Toàn tập: 1
2
PHẦN II
LỜI ĐẦU
Ba mươi mốt năm thống nhất Tổ quốc, mọi đoàn thể, tôn giáo cũng được hợp nhất trong
một tổ chức, tất cả phát triển tiến hóa đồng bộ. Riêng Phật Giáo Việt Nam,
tuy có thống nhất một GH, nhưng GH đó chưa thật sự thống nhất về tư tưởng và
ý chí, chưa thống nhất trọn vẹn mọi thành phần trong tứ chúng. Vì thế, nội
tình lỏng lẻo, dẫn đến trì trệ và nhiêu khê.
Đại Hội PG năm 2002 có nhiều góp ý xây dựng, nhưng tính trì trệ vẫn là bản
tính cố hữu của PGVN, gần 5 năm vẫn không thay đổi. Cơ cấu tổ chức đã vậy,
tăng phong, đạo cách càng đáng báo động hơn. Tu sĩ ngày càng cách xa quần
chúng, nhân dân mất niềm tin PG khá nhiều.
Mặt hiện tượng nhập thế đã vậy, mặt học thuyết tuy siêu xuất, nhưng hiện tại
Giảng sư P.G.V.N chưa lột tả được tinh túy để đem PG vào xã hội, biến lý
thuyết PG nằm lơ lửng tầng mây, ngoài tầm với đại chúng. Đối với giới trí
thức, PG vẫn là cái gì khô khốc khó nuốt. Trong tín ngưỡng, PG còn vướng
nhiều dạng thần quyền. Trong biểu đạt của một số ít giáo thọ, PG biến thành
vô thần. Cứ thế, PG trở thành lung linh, huyền ảo, đa dạng, khó định hình,
đã nằm ngoài nhu cầu cuộc sống thực dụng hiện nay.
Với tình trạng nầy, có lẽ thời gian không xa lắm, PG trở thành không cần
thiết cho dân tộc, trở thành vướng bận cho một đất nước nhiều đổi thay trên
đà tiến hóa.
Nhân tài PG không thiếu, nhưng kiểu cách phá hoại PG có thừa. Tăng sĩ trẻ
có học thức, có ưu tư cho tiền đồ PG, cần phá vỡ vỏ bọc phong kiến bảo hoàng
hiện nay. Hãy làm cuộc cách mạng văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng trong PG, để
PG tiếp tục sứ mạng nuôi dưỡng linh hồn dân tộc, đối phó mọi đe dọa từ mọi
phía và PG luôn đồng hành cùng dân tộc.
Từ một nền giáo dục không thích hợp với sinh khí đạo Phật; từ một tổ chức
chưa dung kết được giữa hai môi trường; từ lối hoằng pháp không tương ứng
với trình độ thời đại, dẫn đến một tình trạng ương dở của P.G.V.N hiện nay,
phải chăng những dấu hiệu nhiêu khê nầy sẽ là nguyên nhân thúc đẩy một tâm
lực chuyển hóa cho PG trong mai hậu.
Đó là lý do cho THỰC TRẠNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY - Phần 2 ra đời.
Ngưỡng mong Chư tôn túc khán giáo. (MINH MẪN
21/06/2006)
TRỞ LẠI CHUYỆN CŨ
Phật giáo Việt Nam hiện nay luôn là đề tài cần cập nhật, nhưng những vấn đề
cập nhật cho PGVN cũng chỉ là tiếng sáo diều trên không trung bay theo luồng
gió thoảng. Qua bao lần Đại hội có bấy nhiêu lần tham luận đưa ra, nhưng đâu
lại vào đó. Ban thư ký ghi nhận rồi xếp vào kho lưu trữ, phủ dầy lớp bụi
thời gian. Đại hội lại đến, tham luận lại xuất hiện, cứ thế mà hồ sơ và bụi
bặm sắp lớp chồng chất lên nhau làm một kỳ quan lạ lẫm!
HÀO QUANG QUÁ KHỨ:
Cuộc đấu tranh thời Ngô Đình Diệm mang lại thành công rực rỡ (thành công đây
không phải thay đổi chế độ, bởi lẽ chế độ thay đổi không phải PGVN là nguyên
nhân chính làm nên lịch sử, mà PG chỉ là một trong những yếu tố, và chỉ là
chính nhân mặt nổi của những thế lực chính trị ở mặt chìm).
Tại sao PG lúc bấy giờ huy động được qưần chúng, tại sao các hệ phái, tập
đoàn PG lúc bấy giờ đồng lao cộng khổ đoàn kết và tạo được uy tín từ quốc
nội đến quốc tế? Tại sao GHPGVNTN sau 1964 đến 1975 có một tổ chức nghiêm
minh, hoạt động hiệu quả?
- Đó là thành quả của một nền giáo dục Thiền môn từ thập niên 1930 trở về
trước.
Khi PG cực thịnh đến cuối đời Trần, bắt đầu Thiền môn có dấu hiệu bất toàn.
Nho thần đố kỵ PG ngấm ngầm từ thời Lý, nên Lý Cao Tông nghe Đàm Dĩ Mông tâu
đã sa thải phần lớn tu sĩ, tuyển chọn những cao tăng thạc đức trụ trì các
danh lam, nhờ thế mà tăng đoàn được thanh lọc những thành phần ô tạp. Tuy
nhiên cũng hạn chế việc truyền đăng tục diệm, nhờ các danh tăng chân tu mà
sinh lực PG vẫn lưu truyền suốt thời ấy.
Cuối đời Trần, bắt đầu Nho giáo lạm quyền đưa đất nước đến chỗ suy vi. Các
Thiền sư ẩn dật chuyên tu. Sau đó dân tộc lâm vào nội chiến Trịnh Nguyễn.
Năm 1696, Hòa Thượng Bạch Mai Lân Giác, bắt chước tổ chức Bạch Liên Tông đời
Tống Trung Hoa xướng lập PG Liên Xã, được lưu truyền rộng rãi nông thôn miền
Bắc VN. Rồi đến Gia Long, Tây Sơn, suốt mấy mươi năm ly loạn, PG ẩn sâu
trong xã hội, tuy không như thời cực thịnh Lý Trần, nhưng Gia Long và các
đời Vua kế tiếp cũng ủng hộ PG và các Thiền sư cũng đã chấn chỉnh quy củ
Thiền môn. Lúc bấy giờ các cố đạo Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và hội Thừa Sai
Pháp đã có mặt trên đất nước ta năm 1550 - phía Nam đặt chân lên Hà Tiên;
miền Bắc, Nam Định, Ninh Cường là bàn đạp - tuy họ gặp nhiều khó khăn, nhưng
vẫn cố gắng vượt qua để truyền bá và phát triển. Trong khi đó, với tinh thần
an phận, các bậc danh tăng thạc đức lui sâu vào am vắng, núi rừng tu dưỡng.
Bên ngoài xã hội, các vị Ứng phú sống lẫn với dân, hòa hợp đến độ PG chỉ còn
là loại tín ngưỡng dân gian, lo việc ma chay tế tự, sinh hoạt và hình thức
tu sĩ là loại nghề kiếm sống trong đời thường.
Khi Pháp bành trướng tại VN, kết hợp với truyền bá Kitô giáo, một luồng gió
mới về ngôn ngữ, phong cách đời sống, tiện nghi vật chất, ký tự văn hóa, khí
tài, trang phục, nhất là loại tín ngưỡng tôn giáo mang dáng vẻ văn minh lạ
lẫm, đã cuốn hút một số dân thị thành, PG lại bị đẩy sâu vào vùng thôn quê,
gắn liền với cuộc sống người dân nghèo nàn, chân chất…
Chiến tranh Việt Pháp nổ ra, nhân dân khốn đốn, PG thành đối tượng bất khoan
dung của Kitô giáo và Pháp xem PG là biểu hiện một lực lượng quần chúng đối
kháng. Vì thế các cơ sở, am tự của PG bị chiếm đoạt hoặc bị thiêu hủy. Đồng
thời trong chiến dịch tiêu thổ kháng chiến, một số chùa chiền, đình miếu
cũng bị hủy diệt. Riêng các nhà thờ có sự giao ước và kiên dè, các phe lâm
chiến đều tôn trọng và bảo vệ. Thậm chí dưới chế độ XHCN - miền Bắc - các
tôn giáo bị đình trệ, thế mà Kiô giáo vẫn được sinh hoạt, các cố đạo nước
ngoài vẫn được hoán nhiệm, các tu sinh vẫn được thụ phong Linh mục, các giáo
xứ, tín hữu vẫn được hỗ trợ kinh tế. Chưa tới 3 năm tiếp thu chính quyền,
miền Bắc tiến lên XHCN, cải cách ruộng đất toàn bộ, kể cả nội bộ Đảng không
ngoài biệt lệ, thế mà các giáo phận vẫn được hưởng sự nhân nhượng.
Phật giáo thế giới có khuynh hướng chuyển biến, cải cách và phát triển. Khởi
xuất bởi David Hewavitarane người Tích Lan, tức Đại Đức Dharmapala, trong đó
có Trung Hoa, Nhật Bản, Thái, Miến, Srilanka…vì thế VN cũng phát khởi phong
trào. Trong công cuộc chống ngoại xâm, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu và
những nhà ái quốc đã ý thức được tầm quan trọng của PG là nòng cốt xây dựng
đất nước. Một số Nho gia tiến bộ thân thiện PG hoặc nghiên cứu PG, những nhà
trí thức tân học yêu nước cũng cổ súy chấn hưng PG.
Thập niên 1920, các Thiền sư ba miền bắt tay vào cuộc: Miền Bắc có Hòa
thượng (HT) Thanh Hanh; Miền Trung có HT Tuệ Pháp; Miền Nam có HT Từ Phong,
đã xây dựng các già Lam, đạo tràng, giáo dục tăng ni và in ấn kinh tạng. Đến
1923, HT Khánh Hòa vận động chấn hưng toàn bộ ba miền, nhưng với tinh thần
cầu an của phần lớn tu sĩ, một cuộc cải cách tổng lực như thế mấy năm sau
mới có kết quả. Thậm chí người ngoài cuộc như Phan Khôi, Huỳnh Thúc Kháng
cũng nóng ruột việc phục hưng PG để kịp đáp ứng nhu cầu chính trị trong
nước, hầu làm một chất dung môi cho những lực lượng có tinh thần dân tộc,
cốt lõi tâm linh cho một đất nước đứng trước mối đe dọa chính trị, quân sự,
tôn giáo, văn hóa của phương Tây và cái hào nhoáng của Au học.
Thập niên 1930, nhờ các trường Phật Học khai mở, đào tạo tăng ni về kinh
điển cũng như giới luật một cách nghiêm túc, mà những năm trước đó Chư tôn
đức – Lương Duyên - Tâm Tịnh - Giác Tiên, v.v… đã tạo sẳn nền móng đạo đức
chuyên chính. Do thế, hàng loạt các tăng sĩ xuất sắc xuất hiện như: HT. Trí
Quang, Trí Thủ, Thiện Siêu, Thiện Minh, Nhất Hạnh, Mật Thể, Mật Hiển, Mật
Khế, Thiện Hòa, Thiện Hoa, Khánh Anh, Hành Trụ, BS. Tâm Minh Lê Đình Thám…
Từ những nhân tài nầy là những nhân tố tích cực, chấn hưng Phật giáo có hệ
thống vững chắc - từ hạ tầng như khuôn hội trở lên đến tỉnh hội - Ngoài ra
còn có những cư sĩ trí thức tâm huyết hỗ trợ, PG thực sự đã được chỉnh đốn
từ trước và sau 1954.
Đến khi đất nước chia đôi, miền Bắc bị dồn tổng lực toàn dân để tiến lên
XHCN và công cuộc giải phóng miền Nam, nên sinh hoạt PG bị đình đốn. Miền
Trung, PG đi vào nề nếp nhờ các tăng sĩ thực tu thực học tổ chức và truyền
bá, đáng kể nhất là xây dựng và đào tạo một đoàn thể Thanh Thiếu Niên Phật
Tử, do bác sĩ Lê Đình Thám hướng dẫn, sau nầy với danh xưng Gia Đình Phật Tử
VN (GĐPTVN), một tổ chức tồn tại và hiệu quả nhất trong các tổ chức PG từ
trước đến nay, 95% quần chúng miền Trung từ Bình Thuận trở ra Huế đều chịu
ảnh hưởng PG.
Trong miền Nam, sau khi họ Ngô nắm quyền, chính sách di dân các họ Đạo từ
Bắc vào, chính quyền đã ưu đãi, lập các khu trù mật miền Tây như Cái Sắn,
Cái Mơn; các dinh điền miền cao như Long Khánh, Hố Nai, Gia Kiệm, Lâm Đồng…
Cộng thêm tinh thần quần chúng miền Nam hời hợt, dễ dãi, đất rộng, người
thưa nên việc tổ chức và truyền bá Phật pháp không được thuận lợi và chặt
chẽ. Thế nhưng, khi đối diện với sự đe dọa tồn vong PG bằng quyền lực và bạo
lực của Ngô triều, với đạo lực của chư tăng, đã kết hợp được tổng lực và
nhiệt tâm của quần chúng, tạo một âm hưởng chấn động quốc tế.
PGVN thoát khỏi đạo dụ số 10 từ thời Pháp thuộc ràng buộc. Ngọn lửa Bồ Tát
Quảng Đức và Chư Thánh tử đạo, thắp sáng PGVN trong thế kỷ XX. Các Tông môn
hệ phái đoàn kết, khai sinh một Giáo Hội PGVN Thống Nhất có tầm vóc quốc
gia. Các Tổng vụ hoạt động hữu hiệu, nhịp nhàng. Tuy nhiên, chưa kịp đào tạo
tăng tài kế thừa, GH tiếp tục sa lầy trong những cuộc đấu tranh mang tính
thời sự, các thế lực chính trị lạm dụng làm suy yếu tiềm lực PG. Các quốc
gia từng ủng hộ PGVN dưới triều đại nhà Ngô, giờ đây đã im lặng trước cuộc
đấu tranh vùng vẫy tuyệt vọng của GHPGVNTN lúc bấy giờ.
