Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam Nhận Xét Về Hiệp Ước 1862 TS Nguyễn Xuân Thọ https://sachhiem.net/NGXUANTHO/BuocMoDau_05.php
Chương 4 - Hiệp Ước 1862 Dưới Nhận Xét Của Paris, Madrid Và Huế Hiệp ước vừa ký kết thừa nhận sự hiện diện của Pháp tại Việt Nam. Chánh phủ đế chế Pháp do dự nhiều về đường lối chính trị nên theo ở Nam kỳ, tham khảo ý kiến của Đô đốc Bonard. Bonard gửi cho chánh phủ một bản tường trình, trong đó ông ta phân tích: “Giờ đây chúng ta đang có, về thực tế cũng như về pháp lý, một lãnh thổ… ở trung tâm các dân tộc châu Á. Chúng ta sẽ sử dụng nó như thế nào? 1/ Trở lại Hiệp ước đã soạn thảo trước Cách mạng (1789) ư? 2/ Từng bước trở lại với hiệp ước thế kỷ vừa qua bằng cách nhận, theo các phong tục Á châu, cho chánh phủ An Nam chuộc lại những tỉnh đã nhường (cho Pháp) theo điều khoản hiệp ước, trừ một mảnh đất hẹp làm một giao dịch buôn bán ư? 3/ Không thỏa mãn với ba tỉnh đã nhượng (cho Pháp) qua hiệp ước nói trên và đòi thêm ba tỉnh kia của miền hạ Nam kỳ ư? 4/ Bằng lòng với ba tỉnh đang chiếm được, tổ chức nó lại nhằm đảm bảo an ninh và tự do buôn bán dưới ngọn cờ nước Pháp ư?” Như người ta có thể dự đoán trước, sau khi đã “dâng hương” cho bản hiệp ước “của mình” và khoác cho nó mọi tính chất ưu việt và quả thật có nhiều ưu việt “cho” nước Pháp, Bonard kết luận bằng cách tự mình trả lời lấy cho mình những câu hỏi tự ông vừa đặt ra trên đây. “Giải pháp thứ nhất biến thành con số không mà không một chút đền bù bao nhiêu công lao nặng nhọc từ ngày đầu chiến tranh của các quân viễn chinh cùng những số tiền chi phí khổng lồ dành cho cuộc chiến tranh đó. Giải pháp thứ hai thu vào cho ngân khố một số tiền, tuy khá lớn, nhưng so với số tiền xuất ra thì chẳng là bao; ngược lại, nó xóa sạch mọi kết quả tinh thần – những kết quả này không thể coi là điều không giá trị trong việc tăng cường ảnh hưởng chúng ta tại Viễn Đông. Giải pháp thứ ba kéo theo sự sụp đổ của bản hiệp ước, sự tiếp diễn chiến tranh, sự cần thiết phải tiến hành những cuộc chinh phục mới, nói tóm lại là nó dẫn đến những bất ngờ quy mô lớn mà bản hiệp ước đang tạm thời giải thoát được cho chúng ta. Giải pháp thứ tư đòi hỏi phải có những hy sinh mới, nhưng có thể dẫn đến kết quả là tổ chức và sử dụng được cái xứ rộng lớn mà vũ khí đã may mắn đặt vào tay chúng ta. Những hy sinh này rất cần thiết để duy trì ở mức độ rất cao ảnh hưởng đến chúng ta đã gây dựng tại Viễn Đông, bằng không sẽ thấy còn bao nhiêu máu và tiền bạc đổ ra nữa, thêm vào số tiền bạc đã mất, hòng duy trì những biện pháp nửa vời mà chúng ta chẳng hy vọng gì trước mắt hoặc trong tương lai”(1). Bonard liên tưởng tới những buổi đầu của nước Anh và nước Hà Lan đi chinh phục Ấn Độ và Nam Dương, những cuộc chinh phục này đã diễn ra từng bước một, rất chậm và đinh ninh tin tưởng rằng với Hiệp ước 1862, ông ta sẽ tạo ra cho nước Pháp một căn cứ làm xuất phát điểm, từ đó mà có thể đi đến một tương lai rộng lớn trong vòng một khoảng thời gian ngắn hơn rất nhiều. Ông tin rằng đất nước rộng lớn này sẽ là một nguồn vinh quang và của cải cho nước Pháp, cũng như Ấn Độ cho