Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam Phản Ứng Của Nhân Dân TS Nguyễn Xuân Thọ https://sachhiem.net/NGXUANTHO/BuocMoDau_06.php
Các giáo sĩ cho rằng họ phải có mặt ở mọi nơi, họ cần phải nói tiếng nói của họ mọi nơi, họ phải được người ta đặt cho họ lên hàng đầu ở mọi nơi. Thực tế là họ có mặt trong mọi chuyện rối ren phức tạp, trong mọi tình huống căng thẳng giữa nước Pháp với Việt Nam. [Chỉ huy trưởng Bonard] Chương 5 - Phản Ứng Của Nhân Dân Việt Nam Đối Với Hiệp Ước 1862 và Các Giáo Sĩ Nhân dân Nam Bộ không công nhận hiệp ước mà các phái viên triều đình Huế vừa ký tại Sài Gòn với nước Pháp và Tây Ban Nha. Các đặc phái viên toàn quyền của Tự Đức, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp bị dân chúng gọi là “kẻ phản bội Tổ quốc” và triều đình là “coi thường dân”; “Phan, Lâm mãi quốc, triều đình khi dân”. Nếu như triều đình Huế khi ký hiệp ước, là nặng tư tưởng thất bại chủ nghĩa, thì ngược lại nhân dân Việt Nam, về phần mình, lại yêu nước sâu sắc. Trong những câu thơ dưới đây của nhà thơ Nam Bộ, Phan Văn Trị diễn tả tâm trạng người dân miền Nam trong thời buổi éo le ấy. Người ta nhận thấy, cùng một lúc với giọng đầy căm giận, có lẫn trộn những dòng nước mắt và tinh thần cam chịu xót xa trước cảnh nước mất nhà tan, đồng thời là một ý chí quyết tâm chiến đấu chống cuộc xâm lược của ngoại bang: “Tan nhà căm nỗi câu ly hận. “Thà thua xuống láng, xuống bưng Tự Đức chẳng làm gì cụ thể để giúp những người dân các tỉnh miền Nam ấy. Ngược lại, chẳng những không thông cảm với dân về thử thách đau thương này, không quay lại với họ cùng với họ tìm một phương tiện nào có hiệu lực thu hồi các tỉnh đã mất, nhà vua lại an tâm đóng kín cửa thành, ẩn mình trong đó để làm thơ, ban hành chiếu chỉ và nhất là lấy ngân khố quốc gia xây dựng những công trình vô ích như Lăng Vạn Niên, tức ngôi mộ của nhà vua, là một minh họa hoàn chỉnh. Bất chấp những lời cầu khẩn của nhiều người tai mắt nhắc lại cho vua nhớ những tỉnh đã bị mất vào tay kẻ thù, những cuộc nổi loạn tàn phá miền Bắc, sự nghèo đói hoành hành khắp mọi nơi đất nước non sông và yêu cầu nhà vua chấm dứt những sự lãng phí ấy đi; nhà vua không hề chút nào thông cảm với những nỗi lo, sợ hãi của nhân dân, mà chỉ trả lời… “Không những Trẫm bận trăm thứ việc lại còn bị ốm đau thường xuyên. Nếu các người quan tâm đến những chuyện vặt thì Trẫm còn làm việc thế nào được?”(1) Và nhà vua tiếp tục chi những số tiền khổng lồ cho việc xây dựng lăng của mình. Chẳng những Tự Đức không phàn nàn than thở gì về chuyện để mất một phần quan trọng của giang sơn Tổ Quốc và những hy sinh của người dân, mà từ 1862 đến 1867, trong giai đoạn người dân Nam Bộ chiến đấu dũng cảm chống bọn xâm lược Pháp - Tây Ban Nha, đâu đâu khắp nước đều có những thỉnh cầu của dân chúng yêu cầu nhà vua giúp dân đánh đuổi ngoại bang xâm lấn, Tự Đức đã nhiều lần phê chú vào các đơn thỉnh cầu đáng ghi nhớ sau đây: “Từ sáng đến tối, các người chỉ yêu cầu đánh giặc [Pháp], bây giờ các người muốn cho mẹ Trẫm và Trẫm phải ra đi cả hay sao?” Vua Tự Đức Câu hỏi vặn đó của Tự Đức quả là một sự lăng nhục đối với giang sơn và đối với những người yêu nước kháng chiến Nam Bộ. Nó bộc lộ cái chính sách thất bại chủ nghĩa của triều đình Huế trước bọn xâm lược ngoại bang và góp phần giải thích rộng rãi vì sao Việt Nam mất độc lập dân tộc và bị nước Pháp biến thành nước lệ thuộc của mình. Bị Tự Đức và triều đình bỏ rơi, nhân dân miền Nam đã quyết tâm chiến đấu đơn độc để giữ vững sự toàn vẹn lãnh thổ của non sông. Và phong trào kháng chiến ngày càng phát triển sâu rộng không ngừng. Về mặt kinh tế, muốn phát triển ở miền Nam, Minh Mạng rồi Tự Đức, đã đưa vào Nam Bộ những đoàn di dân. Những tên phiêu lãng, những gã lưu manh, những người nghèo khổ, do những công chức chuyên môn chỉ đạo, đã lập thành những “khu dinh điền” tức những khu di dân làm nông nghiệp. Tù binh, dân phát vãng, binh lính, do các quân nhân điều khiển, đã lập thành những đồn điền, tức khu di dân quân sự (2). Những người “nông binh” ấy được thống chế Nguyễn Tri Phương tổ chức vào khoảng giữa thế kỷ XIX, cũng tiếp tục kháng chiến chống Pháp tại Nam Bộ và chỉ giải tán sau khi Pháp hoàn toàn chiếm đóng cả đất Nam kỳ. Phong trào