Song song với hoạt động nhuốm màu chính trị đó, từ Phật giáo, Thiền sư Nhất
Hạnh cho ra đời THANH NIÊN PHỤNG SỰ XÃ HỘI, chuyên hoạt động từ thiện xã
hội, nhằm giúp đỡ nhân dân trong các vùng chiến tranh tàn phá, xây dựng lại
mái ấm, hướng dẫn nông thôn có kiến thức vệ sinh, nông nghiệp, đạo đức và
đức tin trong xã hội - thành thị hóa nông thôn, quy tụ nhiều tu sĩ và sinh
viên tình nguyện tham gia - Với lòng nhiệt thành và thiện chí của những tâm
hồn đầy lý tưởng đó, họ phải trả giá bằng hàng chục sinh mạng của thành viên
Tiếp Hiện, bỏ xác tại trụ sở Pháp Vân, cũng như rải rác khắp nẻo đường quê
hương, làm phân bón cho những nơi thiếu tình người.
Thiện chí là điều tốt, nhất là lúc nhân dân đau khổ vì cuộc chiến, nhưng
thiện chí không phải là người bạn đáng tin cậy của những thế lực đang xung
đột và bên cạnh là tôn giáo bạn nhiều đố kỵ. Các phe lâm chiến đều nhìn
những đoàn TNPSXH là kẻ thù. Và duy nhất của hoạt động thiện nguyện nầy mang
ý nghĩa nhập cuộc của PG phi chính trị, gỡ gạc một phần định kiến của dư
luận về những xáo trộn liên tục sau 1966 từ PG. Giữa cuộc chiến ý thức hệ ác
liệt như thế, sự có mặt của Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội quả là liều lĩnh và
mạo hiểm! Dẫu sao, cũng thể hiện được đức vị tha và tinh thần vô úy của đạo
Phật.
TỪ MỘT NỀN GIÁO DỤC
Sự thành công từ việc canh tân PG trong những thế kỷ trước đem đến kết quả
rực rỡ cho PGVN đến thập niên 1964. Không ai phủ nhận thời cực điểm vang
danh của PGVN trong nửa thế kỷ XX, dẫn đến hiện tượng xuống cấp cho đến ngày
nay do những nguyên nhân như: Giáo dục đào tạo tu sĩ, truyền bá giáo pháp,
khuynh hướng nhập thế, chất liệu hướng nội và mô thức tổ chức.
Thật vậy, P.G.V.N ngày nay, ngoại trừ một vài đạo tràng cho phật tử như PHẬT
QUANG Núi Dinh, Thiền viện chuyên tu như CHƠN NHƯ, BÁT NHÃ, TRÚC LÂM, THƯỜNG
CHIẾU, LINH CHIẾU, v.v… tất cả sinh hoạt của tu sĩ bên ngoài đều xuống cấp
trầm trọng. Làm mất niềm tin quần chúng dưới nhiều hình thức:
- Mặc cả đám tiệc ma chay.
- Kinh doanh dưới dạng tín ngưỡng.
- Phong cách như một quan chức tôn giáo .
- Hưởng thụ sang trọng.
- Trọng phú khinh bần.
- Khuynh hướng thực dụng.
Sinh hoạt chùa chiền trở thành một nghề sống, ngày tụng hai thời kinh cho
xong việc. Tu sĩ không còn gì để làm, thậm chí có chùa, vị trụ trì phải thuê
tăng chúng trụ xứ tụng kinh và ma chay cho tín đồ. Một số tăng trẻ có học
thức, có lý tưởng, băn khoăn tự hỏi:
-Cắt ái ly gia, thoát hình dị tục chỉ vì miếng cơm manh áo bằng những nghi
ứng phú vậy sao? Lý tưởng giải thoát bằng phương tiện tầm thường thế ư? Ở
ngoài đời, với mảnh bằng đại học có thể kiếm sống bằng cách dạy học, làm
thuê còn có ý nghĩa, khỏi mang nợ áo cơm Tam Bảo và bá tánh. Vậy xuất gia để
làm gì?
Điều này cho thấy tu sĩ ngày nay đánh mất lý tưởng, học không biết để làm
gì, vì không có chỗ đứng trong Giáo hội đầy phe phái bảo thủ.
-Xuất gia với mục đích gì? Có những em Gia Đình Phật Tử được giáo dục quá lý
tưởng về hạnh nguyện của người xuất gia, nhưng khi vào Chùa chứng kiến những
bê tha đồi trụy, bỗng chốc niềm tin biến mất, thế là bỏ đạo, không tin Tam
Bảo. Những trụ trì không quan tâm đến đời sống tăng chúng, thậm chí thâu
nhận đệ tử bừa bãi, không giáo dục, không nuôi ăn học, mạnh ai nấy vơ vét
bằng mọi thủ đoạn làm tiền. Ngoài xã hội, cán bộ tham nhũng bê tha có pháp
luật trừng trị, nhưng tôn giáo là vùng đất bất khả xâm phạm, Nhà nước không
thể xen vào nội bộ Tôn giáo và không phải nhiệm vụ của họ. Giáo hội là ai
nếu không chính là biểu hiện của những bất toại đó. Giáo luật, giáo quy chỉ
là vật trang trí, trên nói, dưới không nghe, bởi lẽ “Thượng bất chánh hạ tắc
loạn”.
Hầu hết quần chúng nhìn PG và tu sĩ PG là một tổ chức tràn đầy mê tín và
quan liêu, không còn chỗ nương tựa niềm tin (nơi có thể thỏa mãn niềm tin
thì quá ít và họ chưa có duyên tiếp cận với bậc chân tu). Những quan chức
tôn giáo đó, không hề bận tâm đến sự tồn vong ngôi nhà mình đang nương náu.
Một lúc nào đó không còn lợi dụng được, họ sẳn sàng trút bỏ chiếc áo như bộ
cánh không còn hợp thời trang, lìa khỏi mái chùa như trút bỏ một đôi dép
rách. Đó là một Huệ Nhật đã chọn Tin Lành làm mảnh đất sống mới tràn đầy lý
tưởng. Và những ai không đủ can đảm như thế, tiếp tục vật vã ẩn dương nương
Phật, vì lìa khỏi mảnh đất tôn giáo mầu mỡ đó, không bằng cấp, không trình
độ, ngại lao động, biết cuộc sống có sướng hơn chăng. Vì thế, ngoài những
thiền môn có nề nếp, ngoài những tu sĩ chân chánh, khó mà định nghĩa thế nào
cho đúng với PGVN qua những thành phần còn lại.
I/ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO:
Những thập niên 1930 trở về trước, thầy trò sống chung trong một Già Lam
như tình cha con. Thầy có bổn phận truyền đạt kiến thức cho đệ tử, huấn
luyện oai nghi, nghiêm trì giới luật và giảng dạy kinh điển, kinh nghiệm tu
tập. Đệ tử học nơi thầy qua thân giáo và khẩu giáo một cách nghiêm túc. Mỗi
chùa là một trường học mà Bổn sư là giáo thọ, đệ tử là học trò. Nếu có Phật
Học Viện thì giáo thọ và tăng sinh cũng thường trú trong một nề nếp thiền
môn chứ không phải không khí của một học đường, do chú trọng giới luật nhiều
hơn kinh điển. Sau khi hoàn mãn kinh luật qua quá trình tu học, có người
tiếp tục hầu thầy, có vị ra hoằng pháp, có bậc chuyên tu nơi am thanh cốc
vắng, làm mô phạm cho học chúng hậu lai. Thầy xét thấy đệ tử đủ đạo phong
đức hạnh, cử đi các trụ xứ. Kinh thư ngoại giáo hay kiến thức xã hội được
giáo dục ngay trong già lam, không giao tiếp nhiều với ngoại tục. Quần chúng
và tu sĩ có một khoảng cách nhất định. Cần giao tiếp với tín đồ hoặc thân
thuộc - có vị tri khách chứng kiến - tiếp tại phòng khách, thời gian không
quá 15 phút. Chỉ trao đổi những gì cần, không có thời giờ nhàn rỗi để hý
luận, nói năng nhỏ nhẹ, khiêm hạ. Thời giờ phần lớn dành cho tu và học.
Trước và sau khi đất nước phân ranh, chư tôn đức được hoàn mãn từ các Phật
học đường ra làm việc. Thực tế đất nước đối đầu với bao thách thức từ đời
sống vật chất đến tâm linh, từ văn hóa đến tập quán, đòi hỏi PG phải thay
đổi cách nhìn, cách giáo dục, cách truyền đạt văn hóa thiền môn và nhất là
đem đạo Phật vào quần chúng, mà xa xưa quần chúng tự tìm đến với đạo Phật.
Vì vậy quy cách giáo dục truyền thống được chuyển sang mô thức học đường,
tăng ni chuyển qua thế học, thời gian giành cho nội điển giảm dần, oai nghi
luật giới dần dà xem nhẹ. Chẳng những thế, tăng sĩ ngày nay không thân cận
hầu thầy như xưa, thuyên chuyển chỗ ở tùy thích, vì thế mà dễ buông thả
phong cách. Mỗi vị một phòng ở, tiện nghi như một gia đình nhỏ, tiếp khách
tại phòng riêng, ăn ngủ tùy tiện, không ai kiểm soát ai.
Trong thời ly loạn, tăng sĩ một phần trong tuổi động viên quân dịch. Tại
miền Nam một phần do PG đấu tranh liên miên, một phần ảnh hưởng xã hội thực
dụng do nếp sống Âu Mỹ truyền nhập bởi quân đội Hoa Kỳ. Những tu sĩ xa thầy,
xa bạn đồng tu, sống các tư gia, dẫn tới nhiều tệ nạn, không chịu tu mà cũng
chẳng học hành. Vì vậy, những năm trước 1975, số tu sĩ có mảnh bằng đại học
và đi du học rất ít.
Tại Sài Gòn bấy giờ, chùa Già Lam do HT Trí Thủ trụ trì, chùa Huệ Nghiêm do
HT Bửu Huệ tọa chủ, học chúng nội trú tương đối nề nếp và học hành khá thành
đạt. Tại Già Lam, tốt nghiệp là bác sĩ, dược sĩ được vài vị, nhưng chả thấm
vào đâu. Ở Huệ Nghiêm, nhiều vị là pháp sư, giảng sư, luật sư có năng lực.
Riêng miền Trung, các tổ đình, tự viện - hai đạo viện nói trên - tăng sĩ giữ
được môn phong đạo cách, cũng bởi tình thầy trò hòa hợp như cha con. Tình
thương và trách nhiệm của thầy đối với trò là một phương cách giáo dục
truyền thống gắn bó như một gia đình của dân tộc ta, đưa đến nề nếp cho con
cháu vậy.
Còn phần lớn các am tự viện miền Nam ngày nay, trụ trì và tăng chúng không
có sự mật thiết và tôn kính, thiếu tinh thần trách nhiệm lẫn nhau. Vị trụ
trì nhận chúng bừa bãi, không biết gốc gác, chủ yếu ở cho đông để bá tánh
cúng dường. Nuôi chúng như nuôi heo, miễn đủ ngày hai bữa, không đủ dinh
dưỡng, muốn ăn thêm thì tự lo. Hoặc lúc bệnh hoạn cũng như việc học hành, ai
có Phật tử thì nhờ, ai không quen phật tử đành chịu phận hẩm hiu, tự lo
liệu. Không như Kito giáo bao thầu trọn gói. Do thế, những ai không đủ nghị
lực vượt qua đều rơi rớt, hoặc ra đời, hoặc làm sư thất học, chuyển qua ứng
phú lo chuyện ma chay kiếm sống.
Một ngôi chùa ngoại vi thành phố HCM, trước trào lưu bon chen đua nhau xây
dựng phô trương vật chất, vị trụ trì đó về vùng quê thu gom trẻ em nghèo
trên 50 đứa, cho cạo đầu, để chóp, chụp hình đăng báo, vận động nước ngoài
dưới danh nghĩa nuôi trẻ mồ côi. Thế là những Việt kiều hảo tâm không tiếc
của, vung tay làm phước. Dĩ nhiên, người lợi dụng thân phận kẻ khác làm sao
có lương tâm. Cuộc sống của các em như những bê con, vét từng ngụm sữa thừa
khi sữa mẹ bị chủ vắt bán cạn kiệt. Chủ bò sữa thu nhập như thế nào thì sự
thu nhập từ những nguồn lợi của mầm trẻ đó, vị trụ trì phải gấp mười lần
hơn. Cũng bởi, bầu sữa bò mẹ có hạn nhưng nguồn lợi vô tội vạ kia không cùng
tận. Từ đó, tu sĩ trở nên bê tha, sa đọa trên đống tiền bất chánh tội lỗi.
Trong số trẻ kia, có những em học hành xuất sắc, vì chúng có chí khí, có
nghị lực và óc cầu tiến. Có em đã thành đạt cấp quốc gia, được nhà nước tài
trợ cho đi du học. Thế mà vị trụ trì không thấy được giá trị đó, không thấy
tiềm năng cho PG về sau, vẫn thờ ơ lãnh đạm, để tiếp tục mai một cho những
chồi non còn lại. Một ít em đã phải bỏ chùa về quê làm ruộng, tuy khổ cực
nhưng không để ai lợi dụng. Một ít em tìm nơi trú ẩn những chùa khác để có
điều kiện ăn học, tiến thân.
Một ngôi chùa lớn tại quận 10 TPHCM, vị trụ trì chân tu nhưng chiêu nạp tăng
chúng quá bừa bãi, sinh hoạt nội bộ không kiểm soát. Nội trú gần trăm vị mà
thời khóa kinh tụng chỉ vài người có mặt trên chánh điện. Tăng trẻ gây xáo
trộn vì bệnh đồng tính luyến ái. Rồi phe cánh giành giựt khi có ma chay.
Không học hành, chạy xe dạo phố và đến nhà tín đồ tạo phiền hà cho gia chủ.
Đó là chưa nói có những ngôi chùa chuyên đi tụng đám, hẳn nhiên họ không ăn
chay, có cả vợ con bồ bịch và cờ bạc công khai trong chùa, đôi khi giải
quyết xích mích bằng hình thái xã hội đen.
Nói chung, tình trạng tu sĩ PG ngày nay đại loại như thế dưới nhiều hình
thức. Thầy vô trách nhiệm, thiếu tình thương đối với đệ tử thì làm sao trò
tôn kính, vâng lời và nghiêm túc. Trách nhiệm và tình thương luôn là điều
kiện cho con cháu, môn đồ nên người. Tuy vậy, vẫn còn một ít bậc chân tu lo
cho đạo, chăm sóc đệ tử khá chu tất. Không những tu sĩ mà ngay cả đệ tử tại
gia, họ cũng quan tâm về cuộc sống, sức khỏe và hạnh phúc gia đình, ít ra
cũng còn những vị như vậy để giữ niềm tin cho môn đệ.