Anh và Nam Dương cho Hà Lan. Cái quy chế chiến tranh (status belli) được duy trì nguyên vẹn trong hiệp ước. Điều mà những người đi trước ông từng yêu sách mà không được nên đã cố tình dùng bạo lực, đã được thừa nhận cho nước Pháp từ đây. Sau những đất đai mà Pháp chiếm đóng từ đầu, nay lại thêm tỉnh Biên Hòa, cùng với “người gác biển khơi” Côn Đảo. Do lực lượng hải quân Pháp có thêm tiềm năng làm chủ đất Nam kỳ và làm chủ nền thương mại các tỉnh không chiếm đóng, trừ Vĩnh Long; nền thương mại ấy tất yếu phải qua Sài Gòn. Việc mở cửa các cảng Đà Nẵng, Quảng Yên và Balat cho thương mại Pháp, cái quyền có một đại sứ ở Huế, sự bồi thường chi phí chiến tranh, tất cả những sự kiện đó sẽ tạo nên một sức đẩy to lớn cho sự phát triển mậu dịch của mảnh đất thuộc địa đang được hình thành này. Tự do tôn giáo được hiệp ước thừa nhận. Việc dẫn độ các tên gian ác được quy định rõ ràng. Sau này, theo đúng tinh thần và lời điều văn khoản XVII của hiệp ước thì số tiền mà Việt Nam phải trả hàng năm làm cống vật, làm cho Napoléon III thực sự trở thành, như Bonard nói, “người quyết định tối cao và là bá chủ của đất nước An Nam rộng lớn”. Thực ra, Bonard đã vi phạm mệnh lệnh của chánh phủ Pháp và lợi dụng cái sắc lệnh cử ông làm toàn quyền đại sứ để biến việc thiết lập một nền bảo hộ Pháp tại Việt Nam thành việc chiếm thuộc địa giản đơn. Sau đó bất chấp những cố gắng của Việt Nam và bất chấp sự phản đối của một bộ phận dư luận quan trọng trong dân chúng Pháp, nước Pháp vẫn thừa nhận cái “sự việc đã rồi” ấy. Ở Quốc hội Pháp, đa số chống lại những cuộc viễn chinh quân sự, nhất là cuộc viễn chinh quá xa xôi. Nhưng những sự phản đối đó thường là vô hiệu, do sức ép của chính quyền. Rủi thay, những cuộc can thiệp như thế xảy ra hầu như thường xuyên tại quốc hội, đâu phải thực tình xuất phát từ ý thức chống chủ nghĩa thực dân, hoặc có tính chất xây dựng đối với những quyết định của chánh phủ. Cái quan điểm được phát triển ra, trước sau vẫn chỉ là vấn đề tài chính đã chi hoặc sắp sửa phải chi. Ở Pháp, người ta nói nhiều đến sự văn minh, sự vĩ đại, những đức tính tuyệt vời, nhưng trong rất nhiều cuộc tranh luận tại quốc hội, người ta không nói đến quyền tự do của các dân tộc khác, quyền tự mình định đoạt lấy số phận mình của họ bao giờ. Người ta khen ngợi cuộc chinh phục thuộc địa nếu như nó không quá tốn kém như vậy. Đó là một trong những lý do khiến cho các ông Bộ trưởng không phải buồn lưu tâm đến những ý kiến can thiệp ấy làm gì, vả lại nó chẳng lợi gì cho người Việt Nam cả. Ở Pháp, báo chí đóng một vai trò quan trọng trong việc làm dội lên lại vấn đề Việt Nam. Người ta tìm cách hướng dư luận dân chúng vào những cuộc viễn chinh xa xôi, uốn nắn nó, làm cho nó “thông suốt” với quan điểm của chánh phủ. Lập luận thường thường khá chặt chẽ và dĩ nhiên là bao giờ các tội lỗi cũng là ở phía Việt Nam. Nhưng về cơ bản, dư luận công chúng đã quá “bão hòa” về những chuyện chiến tranh và chuyện cách mạng bảy mươi năm nay rồi; giờ nay chỉ cầu mong được sống trong hòa bình và hầu như hoàn toàn không quan tâm gì đến những sự kiện xảy ra ở phần bên kia trái đất. Trong