự thì có thể được coi đường hoàng như là cơ sở cho mọi mối quan hệ có thể có với chánh phủ An Nam. Tôi vui mừng thấy những lời giải thích của tôi đã đánh tan được nỗi sợ hãi quá đáng của chánh phủ đó. Hôm nay, người ta đang sẵn sàng tiếp nhận một lãnh sự, bởi vì người ta đã hiểu rõ nhiệm vụ của một viên lãnh sự và triều đình Huế sẵn sàng nhượng cho chúng ta một mảnh đất vừa phải dùng để xây dựng lãnh sự quán về lâu, về dài. … Nếu nhìn hiệp ước này, trên tổng thể của nó thì theo tôi nó ra chiều đáp ứng được mục đích mà chánh phủ của Hoàng đế đã tự đặt cho mình, vào lúc mà Ngài Bộ trưởng cử tôi theo dõi cuộc đàm phán”(12). Mặc dầu có nhiều tin đồn đại, vị đại sứ toàn quyền Pháp chỉ quan tâm đến sự thành công của sứ mệnh Hoàng đế đã chính thức ủy thác cho ông. Điều đình rồi ký kết với Việt Nam, bản hiệp ước này dưới ánh sáng những sự kiện được quan sát suốt thời gian ông lưu trú ở Huế. Aubaret đinh ninh tưởng mình đã chân tình phục vụ cho sự nghiệp hòa bình và tổ quốc ông. Không may, giữa cơn sóng thần của những tư tưởng thực dân chủ nghĩa đang được trọng vọng và những ý định xâm chiếm thuộc địa đơn thuần không giấu giếm, thì một vài nhận xét đúng đắn và những tư tưởng phóng khoáng, tự do của Aubaret tự nhiên cũng bị lôi cuốn đi theo dòng, bất chấp mọi công lý và mọi lẽ phải. Và về bản hiệp ước ký kết ở Huế mà không được áp dụng bao giờ đó sẽ có nhiều diễn biến xảy ra. Như người ta có thể dự đoán, cái dự định rời bỏ Nam kỳ đã gây giận dữ và cả phản đối mạnh ở nhiều “nhân vật”. Một trong những người “thù địch” quyết liệt nhất là La Grandière. Sự quan trọng của ông ta giảm sút; hơn nữa ông ta vừa phái đại úy Doudard de Lagrée sang Campuchia nhằm áp đặt cho Campuchia chế độ bảo hộ. Nước Xiêm đã rút quân khỏi nước này để cho quân Pháp hoàn toàn được tự do hành động, sự bỏ rơi Nam kỳ có thể đảo ngược vấn đề trở lại. Vả lại, trước một thắng lợi dễ dàng như vậy, ai lại đi lui quân về những tỉnh lân cận bao giờ? Chúng ta đã thấy, theo lệnh Bộ trưởng, Aubaret đã trình qua bản dự thảo hiệp ước cho La Grandière nhằm điều chỉnh lại một vài đoạn nào đó, trước khi đem ra thảo luận ở Huế. Đã có chỉ thị rõ ràng, trong dịp đó là Aubaret chịu trách nhiệm về sứ mệnh của ông ta; gặp Đô đốc - cầm quyền chỉ để hỏi ý kiến mà thôi. La Grandière tức khắc lợi dụng cơ hội gửi cho Chasseloup-Laubat, hết công hàm này đến công hàm khác nhằm kích động ông ta phản đối. Cùng với những lời chê trách đó, có nhiều tiếng nói khác hòa theo: báo chí của hải quân, các phòng thương mại, các giới kinh doanh và lẽ đương nhiên, các báo chí Công giáo, như vậy cái vẻ thống nhất bên ngoài của chánh phủ Pháp nhanh chóng bị sứt mẻ. Chasseloup-Laubat vốn là một tay thực dân sừng sỏ, xúi giục Napoléon III biến hạm đội nước Pháp thành một công cụ tương tự như hạm đội của nước Anh: một căn cứ của thế lực đế quốc. Cũng bắt chước Anh, ông ta xúi giục Napoléon III bành trướng thuộc địa. Drouyn de Lhuys cũng thực dân chủ nghĩa chẳng kém. Ông ta rất quan tâm bảo đảm cho Đế chế mức lợi nhuận tối đa trong những vấn đề mà ông ta dấn mình vào, bất chấp cả nguy cơ bị các cường quốc khác oán thù. Hai người cùng nhau khởi sự xâm chiếm Campuchia. Trước thắng lợi dễ dàng ấy, họ quyết định đảo