kháng chiến đã tiếp tục với dân chúng các “đồn điền”dưới sự chỉ đạo của Huyện Toại, Phủ Cao, Quản Định (Trương Định), Quản Lịch (Nguyễn Trung Trực), Quản Thanh (Trần Văn Thanh), Thiên hộ Dương (Võ Duy Dương – thiên hộ cũng nghĩa như triệu phú), Thủ Khoa Huân (Nguyễn Hữu Huân). Sau ngày ký hiệp ước, người ta vẫn gặp lại các vị thủ lĩnh kháng chiến đó, cho đến năm 1873. Hầu hết các vị đó đều đã chiến đấu rất dũng cảm rồi hy sinh rất vẻ vang. Một trong các vị lãnh đạo có uy tín ấy đã thảo ra lời cảnh cáo sau đây, gửi cho người Pháp: “Mất sự chỉ đạo của vua ta, chúng ta sống trong tâm trạng đau buồn những đứa trẻ mất cha, mất mẹ. Đất nước các người thuộc biển Tây, đất nước chúng ta thuộc biển Đông. Như con ngựa con trâu, khác nhau thế nào thì chúng ta với các người cũng khác như thế ấy, về chữ viết, về ngôn ngữ, về phong tục. Con người ta được tạo nên theo những giống nòi khác biệt nhau, ở đâu con người cũng có giá trị như nhau, nhưng tính chất thì không phải ai cũng giống nhau. Lòng tri ân buộc chúng ta vào với vua ta; chúng ta sẽ rửa nhục cho Người; chúng ta sẽ chết cho Người. Nếu các người tiếp tục mang theo binh lửa vào đất nước chúng ta, đất nước sẽ bị mất ổn định lâu dài, nhưng chúng ta hành động theo lẽ trời và sự nghiệp tranh đấu của chúng ta cuối cùng sẽ thắng. Nếu các người muốn hòa bình, hãy trả lại cho vua chúng ta toàn vẹn lãnh thổ. Chúng ta chiến đấu chỉ nhằm mục đích ấy. … Chúng ta sợ sức mạnh của các người, nhưng chúng ta còn sợ hoàng thiên hơn sợ sức mạnh các người. Chúng ta thề sẽ chiến đấu vĩnh viễn và không ngừng lại bao giờ. Khi chúng ta không còn gì nữa, chúng ta sẽ chặt cành cây vũ trang cho quân lính của chúng ta. Khi đó các người sống giữa chúng ta làm sao nổi? Chúng ta yêu cầu các người xem xét kỹ càng những yêu sách này của chúng ta và chấm dứt cái tình trạng vô cùng tai hại cho chúng ta, cũng như cho các người hiện nay.”(3) Bức thư yêu sách cao thượng và xứng đáng này đã tìm thấy dán trên một cây to gần Gò Công. Nó là bức thư của một trí thức nông thôn; nó diễn đạt đúng tinh thần của dân chúng; dân chúng chẳng hề tị hiềm gì. Chỉ muốn đấu tranh cho được sống trong độc lập. Không một người dân nào, dù là nông dân hay quan lại, chấp nhận chế độ thuộc địa trên non sông đất nước mình, chấp nhận cái tình thế mà người Pháp dùng sức mạnh áp đặt cho họ. Các Giáo Sĩ Chúng tôi vừa phác họa qua loa những nét lớn về tình trạng tinh thần và những phản ứng sau Hiệp ước 1862 của ba thành viên tham gia vào cuộc viễn chinh và vào hiệp ước: Pháp, Tây Ban Nha và Việt Nam. Còn có một thành viên thứ tư, ít nhất cũng quan trọng ngang với ba thành viên kia, mà chúng ta không thể bỏ quên trong bóng tối. Duyên cớ của cuộc viễn chinh, đó là các giáo sĩ. Trong hiệp ước, một phần quan trọng của các điều khoản là liên hệ đến các vị giáo sĩ và đến các tự do tuyệt đối mà họ phải có trong việc truyền bá Kitô giáo. Trong mỗi một ngày quan trọng, trong mỗi một hành vi chính trị, và dĩ nhiên mỗi hành động tôn giáo, người ta đều thấy ở bình diện thứ nhất, hoặc rất tích cực đằng sau sân khấu, là các giáo sĩ. Họ cho rằng họ phải có mặt ở mọi nơi, họ cần phải nói tiếng nói của họ mọi nơi, họ phải được người ta đặt cho họ lên hàng đầu ở mọi nơi. Thực tế là họ có mặt trong mọi chuyện rối ren phức tạp, trong mọi tình huống căng thẳng giữa nước Pháp với Việt Nam. Các giáo sĩ có thể thỏa mãn với hiệp ước đã ký, trong đó mọi yêu cầu của họ đều được chấp nhận. Trong một nước Nam kỳ trở thành thuộc địa Pháp, họ chắc chắn có thể vào sâu các hang cùng ngõ hẻm, thực hiện đưa được nhiều người theo đạo Kitô. Nhưng mặc dù họ được thỏa nguyện, họ lại hầu như ngay lập tức, tìm được một cơ hội chỉ trách: Đô đốc Bonard dám tổ chức lại công việc hành chánh bằng cách cắt bỏ các sĩ quan Pháp hoàn toàn không hiểu gì về phong tục tập quán Việt Nam ấy khỏi các trách nhiệm dân sự mà coi như họ đã đảm nhiệm mấy nay sao? Ông ta không dám tuyên bố công khai rằng người Việt Nam sẽ trở lại điều hành công việc của họ, chỉ cần các sĩ quan phụ trách “công việc bản xứ” giám sát từ trên mà thôi sao? Hơn nữa, chẳng phải ông ta đã đích thân tỏ ra muốn có một đường chính trị theo Nho giáo? Các giáo sĩ đã nổi giận. Một vị, phát ngôn của các giáo sĩ, là