một công hàm gởi tháng 4 năm 1861, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp lưu ý rằng “không hề có một văn bản gì viết chính thức với Tây Ban Nha cả…”, “Tây Ban Nha nên bằng lòng lấy một số tiền bồi thường mà Việt Nam sẽ trả cho họ, gọi là cái giá cho sự can thiệp vũ trang của họ ở Nam Kỳ”(2). Khi đệ trình bản hiệp ước Bonard vừa ký lên cho Thouvenel, Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa Chasseloup-Laubat, trong một bức thư mật, viết tay ngày 24/8/1862, đã lưu ý đồng nghiệp mình rằng “…Tây Ban Nha không có lãnh thổ [ở Việt Nam], nhưng tham gia vào mọi thế lợi và trong số 20 triệu đồng bồi thường chiến phí, Tây Ban Nha có một phần, phần này không quy định rõ”. Và ông viết thêm: “... Tôi vẫn luôn luôn tin rằng chúng ta sẽ để lại nhiều chuyện khó khăn rắc rối cho những người kế tục chúng ta nếu chúng ta bỏ lại một mảnh đất nào cho Tây Ban Nha và tôi yêu cầu ông làm hết khả năng mình để sự việc không xảy ra như vậy. Vả chăng Tây Ban Nha chẳng có lợi lộc nào chính đáng để sở hữu một cái gì ở vùng Hạ Nam Kỳ - họ đã có Philippines. Và trong mọi trường hợp, chúng ta cần phải giữ lấy Sài Gòn và Biên Hòa; Tây Ban Nha sẽ ở tình thế khó xử bên cạnh chúng ta và sẽ nhanh chóng trở thành một chướng ngại vật cho chúng ta thiết lập nền thống trị của chúng ta trên cả vùng rộng lớn từ Biên Hòa cho đến Cà Mau. Đó chính là triển vọng mà tương lai dành cho chúng ta nếu chúng ta biết khai thác tốt những điều chúng ta vừa mới làm. …Vì vậy, sẽ không thừa, nếu tôi nhấn mạnh với ông phải làm sao cho ý nghĩ ‘nhượng đất’ cho Tây Ban Nha đều bị vua từ chối; nhưng người ta phải chịu mất một phần khá quan trọng trong khoản bồi thường chiến phí và phải quy định một vài lợi thế trong việc chuyển các công hàm… … Tôi xem như quan trọng nhất chỉ một mình chúng ta có mặt tại Nam kỳ…”(3) Thật vậy, chẳng bao lâu nước Pháp chỉ một mình có mặt tại Nam kỳ; kẻ đã cùng ký hiệp ước và là đồng minh may mắn với mình, không đợi cho người ta yêu cầu để tự xóa mình đi và vì vậy để cho nước Pháp rảnh tay hành động tại Việt Nam. Hiệp ước 1862 dưới cái nhìn của Madrid Sau khi lặng lẽ “chuẩn y” dự án của Pháp, nội các Tây Ban Nha bộc lộ quan điểm mình trong một công hàm, mang ý kiến của Nữ hoàng, Bộ Ngoại giao gửi cho viên Tổng chỉ huy quân lực và đại sứ toàn quyền, đại tá Carlos Palanca Gutierrez. Bức công hàm nói rõ: Nữ hoàng đã vui lòng về nhiệt tình yêu nước của ông ta, qua việc hoàn thành đầy đủ và tốt đẹp nhiệm vụ toàn quyền đại sứ của mình. Trong một cuộc yết kiến riêng dành cho thiếu tá Olabe, người đã mang bản hiệp ước từ Sài Gòn về ngày 30/8/1863, Nữ hoàng Isabelle II tỏ ra hài lòng về sự kết thúc chiến tranh khá tốt đẹp ấy và tỏ lòng yêu thương các binh sĩ. “Nữ hoàng vẫn thường xuyên theo dõi với tất cả tấm lòng yêu thương trong cuộc viễn chinh xa xôi, những chiến thắng như những đau khổ”. Về phía mình, với tư cách một quân nhân trong kỷ luật, đại tá Palanca viết: “Tôi không có ý định đi sâu vào những lý do riêng đã khiến Nữ hoàng từ bỏ việc chiếm đóng đất đai xứ này. Vì vậy tôi chuyển sang chứng minh những cái lợi chúng ta giành