Một khi truyền thống giáo dục đạo đức thiền môn chuyển sang cơ chế tân học,
tăng ni sinh phải đến trường. Tuy nhiên, khi mà thế học và Phật học, không
được trang bị oai nghi phẩm hạnh và một tình thương của thầy tổ, chắc chắn
tăng ni sinh phải đối diện với khó khăn cho những phấn đấu tự thân. Đồng
thời thêm một khó khăn nữa, giữa thế học và đạo học, thời giờ không đủ để
chu toàn học trình. Cái bất cập trong giáo trình Phật học hiện nay, từ trung
cấp Phật học trở lên, tăng ni sinh hầu như không thu thập được bao nhiêu
kiến thức. Giáo thọ quen lối diễn giảng nhà chùa hơn là sư phạm học đường.
Học chúng nghe cho vui rồi ra về với cái đầu rỗng tuếch. Cuối khóa có thêm
ít xảo thuật lý luận PG đại thừa để hý luận mà không áp dụng vào đâu được,
cũng không có một pháp môn cụ thể để tu tập có hiệu quả. Do giáo trình và
phương pháp giảng dạy thiếu thực tế và không chuẩn, tăng ni sinh đến trường
để giết thời giờ, khỏi làm công việc ở chùa. Chẳng những thế, giữa tăng và
ni sinh tại Vĩnh Nghiêm có sự giao lưu thân mật ngoài giới hạn, dân chúng
quanh chùa hằng ngày chứng kiến như xem phim, họ quá nhàm chán. Một người
gần đó than rằng: “Thầy tu như thế mà mọi người cứ nhắm mắt cúng dường là
sao!”.
Còn giáo trình Cao cấp Phật học thì tương đương đại học, đòi hỏi sinh viên
nỗ lực khá nhiều, nhưng nhìn chung chỉ phát triển bề rộng nhiều hơn chiều
sâu. Môn sinh ngữ như Anh, Pháp, Hoa, Nhật và cổ ngữ như Pali, Sanscrit liệu
có cần toàn bộ cho những học trình mà sau khi tốt nghiệp, họ có thể tự chọn
để đi vào chuyên sâu. Một số giáo sư có bằng tiến sĩ từ An Độ hay Âu Mỹ,
chưa đủ kinh nghiệm giảng dạy, làm cho giảng đường như ong vỡ tổ. Tăng ni
sinh chán nản vì thấy vô nghĩa, mất thời gian. Một số không cần bằng cấp,
chứng chỉ, họ nghỉ học rồi về tự nghiên cứu, tự học hỏi.
Những học đường PG như vậy, chỉ chú trọng về kiến thức nhiều hơn đạo đức và
tâm linh, để rồi cuối cùng những vị tốt nghiệp chẳng khác nào ông cử bà tú
của thế tục. Sự học không giúp gì cho một tu sĩ trên con đường tu tập tự
thân hay nhà mô phạm đạo đức cho quần chúng, ngược lại nâng cao ngã mạn với
những học vị và thiếu tinh thần trách nhiệm trước sự tồn vong của Phật Pháp.
Không những thế, ngoài việc nuôi chúng, truyền đạt đạo lý và trang bị kiến
thức, sau 1980 phong trào Kiết hạ an cư bắt đầu rộ nở. Những chùa có bề thế
đều muốn làm trường hạ. Ngày xưa, “An cư” là truyền thống tốt đẹp của ba
tháng trong năm. Thường, sau chín tháng hoằng hóa, Đức Phật chỉ định chư
tăng cấm túc là để vừa tránh vô tình sát hại côn trùng trong mùa mưa, vừa
cùng nhau trau dồi đạo đức, thúc liễm thân tâm, kiểm điểm luật giới, tăng
cường thiền định. Thế mà hiện nay, có những trường hạ nội quy thả nổi, ví dụ
chùa Quảng Đức, quận 12. Những năm trước đây, chiều tối nào cũng có một số
tăng trẻ ra ngồi quán cà phê để nghe nhạc, ghẹo gái, đến nửa khuya mới trèo
tường vào chùa. Ban tổ chức không cần quan tâm, mặc dù tín đồ phản ánh, miễn
có người nhập hạ đông để nhận cúng dường.
Hầu hết các điểm an cư là nơi giao lưu chư tăng thập phương, trao đổi mọi
chuyện từ sao hỏa đến thâm cung bí sử, từ chiến sự đến du hý vào lúc nhàn
rỗi. Tuyệt nhiên không nghe luận bàn về Phật pháp hay kế hoạch truyền bá
Phật pháp, pháp hành tu tập, v.v… Một vài bậc chân tu ở chung không khỏi
chạnh lòng cho sự tha hóa của tăng trẻ ngày nay. Đa phần các trường hạ thành
phố, tăng trẻ đều phung phí thời gian một cách đáng tiếc, nhưng khi Bố tát
kiết giới, vị tuyên xướng Luật giới hỏi có ai sai phạm, tất cả im lặng như
một sự thanh tịnh thật sự.
Ngoài ra, với cơ chế thị trường (và thời đại truyền thông) ngày nay, một số
tụ điểm kiết hạ biến thành tụ điểm kinh tế. Sau ba tháng an cư, chư tăng ra
về với những phong bì và vật phẩm hậu hỹ, khi mà ban tổ chức trường hương
thanh toán hết mọi chi phí. Số còn lại, theo giáo phẩm mà việc hồi hướng
nặng nhẹ có khác. Những trường hương nào sung túc, năm sau số lượng tu sĩ
đăng ký nhập hạ càng đông.
Trường Phật học và trường hạ là tụ điểm giáo dục của PG, nhưng ngày nay, trở
thành tụ điểm đáng báo động mà chư tôn túc có trách nhiệm cần quan tâm chỉnh
đốn để tránh tình trạng tha hóa tu sĩ và mất niềm tin quần chúng.
II/ TRUYỀN BÁ GIÁO PHÁP
Đây là thiên chức của ban Hoằng Pháp và các vị trụ trì. Ban Hoằng pháp chưa
thoát được lối mòn của những thế kỷ xa xưa, do nhiều nguyên nhân:
a/ Hòa Thượng trưởng ban kiêm nhiệm quá nhiều chức vụ, do thế không chức vụ
nào được hoàn thành xuất sắc.
b/ Ban Hoằng Pháp không có những cố vấn chuyên môn, cập nhật kiến thức và
khoa học trong nghiệp vụ. Mỗi lần ngài trưởng ban đi truyền giảng, kéo cả
ban bệ đạo tràng Pháp Hoa mở đường và tiếp đón, chủ yếu phô trương nhiều hơn
là chú trọng kết quả công tác
c/ Trong lối đào tạo diễn giảng, mang tính chung chung của những chủ đề giáo
lý chung chung. Chưa giúp cho giảng viên, giảng sư nắm được tâm lý xã hội,
kiến thức cập nhật, yếu tố quần chúng, đối tượng thính giả và ngôn ngữ bình
dân. Ôm cứng chủ đề bằng thuật ngữ chuyên môn, khiến người nghe cảm thấy
thiếu hứng thú. Từ đó đưa đến tình trạng giảng sư nói giảng sư nghe, thính
chúng nói chuyện như chợ chồm hổm. Chủ đề và nội dung buổi giảng không liên
hệ gì với cuộc sống thực tại, cứ như ngôn ngữ người cõi trên không liên hệ
gì đến cõi hạ giới.
d/ Không biết chiêu hiền đãi sĩ, nghĩa là không tận dụng nhân tài ngoài tổ
chức. Ví dụ hiện nay, giảng sư Thích Chân Quang, một giảng sư tài hoa duy
nhất tại VN, có ảnh hưởng rất lớn đối với quần chúng PG trong nước cũng như
ngoài nước. Bởi lẽ, đã đem PG vào quần chúng bằng hình thái tâm lý xã hội và
ngôn từ giản dị. Đồng thời còn là tổ chức sinh hoạt PG duy nhất hiện nay,
qua đĩa hình, biết minh họa nội dung muốn diễn đạt một cách khoa học, tinh
tế và chuyển ngữ thích hợp với nhiều trình độ. Chủ đề thì gần gũi cuộc sống,
mang tinh thần dân tộc, đạo lý rất thực tế làm cho người nghe đi vào PG một
cách dễ chịu. Phật Đản vừa qua, Nhà nước đã biết tận dụng hiệu quả lời giảng
của thầy Chân Quang, đưa vào trong mục An Ninh và Cuộc Sống, phát sóng
truyền hình suốt ba ngày liên tục trên kênh VTV2 nhằm giáo dục quần chúng.
Vậy tại sao PG không biết trọng dụng thỉnh giảng? Hiện tượng còn những giảng
sư có tài nằm ngoài tổ chức, chưa có điều kiện phát triển, vì Ban Hoằng pháp
không cần nhân tài ngoài luồng. Giả thử không muốn sử dụng giảng sư ngoài
luồng, ít ra Ban Hoằng Pháp và các giảng sư cần nghiên cứu những bí quyết mà
cô Như Thủy và thầy Chân Quang đã thu hút được quần chúng.
e/ Ngoài ra, cũng còn một vài chức sắc PG gây trở ngại cho công cuộc Hoằng
pháp, ví dụ ông Thích Đồng Trí, chùa Hồng Từ hiện là Chánh Đại Diện tỉnh hội
Kom Tum. Suốt ba tháng hạ, ông ngăn trở không cho cô Tố Liên do Ban Hoằng
Pháp Trung Ương cử lên giảng hạ. Pháp sư Giác Nhiên về thăm cũng bị cản trở
việc thuyết pháp, nhưng ông ta lại cố tình mời Pháp Sư Giác Nhiên đến viếng
chùa để xin được viện trợ. Pháp Sư ngạc nhiên khi làm một Đại Hồng Chung đem
qua Mỹ chỉ tốn tám chục triệu, trong khi Đồng Trí làm tại chỗ phải hơn một
trăm triệu, ngài đành bấm bụng cúng dường.
Ông ta luôn mặc áo quần rách rưới, nhưng từ chối cho những Phật tử người sắc
tộc đến chùa lễ Phật, còn khinh thị bằng những lời hạ cấp. Phật tử muốn
thỉnh Giảng sư Chân Quang lên thuyết pháp, ông ta viện mọi cớ thoái thác.
Một chức sắc như thế, luôn là trở ngại cho phật sự, tại sao vẫn tồn tại
nhiều nhiệm kỳ mà GH TW không quan tâm cải tổ?
Bao năm qua, Phật sự tỉnh nhà không phát triển, ngược lại tín đồ rơi dần vào
tay ngoại đạo - ông Trưởng Ban Trị Sự tỉnh hội sốt sắng giao hảo với các
chức sắc chính quyền và các tôn giáo như một niềm vinh hạnh - Có phải “Chức
vị” trong PG là điểm tựa cho ngài tiến thân và lợi lộc cá nhân? Những người
như thế làm sao PG được phát triển. Mặt khác, Phật tử đến chùa chỉ để cúng
dường, tụng kinh và công quả, ít được các thầy giảng dạy. Do vậy, ít ai hiểu
giáo lý. Khi đối diện với sự cám dỗ của ngoại đạo hay sự kích bác của kẻ ác,
người Phật tử dễ sa ngã là vậy.
Những trụ trì không có trình độ giáo lý đã đành, những vị uyên thâm cũng
không hề có những buổi giảng vào những ngày Sóc vọng khi tín đồ đến lễ sám
mỗi tháng. Tại thành phố HCM trên sáu triệu dân, chỉ có không quá năm điểm
diễn giảng, mỗi điểm giảng không quá 200 người tham dự mỗi tuần thì làm sao
giáo lý đi vào quần chúng. Trong khi Kito giáo, ngoài những buổi lễ Misa,
các lễ theo mùa, thầy Cả đều giảng Phúc âm. Chẳng những thế, kẻ kết hôn buộc
phải cải đạo và hằng ngày đi học giáo lý. Con sinh ra rửa tội liền, rồi khi
biết cắp sách đến trường phải tham dự học giáo lý theo từng lứa tuổi. Vì vậy
khó mà tín đồ bị lung lạc đức tin.
Hoằng pháp là vấn đề tối quan trọng. Nhờ tính năng nổ và kế hoạch truyền bá
của Asoka sau Phật nhập diệt 3 thế kỷ, những vùng xa xôi như Tây Bá Lợi Á,
chạy dài qua Syri, Ai Cập đều có sự hiện diện của PG. Năm 1913, tại St
Petersburg đã xuất hiện một ngôi chùa và nhiều Phật học viện gọi là Dastan.
Tộc người Buriat và Kalmyk, Nga xô, thế kỷ thứ XVII đã có 300.000 người theo
đạo Phật, nhưng do tính thụ động mà PG Đại Hàn mất dần chân đứng trong xã
hội. Afghanistan bị xóa trắng bởi Hồi giáo do thiếu truyền bá. Quần chúng
Phật tử trở thành mê tín và dần dần xa rời PG.
Phật giáo là tôn giáo xưa nhất, thế mà toàn thế giới chỉ có 295.570.780 tín
đồ. Những Tôn giáo xuất hiện sau PG trên 6 thế kỷ như Kito giáo La Mã, hiện
nay tín đồ có trên một tỷ, Hồi giáo cũng gần bằng. Như vậy Đạo Phật kém phát
triển là do việc truyền bá thiếu hiệu quả chứ không phải giáo lý không thích
hợp với kiến thức thời đại. Ban Hoằng pháp nói riêng và tất cả Chư tăng nói
chung, phải xét lại phương cách sinh hoạt trước sự chuyển mình mau lẹ, linh
hoạt của Kito giáo, Tin Lành hiện nay tại VN.
Nhìn chung, do tính thụ động của Tu sĩ mà các nước PG mất dần chân đứng.
Kitô giáo đang phát triển ở Nhật, Thái Lan, Triều Tiên, Lào, Campuchea,
Srilanka và nhất là VN với cấp số nhân.