linh mục Launay, tuyên bố: “Bonard tổ chức lại việc dạy chữ Hán và phục hồi các chức vị tiến sĩ (4) và cử nhân mà không tự hỏi xem có nên tách người An Nam ra khỏi tất cả những tư tưởng quốc gia dân tộc, nghĩa là những tư tưởng chống Pháp”(5) Vậy là đối với họ, vốn quen thói áp đặt quan điểm của mình cho kẻ khác và coi mọi thứ lễ nghi trước lúc họ đặt chân sang đều như không có. Họ thấy đó là một nguy cơ cho sự nghiệp truyền đạo của họ và là điều quan trọng hơn tất cả. Đây không còn là câu chuyện truyền đạo nữa. Họ đã cố tình vượt ra ngoài khuôn khổ sứ mệnh tôn giáo của họ để đi vào lĩnh vực chính trị. Họ hoạt động nhằm nô lệ hóa dân tộc Việt Nam, áp đặt tôn giáo của họ vào Việt Nam, loại trừ mọi tôn giáo khác. Các giáo sĩ cho rằng địa vị của họ là ở tất cả mọi nơi, rằng họ được quyền lo lắng mọi sự, được quyền ra lệnh và khuyên nhủ mọi người. Họ hiến mình cho sự nghiệp tinh thần cũng như vật chất. Chúng ta đã thấy giám mục, Pigneau de Béhaine không những trở thành đặc phái viên toàn quyền của ông vua ngoại đạo, tuyển mộ một số quân tình nguyện nhằm ngăn cản cái mà ông ta coi như một sự bất lực của chánh phủ Pháp, mà còn trở thành đích thực một “chiến sĩ” không phải nhằm đánh đuổi quân ngoại đạo, mà nhằm đặt lên ngôi vàng Việt Nam một kẻ ngoại đạo do mình lựa chọn. Chúng ta đã thấy một ông giáo sĩ khá kỳ quặc, là một tay du lịch bốn phương trời, linh mục Huc, không ngần ngại viết thư cho Napoléon III để nhắc Hoàng đế nhớ rằng nước Pháp cần chiếm đóng Việt Nam. Một điều cần chú ý là ông linh mục này chưa hề đặt chân lên đất Việt Nam bao giờ, không biết một chút gì về xứ sở này. Nhưng có sao đâu! Không những ông tự coi mình là kẻ đủ tư cách bàn bạc chuyện đó, mà bởi ông ta là linh mục, cho nên cuộc vận động của ông đã được Hoàng đế xem như một đề nghị tối quan trọng; nếu đề nghị ấy do một người khác đưa ra thì chắc chắn là chẳng bao giờ được chuyển đến tay Hoàng đế. Dĩ nhiên khi một giáo sĩ bình thường mà cũng tự cho mình có tư cách đề đạt những chính kiến lên với Hoàng đế, thì tập thể những giáo sĩ ở Việt Nam ngại ngùng gì mà không quấy nhiễu các ông Đô đốc cầm quyền, về bất cứ chuyện gì và bất cứ lúc nào? Những ông Đô đốc cầm quyền này là những kẻ ngoan đạo, ai cũng biết, bắt đầu họ đã cố gắng sống hòa hợp với những vị đồng hương mang một sứ mệnh tinh thần cao cả ấy. Họ cũng tranh thủ lợi dụng các giáo sĩ để có được những thông tin về nội bộ nước Việt Nam, về những phong trào này nọ, về các tài nguyên. Nhưng thường là những chỉ dẫn thiếu chính xác; đã nhiều lần các ông Đô đốc phải khẳng định rằng các giáo sĩ không thể làm những nhân viên do thám có thể tin cậy được. Trong công cuộc bình định của họ, không những các Đô đốc cầm quyền không thể dựa vào các giáo sĩ được, mà còn phàn nàn một cách chua chát về thái độ cư xử của họ và những khó khăn họ thường gây ra cho các nhà chức trách quân sự và dân sự. Ngay từ ngày 25/12/1859, Đô đốc Page đã viết cho Bộ trưởng Hải quân: “Những năm đầu mới lên ngôi, vua Tự Đức có một thái độ đối xử khá ân cần với họ [các giáo sĩ]. Nhà vua đã ra lệnh cho các quan lại địa phương có thái độ khoan dung, rộng rãi với họ trong những chuyện làm trái pháp luật, những vụ phạm pháp nhỏ. Nhưng rồi các giáo dân, do các giáo sĩ lãnh đạo đã ngày càng xấc xược ngạo mạn đến mức độ, họ không thèm biết đến cả chính quyền địa phương. Họ công khai nổi loạn, họ tuyên bố người Kitô giáo không thể vâng lời những kẻ theo một tôn giáo khác (…) Đâu đâu cũng loạn ly. Họ [các giáo sĩ] cưỡng ép bắt đi những em bé, những thiếu nữ rời khỏi gia đình để được Kitô hóa. Do những hành động và những phản ứng ấy (tôi tóm tắt lại trong hai từ này tất cả những lời buộc tội). Các giáo sĩ nghiễm nhiên trở thành người lãnh đạo, hoặc bao che cho tất cả những cuộc nổi loạn này: tất nhiên họ tham gia vào tất cả những hoạt động bí mật chống lại nhà vua, kể cả những hoạt động khủng khiếp nhất: sự sụp đổ của nhà nước và của non sông đang có nguy cơ xảy ra dưới ảnh hưởng một tình thế như vậy. (…) Để giữ gìn an ninh trật tự tại Sài Gòn, tôi đã phải thiết lập một tòa thị chính. Ngạc nhiên biết bao khi ngày hôm sau, các giáo sĩ đã tới gặp tôi và tuyên bố rằng giáo dân An Nam không thể tuân phục một chính quyền ngoại