được qua bản hiệp ước, mà khi ký kết tôi đã theo đúng các chỉ thị ngày 22/9/1861, điều chỉnh lại những chỉ thị ngày 25/2/1860. Xuất phát từ những chỉ thị đó, tôi chỉ có khả năng yêu sách: 1/ Bảo vệ cho các giáo sĩ được an toàn và được tự do ở trên đất nước An Nam, nơi nào thuận tiện cho họ. 2/ Bồi thường chiến phí. 3/ Quy định những điều kiện thương mại có lợi ngang nhau, cho Tây Ban Nha cũng như cho Pháp. … Những điều kiện quy định trong điều khoản VIII có thể là đầy đủ cho việc rút quân Tây Ban Nha ra khỏi Nam kỳ một cách vinh dự. Binh sĩ của chúng ta qua đây nhằm trả thù cho những người tuẫn tiết vì đạo, giải phóng người Kitô giáo khỏi những hành vi cấm đạo dã man mà họ phải chịu, dựng cây thánh giá lên và xây đắp lâu đài Kitô giáo. Cái đó và chỉ cái đó thôi là lý do của cuộc viễn chinh, là mục đích duy nhất mà ngọn cờ và quân đội chúng ta theo đuổi. Và những mục tiêu cao thượng này đã đạt, vì trên đất nước An Nam cây Thánh Giá, chân lý và nền văn minh thực sự vẫn tồn tại…”(4) Như người ta thấy, đây là một lời biện hộ có tác dụng làm cho người ta nghĩ tới những lời phê phán mà viên toàn quyền đã phải chịu của những người không nắm được sự thực về những việc ông đã làm, không thành công, trong suốt thời gian cuộc viễn chinh, khiến bộ chỉ huy quân đội và các nhà đương cục Pháp đặt Tây Ban Nha vào đúng địa vị của họ, không những để Pháp lợi dụng “đào giếng sẵn cho họ múc nước” (tirer les marrons du feu) và coi Tây Ban Nha như một lực lượng không đáng kể. Dường như Tây Ban Nha không có ẩn ý gì khác khi gây ra cuộc viễn chinh, chẳng đem đến được lợi lộc gì cả. Họ nghĩ thật tình rằng chỉ là một cuộc biểu dương lực lượng nhanh chóng có tính chất đe dọa mà vai trò bảo vệ giáo hội của họ bắt buộc họ. Họ đâu có dự tính sẽ là một chiến dịch kéo dài nhiều năm cùng với sự chiếm đóng đất đai. Từ hơn một thế kỷ nay, Tây Ban Nha ngày càng chìm sâu vào trạng thái suy sụp, rã rời, làm mồi cho nội chiến, chỉ thỉnh thoảng vươn lên một chút để cứu Kitô giáo mà thôi là bởi các linh mục vẫn có quyền uy tuyệt đối ở Escurial (cung điện vua chúa cách Madrid 40 km). Ở đây, các linh mục có một ảnh hưởng rất lớn đối với các vua chúa, hơn các Bộ trưởng nhiều… Vậy là nước Pháp có thể coi nhẹ Tây Ban Nha mà không có gì đáng ngại và chỉ đề nghị đền bù cho Tây Ban Nha, một cách trừu tượng mơ hồ (vì Pháp chẳng có làm gì để bảo đảm trả số tiền đền bù ấy cho Tây Ban Nha), gọi là trả công cho họ đã tham gia cuộc chiến và xương máu binh lính của họ đã đổ ra cho cuộc viễn chinh. Và Tây Ban Nha vui lòng chấp nhận. Ngày 4/11/1862, đại sứ Tây Ban Nha tại Paris gửi công hàm cho Bộ trưởng Ngoại giao Pháp như sau: “… Chánh phủ của Nữ hoàng rất ngoan đạo không có ý định dùng các quyền vị của mình để đòi hỏi chia phần đất đai của vua An Nam nhượng… … Người khước từ các đất đai ấy một cách có lợi cho nước Pháp… và nhận một sự đền bù bằng tiền mặt. … Chi phí lên tới 9.500.000 francs”(5) Hiệp ước 1862 dưới con mắt của triều đình Huế Ký Hiệp ước 1862, triều đình Huế thiên về sự thỏa thuận dễ dàng hơn là dân mình. Qua sự cho phép hành đạo Kitô và nhượng cho Pháp ba