ngược quan điểm lập trường trước kia của họ, ra sức thuyết phục Napoléon III đừng chú ý đến kết quả đàm phán của phái đoàn Phan Thanh Giản và coi như vô hiệu những chỉ thị mà chính họ đã truyền đạt cho Aubaret. Ngày 6/6/1864, Drouyn de Lhuys yêu cầu Chasseloup-Laubat gửi kèm theo công văn của mình sang Nam kỳ, một công hàm gửi Aubaret, bảo Aubaret cắt đứt một cách đơn giản những cuộc điều đình đang tiến hành tại Huế. Nhưng do việc vận chuyển thư từ chậm trễ, Aubaret chỉ nhận được chỉ thị đó khá lâu sau khi hiệp ước đã được ký kết rồi. Lúc này Aubaret đang lênh đênh giữa biển sung sướng vì thành công, và trong tay đang cầm văn bản hiệp ước cùng với bức thư và tặng vật của Tự Đức gửi Napoléon III. Hiệp ước Aubaret đã được ký kết. Thiện chí của Tự Đức và các quan Thượng thư của nhà vua thật là hiển nhiên. Chánh phủ Pháp sẽ làm gì đây? Sau một vài do dự, người ta tự hỏi có nên chăng, dù chỉ là hình thức, thừa nhận sự tồn tại của Hiệp ước Aubaret, dù có phải sửa đổi lại? Lần này, những sự chần chừ do dự không kéo dài. Chasseloup-Laubat tự đặt cho mình trách nhiệm can thiệp. Ngày 4/11/1864, ông ta gửi cho Napoléon III một bản tường trình rất dài, trong đó ông ta khuyên Napoléon III, trong khi chờ đợi một cảnh tốt hơn, trở lại với Hiệp ước Sài Gòn năm 1862. Tại Hội đồng Bộ trưởng ngày 10/11/1864, người ta quyết định không phê chuẩn Hiệp ước Aubaret. Có nghĩa là người ta chỉ thừa nhận có Hiệp ước 1862, đơn giản vậy thôi. Tháng 1/1865, La Grandière được Chasseloup-Laubat thông báo về quyết định trên đây của chánh phủ. Sau bao nhiêu lần trách móc phàn nàn, lần này ông Đô đốc-cầm quyền được vui mừng toại nguyện. Ngày 20/1/1865, ông Đô đốc-cầm quyền viết thư cho “Thượng thư Ngoại giao” Việt Nam để thông báo cho triều đình biết quyết định của chánh phủ Pháp. “Tôi hân hạnh báo tin Ngài, nhân danh chánh phủ tôi, rằng hiệp ước ký kết tại Huế hồi tháng 7/1864, do ông Aubaret, đặc phái viên của Hoàng đế Pháp và các đại diện toàn quyền của Đức vua Tự Đức, không được phê chuẩn. Khi giao cho tôi trách nhiệm thông báo cho Ngài quyết định này, Bộ trưởng Ngoại giao chúng tôi có yêu cầu tôi trình bày rõ với Ngài những lý vì sao chánh phủ của Hoàng đế chúng tôi đã từ chối một sự cam kết mà chánh phủ hằng mong muốn, và trở lại một cách đơn giản với Hiệp ước Sài Gòn ngày 5/6/1862. Tôi xin được vinh dự trình bày với Ngài những lý do đó như sau: Mặc dù bản dự thảo hiệp ước giao cho sứ giả Pháp đã được chấp bút theo những đề nghị của chính phái đoàn An Nam, nó đã phải trải qua những cuộc thảo luận rất gay go mới được các vị đại diện toàn quyền của triều đình Huế chấp thuận. Ông Aubaret, với mục đích thuyết phục họ và không làm tan vỡ cuộc đàm phán như Ngài biết, đã phải chấp nhận một vài sửa đổi trước, rồi đồng ý đệ trình lên chánh phủ Pháp xem xét lại một điều khoản mà ông ta thấy không thể tán thành và chịu trách nhiệm. Xét kỹ thì những phần điều chỉnh đối với bản dự thảo, đã tỏ ra thay đổi nội dung nó quá mức vừa phải, sau khi đã có những bằng chứng về thiện chí của nước Pháp đối với triều đình Huế. Như vậy, chúng tôi đã yêu cầu Vương quốc An Nam mở cửa cho tất cả những người Pháp được ra vào với điều kiện duy nhất là họ có hộ chiếu theo hình thức nhất định