III/ KHUYNH HƯỚNG NHẬP THẾ
- Như phần trên đã trình bày, khi đất nước đối đầu với luồng sinh khí mới lạ
từ Au Tây, mọi sự không còn nằm trong mô hình gia đình và truyền thống. Việc
tổ chức theo hệ thống quả là hiệu quả và trật tự, vì thế PG đã làm quen với
mô hình tổ chức giáo hội theo thế tục của Kito giáo. Việc đào tạo giáo dục
tu sĩ cũng rập khuôn chiều hướng đó, nhưng quên rằng tinh thần PG khác với
tinh thần tôn giáo phương Tây (Tuy Kito giáo xuất phát từ phương Đông, nhưng
qua 20 thế kỷ đã được phương Tây quy củ hóa tổ chức và tinh thần thần học
khác với tinh thần tùy tính của PG) .
Duy nhất trong PG, tổ chức Thanh Thiếu Niên Phật Tử, mệnh danh Gia Đình Phật
Tử, là một tổ chức thành công nhất. Ngược lại hệ thống tu sĩ theo mô thức tổ
chức mới lại là một thất bại nặng nề nhất. Bởi lẽ GĐPT mang tính sinh hoạt
nửa tôn giáo, nửa xã hội, mục đích chủ yếu là giáo dục. Vì vậy việc hòa nhập
xã hội dễ hơn tổ chức tu sĩ.
a/ GIÁO QUYỀN
– Với tinh thần tự giác và dân chủ của Đạo Phật, ngay từ Phật còn tại thế,
một giáo hội không theo mô hình tổ chức quyền lực chiều dọc như ngày nay.
Tuy Đức Phật là vị sáng lập ra PG và giáo đoàn thuộc quyền hướng dẫn của
Ngài, nhưng mọi quyết định liên hệ đến giáo đoàn cũng như phật sự, Ngài đều
tôn trọng ý kiến của đại chúng. Điều hành, cử sứ giả hoằng pháp đều tùy
thuộc về sự hòa hợp và tự nguyện của đại chúng. Ngày nay cơ chế tổ chức,
quyền lực theo hệ thống dọc, không thích hợp với tinh thần bình đẳng của PG.
GHPG không có giáo quyền tuyệt đối, việc điều hành còn du di tùy tiện, kém
hiệu quả. Một tổ chức lỏng lẻo trong một xã hội nề nếp, bên cạnh những tôn
giáo có kinh nghiệm tuyệt đối về tổ chức và điều hành, chắc chắn, PG sẽ chậm
phát triển và hoạt động thiếu hiệu quả.
b/ THU THẬP KIẾN THỨC
– Tu sĩ ngày nay trình độ học vấn nhiều hơn xưa, bằng cấp cao hơn và ngã mạn
nhiều hơn. Người đời trang bị khoa bảng để có bổng lộc, nuôi thân và gia
đình. Tu sĩ sau khi cầm mảnh bằng, không biết làm gì? Muốn đóng góp cho GH,
không có chân đứng, đành trở lại điểm khởi đầu ê a vài thời kinh cho qua
ngày đoạn tháng. Tự mình không tìm được lối thoát bế tắc. Thất vọng vì tập
thể GH không đem lại cho tu sĩ tín đồ một hy vọng sáng sủa và chính tự thân
tu sĩ cũng không tìm cho mình một phương án lý tưởng cho việc tu tập hoặc
đóng góp gì cho PG cũng như đất nước đúng nghĩa. Một ít tăng sĩ theo những
môn học không dính dáng gì với người tu, ví dụ kế toán tài chánh hoặc đi học
theo phong trào, không có căn bản.
c/ TẬP LÀM KINH TẾ
- Một số lại thiên hướng về kinh tế, chuyên gia tổ chức hành hương, làm
tương chao thực phẩm, nhang đèn, áp phe cò đất, chạy án hoặc huy động vốn,
cầm cố thế chấp, v.v…Tất cả thành phần như thế, đạo không trọn mà đời cũng
không thành đạt, không có kinh nghiệm cạnh tranh phát triển, lắm khi bị thất
bại. Vậy còn thời giờ đâu cho việc tu tập hoặc hướng dẫn phật tử.
d/ SINH HOẠT TỪ THIỆN
Một vài vị có tâm hơn, lăn xả vào công việc từ thiện lo cho trẻ em khuyết
tật, cô nhi, bệnh xã hội, phong cùi… không có nguồn tài trợ ổn định, làm
theo mùa, không nhân sự, thiếu tổ chức, phần lớn bỏ dở buông xuôi. GH chưa
tổ chức một sinh hoạt xã hội cho ra hồn, chưa có một đoàn thể như Thanh Niên
Phụng Sự Xã Hội trong thời bình để sự có mặt PG trong cuộc sống có ý nghĩa
hơn.
Tuy nhiên, vẫn có tổ chức từ thiện không thuộc GH mà hoạt động khá hiệu quả
- cũng là hội từ thiện duy nhất của PGVN hiện nay - đóng góp nhiều mặt như
xây nhà tình thương; làm cầu đường nông thôn; cấp học bổng và phát quà cho
học sinh có đạo đức tốt đạt 4 tiêu chuẩn – Hiếu kính cha mẹ – Tôn trọng thầy
cô – Tử tế bạn bè – Đoàn kết yêu nước; phát quà cho những gia đình neo đơn,
trẻ mồ côi, khuyết tật; mổ mắt từ thiện cho người nghèo, v.v… đó là HỘI TỪ
THIỆN PHẬT QUANG. Thông qua công tác từ thiện nhằm khơi dậy Đạo Đức Học
Đường là chính.
Ngoài ra, do khuynh hướng nhập thế đa diện, tu sĩ thiếu cơ bản giới đức và
chân tâm, đã sai phạm vào những cám dỗ khó từ chối, cơ bản vì hành xử với
mục đích tư lợi. Do thế, ta không lạ khi thấy PG nhập thế không đem lại hiệu
quả hoằng truyền chánh pháp như Kito giáo La Mã và Tin Lành mà hiệu quả là
đánh mất niềm tin trong quần chúng. Phải chăng PG đang đứng bên lề xã hội?
IV/ CHẤT LIỆU HƯỚNG NỘI
Trong cơn cuồng phong của cuộc sống thực dụng, cuốn hút không nhỏ số tu sĩ
thiếu trang bị phẩm chất nội tâm, làm chao đảo hình ảnh cao đẹp của PG trong
lòng quần chúng. Tuy nhiên, rất may vẫn còn những bậc chân chính, hoặc ẩn
tu, hoặc nhập cuộc hướng dẫn cho một số người cùng khuynh hướng trở về nương
tựa chính mình, hoặc xử dụng tâm lý đạo đức PG vào lòng xã hội giúp một bộ
phần quần chúng có điểm tựa cho niềm tin, giúp họ thánh thiện và mẫu mực
hơn.
Những bậc chân tu đó, có thể thiên hướng Tịnh Độ, có thể nhiều loại Thiền
khác nhau, nhiều Pháp tu khác nhau, mục đích chung điểm là giúp mình và
người trong cuộc có một sự thanh thản an lành, thăng hoa, hữu dụng cho cuộc
sống, giải thoát phiền trược trong hằng ngày. Đó là điều tối cần để sinh lực
PG được lưu truyền trong xã hội.
Hiện nay, do nhu cầu tâm linh khi cuộc sống xô bồ làm mệt mỏi chán chường và
căng thẳng, họ tìm đến với tôn giáo và một số hình thái tín ngưỡng phi tôn
giáo. Có một số xuất phát từ trong nước, có một số du nhập từ nước ngoài. Dĩ
nhiên do trình độ tâm linh và kiến thức thẩm định không đồng nhất, các nền
tín ngưỡng và tôn giáo đó được nồng nhiệt chào đón và chấp nhận một cách dễ
dàng mà không cần nhận xét. Nếu nhận xét, cũng không y cứ vào tiêu chuẩn
nào, đó là cái khó cho quần chúng mà PG chưa giúp gì để người Phật tử chọn
cho mình một pháp hành đúng đắn. Chẳng những thế, ngay trong một số chùa,
vẫn dung nạp những hình thức tín ngưỡng không chính đáng. Ta tạm lược sơ qua
vài hình thức tín ngưỡng hiện có trong nước:
- Ngoài các hệ phái Kitô giáo như Vatican, Tin Lành, Islam còn có B’hai, An
giáo. Mặc dù một số trường phái tu tập có từ xa xưa, nhưng phát triển gần
đây tại VN như Quán Am do thánh sư Bare Maharaji và các chân sư truyền thừa.
Năng lượng sinh học của Dasira Narada do Lương Minh Đáng phổ biến. Nội tâm
tĩnh lặng do Dadi Ranji thuyết giảng, phép luyện khí công của Yoga … là
những môn mang tính khoa học và khoa học tâm linh - phi tôn giáo -giúp chúng
ta hướng về và phục hồi năng lực tâm linh, giải thoát mọi áp lực tinh thần
và hệ trược của bản năng.
- Một số tôn giáo nội sinh như Cao Đài, Hòa Hảo, còn có tín ngưỡng nội sinh
như pháp Vô vi của Lương Sĩ Hằng, Thủy hỏa ký tế Lão Đam (được khôi phục tại
VN ) Thần quyền chân truyền…
- Một số sinh hoạt tín ngưỡng dân gian như Đồng bóng Tứ phủ, Cầu cơ Cầu hồn.
Một loại hình bán tôn giáo, bán tín ngưỡng như Diêu Trì Kim Mẫu và Maria,
Phật và Chúa thờ chung mà không có một giáo thuyết nào làm cơ sở cho loại
hình nầy như Cao Đài. Và còn có một loại không mang danh xưng nào, sinh hoạt
bí mật, không phổ biến, người tập ngồi tư thế thiền, buông thả tâm trí sau
khi đọc câu mật chú, sau đó tiếp nhận điển lạ, đưa đi cảnh giới khác học
hỏi…
- Một loại hình tâm linh phi tôn giáo, phi tín ngưỡng, phát sinh ồ ạt sau
1975, đó là Ngoại Thấu Thị hay còn gọi là Ngoại Cảm, chuyên hướng dẫn truy
tìm mồ mả.
Người Phật tử và ngay cả một số tu sĩ còn bỡ ngỡ, hoặc chấp nhận như một
hiện tượng mới lạ, hoặc nhắm mắt chống đối mà không chịu tìm hiểu căn cội và
hiệu quả vấn đề. Ngoài những loại hình tín ngưỡng không rõ ràng, loại hình
khoa học tâm linh không có giáo điều, không có giáo chủ, nâng cao năng lượng
sinh học, giúp cho thể lực, tâm lực và trí lực phát triển, chúng ta cần quan
tâm chọn lọc.
Các tôn giáo thần quyền biết cách tiếp thị, đã ăn khách khá nhiều tại VN
hiện nay. Còn PG tuy là một tôn giáo sâu sắc về học thuyết, hiệu quả về tâm
chứng, đạo đức về giáo dục, ôn hòa mặt xã hội, nhưng chưa giúp cho quần
chúng nắm bắt được trọng điểm, dễ bị ngoại đạo lôi cuốn để rồi đưa đất nước
đến cực đoan bạo loạn. Muốn giúp cho quần chúng phân biệt được chánh tà,
đúng sai trên thị trường tín ngưỡng tôn giáo, chúng ta xét các tiêu chuẩn
như:
Nếu là tôn giáo, phải hội đủ tiêu chuẩn đạo đức tâm linh và đạo đức xã hội,
đem lại đoàn kết dân tộc, có tinh thần yêu nước và tôn trọng sự sống.
Nếu là tín ngưỡng, phải là loại tín ngưỡng giúp cho hành giả đạt một trí
tuệ, tình thương và ý thức trách nhiệm, không làm hại đồng bào và tha hóa
bản thân, hiệu quả tốt đẹp có thể được thể nghiệm.
Chúng ta không hy vọng có một tôn giáo thống nhất, vì trình độ, căn cơ không
giống nhau. Hàng ngàn năm trước cho đến hàng ngàn năm sau vẫn thế! Có thể
tôn giáo, tín ngưỡng nầy hoại, tôn giáo tín ngưỡng khác phát sinh, khó có
một tôn giáo duy nhất, dù tôn giáo đó chân chánh, biểu tượng cho chân lý. Có
thể bảo, tôn giáo là biểu hiện nhu cầu tâm linh của quần chúng ở trình độ
thấp khi chưa có cái gì thay thế, hay xã hội chưa tiến đến cực điểm văn minh
- Lý thuyết là thế - nhưng thực tế tín ngưỡng tôn giáo là phản ánh nhu cầu
tâm linh, dù dưới xã hội Duy vật, con người cũng tìm riêng cho mình một niềm
tin vô hình che dấu dưới nhãn hiệu nào đó.
Ngoài ra, tín ngưỡng Bình vôi Ông táo không nên được xem là điều cần phải có
trong xã hội. PG không bảo thủ cố chấp riêng tín ngưỡng của mình, sẳn sàng
chấp nhận những cái ngoài PG mà không đi ngược lại tinh thần tu tập PG, có
thể hỗ trợ cho hành giả có thêm điều kiện thăng tiến tâm linh, hoặc không
làm cho quần chúng đi lùi với tiến hóa.
Mục đích hướng nội trong PG giúp chúng ta an lạc và giải thoát hiện thực,
không bị ô tạp chi phối mà vẫn có trách nhiệm với xã hội. Phương tiện hướng
nội là những pháp hành của những pháp môn. Chất liệu là năng lượng sinh học
tự thân.
Các Đạo tràng, các Tu viện, các Già lam chuyên tu cần tìm và phối hợp những
mô thức hiệu quả nhất, hầu giúp quần chúng phát triển tâm linh, an lành cuộc
sống, không cố chấp trong một pháp hành truyền thống lỗi thời.