đạo. Chính những “từ” mà họ dùng. Sao, không tuân phục, kể cả đối với cơ quan cảnh sát của thành phố? Nhằm ngăn chặn bọn trộm cắp lưu manh và bọn phiêu lãng cướp bóc thành phố hay sao? Và tôi lấy làm xấu hổ mà phải thú nhận với ngài Bộ trưởng rằng những nguyên lý ấy được các giáo sĩ thuyết giảng công khai! Thực tình tôi không muốn nói thêm những chi tiết khác, do những người nhất thời có địa vị to lớn trong nước khẳng định với tôi. Tôi chỉ muốn tin khi nào tôi được đích thị chứng kiến. Ngoài ra không một người công giáo Việt Nam nào là không xin được đăng lính dưới lá cờ của chúng ta. Ông vua ngoại đạo của Nam kỳ không phải vua của họ! Bây giờ thì ngài Bộ trưởng đã hiểu vì sao cả nhà vua, lẫn các quan lại, đều coi các giáo sĩ Kitô như những kẻ thù…”(6) Trong một bức thư khác đề ngày 24/7/1862 viết cho đại bản doanh Pháp ở Sài Gòn và cho ông Bộ trưởng Hải quân, người kế chức của Page, Đô đốc Bonard, cũng xác nhận những điều sai trái ấy. “... Chính là từ phía các giáo sĩ mà các vụ rắc rối nghiêm trọng nhất có thể xảy ra nếu người ta không tự giới hạn mình trong việc bảo đảm che chở cho họ một cách công bằng, và nếu người ta không dựa vào cớ tôn giáo để đỡ họ trong những âm mưu chính trị lật đổ chánh phủ hiện hành, những âm mưu, trong đó không may, nhiều giáo sĩ đã bị lôi cuốn tham gia, mà chẳng thấy ai từ chối! Nâng đỡ họ trên một đường lối như vậy sẽ là nguy hiểm, bởi vì họ sẽ trở thành những kẻ phiến loạn thực sự, chứ không phải những kẻ tuẫn tiết vì đạo. Sự đánh giá tình hình trên đây của tôi, thưa Bộ trưởng, đã được căn cứ trên những nhận xét dưới đây: Cuộc chiến tranh Nam kỳ, không ai có thể phủ nhận được rằng nó đã được gây ra do những yêu sách của các giáo sĩ Tây Ban Nha và Pháp phàn nàn kêu ca trước những sự khủng bố bất công của triều đình Huế, mà đối tượng chính là họ. Thực ra, cách tổ chức và trạng thái tinh thần của các vị giáo sĩ đó như sau: Đất Nam kỳ được chia thành nhiều địa phận, mỗi địa phận do một Giám mục lãnh đạo. Tất cả các Giám mục đó có thể chịu, đây là điều mà tôi không được biết, sự lãnh đạo chung của trung tâm truyền giáo tại châu Âu. Nhưng mỗi Giám mục trong địa phận mình hầu như muốn làm gì tùy ý, và rất đối kỵ không muốn cho một Giám mục địa phận láng giềng can thiệp, dù trong một việc nhỏ nhoi không đáng kể, vào nội bộ, cái địa phận mênh mông mà họ coi như mình có trách nhiệm phải cai trị về mặt tinh thần. Tất cả đều ôm ấp ước mơ sẽ trở lại thời kỳ mà Giám mục Adran thật sự làm vua đất Nam kỳ, thời kỳ mà bất cứ việc gì nhất nhất đều phải thi hành theo lời khuyên nhủ hoặc sự cho phép của ông ta. Để đạt được mục đích ấy, họ đã dùng những biện pháp sau đây: Trong bọn họ, người nào cũng thấy các ông vua kế ngôi vua Gia Long không tuân theo đúng nguyện vọng của họ, nên họ đã phản đối tính chất chính thống của các vua trên và tìm cách đề cử một người khác có khả năng bảo đảm cho họ đạt tới mục đích hơn, nếu như người đó lật đổ được ông vua đương vị. Một số trong bọn họ, nhằm mục đích chiếm ngôi, đã viện cớ rằng vua Gia Long đã chỉ định kế ngôi mình, không phải con trai đầu lòng mà là người con trai thứ hai, như thông thường các triều đại Viễn Đông vẫn làm. Các giáo sĩ vùng Hạ Nam kỳ theo xu hướng này. Các giáo sĩ vùng đất của vương quốc An Nam, lân cận Huế, nằm trung gian giữa Bắc kỳ với Nam kỳ, còn đi xa hơn nữa trong việc phản đối tính chất chính thống của chi nhánh hoàng gia đang trị vì. Ngay cả Gia Long, họ cũng coi như một kẻ tiếm vị và họ đã tìm một người con cháu nhà Lê, mà các vua biến chất thành hạng ‘vua lười’, đã bị một ông thừa tướng lật đổ. Tôi nghĩ rằng các tu sĩ dòng Dominicain Tây Ban Nha, còn hăng hái và cực đoan hơn cả những giáo sĩ Pháp, đều đã liên quan với những phe đảng ấy. Một người con cháu nhà Lê, thật hay giả, đã được đón nhận tại các nhà dòng Trung Quốc và sau khi đã giày vò hành hạ anh ta trăm đường, đến mức bắt anh ta làm người gác cổng của nhà dòng; các giáo sĩ cấp trên ấy dự định dựng anh ta lên ngôi vua, vì tin tưởng họ vẫn có một ảnh hưởng sâu sắc đối với anh ta, một khi họ thực hiện được dự định. Trong tình thế hiện nay, dựa trên những lời nói và việc làm của các tầng lớp giáo sĩ Pháp vùng Nam kỳ, họ đang cố gắng từ bỏ những tham vọng