và giá trị bảo đảm tính mạng, tài sản cho người mang hộ chiếu. Điều khoản được ký kết tại Huế giới hạn quyền đi lại trong nước đối với những người phải cư trú tại các tỉnh Gia Định và Định Tường, hoặc tại các cảng Đà Nẵng, Balat và Quảng An, và chỉ cho phép họ ra ngoài mua vài sản phẩm địa phương; ngoài ra lại còn buộc họ phải trình diện với nhà chức trách địa phương và trở về ngay nơi cư trú trên đây, sau khi đã mua bán xong. Trong lĩnh vực buôn bán cũng như cai trị, Pháp yêu cầu được mua trên lãnh thổ Việt Nam những thứ gỗ xây dựng và khai thác những mỏ than đá, khả năng ấy đã được quy định trong điều khoản XIII của hiệp ước bằng những lời lẽ không bảo đảm đầy đủ cho những sự dễ dàng mà họ đã hứa. Điều khoản XV liên quan đến các giáo sĩ và người công giáo Việt Nam, ở mục cuối, có thể đưa đến những giải thích ít nhất cũng trái ngược với quyền lợi những người mà nó đề cập đến. Những phụ lục kèm theo điều khoản III có thể tạo nên những điều bất lợi nghiêm trọng. Điều khoản cho phép các tàu bè An Nam mọi cỡ được đi lại trên các đoạn sông thuộc quyền sở hữu tuyệt đối của chúng tôi, tức là cho phép chánh phủ An Nam dùng các tàu bè ấy để chuyên chở vũ khí và dụng cụ chiến tranh với một điều kiện nhỏ mà thôi; phải báo cho chúng tôi biết. Bản thân chúng tôi cũng chấp nhận một sự ràng buộc mới là chỉ sử dụng một cách hợp pháp cái quyền được dùng lãnh thổ An Nam để khi cần, tiếp tế những địa điểm chúng tôi chiếm đóng với điều kiện thông báo cho nhà chức trách An Nam biết. Điều khoản XV sửa đổi đã làm thay đổi tính chất của những điều cam kết mà chúng tôi bảo đảm cho những người An Nam dưới nền cai trị của chúng tôi muốn ở lại với chúng tôi, hoặc trở về với chính quyền của triều đình Huế. Và đây, một phản luận cuối cùng: Nước Pháp đã chỉ đồng ý nhượng trở lại triều đình Huế ba tỉnh mà triều đình Huế đã nhượng hẳn cho Pháp, với điều kiện là triều đình Huế chấp nhận sự bảo hộ lâu dài của nước Pháp, sự bảo hộ lâu dài đó được khẳng định bằng việc cống nộp hằng năm và liên tục. Trong khi chánh phủ An Nam chỉ muốn thu hồi bằng một số tiền chuộc trả dần trong 40 năm; cho nên giữa chánh phủ An Nam và chúng tôi không thể nào thỏa thuận với nhau được. Thưa Ngài Thượng thư, đó là những lý do dẫn tới quyết định ngày hôm nay của chánh phủ Hoàng đế chúng tôi về bản hiệp ước, mà ông Aubaret đã được giao trách nhiệm điều đình tại Huế nhằm thay thế bản Hiệp ước 5/6/1862. Vậy là chúng ta vẫn tiếp tục những mối quan hệ giữa hai nước với nhau trên cơ sở Hiệp ước 1862 và mong rằng những mối quan hệ đó mãi mãi sẽ là những quan hệ giữa hai chánh phủ đoàn kết với nhau. Một lần nữa, thưa Ngài Thượng thư, tôi xin gửi tới Ngài những tình cảm trân trọng nhất”(13). Vì yếu, bất lực và chính kiến bất đồng, chánh phủ triều đình Huế chẳng thấy còn giải pháp nào hơn là ngoan ngoãn thực hiện những ý muốn của Pháp. Để tỏ rõ sự ngoan ngoãn ấy, sự phục tùng đối với “nước bảo hộ” ấy, Thượng thư Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhân danh chánh phủ, trả lời cho bạn đồng nghiệp Pháp, ngày 15/2/1865. Sau khi nhắc lại những điều kiện trong đó Aubaret đã được phái sang Việt Nam và quyết định của chánh phủ Pháp không phê chuẩn hiệp ước vừa ký kết tại Huế, Phan Huy