V/ HÌNH THÁI TỔ CHỨC
Hình thái một Giáo hội từ thời Đức Phật không nặng về tổ chức mà nặng về tu
chứng và truyền pháp. Qua nhiều thời đại và xã hội, PG luôn hòa nhập và
thích nghi. Để đáp ứng nhu cầu xã hội, PG bắt đầu ghép mình trong khuôn khổ
tổ chức hành chánh, nặng phần trình diễn. Riêng cho PG, tổ chức càng chi li,
càng đánh mất tinh túy của tâm chứng. Nói cách khác, giữ đúng tinh thần PG
thì không thể có một tổ chức hoàn chỉnh và hiệu quả. Vì thế, những tổ chức
GH trong quá khứ, tạm gọi là tổ chức không tổ chức, vì PG chưa tìm đúng mô
hình hòa hợp thích nghi giữa thế tục và PG. Tổ chức Giáo đoàn GH, Tu viện,
Già lam của PG là loại hình gia đình của Á châu, một đơn vị tổ chức trộn lẫn
tình thương, trách nhiệm, giáo dục và hòa hợp, không như tổ chức hành chánh
chỉ mang tính quyền lực và trách nhiệm.
a/ Sau khi PG bắt đầu kết hợp các hệ phái thành một GH, tu sĩ chưa quen mô
hình mới, chưa có tinh thần trách nhiệm của chức năng, không có tình thầy
trò trong công việc, không có tình cảm môn phái, không có trình độ hành
chánh, ngay cả nhiệm vụ chuyên ngành cũng không nắm vững, vì thế dẫm chân
tại chỗ và dẫm chân lên nhau.
Đặc biệt sau 1982, GHPGVN ra đời lại là loại hình không đủ yếu tố hoàn chỉnh
của GHPGVNTN trước đây, cũng không thêm được nét sáng tạo giữa tổ chức hành
chánh và tổ chức giáo đoàn để có một sắc thái cá biệt, đây là nét chung của
người VN ta. Cũng thế, dân tộc ta luôn có tính dân tộc, nên ngàn năm Bắc
thuộc, ông cha ta luôn tìm cách thoát khỏi ảnh hưởng ngoại bang, trong đó có
văn hóa, từ Hán tự biến ra chữ Nôm, nhưng hình tượng thiếu đơn giản nên mất
tính đại chúng. Trong khi đó, một số quốc gia cũng bị đô hộ, nhưng họ vẫn
giữ được nét văn tự truyền thống như Campuchea, Thái, Lào, Đài Loan, Nam
Triều Tiên. Riêng VN ta tự hào đã tiếp thu mẫu tự La Tinh của các cố đạo Bồ
Đào Nha, tuy đó là ưu điểm cho việc truyền bá tôn giáo và văn hóa phương
Tây, nhưng là điều tủi nhục cho dân tộc, vì cha ông chúng ta chưa kịp sáng
tạo một dạng tự thích nghi thời đại như Nhật Bản. Xứ Hoa Anh Đào cũng xử
dụng La Tinh, gọi là Romaji trong lãnh vực hành chánh, riêng quần chúng chỉ
dùng chữ Hiragana và Katakana biến thể từ chữ Hán.
Trong PG, khi đối đầu với một xã hội theo nề nếp thời đại, truyền thống sơn
môn vẫn còn phảng phất sinh khí gia phong, lại sinh hoạt theo nề nếp tân
thời, chưa kịp định hình một tổ chức đặc thù vừa thích nghi xã hội, vừa giữ
được nét cá biệt, nên cơ cấu tổ chức thiếu hiệu quả, chẳng phải tân mà cũng
không phải cựu. Dẫu sao, GHPGVNTN vẫn còn thể hiện được tính bình đẳng trong
tứ chúng, ni giới có ni bộ đại diện, cư sĩ nam nữ có tổng vụ cư sĩ tham gia.
GHPGVN ngày nay, tổ chức như có hình thức, Phật sự không cần hiệu quả, nếu
không là vật trang trí thì công việc trôi chảy hay không cũng chẳng phải
trách nhiệm của hàng giáo phẩm, có lẽ quen lệ thuộc bao cấp bao tiêu.
Đại hội PG vừa qua, Hồng Quang cũng đã đặt vấn đề chiếc ghế một chân, một tổ
chức vừa phản khoa học, vừa phản tinh thần giáo đoàn, nhưng hình như tham
luận chỉ là tham luận, không ai buồn quan tâm cải thiện cho PG tiến bộ hơn.
b/ Trong các ngành của GH, đoàn thể cư sĩ nam nữ đóng vai trò quan yếu, vừa
hộ trì chánh pháp, vừa giáo dưỡng hậu lai, thế nhưng ban hướng dẫn Nam Nữ Cư
Sĩ không huy động được tiềm năng của lực lượng Gia Đình Phật Tử tồn tại trên
50 năm, họ có quá nhiều kinh nghiệm giáo dục thanh thiếu niên. Người có
trách nhiệm chuyên ngành không đủ tư cách thuyết phục các đoàn sinh ngoài
luồng, luôn mượn tay công an địa phương, dùng áp lực đe dọa, một thái độ sai
lầm của thế tục, thiếu khôn ngoan của một người con Phật. Đáng ra, với tư
cách đạo đức của một người huynh trưởng, với tình thương chân thật của người
áo lam, đến với nhau bằng cả tấm lòng vị tha và chính nghĩa, làm sao các em
không chấp nhận mình. Tiếc thay, những huynh trưởng trong hệ thống GH hiện
nay, chưa thể hiện một tư cách gương mẫu. Ngược lại các đơn vị Gia Đình Phật
Tử ngoài luồng vẫn giữ được truyền thống giáo dục và tác phong áo lam rất
tốt.
c/ Những tiềm lực còn lại trong hàng cư sĩ, bàng bạc khắp mọi ngành nghề mà
GH vẫn chưa biết cách quy tụ, chính vì thế mà một số rẽ lối theo các tôn
giáo khác, hoặc bất mãn PG vì không phân biệt được những ai là chân tu, ai
là ẩn dương nương Phật. Nhưng cũng từ hàng bạch y đó, không thiếu những tâm
hồn tu tiến, có một nhiệt tâm và phong cách xứng đáng của người con Phật, GH
không biết trọng dụng. Miền Trung, ngày trước, cư sĩ cũng từng là giáo thọ
cho tăng chúng như Tâm Minh BS. Lê Đình Thám, Thiều Chửu, Đoàn Trung Còn,
v.v… Ở những vùng xa xôi, cư sĩ thay mặt chư tăng đăng đàn thuyết giảng cho
Phật tử, dẫn lễ ma chay. Năm 1963, nếu không có hàng cư sĩ, PG làm sao tạo
một vết son trong bia sử? Ngày nay, ngoài nghĩa vụ cúng dường, cư sĩ không
có quyền góp tay xây dựng ngôi nhà chung PG, đây là dấu hiệu độc quyền đưa
đến độc đoán trì trệ. Quan niệm cư sĩ chỉ có bổn phận cúng dường là còn mang
tư tưởng phong kiến lỗi thời.
Ban hướng dẫn Nam Nữ Cư Sĩ đã làm được gì với tiềm lực to lớn của Phật tử
tại gia?
Chính vì cơ cấu tổ chức thiếu cân bằng, bánh xe hoằng pháp thiếu hiệu quả,
kéo theo nhiều tệ nạn cửa quyền, tham ô, chư tăng biến thành những quan chức
không tóc, xa rời quần chúng, GH biến thành tập đoàn tha hóa, phe cánh,
hưởng thụ…
MỘT TƯƠNG LAI PHẬT GIÁO
Giữa những tạp nham trong cuộc sống hiện nay, quần chúng đang cần đến một
điểm tựa tinh thần. Phật tử và tu sĩ cũng hướng đến một nhu cầu tâm linh
chính đáng. Các tông phái như Thiền, Tịnh, Mật cũng muốn trăm hoa đua nở và
một số đạo tràng phát triển nhưng chưa đủ mạnh. Đây là điểm đáng mừng, báo
hiệu những tha hóa sẽ bị đẩy lùi vào bóng đêm, những dạng tu sĩ phi pháp sẽ
bị đào thải. Trong cơ chế hiện nay, vấn đề tín ngưỡng được mở rộng, tôn giáo
tự do phát triển, đây là hình thái sinh hoạt lành mạnh giúp luật pháp nhẹ
phần trừng phạt, nhà tù sẽ thuyên giảm, bệnh viện tâm thần cũng bớt bệnh
nhân, nhất là văn hóa dân tộc được xác định và củng cố. Đó là những cố gắng
tự phát mà không do GH chủ động.
Tình trạng một GH bất lực, quần chúng sẽ tự động tìm một lối thoát khả dĩ.
Chư tăng không đủ niềm tin cho tín đồ nương tựa, họ tự nương tựa chính mình.
Ngoài hệ thống GH cần chỉnh đốn cho thích hợp với PG, trình độ và đẳng cấp
tu sĩ phải tương xứng với niềm tin của họ, một nhu cầu tất yếu là đạo đức và
nội lực tu tập của chư tăng song hành với kiến thức thời đại. Một tổng thể
đó phải có nhiệt huyết, sống đơn giản và đức hy sinh thì mới hy vọng có một
sắc thái tích cực cho PGVN.
Từ những thành phố đông dân đến các vùng sâu, vùng cao, trên sân chơi tôn
giáo, đạo Phật đang bỏ trống nhiều mặt bằng. Cao nguyên Trường Sơn chạy dài
ra Bắc bộ, Tin Lành thao túng như chỗ không người. Các vùng đồng bằng, Kito
La Mã ra sức củng cố. Miền Tây Nam bộ, Champa có hậu thuẫn Hồi giáo đang lấn
sân. Liệu PGVN có rút sâu vào rừng núi như PG Nam Triều Tiên đã từng làm sau
đệ nhị thế chiến, mà sân chơi đã bị Tin Lành thế chỗ, đó là chuẩn bị cho một
tấm khai tử giữa lòng dân tộc. Hiện tượng thụ động, thiếu trách nhiệm, chia
rẽ suốt 30 năm đã là một minh chứng mà chưa đủ đánh thức các Lương đống nắm
vận mệnh PG hiện tại.
Bên ngoài các Phật tử nhiệt tâm, hướng về VN mong có một PG vững mạnh để xây
dựng quê hương, nhưng họ không hiểu được thực trạng trong nước, lắm khi mặc
cảm quá khứ, có những động thái vô tình tạo sự chia rẽ trong nội bộ chư tăng
và gây hoài nghi cho Nhà nước, thêm một khó khăn cho đạo Phật nước nhà.
GH lắng nghe và tiếp nhận khả năng đóng góp của tứ chúng hầu cải thiện PG và
ngăn chận những bất toại tồn tại trong đạo Phật gần phân nửa thế kỷ. Niềm hy
vọng nếu thành đạt, chắc chắn PGVN sẽ là một tổ chức PG kiểu mẫu cho PG
trong khu vực, mà hiện nay ngoài hình thức phô trương, PG các nước cũng
không hơn gì PGVN ta hiện nay.
Và nếu GH không hoàn thiện thì chính nội tình PG là tội phạm xã hội nhiều
nhất tính theo tỷ lệ. Nếu PG là tôn giáo mẫu mực cho quần chúng, là Thiên
Nhân Chi Đạo Sư, chắc chắn góp phần không nhỏ để đất nước phồn vinh.
MINH MẪN
21/6/06
PHẬT GIÁO VÀ GIÁO HỘI
Từ khi nền văn minh cơ giới phát triển, khoa học hiện diện khắp ngõ ngách
của cuộc sống, mọi sinh hoạt cộng đồng được sắp xếp trong một nề nếp ổn
định, trật tự. Phật giáo cũng được hệ thống hóa dưới hình thức một tổ chức
gọi là Giáo hội (GH) theo mô thức thế quyền và giáo quyền Vatican. Tuy không
rập khuôn của cơ chế đó, nhưng cơ bản phân nhiệm rõ ràng trên nguyên tắc
hành chánh. Nó hữu hiệu trong sinh hoạt xã hội đối với một tập thể, với PG,
một tinh thần phóng khoáng và nội quán. Tổ chức như vậy có cái gì không đồng
điệu và bất ổn, đưa tu sĩ xa dần với bản chất tự thân.
Nói thế không có nghĩa PG không có một GH và không cần một GH, ngược lại PG
có một GH rất sớm khi Đức Thế Tôn còn tại thế. Giáo hội lúc bấy giờ được xem
là một nhóm gồm 4 vị Tỳ khưu, cùng sinh hoạt chung trong một trú xứ, cùng
một thời điểm để tu học và hoằng hóa đạo đức. Như vậy GH đối với đạo Phật
không được quan niệm như một tổ chức hành chánh mà là một sinh hoạt tâm
linh, không là một qui mô lớn, cồng kềnh mà là mô thức sinh hoạt đơn lẻ hữu
hiệu.
Từ sau khi Phật nhập diệt, quan niệm GH như vậy vẫn tồn tại qua các lần kết
tập kinh điển. 500 Thánh tăng La hán lần đầu và trên ngàn Thánh tăng, thanh
tịnh tăng, những kỳ kết tập sau cùng vẫn không xem lượng số đông đảo là một
GH. Niên đại Asoka đào tạo sứ giả Như Lai truyền bá Phật tạng và Ngọc Xá Lợi
sang hướng Bắc và Nam, gọi là Bắc truyền và Nam truyền, được xem là một phật
sự không do hệ thống GH hành chánh đảm nhiệm. Những dịp yết ma, Bố tát do
tăng đoàn thực hiện mà không mệnh danh GH triệu tập. Khi PG truyền vào Việt
Nam, Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản cũng chỉ là những tông phái, môn phong
cá lẻ, chưa hình thành một GH hành chánh.
Phật giáo vào VN đầu kỷ nguyên thứ nhất cho đến hạ bán thế kỷ thứ hai khi
trung tâm PG nổi tiếng. Luy Lâu hình thành vẫn là những sinh hoạt tự phát,
không chịu lệ thuộc vào một cơ cấu hành chánh được mệnh danh là GH. Đến niên
đại Trần Nhân Tông, ngôn xưng GH Trúc Lâm mới được nhắc đến, nhưng cũng mang
tính môn phong, truyền bá chứ chưa có hình thức phân nhiệm đa ngành. Đến lúc
PG quá thịnh, tình trạng tăng môn lạm phát, sinh lắm tệ nạn trốn việc quan
đi ở chùa, bắt đầu tu sĩ phải có giấy Hộ điệp chứng nhận qua kỳ khảo thí,
thành lập tăng cang, kiểm soát tu sĩ, nhuốm một phần nhỏ về hành chánh.