chính trị của họ, vì họ hy vọng rằng dưới ảnh hưởng sự chiếm đóng và sở hữu thuộc địa của chúng ta, tuy chưa mang đến cho họ cái quyền uy tuyệt đối của Giám mục Adran, ít ra cũng cho phép họ tỏ ra hài lòng trong giai đoạn trước mắt. Vậy người ta có thể, bằng một chính sách vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn, buộc họ phải nằm yên trong những giới hạn hợp lý hợp tình của cái uy tín mà họ đang mong có được. Các giáo sĩ vùng lân cận Huế còn lâu mới chịu chấp nhận biện pháp giảng hòa này. Một vài vị tán thành một cách uể oải, nhưng đại đa số thì qua những chuyện bất hòa, qua hành động có chiều hướng muốn chứng minh rằng họ chưa khước từ những tư tưởng cực đoancủa mình. Giám mục, cùng với một vài người cộng sự thông minh nhất, tiếp thu lời tôi khuyên không nên vội vàng trong bất cứ vấn đề gì, còn ở lại Nam kỳ và sẽ hành động khôn ngoan, một khi họ trở lại địa phận của họ, sau khi hòa bình đã được củng cố vững vàng. Những người sôi nổi hăng hái đều đã ra đi, tay làm dấu thánh giá, theo sau họ là những lũ cướp thật sự. Từ thái độ ấy có thể xảy ra nhiều khó khăn nếu người ta không biết hành động một cách thận trọng. Với tư cách là người Pháp hoặc người công giáo, họ chắc chắn sẽ yêu cầu được bảo vệ, một khi họ bị dính líu vào những mưu đồ chính trị, bất chấp những lời khuyên bảo chí tình chí lý của tôi. Còn những tu sĩ Dominicains người Tây Ban Nha, thường hay ở vùng thượng du Bắc kỳ, họ còn khó cai trị hơn gấp mấy lần: hăng hái và cuồng nhiệt đến mức tột cùng, một số lớn xuất thân từ những đảng du kích và những phần tử carlistes (phái quân chủ chuyên chế theo Don Carlos), đã rời bỏ Tây Ban Nha ra đi, tự nguyện với thanh kiếm, khẩu súng, cùng với cây thập tự trên tay, tham gia bằng cả tâm hồn lẫn thể xác vào những cuộc nổi loạn đang làm điêu đứng xứ Bắc kỳ.”(7) Sau bức công hàm, Bonard ghi thêm mấy lời tái bút nhấn mạnh với ông Bộ trưởng rằng nước Pháp sẽ phải chịu nhiều tai họa nếu tiếp tục nâng đỡ các giáo sĩ. Và ông chứng minh một cách hùng hồn trách nhiệm của các giáo sĩ tại Việt Nam: “P.S: Tôi vừa nhận được những thông tin mới và vội vàng chuyển tới cho Bộ trưởng. Tôi trân trọng yêu cầu ngài đặc biệt quan tâm một cách nghiêm túc những ý kiến đánh giá trên đây của tôi. Bởi vì qua lời nói và việc làm của các giáo sĩ ở Nam kỳ, có thể thấy rõ ràng họ đang cố tìm cách đưa chánh phủ vào con đường tai họa mà họ đang đeo đuổi: sự lật đổ vua Tự Đức. Bất chấp mọi lời cảnh cáo của tôi, mặc dầu tôi đã bảo họ phải kiên trì chờ đợi những ý kiến của chánh phủ Hoàng đế về việc chuẩn y hòa ước (5/6/1862) và hậu quả của nó, họ vẫn không ngừng gởi về Huế những phái viên mang nặng những ý đồ xấu xa và tinh thần xảo trá. Tôi đã dứt khoát từ chối không cấp thông hành cho họ đi về ngã ấy (Huế), cho đến lúc nào tôi nhận được chỉ thị từ Pháp. Họ không màng quan tâm gì đến và chắc hẳn Ngài đã nhận được nhiều khiếu nại của họ về vấn đề này, bởi vì họ đi hành quân bất chấp những lời khuyên răn thường xuyên của tôi, họ không giấu ý đồ của họ và thái độ coi thường của họ đối với các điều khoản của hiệp ước. Đây là một mối nguy cơ mà tôi nêu lên lại với ngài không phải thừa bởi vì nếu không cảnh giác trước những bản báo cáo của các giáo sĩ đó, thì họ sẽ không lùi trước một thủ đoạn nào để đi tới mục đích bằng cách lôi kéo cả chánh phủ vào con đường tai hại cho những lợi ích chân chính của nước Pháp.”(8) Thái độ chống đối của các vua, các quan lại và của nhân dân Việt Nam không nhằm vào lý tưởng tôn giáo nào, mà nhằm vào cái ý thức bạo động và thống trị của những kẻ phụng sự nhà thờ Kitô giáo. Thái độ chống đối ấy được chứng minh là đứng đắn, do sự phá hoại chính quyền quốc gia một cách chậm rãi dần dà và sự xâm lấn lần lần lãnh thổ Việt Nam mà chúng ta chứng kiến và công cuộc thực dân hóa hoàn toàn Việt Nam, của nước Pháp. Công cuộc truyền giáo và chủ nghĩa thực dân đi đôi với nhau. Tại hội đồng quốc gia, phiên họp ngày 25/5/1804, Napoléon I đã định nghĩa vai trò của các nhà truyền giáo trong cuộc thực dân hóa như sau: “Ý định của Ta là ngôi nhà các hội truyền giáo đối ngoại phải được thiết lập trở lại. Những tu sĩ ấy sẽ rất có ích cho ta tại châu Á, châu Phi và châu Mỹ. Ta sẽ gửi họ đi thăm dò tin tức về tình