Vinh viết: “… Khi hai nước đã thề giảng hòa với nhau, chúng ta không thể không nói đến vấn đề chuộc lại ba tỉnh Nam kỳ, vì lòng dân oán hận chuyện mất nước… Vì vậy, chúng tôi đã phải cởi mở tấm lòng ra với Hoàng đế nước Pháp, để Người đoái thương đến chúng tôi, nếu không được về mọi mặt, ít nhất về một vài điều. Cũng như những điều thay đổi hoặc sửa lại trong văn bản hiệp ước là nhằm đáp ứng những yêu cầu phong tục tập quán và ngôn ngữ nước chúng tôi, sao cho bản hiệp ước trở nên dễ hiểu đối với mọi người và không bị ai lý giải ngược lại. Còn về vấn đề giảm xuống 40 năm số cống nạp hằng năm và liên tục, thì chính chúng tôi yêu cầu như vậy bởi tài nguyên của cải đất nước tôi dường như không thể hứa hẹn nhiều hơn vậy được. Làm như vậy, chúng tôi muốn một lần nữa tạo cho Hoàng đế Pháp một cơ hội mới để bộc lộ tấm lòng đại lượng bất tận của mình, nhưng chúng tôi không hề có ý định thay đổi, hoặc xóa bỏ những điều đã thỏa thuận lúc đầu, giữa hai bên. Ông đại diện toàn quyền Aubaret đã hiểu điều này, cũng như hai vị quan chức cùng đi với ông ta(14); cả ba người không hề tỏ ra bất bình; chúng tôi không muốn áp đặt ý muốn của chúng tôi cho họ, dù rằng bằng cách nào. Giờ đây, mọi sự vẫn y nguyên. Nếu các Ngài đồng ý trả lại nguyên vẹn hay một phần đất đai ba tỉnh, thì chúng tôi xin hết lòng cảm tạ. Nếu các Ngài không thể trả và nếu để tiếp tục có những quan hệ hòa bình, chúng tôi phải trở lại với Hiệp ước 5/6/1862, thì chúng tôi vẫn biết ơn các Ngài, và sẽ vui lòng làm như vậy. Chánh phủ chúng tôi rất chân thực và thủy chung với những cam kết của mình: không gì có thể làm cho quan hệ giữa chúng ta bị đoạn tuyệt”. Trước thái độ nô lệ lộ liễu và sự phục tùng mù quáng ấy, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy, ngay từ lúc đó, nước Pháp đã đổi giọng và những người lãnh đạo nước Pháp lên mặt láo xược và độc đoán đối với nước Việt Nam và những người lãnh đạo Việt Nam. Vậy là Hiệp ước Aubaret bị đào sâu chôn chặt. Nó đã được khai sinh trong những điều kiện rất bình thường: Một phái đoàn Việt Nam được tiếp đón chính thức tại Pháp đã bày tỏ nguyện vọng được thấy sửa đổi lại bản hiệp ước hiện hành và rất rõ ràng là theo chiều hướng có lợi cho nó. Chánh phủ Pháp có thể trả lời bằng không chấp nhận bởi vì tất cả cái gì lợi cho người Việt Nam đều là thua thiệt cho Pháp. Chánh phủ Pháp không bao giờ che giấu rằng: việc Bonard lạm dụng quyền hành đâu có hệ trọng gì, bởi rốt cuộc nó lợi rất nhiều. Thế nhưng vờ có thịnh tình đáp ứng nguyện vọng của Việt Nam, chánh phủ Pháp lại chủ động tiến hành những cuộc điều đình tại Paris, nhằm ký kết một hiệp ước khác. Rồi cũng tự mình cử sang Huế một đại diện toàn quyền, Aubaret không mang theo một tối hậu thư, mà như mọi phái viên toàn quyền, mang theo một dự thảo hiệp ước đầu tiên, do chánh phủ đề xuất. Như trong mọi cuộc thảo luận, giờ cũng có những điểm tranh chấp. Với sự đồng ý đôi bên, một trong các điều khoản, được tạm bảo lưu. Về các điều khoản khác, cuối cùng người ta vẫn thỏa thuận được với nhau và các đại diện toàn quyền đã ký. Khai sinh và mang lại sự sống cho hiệp ước. Nhưng rồi một Bộ trưởng Pháp thấy hiệp ước này không phải là một điều có lợi cho Pháp (và đúng vậy); thế là cũng tương