Các môn phái cũng tự phát mà không trực thuộc vào tổ chức điều hành tổng
quát của GH. Các môn phái tự củng cố nội bộ và phát triển hạnh môn, có lúc
nở rộ trăm hoa, có khi thu mình trong dòng phái. Dù nở rộ hay không, tu sĩ
chính thức của các Tông môn vẫn giữ được tầm vóc xứng đáng tăng phong đạo
cách của mình. Cứ thế, Phật giáo thấm nhuần vào xương máu của dân tộc, tinh
anh phát tiết qua nghệ thuật, thi ca, kiến trúc, v.v…
Tuy có một vài Nho gia châm biếm, bài xích PG vì đố kỵ, nhưng hầu hết PG tạo
được thế đứng trong nhân dân, luôn dành được vị thế kính trọng bởi đạo
phong, nội lực và kiến thức, từ Vua quan đến thứ dân. Dân số bấy giờ chưa là
bao, thế mà số lượng tu sĩ đã trên dưới 30.000 người. Riêng tu sĩ thuộc GH
Trúc Lâm cũng đã chiếm phân nửa (phân nửa là dân, phân nửa là tu sĩ). Các
Thiền phái như Thảo Đường, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Lâm Tế,
v.v…không chịu sự điều hành hay trực thuộc hệ thống GH của Thiền phái Trúc
Lâm. Như vậy danh xưng Giáo hội Trúc Lâm chỉ có nghĩa là hệ thống Thiền phái
được khởi xuất và bảo trợ bởi Nhà nước. Các môn phái khác tự do phát triển,
đóng góp đáng kể cho nền văn hóa đặc thù cho dân tộc. Không những thế, các
Thiền phái còn cung ứng cho dân tộc một sinh lực dồi dào và sinh khí tươi
nhuận từ các bậc chứng đắc, một tinh thần vô úy hiên ngang trước kẻ xâm
lăng.
A/ ĐẠO PHONG – NỘI LỰC & GIÁO HỘI
Từ lúc thăng cho đến khi trầm cùng dân tộc, những khi PG suy vi không có
nghĩa tu sĩ bê tha đạo đức hay tha hóa xã hội. Trong quá khứ chư tăng thiếu
nội chứng hoặc kém nội lực, thiếu tăng tài so với thời Lý Trần cung ứng cho
xã hội, không còn thạch trụ mang tầm vóc quốc gia nhưng tăng phong đạo cách
vẫn đủ để làm gương cho nhân quần.
Thời Pháp thuộc Tu sĩ PG phần lớn là thầy cúng, thiếu trình độ nhưng tư cách
vẫn có, tu sĩ không làm hoen ố xã hội. Một số rất ít các bậc chân tu đều ẩn
cư, một số trẻ xã thân cứu quốc. Các Thiền sư tuy không xuất chúng nhưng đạo
lực có thừa như TS Khánh Hòa, TS Tịnh Khiết, TS Mật Nguyện, TS Bích Liên, TS
Liên Tôn, TS Giác Tiên, TS Mật Thể, TS Thiện Hoa, TS Thiện Hòa, TS Hành Trụ,
v.v… đều là những tấm gương mẫu mực cho tăng tín đồ đương thời. Những thân
giáo sinh tiền như vậy đủ để tăng sĩ và cư sĩ vâng phục, noi gương.
Nhưng từ khi GHPGVHTN có mặt gánh vác trách nhiệm cùng dân tộc, Phật giáo
bắt đầu một hình thức mới, sinh hoạt mới, không còn hạn chế trong Tông môn,
có khuynh hướng hướng ngoại, mang tính xã hội. Tăng sĩ được khuyến khích
trang bị kiến thức thế học để cập nhật trình độ, kinh điển trở thành học lý
để tham khảo hơn là hạnh môn tu chứng.
Các Phật Học Viện, Tu Viện không còn là những Tùng Lâm nội quán mà biến
thành các giáo điểm nghiên cứu học thuật. Giáo luật và giới luật đã xem nhẹ,
các Môn phong không chú hướng đào tạo đạo lực cho tăng chúng, thu nhận đệ tử
không qua thời gian tập sự thử thách như Cổ đức đã làm, xuống tóc chưa đủ
thời gian làm điệu, tự ý tách thầy ra nhận Chùa - mới hôm qua là dân thường
mấy hôm sau đã làm thầy thiên hạ - nhận sự lễ lạy cúng dường của bá gia. Bốn
cuốn Luật Sơ đẳng Sa di chưa quen mặt chữ, Năm đệ Lăng Nghiêm chưa hề nghe
đến Diệu Trạm Tổng Trì. Thầy tổ thi đua cho đệ tử ăn học đặng nở mày nở mặt
với các Tổ đình.
Cái gọi là GH mới ra đời, hệ thống ban bệ tuy đồng bộ nhưng chưa củng cố nội
tình, chưa có cơ sở đào tạo tăng tài và chưa lập Tùng Lâm chuyên tu cho
những bậc chí tâm xuất trần, vội dồn tâm lực vào cuộc đấu tranh đơn điệu,
không được hậu thuẫn mà vào triều đại nhà Ngô, bạn bè năm châu đã lên tiếng
đồng tình. Thật sự, GHPGVNTN bấy giờ một thân một mình, cố gắng vận dụng đem
lại hòa bình cho Tổ quốc, đã bị các thế lực chính trị các bên lợi dụng, phân
hóa nội bộ. Tu sĩ tự lo đời sống cá nhân và ăn học, không ai nâng đỡ. Giáo
hội không có kế hoạch kinh tế tài trợ đào tạo tăng tài, vì thế một số tu sĩ
trẻ thiếu bản lãnh tiến thân, đã lợi dụng tình thế xáo trộn của PG, chiến
tranh của đất nước mà tìm thế an thân thủ lợi. Các Môn phái trực thuộc GH
hay ngoài GH đều buông thả đệ tử, không còn sợi dây tình cảm đạo nghĩa và
Giới luật Tông môn ràng buộc, phong cách dần dần tha hóa.
Một tổ chức GH nặng về mô thức hành chánh nhưng không có giáo quyền tuyệt
đối như Kitô giáo, chắc chắn khó điều hành hữu hiệu một cỗ xe cồng kềnh
nhưng cấu kết không vững chắc, người điều khiển sẽ khó đạt như ý. PG là một
lực lượng bàng bạc trong quần chúng, không một ràng buộc nào hiệu quả ngoài
tình cảm đạo đức và đạo vị. Do vậy chư vị lãnh đạo GH bấy giờ khó mà thống
nhất được ý chí và hành động, đưa đến chia rẽ là chuyện đương nhiên.
Đối với nhân sự, tu sĩ GH cũng không toàn quyền phán quyết hữu hiệu. GHPG
chỉ là hình ảnh lung linh để bên ngoài nhìn và thẩm định như một ảo ảnh qua
bóng nước. Nếu sau 1963, Giáo hội dốc toàn lực cho việc đào tạo tăng tài và
chuyên tu - với cặp mắt chính trị và xã hội xem đó là thái độ yếm thế, thờ ơ
- nhưng đạo lực và hồng đức tâm chứng sẽ giúp cho dân tộc nhiều hơn những
cách mà GH đã chọn. Còn lăn xả vào đời để rồi chỉ là điểm son giả tạo trên
trang sử chính trị, đánh đổi lại một cơ đồ tan vỡ, bệ rạt kéo dài đến hôm
nay cho giới tu sĩ thì thật không hay.
Có người sẽ đặt vấn đề ngược lại, thế trong quá khứ, PG cũng từng đóng góp
cho đất nước chống ngoại xâm thì sao?
- Vâng mỗi thời đại có một bối cảnh khác nhau.
Vào thời PG là quốc đạo, tinh thần nhất quán và đạo lực của các bậc chân tu
phủ trùm dân tộc, uy tín PG và tiếng nói của chư tăng có sức mạnh của một
hiệu triệu. Chính trị đối phương chưa ma mãnh như ngày nay, kỷ thuật tình
báo chưa tinh xảo, trong nhân dân không có nhiều tôn giáo và tôn giáo bấy
giờ không thuộc loại quốc tế điều hành như ngày nay. Ngoài ra, Phật giáo
không có hậu thuẫn quốc tế về chính trị cũng như quân sự, không cấu kết với
ma lực, không thủ đoạn chính trị và cũng không là tổ chức chính trị khoác áo
tôn giáo, tổ chức GH không chặt chẽ.
Tóm lại, Phật giáo không có bất cứ yếu tố nào đủ, để đối đầu với các thế lực
thế gian ngoài thiện chí và tâm đức. Dồn tâm lực vào canh bạc chính trị để
kết cục là tay sai chính trị, một gia sản đổ vỡ và bệ rạc.
Chiến tranh Việt Nam chấm dứt trong hãi hùng nhưng ít tổn hại, đành rằng một
phần có công sức của PG. Tuy có công với đất nước nhưng có tội với Liệt tổ,
Chư Phật vì không vun xới ngôi nhà Như Lai theo đúng khả năng mình. Sau ngày
thống nhất đất nước, PG được gì ngoài gia tài hoang phế, anh em đối đầu lẫn
nhau, phật sự đình trệ, uy tín giảm sút bởi chư tăng đánh mất niềm tin của
đồng bào, tu sĩ mất định hướng, mất lý tưởng, mất niềm tin của đàn anh đương
nhiệm, sống buông thả trụy lạc, chạy theo vật dục thời đại, v.v… Tuy hiện
nay còn có nhị vị Tôn túc đạo cao đức trọng như TS Thanh Từ, TS Nhất Hạnh là
ánh đuốc giữa đêm tối trên bầu trời PGVN, nhưng chưa đủ lực kết hợp toàn bộ.
Tu sĩ Phật giáo còn ngái ngủ trên danh xưng những GH.
Cũng từ hai chữ GH mà PGVN đã phân hóa trầm trọng. Mỗi bên đều bảo thủ vị
trí, danh xưng, làm đình trệ suốt 30 năm qua đáng lẽ ra PGVN phải vượt trội
hơn các tôn giáo bạn. Phật giáo là đạo Vô ngã nhưng bị vấp ngã bởi chấp ngã
nặng nề. Ước gì đạo Phật không bị ràng buộc vào danh xưng GH như Chư tổ xa
xưa thì sẽ không bị vướng mắc. Bấy giờ tinh thần thông thoáng bàng bạc khắp
nơi, không gò bó vào cơ chế tổ chức, PG như trăm hoa đua nở mọi lãnh vực
trong cuộc sống. Những bài học đau xót trầm trọng như vậy, cấp giáo phẩm vẫn
chưa rút tỉa kinh nghiệm, tiếp tục o ép các thành phần còn lại vào một tổ
chức không tương xứng tầm vóc của nó.
Chẳng những thế, thủ thuật kết nạp thiếu tinh tế, dùng quyền lực đe dọa quá
ấu trĩ, tạo thêm phân hóa vốn đã phân hóa. Ví dụ Ban Hướng Dẫn Nam Nữ Cư Sĩ
muốn các đơn vị Gia Đình Phật Tử trực thuộc sự quản lý của mình, thay vì thể
hiện chánh nghĩa bằng động thái hiểu biết cảm thông và tôn trọng để các em
tự nguyện tham gia thì lại giở trò đe dọa, kết hợp với Ban Tôn Giáo và Công
an gây áp lực với trụ trì, nhiều đơn vị bị trục xuất khỏi chùa vì không tuân
lệnh. Có những trụ trì khôn khéo, vẫn duy trì GĐPT sinh hoạt mà không làm
mích lòng bề trên, nhưng phần lớn các trụ trì quá yếu kém, sợ sệt đành xua
đuổi những con em thánh thiện đó, những mầm non tương lai của PG.
Chùa Vạn Hạnh ở Bầu Nai - Hóc Môn - khi còn là thảo am nghèo nàn, các em
GĐPT hàng tuần sum dầy thật ấm cúng. Khi chùa tái thiết khang trang có sự
đóng góp hàng tháng của các huynh trưởng - trích từ tiền lương ít ỏi của
mình cho việc xây dựng - đến khi hoàn thành các em bị xua đuổi dời sang sinh
hoạt chung với đơn vị bạn cách đó vài cây số. Tuy nhiên với tâm lành của
người con Phật, các em vẫn quay về giúp thầy vào những ngày lễ lớn. Có những
em trên mười tuổi, phải trở về nhà cách sáu cây số để ăn trưa rồi đến chùa
công quả tiếp mà đáng ra chùa phải bố thí cho các em bữa ăn chả đáng là bao.
Phải chăng đó là công hạnh của tu sĩ PGVN ngày nay chỉ biết lợi và dụng,
không nghĩ đến tương lai PG từ những tín đồ thuần thiện.
Hành động của phần lớn của các cấp thẩm quyền trong GH đến các trụ trì, các
tu sĩ đều theo tập quán, thiếu phán xét cân phân, không đặt quyền lợi lâu
dài của Phật pháp mà chỉ làm theo bản năng và phản ứng thiếu thận trọng của
chính mình. Ngoài ra còn bao nhiêu chùa, bao nhiêu chức sắc GH trên cả nước
hành động có hại cho đạo và có lợi cho bản thân?
Gần 50 năm qua, tu sĩ PGVN hướng ngoại quá nhiều, các ban ngành GH cũng hành
xử thể hiện quyền lực nhiều hơn là tình cảm đồng đạo và quyền lợi dài lâu
của PG. Phật giáo nói chung và PGVN nói riêng không cần những GH, chỉ cần sự
tu tập do các Tông phái truyền thừa. Chỉ cần thực tu thực học như thuở xa
xưa, nhờ thế PG đã đóng góp được nhiều cho đất nước. Phật giáo không cần một
tổ chức GH mang tính hành chánh. Chỉ có những tổ chức tôn giáo mang màu sắc
chính trị mới cần một tổ chức chặt chẽ để thống trị tín đồ, tạo lực lượng
vững mạnh để cấu kết thế quyền. Tinh thần PG khác với tinh thần Kitô giáo,
không thể bắt chước khung hình tổ chức đó để điều hành PG, Phật giáo vẫn
phát triển khắp thế giới một cách hòa bình mà không cần một tổ chức GH nào.
Hãy trả PG trở về vị thế ban đầu của một giáo đoàn chuyên tu, vì xã hội rất
cần những mẫu người thánh thiện.