tỉnh, triều đình đã tạo nên một tình thế khó khăn cho ba tỉnh miền Nam, từ nay bị cắt rời khỏi lãnh thổ quốc gia. Nếu sự chấp nhận ấy đã được quyết định một cách vội vàng do cuộc nổi loạn của Tạ Văn Phụng và phong trào nông dân Bắc kỳ đe dọa ngày càng lan rộng, làm cho tình hình trở nên phức tạp rối ren, dù sao sự chấp nhận ấy cũng làm đảo lộn không ít tâm tư tình cảm mọi người. Hiệp ước đã được toàn thể người Việt Nam đón nhận một cách không thiện chí chút nào. Đối với họ, triều đình Huế, luôn luôn có chiều hướng thỏa hiệp, luôn luôn thụ động, quá do dự, chỉ có thể theo đuổi một chính sách đầu hàng. Tháng 2/1862, khi Rigault de Genouilly rời Đà Nẵng chỉ để lại một lực lượng rất yếu, không có khả năng tấn công thì quân Việt Nam mấy tháng liền không giảm quân số, rất có nhiều khả năng mở nhiều cuộc tấn công từ nội địa nhưng lại ngồi không bất động. Họ có thể ngăn cản bước tiến của toàn đội quân Pháp - Tây Ban Nha được hải quân yểm trợ, chắc chắn có thể dễ dàng quét sạch và tống ra biển những toán lính bất lực đang đối đầu với họ. Họ đã không làm như vậy, thậm chí không hề thử làm như vậy, ngược lại chỉ lo xây dựng công sự, đào hào đắp lũy, để chiếm lại vài thước đất và chỉ quấy nhiễu quân thù bằng một vài trận mai phục nhỏ. Giải thích thái độ ấy sao đây? Trong khi quân Pháp, Tây Ban Nha chiếm đóng Đà Nẵng và Sài Gòn, nhiều phe phái đã chống nhau. Có ba xu hướng tư tưởng chi phối lúc này: Xu hướng thứ nhất là của Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Lưu Lương, tóm lại là Hội đồng Cơ mật. Họ nghĩ rằng: “Chiến tranh không bằng hòa bình, song trước nhất chắc chắn phải tự vệ để sau dễ dàng thương lượng. Trong lúc này, cần giữ thế cầm cự. Sau, sẽ chuyển sang tấn công hoặc mở cuộc thương lượng điều đình”. Tóm lại là: cầm cự để thương lượng. Phần lớn các đại thần trong triều đình tán thành ý kiến ấy và đồng thời cũng nghĩ rằng “cần tiếp tục cuộc chiến đấu đợi khi giặc mệt mỏi thì đàm phán”. Dòng tư tưởng này là của nhóm Trần Văn Trung, Chu Phúc Minh, Nguyễn Hữu Thanh, Lê Dục, Lâm Duy Hiệp... được Tự Đức chuẩn duyệt. Xu hướng thứ hai: một thiểu số các đại thần như Tô Trân, Phan Hữu Nghi, Trần Văn Vị, Lê Hiếu Hữu, Nguyễn Đăng Điền, Hồ Sĩ Thuần, thuộc phái chủ chiến quá khích và chủ trương tiến công. Xu hướng này, tuy ở trong triều là nhóm thiểu số, nhưng lại được hầu hết tất cả tổng trấn các tỉnh tán thành và tất cả các bậc sĩ phu, cũng như toàn thể dân chúng ủng hộ. Xu hướng thứ ba: phe cực hữu, mà đại diện là Lê Chí Tín, Đoàn Thọ, Tôn Thất Thưởng, Tôn Thất Giác, Nguyễn Hào, lại chủ trương đàm phán hòa bình đơn thuần. Khi quân Pháp rời Đà Nẵng và đem số quân chủ lực của họ vào Sài Gòn, phái theo chủ trương “cầm cự để đàm phán” tưởng thắng thế, địa vị của họ trong triều được củng cố. Họ cho rằng sớm muộn giặc cũng sẽ bỏ cuộc. Đó là lý do đã khiến Nguyễn Tri Phương, mặc dù nắm trong tay hàng ngàn quân, hàng trăm khẩu đại bác và những thành lũy công sự kiên cố vẫn do dự không chịu giải phóng Đà Nẵng, lúc này chỉ có một nhóm quân ít ỏi bảo vệ, còn đại bộ phận đã rút vào Sài Gòn, hoặc qua Trung Quốc. Tại vùng Sài Gòn, cũng có