hình các nước. Chiếc áo thầy tu của họ sẽ bảo vệ cho họ và dùng để che dấu những ý đồ chính trị và thương mại. Bề trên của họ sẽ không ở La Mã nữa mà ở Paris. Giới giáo sĩ được mãn nguyện và tán thành việc cải cách này. Ta sẽ cấp cho họ một số tiền trợ cấp đầu tiên là 15.000 franc. Người ta đã rõ sự lợi ích của các tu sĩ dòng Lazaristes của các hội truyền giáo trong tư cách mật vụ của phái đoàn tại Trung Quốc, Nhật Bản và cả châu Á. Tại châu Phi và Syrie nữa cũng có. Không phải mất nhiều tiền cho họ. Họ được dân dã man trọng vọng, họ lại không có một cương vị gì chính thức, nên họ không làm ảnh hưởng gì đến chánh phủ, cũng chẳng gây cho chánh phủ tai tiếng gì bất lợi. Nhiệt tình tôn giáo chan chứa trong lòng các linh mục khiến họ làm được những công việc và coi thường hiểm nguy mà các nhân viên dân sự khó lòng vượt nổi. Các giáo sĩ có thể phục vụ cho những ý đồ thực dân của ta tại Ai Cập và trên các bờ biển của châu Phi…”(9) Còn việc các giáo sĩ can thiệp vào các vấn đề dân sự và quân sự của nước Pháp thì một bức thư của Đô đốc Rigault de Genouilly viết cho Bộ trưởng Hải quân, từ Đà Nẵng, ngày 29/1/1859 đã miêu tả rõ ràng: “… Điều mà ngài Bộ trưởng khó lòng tin được là cuộc viễn chinh Sài Gòn mà cách đây một tháng, yêu cầu bởi Giám mục Pellerin, Giám mục Biblos, đến đây chỉ với tư cách là một người phiên dịch, về phía vị giáo chủ ấy, ngay từ khi nó được giải quyết, đã là mục tiêu những cuộc tấn công mãnh liệt nhất, những lời đả kích sôi động nhất. Bị linh mục Gaentza mua chuộc, linh mục bề trên của các tu sĩ Dominicains (Tổng tuyên úy các đội quân Tây Ban Nha) dĩ nhiên là người chỉ mơ ước chiếm Bắc kỳ và phất cờ Tây Ban Nha tại đó một cách đắc thắng, vị Giám mục đó đã công khai giảng thuyết trong phòng ăn của các sĩ quan trên tàu biển chống lại những dự định của tổng chỉ huy quân đội, trái với ý định của ông ta và thông báo rằng tôi không biết gì về những ý đồ của chánh phủ, rằng ông ta là người được chánh phủ gửi gắm tâm tư, và rằng tôi phải chịu trách nhiệm về hạnh kiểm của tôi. Tình thế căng thẳng đến mức độ suýt nữa tôi đã cho bắt Giám mục Pellerin dẫn sang Hong Kong. Tuy nhiên, trước khi quyết định một sự việc tai tiếng rất bất lợi cho một cuộc viễn chinh, mà mục đích chủ yếu là tôn giáo và sẽ gây một tiếng vang lớn tại Pháp như vậy, tôi đã cố gắng thông qua các giáo sĩ đồng nghiệp của ông và qua linh mục Pelletier, tuyên úy trung đoàn, là người có một ảnh hưởng nhất định đối với giám mục Pellerin, thuyết phục cho ông ta nhận ra rằng ông ta đã có thái độ không ai chịu nổi và điều tốt nhất cho ông ta lúc này là qua Hồng Kông. … Tin Giám mục Pellerin sắp đi đã xoa dịu được những lời đả kích của đại tá Lanzarote (chỉ huy đội quân Tây Ban Nha). Và cũng có lý do để nghĩ rằng những đội quân viễn chinh ấy bị kích động do tinh thần năng động và trầm tư của linh mục Gaentza là người trong thực tế đã chi phối Giám mục Pellerin hơn là chịu Giám mục Pellerin chi phối. Ngài Bộ trưởng đã thấy rõ những khó khăn nhiều mặt mà tôi đang vấp phải trong công tác của mình…”(10) Cả người Tây Ban Nha cũng đã bao nhiêu lần phàn nàn những hành động quá khích của các giáo sĩ. Chính Palanca, khi thông báo việc ký kết Hiệp ước 1862 cho chánh phủ, đã viết về các giáo sĩ như sau: “… Hiệp ước thỏa thuận rằng người ta không được bắt buộc ai phải theo đạo. Đôi khi một hành vi nhiệt tâm có thể đẩy người ta vượt qua giới hạn của sự vừa phải và dẫn đến những hậu quả tai hại, làm cớ cho chánh phủ An Nam thực hiện những biện pháp quyết liệt. Các giáo sĩ Nam kỳ được coi như là những kẻ xúi giục dân nổi loạn và như những tên mật vụ chính trị của một triều đại nào đó đang tìm cách làm sụp đổ triều đại hiện đang thống trị, và như một mối đe dọa đối với an ninh trật tự chung... Một vài giáo sĩ và giám mục Nam kỳ có ý đòi hỏi những quyền được miễn sai dịch và các đặc lợi đặc quyền quá đáng cho bản thân họ và cho cả giáo dân; để đạt những yêu sách trong đó lợi ích chính trị lẫn lộn lợi ích tôn giáo…”(11) Những tư liệu chúng tôi vừa dẫn đã được chọn lọc từ bao nhiêu tư liệu khác, bởi vì những tư liệu này không thể để cho ai nghi ngờ rằng mang nặng những thành kiến hoặc khuynh hướng chống lại tôn giáo. Tự nó nói lên sự thật một cách hùng