B/ GIÁO HỘI – THẾ TỤC – THẾ QUYỀN
Phật giáo là tôn giáo thuần hướng tâm linh. Nói cách khác, mục đích tối hậu
là Tuệ Giác – Duy Tuệ – Thị Nghiệp. Từ lúc đức Thế Tôn khai đạo đến hàng
ngàn năm sau, mục tiêu vẫn không thay đổi. Càng hướng nội, thiền quán, an
trụ thì phương tiện vật chất càng giảm thiểu, ít vướng bận. Giáo hội ngày
nay là một tổ chức mang tính tập quyền, những học lý tôn giáo “đơn thuần”
thường đưa đến cực đoan, bạo động, độc tài. Những học lý “phi thần” thì tổ
chức GH sẽ dẫn đến chuyên quyền, lạm dụng. Nhất là PG, một tín ngưỡng tâm
linh không có khuynh hướng phóng ngoại, đề cao tự ngộ, tự giác thì GH là một
sự ràng buộc theo một mô hình. Quy chế thuần thế tục tạo không ít nhiêu khê
cho tu sĩ.
Một bậc chân tu thuần túy sẽ không đảm nhận bất cứ chức sắc, quyền hành nào
từ tổ chức GH. Ngược lại, các ban ngành trong cơ cấu tổ chức đó thường giao
phó cho những tu sĩ không qua trường lớp hành chánh, không có khả năng
chuyên môn, không có óc sáng tạo và tổ chức, nhất là không đủ uy tín cá nhân
do đạo phong khiếm khuyết, dẫn đến thái độ cửa quyền, quan liêu, hống hách
và gây khó nhau để có phong bì. Phải chăng những tệ nạn trong GHPGVN ngày
nay là phản ảnh trung thực từ những tệ nạn ngoài xã hội, khác chăng là những
mỹ từ “Cúng dường” thay vì thủ tục đầu tiên của thế nhân.
Một điều đau lòng nghe ra như đùa nhưng có thật. Một tu sĩ từ nội thành
chuyển khẩu ra ngoại ô, qua thủ tục hành chánh của C.A quản lý hộ khẩu, chỉ
tốn công mà không phải mất tiền, thế mà khi đến Thành hội xác nhận lại bị
hạch sách khó dễ để rồi phải đóng một số tiền không thể tưởng – Ba chục
triệu đồng - Một học tăng, học ni xin đơn vào Trung cấp Vĩnh Nghiêm bị chối
từ vì hết hạn, sau đó được mách nước là một vị khác bỏ phong bì ba triệu, có
ngay lá đơn mặc dù không có chứng chỉ sơ cấp. Một nhân viên v/p trường ngỏ ý
với một học tăng trụ trì xin tám trăm ngàn để chuộc chiếc đồng hồ đã cầm vì
thua cờ bạc.
Chùa Hoằng Pháp - Hốc Môn - thời gian đầu xin hoạt Phật thất bị ban bệ Thành
hội cấm đoán vì những lý do hết sức vu vơ như giới hạn người tham dự, không
cho các tỉnh thành tham gia. Thầy Chân Tính nhất quyết không tiếp tay tham
ô, nhờ một lá thư của phật tử với lời lẽ đanh thép, thế là Thành hội đành
chấp thuận cho tiếp tục sinh hoạt.
Cứ như thế, Nhà nước không gây khó dễ cho PG. Ngược lại, nội tình sáng tạo
những nhiêu khê vừa thể hiện quyền lực, vừa được cúng dường bồi dưỡng. Nếu
không có quyền hạn được GH đặt để, có lẽ những chức sắc đó không có điều
kiện để khó dễ tăng ni. Người rắc rối với nội tình tăng ni, không có lợi gì
cho GH, cản trở nhiều phật sự nhất, đó là Thiện Tánh.
Tuy là một tổ chức nặng phần trình diễn, nhưng GHPGVN hiện nay ít nhiều đều
mang sắc thái của quân chủ phong kiến, độc tài. Trong phần tham luận của anh
Hồng Quang ở Đại hội PG năm 2002, đã nhiệt tình đóng góp để hoàn chỉnh một
GH trong hiện tình đất nước đang đổi mới, nhưng gần hết nhiệm kỳ V mà vẫn
dậm chân tại chỗ.
Sinh hoạt GH hiện nay, ngoài tăng ni, hàng cư sĩ đứng ngoài lề, nghĩa là cơ
cấu tổ chức hiện nay đã tách rời phật tử tại gia với mọi phật sự mà trước
đây- bốn mươi năm về trước- sinh hoạt PG do cư sĩ đảm trách toàn bộ, chư
tăng chỉ chuyên tu, học và diễn giảng. Hình bóng tu sĩ bấy giờ là thần tượng
tôn kính của mọi người. Ngày nay, tu sĩ bao cấp toàn bộ từ A tới Z. Dĩ nhiên
phật sự đình trệ, cửa quyền phát sinh. Và trong tình trạng tha hóa chung,
GHPGVNTN cũng không khá hơn.
Trong công cuộc chống Cộng, GHTN đã phạm đã phạm từ sai lầm này đến sai lầm
khác. Sử dụng nhân sự sai lầm, thái độ chính trị sai lầm, phương án hành
động sai lầm, tự tôn tự đại, độc tài. Vì vậy, tự mình đưa đến bế tắt phật sự
là chuyện dễ hiểu. Tình cảm quần chúng giành cho GHTN ngày nay giảm suy rõ
rệt, nhất là sau chuyến viếng thăm của TS Nhất Hạnh. Giáo hội TN đã chọn một
hành xử đối với đồng đạo làm suy yếu uy tín tự thân.
Chẳng những thế, tiền bạc cũng làm hoen ố khá lớn hình ảnh cao thượng một
thời của GH đó. Khi Hải ngoại gửi tiền về cứu trợ nạn nhân trong nước, Không
Tánh sử dụng 200 triệu thế nào để phải tai tiếng tại Quảng Nam – Đà Nẵng.
Trước đây, vụ cứu trợ tại đồng bằng sông Cửu Long cũng lem nhem không ít. Và
khi HT.Huyền Quang ra Bắc gặp Thủ tướng Phan Văn Khải, Liên Hiệp Châu Au ủng
hộ 10 ngàn Euro, cũng lọt vào túi riêng của thầy Tuệ Sĩ.
Còn vô số tai tiếng của cán bộ thuộc cấp đã bôi đen bộ mặt GH do ỷ lại, chức
quyền, danh vị, v.v… Chức sắc tại Hải ngoại từ hàng cao cấp trở xuống, hết
90% tai tiếng về tiền bạc và tình dục, thậm chí phải ra tòa như các vị Giám
mục Kitô giáo vênh váo nghênh ngang ra bề ta đây là thầy thiên hạ.
Nói chung, dù GH nào, trong cũng như ngoài nước, đều phạm lắm tệ nạn. Phải
chăng, đây là thời mạt pháp mà DÂN TỘC VIỆT NAM là một, PHẬT GIÁO VIỆT NAM
là một!?
Toàn bộ nhân sự sử dụng trong GH hiện nay được xét theo lý lịch nên ỷ thế,
cậy quyền. Nếu GH trọng dụng bậc tài và đức, chắc chắn PG sẽ đóng góp hữu
hiệu cho đạo và đời khá nhiều. Do cơ cấu lãnh đạo bất toàn nên các tu sĩ trẻ
ngày nay sống buông thả, sa đọa, không ai nói ai nghe. Nhà nước thật sự lúng
túng phải dung dưỡng một lực lượng cán bộ PG trong GH hiện tại, đã không
giúp được gì cho một bộ mặt đổi mới của đất nước hiện nay đối với thế giới.
Đành rằng cũng có những cán bộ GH chơn chánh, nhưng làm được gì khi đa số bê
tha?
C/ SỰ KHÁC BIỆT giữa GIÁO HỘI KITÔ và GIÁO HỘI PHẬT GIÁO
1. GIÁO HỘI KITÔ GIÁO:
Giáo hội La Mã là một tổ chức hoàn thiện nhất thế giới, đã trải qua 16 thế
kỷ dầy dạng kinh nghiệm (bốn thế kỷ trước chưa có một GH đúng nghĩa như hiện
tại) vì mục đích:
- Củng cố, quản lý chặt chẽ tín đồ.
- Thống trị tinh thần tín hữu một cách tuyệt đối bằng sự tin kính, vâng
phục qua phép Thông Công.
- Giáo Hoàng là người có quyền tuyệt đối quyết định thưởng phạt, vì là
người duy nhất đại diện Thượng đế tại trần gian.
- Giáo hội đắc thủ nguồn lợi tức từ kinh tài trên thế giới và các Giáo phận
ở mỗi quốc gia có bổn phận đóng góp kinh tế cho Tòa thánh.
- Ngoài chức năng tôn giáo, GH còn là một quốc gia trong mọi quốc gia,
nghĩa là quốc gia không biên giới, tuy lãnh thổ chỉ 44km2 tại Ý, nhưng GH có
mặt hầu hết các quốc gia trên thế giới có tín đồ.
- Giáo hội có những quyết định liên hệ vận mạng chính trị thế giới, vì GH
liên hệ hữu cơ với các cường quốc gia qua quyền lợi kinh tế, cấu kết với
chiến tranh và hủy diệt.
- Pha trộn đức tin tôn giáo và quyền lực thế gian, vừa là một GH, vừa là
một quốc gia có Đại sứ, Khâm sứ tại những nước đã bang giao để củng cố quyền
lực và quyền lợi.
- Mưu đồ thống trị thế giới dưới trần để vinh danh hượng đế trên trời, do
vậy phạm phải nợ máu nhân loại suốt gần 20 thế kỷ.
- Cán bộ GH qua trường lớp chuyên ngành, có trình độ hiểu biết nhất định.
- Giáo hội chủ động về kinh tế, tài chánh và quyền lực.
2. GIÁO HỘI PHẬT GIÁO:
Giáo hội PG trên cơ bản hành chánh là hệ thống điều hành một tập thể trên
nhiều lĩnh vực, có nề nếp, thứ tự, nhưng:
- Không có một giáo quyền tuyệt đối, bởi tính bình đẳng theo tinh thần PG,
tự giác, tự ngộ, không ai toàn quyền với một cá nhân khác, kể cả Đức Phật.
- Tăng tín đồ không quen bị khép vào một kỷ luật tổ chức ngoài kỷ luật tâm
linh tự thân.
- Tăng Thống, Pháp Chủ là ngôi vị tượng trưng trong GH chứ không có quyền
tuyệt đối đại diện cho Trời, Phật.
- Phật giáo không quen làm kinh tế và không thủ đắc kinh tế. Của cải theo
tinh thần tri túc, thiểu dục, mọi sinh hoạt tùy thuộc vào sự hỷ cúng(đây là
thế yếu của một tổ chức).
- Phật giáo tách rời thế quyền, xa lìa danh vị thế gian, do vậy không thể
nhập nhằng GH và thế quyền. Phật giáo bị hoen ố khi tham gia Tuyên Uy quân
đội thời Mỹ và thành viên Mặt Trận hiện nay.
- Tự thân PG không là chính trị, nên tham gia chính trị, hành động chính trị
hay thái độ chính trị thường va vấp lắm sai lầm.
- Cán bộ GH không qua trường lớp đào tạo chuyên ngành. Thậm chí ngành chuyên
môn như Hoằng pháp, lối đào tạo Giảng sư cũng chỉ là hình thức không đạt
chất lượng và đúng quy cách. Những ngành khác thuộc hành chánh càng không
thể chuyên môn.
- Tu sĩ PG là hành giả chứ không thể là một hoạt giả trong xã hội.
- Đức Phật xa lìa quyền lực, vương vị làm nên kỳ tích “Thiên Nhân Chi Đạo
Sư”, PG không thể trở lại nhập nhằng thế quyền và tôn giáo. Vì PG không
thống trị bất cứ ai, kể cả tín đồ.
- Tự thân PG là giải thoát, cô đọng PG vào hệ thống tổ chức GH là phương
tiện để chính trị lợi dụng.
Do những sai lầm đó mà GH cũng như tu sĩ thiên hướng xã hội không thích hợp
tư chất của PG. Nửa thầy, nửa thợ vừa hoen ố PG, vừa nạn tai cho đất nước.
Mảnh đất thích hợp cho loại hoa tâm linh là nội quán. Cách mạng tự thân, tuệ
giác đó mới đóng góp hiệu quả cho dân tộc. Gần 50 năm, PGVN đã lệch hướng từ
mục đích và hậu quả là:
- Lực lượng tu sĩ tha hóa.
- Suối nguồn tâm linh èo uột.
- Xa lìa quần chúng, đánh mất uy tín, hao mòn tài năng. Phật giáo từng đồng
hành với dân tộc, trở thành khách trọ của thế kỷ.
Có người sẽ bảo: “Mỗi thời đại có một hình thức sinh hoạt. Ngày xưa trình độ
dân trí và mức sinh hoạt không cần một GH hoàn hảo, ngày nay PG không thể
sinh hoạt theo thời nguyên thủy”.
Xin thưa: Có những cái cần cập nhật thời đại, nhưng với “Tuệ giác” đạo Phật
không tùy thuộc thời đại mà chỉ tùy thuộc trình độ tâm linh. Đạo Phật là đạo
giác ngộ, đòi hỏi tuệ giác mà không cần một mô hình GH như Vatican hay thế
quyền. Sự đóng góp của PG cho nhân loại ở tâm linh chứ không ở tổ chức.
D/ KẾT LUẬN:
Ngày nay, sau 30 năm cầm quyền, Nhà nước VN hiểu rõ bản chất của từng tôn
giáo hiện diện trong đất nước, biết tinh yếu và nền tảng quan trọng của PG
từng tẩm tưới cho quê hương. Tuy hiểu chưa thấu đáo về PG nhưng biết PG là
cầu nối giữa cội nguồn và hiện thực. Phật giáo là nền tảng đạo đức xã hội và
đạo đức tâm linh. Biết trọng dụng PG thì PG sẽ là dưỡng tố nuôi sống tinh
thần dân tộc. Nếu sử dụng PG như một công cụ, chẳng những PG sẽ đánh mất giá
trị tự thân mà còn trở thành gánh nặng cho đất nước. Phải biết cách trợ lực
để PG phát triển chứ không điều hành PG phát triển theo ý muốn. Dù có thiện
ý nhưng không có phương cách và nắm rõ tư chất của PG, sự giúp đỡ đó nhanh
chóng làm băng hoại PG. Trước mắt, cái hại của tổ chức GHPG hiện nay là sử
dụng nhân sự không qua tài năng và đạo đức mà thông qua lý lịch và công
trạng.