tự những cuộc tranh luận xung quanh một bức thảm xanh, không còn là vấn đề đi tìm một cơ sở thỏa thuận, một tạm ước; ông ta xóa bỏ tất cả những gì người ta đã làm; ông ta chẳng đếm xỉa gì đến chữ ký của phái viên đặc mệnh toàn quyền của ông ta, cũng như của những người mà ông ta đã phái Aubaret tới gặp. Ông ta dùng lời lẽ khô khan lạnh lùng thông báo quyết định ấy cho người đồng ký mà không thèm đề cập tới việc xem xét lại, nếu có thể. Và thông báo của ông ta không phải là một công hàm giữa chánh phủ với chánh phủ, theo như thông lệ ngoại giao, mà chỉ giao cho đại diện của ông ta tại Nam kỳ làm việc đó, coi như vậy là đủ. Dĩ nhiên, Chasseloup-Laubat, xuyên qua hành động này được toàn thể giới thực dân ngợi ca và tặng cho mọi thứ vinh quang. Ông được ghi công ngay tại thành phố Sài Gòn của Pháp bằng một con đường, một ngôi trường trung học lớn mang tên Chasseloup-Laubat và một tượng bằng đồng. Và không ai ngạc nhiên chút nào khi thấy tất cả những “vinh quang” đó đã biến mất, sau này khi Sài Gòn trở về với đất nước Việt Nam. Hiệp ước Aubaret đã bị đào sâu chôn chặt. Trên thực tế, có đúng hoàn toàn như vậy không? Có một sự kiện quả là đáng chú ý: trong số những hiệp ước được tiếp theo nhau, ký kết giữa nước Pháp và Việt Nam, một số hiệp ước chỉ là hình thức thuần túy, nước Pháp luôn luôn biết khai thác điều gì có lợi cho mình, nếu như cần phải quên đi mọi điều còn lại… Năm 1787, Hiệp ước Versailles: chúng ta đừng trở lại vấn đề hợp lệ của việc ký kết hiệp ước này làm gì, nước Pháp cam kết giúp đỡ cho Nguyễn Phước Ánh khôi phục ngôi vua và đáp lại, Pháp sẽ nhận được một vài quyền lợi vừa mới ký xong, bản hiệp ước bị bỏ lơ. Người ta chẳng làm một việc gì chính thức để giúp Nguyễn Phước Ánh cả. Nếu Nguyễn Phước Ánh cuối cùng đã khôi phục được ngôi vua, thực sự thì chẳng phải là ông đã nhờ được gì từ phía Pháp. Thế nhưng sau đó, nước Pháp đã đòi hỏi những quyền mà họ có thể được hưởng nếu như họ đã hoàn tất những cam kết của mình. Năm 1862, Hiệp ước Sài Gòn ký kết không đúng quy cách, nhưng lần này vì nước Pháp có lợi trong đó nên tất cả đều được phê duyệt. Khi người đồng ký nhận ra mình bị lừa phỉnh thì lập tức có tối hậu thư buộc phải chấp nhận hiệp ước một cách khẩn trương. Năm 1864, Hiệp ước Aubaret: nó bị “đào sâu chôn chặt” vì nước Pháp công khai thừa nhận là nó chẳng có lợi lộc gì trong đó nên đành lòng gửi “lời cáo phó” cho bên đồng ký. Nhưng trong hiệp ước đó, lần đầu tiên có vấn đề chính thức nước Pháp vào sáu tỉnh Nam kỳ. Tuy Hiệp ước Aubaret không để lại dấu vết nào, nhưng cái ý niệm ấy, nước Pháp vào sáu tỉnh Nam kỳ sẽ nhanh chóng vạch ra một lối đi trong đầu óc những người lãnh đạo nước Pháp. Vậy là chánh phủ Việt Nam, nhất là sau 1864, có cơ sở vững vàng để đặt câu hỏi về giá trị những lời cam kết trịnh trọng mà nước Pháp đã ký và về lòng trung thực của chánh phủ Pháp. TS Nguyễn Xuân Thọ ____________________ (1) “Hồi ký và tư liệu châu Á”: quyển 28, trang 403-404. (2) “Hồi ký và tư liệu châu Á”: quyển 28, trang 403-404. (13) “Hồi ký và tư liệu châu Á”: quyển 29, trang 270-272 (14) Ông Cuverville và ông Duval. Nguồn: (Alpha Books - Ebook) Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam 1858-1897 Trang Lịch Sử |