hồn. Các Đô đốc thời đó chắc phải có những tình cảm buộc một chánh phủ và những nhà vua thấm nhuần tư tưởng Kitô giáo phải chấp nhận những tư liệu trên đây: mỗi lần báo cáo là họ báo với các ông Bộ trưởng cấp trên trực tiếp của họ bằng những lời lẽ cụ thể rõ ràng, sự bất đồng tình của họ đối với các giáo sĩ nói trên. Hầu như không ai có thể tưởng tượng được rằng một đại tá quân đội của “Đức vua ngoan đạo”, mà sau này sẽ được phong thống chế, tức là được sự tín nhiệm hoàn toàn của triều đình, dù có dùng lời lẽ khôn khéo đến bao nhiêu đi nữa khi đề cập tới vấn đề mà ông ta muốn phê phán, trong một bức công hàm, lại dám đưa ra những lời phê phán đối với các linh mục Tây Ban Nha bao giờ! Lâu nay, khi nói về các giáo sĩ ấy ở Việt Nam, phần lớn các nhà sử học và nhà văn phương Tây đều đã giới thiệu họ như nạn nhân những cơn thịnh nộ khủng khiếp của các vua, quan. Theo họ, nhiều giáo sĩ đã ngã xuống như những vị “thánh tử vì đạo”. Người ta không muốn nói lên đúng sự thật; không một ai tiết lộ những điều sai trái mà các giáo sĩ đã làm và những lý do thực mà tòa án Việt Nam thời đó đã kết tội họ một cách rất phải lẽ. Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và chánh phủ của họ đã không lầm khi họ có cùng một ý nghĩ Lamartine(12) tuyên bố ngày 3/8/1844: “Trong tư tưởng của tôi, tôi thấy sự phồn vinh của tất cả mọi loại hội tôn giáo đều tai hại, nguy hiểm và gây sạt nghiệp cho quốc gia và gia đình.” Họ có lý, khi họ cũng kết luận giống Guizot, nhà sử học và nhà hoạt động chính trị Pháp: “Quốc gia phải mang tính chất thế tục”, hoặc với Cavour, nhà hoạt động chính trị Ý ở thế kỷ XIX: “Quốc gia phải thật sự tự do”. Đó là biện pháp duy nhất hiệu nghiệm để tiến lên giải phóng dân tộc Việt Nam TS Nguyễn Xuân Thọ _________________ (1) Phạm Văn Sơn dẫn trong bài “Nguyên nhân sâu xa của những cuộc nổi loạn dưới thời Tự Đức”, tạp chí Sử Địa, Sài Gòn 1966, trang 93. (2) Chính vào ngày Canh Dần, tháng 2 Thánh (Thần?) Võ, năm thứ nhất (16/2/1069), nước Việt Nam bắt đầu tiến quân bình Nam và cũng là bắt đầu cuộc Nam tiến. Từ ngày Lê Hoàn lên ngôi vua (980), những đánh phá và cướp bóc luôn luôn xảy ra quấy nhiễu người dân Việt Nam ở vùng biên giới phía Nam. Nhưng ngày hôm đó vua Lê Thánh Tông mới quyết định gửi một đạo quân viễn chinh trừng phạt kẻ vừa thích phá rối, vừa gây ra chiến sự ở biên cương ấy. Vua Rudravarman III (Chế Củ) bị bại trận, bỏ kinh thành chạy trốn, nhưng chẳng bao lâu bị quân của vua Lý Thánh Tông, do Lý Thường Kiệt chỉ huy, đuổi theo và bắt sống. Để được tha, Chế Củ đành cắt dâng cho Đại Việt ba châu phía bắc, mà năm 1069 người Đại Việt đã đặt thành ba tỉnh: Địa Lý, Bố Chánh và Ma Linh (Theo sách “Cương mục chính biên”thì vị trí của Bố Chánh là ở các huyện Bố Trạch, Bình Chánh và Minh Chánh, tức phủ Quảng Trạch và huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình hiện nay. Còn Ma Linh, tức là hai huyện Gio Linh và Vĩnh Linh, phía Bắc tỉnh Quảng Trị ngày nay). Từ đó về sau, suốt năm thế kỷ, hai bên luôn có những lần xuất quân trừng phạt, trả thù lẫn nhau... Đô thị tan hoang, đất đai bị thiêu cháy, những người chiến thắng đã trải qua nhiều vất vả, khó khăn mới xây dựng được xóm làng dân cư đông đúc. Bởi vậy mà từng gia đình, từng thôn xã, những bà con bạn hữu của các tù binh bị bắt trong các cuộc phân tranh Trịnh-Nguyễn được ân xá, cùng với những công chức, quân nhân chịu trách nhiệm quản lý họ, đã bị dẫn đi đày ải trên bước đường Nam tiến đó. Bởi các chúa Nguyễn, ngay từ khi bình định được đất Thuận Hóa, gần vùng giáp ranh, đã có ý định tạo cho mình một hậu phương có khả năng, giúp đỡ họ trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù phương Bắc - tức quân Trịnh. Họ bèn khai thác mảnh đất hoang hóa rộng lớn ở phía Nam. Cuộc Nam tiến này không chỉ là cuộc Nam tiến của những người nông dân và người lính, nó còn là cuộc Nam tiến của các sĩ phu, các dân phiến loạn, của tất cả những người bị cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn này, cũng như những thiên tai, làm cho cả non sông suy tàn điêu đứng ấy, khích lệ lìa bỏ quê hương làng mạc, chọn con đường ra đi, nhằm tự tay mình xây dựng lại, cùng mình làm chủ số phận của mình. Và cũng chính nhờ những người dân