cái lý luận tương tự ấy đã dẫn tới tình trạng án binh bất động. Và cuộc chiến đấu cứ tiếp tục theo kiểu xen kẽ như vậy, do thái độ ngoan cố không thể nào hiểu được ấy của các quan đại thần triều đình Huế. Khi quân Pháp - Tây Ban Nha tự cảm thấy đã có đủ lực lượng, mở cuộc tấn công, chúng có đạt được một vài thắng lợi bất ngờ, nhưng rồi nhanh chóng, bị quân triều đình chặn lại: tấn công tại Nam kỳ, mưu toan trở lại Đà Nẵng, tại “doanh trại Mirador”. Năm 1860, Nguyễn Tri Phương vào Nam, tổ chức lại quân đội, xây dựng lại pháo đài và tổ chức bao vây toàn diện quân thù, không ngừng quấy nhiễu nó. Tại đây cũng vậy, lực lượng địch chỉ còn lại rất ít không đáng kể, vì đại bộ phận đã điều đi Trung Quốc rồi. Và một lần nữa, tại miền Nam cũng như miền Trung, quân đội Việt Nam bằng lòng với những cuộc hành quân nho nhỏ mà không nghĩ tới làm nhiệm vụ, chẳng khó khăn gì, là tiêu diệt kẻ thù bất lực ấy. Quân Pháp sẽ rời bỏ Đà Nẵng, rõ ràng là do họ tự muốn vậy. Quan điểm của Triều đình Huế là hoàn toàn sai lầm. Khi Page muốn đàm phán với Tôn Thất Cáp, sứ giả của triều đình, không phải là để có một cuộc ngưng chiến; Page đã chứng minh điều đó, ngay sau khi chiến dịch Trung Quốc kết thúc, bằng cách tập trung lực lượng đánh lại kẻ mà y đang thương lượng. Hầu như trong toàn bộ thời gian chiến dịch, triều đình Huế cứ phân vân như thế ấy, do dự trước kẻ xâm lược, để mất bao nhiêu thời cơ thuận lợi để tống cổ kẻ thù đi. Người Việt Nam chỉ biết tiếc những khuyết điểm tai hại đó của triều đình, do sự bất đồng ý kiến giữa các quan đại thần, mà lòng yêu nước được nhân dân thừa nhận không một chút nghi ngờ. Khi quân Pháp trở lại Sài Gòn với thế mạnh và đánh bại quân Việt Nam, thì Tự Đức, dù muốn xuất phát từ một thế mạnh để điều đình trong những điều kiện tốt nhất, cũng đã quá muộn. Những cuộc tranh luận ấy đã tạo ra một không khí lo âu trong cả nước. Thế rồi một lần nữa, triều đình lại chủ trương một chính sách đầu hàng, nó nhắc nhở lại những thời kỳ đen tối của thế kỷ trước. Tự Đức, lâu nay luôn luôn từ khước cuộc đấu tranh vũ trang trong lúc có cơ hội thuận lợi nhất, đến ngày lại cầu xin được “chuộc lại” ba tỉnh Nam Kỳ đã bị Pháp chiếm với thái độ quá khiêm tốn, khiến cho Pháp từ chối, âu cũng là điều dễ hiểu. Cả Tự Đức, cũng sẽ ghi lại tên mình vào lịch sử một cách đáng buồn. Trong hoàn cảnh hiện tại, nhà vua đánh mất tín nhiệm của thần dân. Ai ai cũng coi triều đình Huế như một triều đình xa lạ. Người ta sẽ thấy toàn cả đất nước: các bậc sĩ phu, các hàng chức sắc, dân chúng, nổi dậy chống lại triều đình và những phường phản quốc. TS Nguyễn Xuân Thọ ______________ (1) “Thư từ quan hệ từ Nam kỳ”: tập I, trang 130-147. Lưu trữ Bộ Ngoại giao, Paris. (2) “Hồi ký và tư liệu châu Á”: tập 28, trang 85. (3) “Hồi ký và tư liệu châu Á”: tập 28, trang 89-90. (4) Carlos Palanca Gutierrez, “Historica de la expedicion de Cochinchina” (Tóm tắt sử lược về cuộc viễn chinh Nam Kỳ), Carthagena 1869. (5) “Hồi ký và tư liệu châu Á”: tập 28, trang 151-154.
Nguồn: (Alpha Books - Ebook) Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam 1858-1897 Trang Lịch Sử |