lưu đày này đã ra đi, mang theo cả bài vị thành hoàng và lò hương tiên tổ ấy, mà nước Việt Nam đã mở rộng thêm bờ cõi phía Nam và có được sự thống nhất dân tộc. Kết quả của công phu lao động và sự chiến đấu kiên trì. Về sau, khoảng cuối thế kỷ XVII, khi mảnh đất cuối cùng của vùng Chămpa cũ là Bình Thuận mất nốt và trước mắt mở ra cả một vùng châu thổ rộng lớn của sông Cửu Long, thì người Việt Nam chẳng ngần ngại đón tiếp những người tị nạn chính trị, những người Tàu chạy trốn sự thống trị của Mãn Thanh, do Dương Ngân Dịch, Trần Xuyên, Mạc Cửu lãnh đạo, dù có phải tìm cách đồng hóa họ sau này, với sự ủng hộ của thời gian, bằng một pháp chế khôn ngoan. Cuộc Nam tiến đó là sự nghiệp của các chúa Nguyễn. Ngay từ 1671, quân Nguyễn đóng quân tại Sài Gòn. Cái tên Nam Hà được Nguyễn Hoàng đặt cho vùng đất Thuận Hóa (từ Quảng Bình vào tận phía Nam). Nếu như các chúa Nguyễn đều có ưu điểm là đã khai khẩn đất đai miền Nam, thì chính Nguyễn Phước Khoát (1738-1765) là người hoàn tất cuộc Nam tiến bằng cách khai phá vùng đất vô chủ của phương Nam, như trước ông ta, Nguyễn Phước Nguyên (1613-1639) đã có công củng cố Thuận Hóa trong quá trình chiến tranh với quân Trịnh. Năm 1744, Nguyễn Phước Khoát tự phong mình làm vua dưới cái tên là Võ Vương. Từ đây, ông từ chối không chịu nhận sự thụ phong từ vua Lê nữa. Ông tổ chức lại đất nước, chia làm 12 “dinh”. Bộ phận những đất cũ, từ Chính Dinh (Phú Xuân) đến Bình Thuận, lại chia nhỏ ra thành 9 dinh. Bộ phận đất mới chiếm của Chân Lạp thì làm thành 3 “dinh”: Trấn Biên (Biên Hòa), Phiên Trấn (Gia Định), Long Hồ (Vĩnh Long) và trấn Hà Tiên. Năm 1753, ông lập ra “đạo” Trường đồn (Mỹ Tho, Cao Lãnh). Năm 1755, nhận Tâm Bồn và Lôi Lấp, tức Trà Vinh (Vĩnh Bình), Ba Thác (Bassac, Sóc Trăng), Tân Phong Long (vùng bắc Bassac). Sau cùng, năm 1759, ông thiết lập 5 “đạo”: Đông Khẩu Đạo (Sa Đéc), Trân Châu Đạo (Cù Lao Giêng), Châu Đốc Đạo, Kiên Giang và Long Xuyên Đạo. Nếu nhà Nguyễn đã có thể thống nhất giang sơn, căn bản là nhờ việc mở mang bờ cõi, khẩn hoang đất đai, mở mang buôn bán và phát triển nền canh tác quốc gia, dần dần biến miền Nam thành một xứ sở giàu có hơn. (3) Đô đốc Reveillère dẫn, “Revue Indochinose” (Tạp chí Đông Dương) từ ngày 9/6/1902. (4) Cuộc thi tiến sĩ đầu tiên được mở năm 1075, dưới triều đại nhà Lý (1009-1225). Dưới triều Lê (1428-1788) có lệ “Vinh quy bái tổ”. Lệ này xuất hiện lần đầu năm 1466, do sáng kiến của vua Lê Thánh Tông (1460-1497) nhằm tô điểm cho các cuộc thi cử có tính chất oai nghiêm vinh hạnh và nhất là khuyến khích các sĩ tữ thì tài. Vì vậy có những người đỗ tiến sĩ được dự lễ xướng danh thật hết sức long trọng, tên tuổi họ được ghi vào bảng vàng treo trước cung điện nhà vua; họ được nhận, từ chính tay nhà vua, một bộ lễ phục (mũ, đai, áo) và được vua đãi yến tiếc. Ba người đỗ đầu kỳ thi tiến sĩ được ban: - Học vị Trạng nguyên - tức Đệ nhất tiến sĩ, một học vị cực kỳ hiếm có. - Bảng nhãn - tức Đệ nhị tiến sĩ. - Thám hoa - tức Đệ tam tiến sĩ. Cuộc thi tiến sĩ năm 1442 (do Nguyễn Trãi làm chủ khảo - LND) đã khánh thành một bia đá dành cho một kỳ thi tiến sĩ. Người ta ghi lên bia: một bản tóm tắt về kỳ thi, có bình chú bằng chữ Hán và chữ Nôm, tiếp theo là bảng danh sách các người thi đỗ. Bia thứ nhất là của kỳ thi đời Lê Thái Tông (1442); bia cuối cùng là của kỳ thi đời Lê Hiển Tông (1779), trong thời gian 337 năm, đã có 110 cuộc thi với 3 năm một kỳ. Độ ba mươi tấm bia ấy đã bị mất đi trong những buổi thăng trầm của lịch sử. Những tấm bia ấy đều tập trung trong khu Văn Miếu, Hà Nội, hai bên bờ một hồ vuông, Thiên Quang Tỉnh (Giếng ánh sáng trời). (5) F. Chesneaux “Contribution à l’hitoire de la nation Vietnamienne”, Paris 1955, trang 115. (6) “Hồi ký và tư liệu châu Á”: quyển 27, trang 426-434 và quyển 28, trang 85-88. (7) Hồi ký và tư liệu châu Á”: quyển 28, trang 85-88. (8) Hồi ký và tư liệu châu Á”: quyển 28, trang 85-88. (9) Hồi ký và tư liệu châu Á”: quyển 28, trang 85-88 (10) Lưu trữ quốc gia, Paris. BB4, quyển 769. (11) Tài liệu ngoại giao Tây Ban Nha, Madrid. (12) Nhà thơ Pháp đứng đầu chánh phủ lâm thời của Pháp năm 1848. Nguồn: (Alpha Books - Ebook) Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam 1858-1897 Trang Lịch Sử |