Một hành giả PG trang bị quá nhiều kiến thức, sẽ trở ngại cho tâm thức quy
chứng. Một tập thể PG trang bị hệ thống GH cồng kềnh sẽ là hiểm họa cho tự
thân và vô bổ cho xã hội, vì tinh thần PG thoáng đãng, siêu thoát chứ không
thể ràng buộc. Nếu không, hậu quả như ta thấy hiện nay đối với PGVN.
Thay cho lời kết
ĐỀ NGHỊ
-Phật giáo là một bộ phận tín ngưỡng của khối đại đa số qưần chúng VN, trong
tổ chức GH hay ngòai tổ chức GH, số lượng quần chúng mang màu sắc Tam giáo
được gọi chung là tín ngưỡng dân tộc, được sự bảo vệ của luật pháp, màu sắc
tín ngưỡng nhân gian đã thể hiện đa dạng, mang âm hưởng PG chính thống cũng
có, và pha tạp đức tin đa thần cũng không thiếu, đều nói lên nhu cầu tâm
linh của con người, không riêng VN, ngay các nước tiên tiến cũng không thóat
khỏi những bức xúc tâm linh, xem như điểm tựa tinh thần; Khi mà vật chất
phồn thịnh, cũng khó thỏa mãn niềm hạnh phúc do tham cầu thúc bách.
Một khi xác định tính nhu yếu của tôn giáo và tín ngưỡng, chúng ta phân định
thế nào là chánh tín và thế nào là mê tín. Tôi xin dẫn chứng một quan niệm
chưa đúng của ông Phạm Quang Nghị, Bộ Trưởng TT-VH nói: Tín ngưỡng là có thể
tin vào một điều tốt lành nào đó, hoặc tin vào giá trị về mặt văn hóa lịch
sử nào đó, của các nhân vật có liên quan đến lễ hội. Nhưng mê tín dẫn đến
chỗ anh xử lý không trên cơ sở đạo đức và khoa học. Cho nên phải khắc phục
mê tín.
Ở đây chúng ta không tranh luận, nhưng quan niệm tín ngưỡng như thế không ổn
và chưa đủ nghĩa; Mà tín ngưỡng phải là: loại tín ngưỡng giúp cho hành giả
đạt một trí tuệ, tình thương và ý thức trách nhiệm, không làm hại đồng bào,
không làm trì trệ tâm linh và kiến thức trong xã hội, và không tha hóa bản
thân. Hiệu quả của nó có thể thể nghiệm được.
Hiện nay trong xã hội chúng ta có quá nhiều dạng tín ngưỡng, tín ngưỡng dân
gian và tín ngưỡng tôn giáo; Riêng PG chính tông, tín ngưỡng đó không thể là
mê tín, ngọai trừ một số cơ sở PG pha tạp thần giáo và tín ngưỡng dân gian
như xin xăm bói tóan, thần tài thổ địa, đồng bóng...Để chỉnh đốn nền văn hóa
tín ngưỡng, Bộ Văn Hóa Thông Tin nên có bộ phận chuyên môn điều nghiên, phân
lọai, cái nào nên phát huy làm nền tảng văn hóa dân tộc, cái nào thuộc lọai
thần giáo, khoanh vùng, hạn chế phát triển để người dân khỏi lún sâu vào mê
tín, đưa đến nhiều tệ nạn buôn thần bán thánh, cờ bạc...
Chúng tôi có những vấn đề cần nêu, nhưng chính là Cơ Sở Vật Chất, Cơ Cấu Tổ
Chức, Quyền Hạn PG trong xã hội hiện nay, và Giáo Dục Đức Tin Quần Chúng mà
nhà nước ra sức thăng tiến đồng bộ:
1/ Cơ sở Vật Chất
Một số địa phương lợi dụng lể hội để móc túi khách đi lể một cách vô lý.
Những nơi nhà nước trùng tu, hoặc thiết lập các phương tiện vận chuyển, có
quyền bán vé để thu hồi sở phí hoặc tu bổ cơ sở vật chất, nhưng một số chùa
có danh tiếng, nhà nước không phải đầu tư, chùa tự túc tu bổ, vẫn bị thu phí
khi vào cổng, và thật vô lý khi chính tăng sĩ vào chùa cũng phải mua vé,
điển hình tại chùa núi Trà Cú ,Bình Thuận.
Một số thuộc di tích lịch sử của PG, đáng ra nhà nước giao trọn quyền cho
GHPG quản lý, phải có tu sĩ trụ trì, cai quản, chăm sóc, nhà nước có nhiệm
vụ giám sát và đôn đốc nhân sự bảo tồn di tích đó, ngược lại, bộ phận Văn
hóa Thông Tin lẫn PG không ai quan tâm đúng mức để xuống cấp một cách đáng
lo ngại, chẳng hạn chùa Một Cột, Hà Nội...Một số nơi mang tính lịch sử nhưng
chưa liệt kê vào lọai di tích, bị các hộ dân lấn chiếm mặt bằng, đánh trộm
bảo vật pháp khí tam bảo như tượng cổ, chuông trống, lư hương chân đèn...
Một số cơ sở PG nổi tiếng, tuy không thuộc di tích cổ, nhưng là lọai lịch sử
đề danh như chùa Từ Đàm,Thuyền Tôn... khi xin phép trùng tu, bộ phận VHTT
nên đề nghi bảo lưu cơ sở lịch sử như từng bảo lưu thành phố cổ Hội An.
Không thể bảo đó là trách nhiệm của người điều hành cơ sở PG hay của GHPG mà
bộ VHTT không có trách nhiệm
VHTT tổ chức lể hội liên quan đến PG, nên hợp tác PG cấp tương đương để
thích nghi với nghi lể đạo Phật và hạn chế mê tín, lạm dụng thương mãi dưới
nhiều dạng thức, ví dụ lể hội chùa Hương hàng năm; Tết cổ truyền, địa phương
nên hổ trợ các chùa danh tiếng giữ an ninh trậ tư vòng ngòai tránh ách tắt
giao thông và các con buôn quấy nhiểu khách đi lể.
2/ Cơ Cấu Tổ Chức và Quyền Hạn PG trong xã hội hiện nay:
Riêng PG, cơ cấu tổ chức do Ban Tôn Giáo và Mặt Trận điều phối, cố vấn và
chỉ định. Tuy nhân sự vẫn là nhân sự của GH cũ, nhưng quy định, hiến chương
đều do nhà nước sọan thảo. Bằng chứng, giáo kỳ và giáo ca biểu hiện của bất
cứ tổ chức tôn giáo nào cũng phải có, thế mà PG, các ngài lảnh đạo trung
ương không hề dám đề nghị xử dụng lá cờ ngũ sắc, một biểu tượng PG quốc tế
mà PGVN xử dụng trên 50 năm qua, và bản giáo ca, biểu hiện trọn vẹn nhất cho
một tổ chức PG thống nhất từ Nam chí Bắc mà trước 1975 chưa hội đủ yếu tố
tòan vẹn, vẫn xử dụng. Còn rất nhiều bất cập trong cơ cấu tổ chức lẫn danh
xưng khôing thích nghi với đạo ngữ nhà Phật, như Chủ tịch Hội Đồng Trị
Sự...Chủ Tịch Ban Trị Sự...thuần túy như một cơ cấu chính quyền thế tục!
Chưa nói đến một số công tác mà cán bộ PG thừa hành chỉ thị từ nhà nước như
một cán bộ chính quyền.
Do vậy, PG ì ạch như cổ máy bệnh họan, do không tự chủ , đủ thẩm quyền như
tôn giáo bạn. Quyết định tổ chức lể cũng phải có sự chấp thuận từ nhà nước,
ví dụ, lể Phật Đản, nhà nước ra lịnh làm xe hoa, tổ chức tự do, cho treo cờ,
GH mới dám công bố cho các cấp cơ sở. GH không dám đạo đạt bất cứ nguyện
vọng nào, dù hợp lý, lên cấp thẩm quyền, chẳng hạn chùa Hiển Quang bị đốt,
GH không có quyền lên tiếng yêu cầu nhà nước can thiệp hay gửi văn bản thăm
viếng nếu nhà nước chưa cho phép.
Do tính thụ động của PG trong thời bao cấp, vẫn còn di chứng đến nay, mặc dù
nhà nước có thông thóang, và trên nguyên tắc, không can thiệp vào nội bộ tôn
giáo, thế nhưng từ Trung ương đến địa phương, tu sĩ PG luôn chờ lệnh và đợi
chỉ thị.
Quốc tế nghĩ gì khi đại hội PG tại Thủ Đô, luôn được nhà nước bao thầu từ
cơ sở vật chất, địa điểm tổ chức, phương tiện đi lại cho các chức sắc và phí
tổn suốt thồi gian Đại hội, đành rằng các cấp GH cũng phải đóng góp.
Một số cao tăng trong GH cũ trước 1975 đã viên tịch, GH cũng không được
phép tổ chức giổ chạp, dù bản thân vị đó không thích ứng với nhà nước, nhưng
đạo đức dân tộc không ai nở ghìm kẻ quá cố, huống thay, các ngài không hề
phạm pháp, có chăng không đồng quan điểm chính trị
Một số nhân sự trong GH, được đề bạt bởi nhà nước, ỷ lại thế lực, tạo vây
cánh, gánh nhiều chức vụ mà không hòan thành nhiệm vụ, do đó, Phật sự dậm
chân, mỗi kỳ đại hội luôn báo cáo thành quả rực rỡ. Ta hiểu tại sao qua 30
năm, PG hầu như chưa có một thành tích xuất sắc đối với nội bộ, có chăng
thành tích hòan thành chỉ tiêu do nhà nước yêu cầu như xây nhà tình nghĩa,
đóng góp an sinh xã hội, hưổng ứng những ngày lể lớn...
Chư tôn đức cao niên vẫn lưu nhiệm đến mãn đời, trong khi những nhân tài PG
cả tu sĩ lẫn cư sĩ không có đất dụng võ. Tinh thần điều hành cơ cấu GH mang
tính phong kiến quan liêu không ai đủ thẩm quyền khắc phục, trong khi nhà
nước cố gắng thanh lọc nội bộ đảng và chính qưyền đê kịp thời đổi mới, PG cứ
phải nằm im duy trì quyền hành tại vị. Năm thứ tư sau ky đại hội vừa rồi vẫn
chưa có dấu hiệu tiến triển đàng kể.
PG chưa được phép thành lập bệnh viện riêng để phục vụ bệnh nhân nghèo và
chữa trị cho tu sĩ, còn gặp lắm khó khăn trong việc xây dựng chùa chiền, tự
viện.
3/ Giáo dục đức tin quần chúng:
Quần chúng chưa phân biệt thế nào là chánh tín và mê tín, một số tu sĩ PG
cũng lập lờ trong vấn đề sinh họat tín ngưỡng do thiếu trình độ giáo lý hoặc
vì lợi dưỡng cá nhân. Cần có sự kết hợp giữa bộ phận Văn Hóa TT và Phật giáo
trong việc giáo dục quần chúng. Cán bộ nhà nước cũng cần hiểu thấu đáo về
Tôn giáo khi làm công tác chính trị hoặc VHTT.
Một quốc gia thịnh vượng và khoa học không thể có tầng lớp nhân dân nặng mùi
mê tín. Cán bộ nhà nước chưa phân biệt rõ thế nào là mê tín và chánh tín,
tôn giáo nhân bản và tôn giáo phi nhân bản, vì thế đê nhiều hình thức tín
ngưỡng lan tràn có hại cho trình độ tiến hóa của dân tộc, cũng như có hại
cho an ninh xã hội.
Phật giáo, dĩ nhiên, qua 5 giới tại gia, có thể ổn định xã hội, triết luận
có thể nâng cao trí thức nhân lọai, thiền học và pháp hành có thể khai mở
tâm thức và minh triết cho mọi hành động khi ý thức luật nhân quả, tự chế
trong mọi hành động. Tóm lại, cả xã hội lẫn tâm linh, PG có thể đáp ứng tòan
vẹn, nếu được giáo dục và huân tập đúng nghĩa.
Ngòai ra, cả PG và VHTT cần giáo dục quần chúng tinh thần yêu nước và bảo vệ
văn hóa tổ tiên từ trường mầm non đến bậc đại học, giáo dục công dân phải
song hành lể giáo và yêu nước, trung thực và can đảm!
Được giáo dục tốt, xã hội sẽ không bị văn hóa lai căn xâm thực, nhân dân
không bị mua chuộc trước bả lợi danh, cán bộ nhà nước không nhập nhằng giữa
văn hóa và thương mãi.
Tóm lại, để tránh những bất tòan vừa nêu, để PG thực thi sứ mạng tâm linh và
giáo dục xã hội, để PG can đảm cởi bỏ tổ kén tự tạo, nhà nước nếu chưa đủ
can đảm tách rời PG ra khỏi Mặt Trận, hãy khích lệ các chức sắc PG tích cực
sinh họat, không chi phối PG dưới bất cứ hình thức nào, không đề bạt nhân sự
vào GH theo lý lịch và nhiệm vụ giao phó ; không lạm dụng PG trong mục đích
kinh doanh, khuyến khích GH lọai trừ những kẻ ỷ lại, tham ô, bất tài. Không
dùng PG như vật trang trí chế độ, hãy để nó tự phát trong khuôn khổ luật
pháp, tự khắc trăm hoa đua nở; Có như thế, PG cùng dân tộc tiến vào kỷ
nguyên phát triển như sự phát triển nhà nước nhắm tới sự hòa nhập với khu
vực và quốc tế!
Riêng nội tình PG, chư tôn đức cố phục hưng lại tu viện, Già Lam chuyên tu
và kỷ cương gíới luật; trở lại cách giáo dục Thiền Môn từ thập niên 1930 trở
về trước
Các trụ trì và thầy tổ giáo huấn đệ tử, tăng chúng nghiêm minh; Sa thải
những tu sĩ không có lý tưởng chân chánh. Thâu nhận đệ tử phải có lý lịch rõ
ràng, có thời gian tập sự tối thiểu 3 năm, kinh luật nhuần nhuyển trước khi
xuống tóc và thọ giới
Mỗi quận huyện phải có lớp giảng hàng tuần nhắm vào giới bình dân, thường
duy trì và phát triển các khoá tu Bát quan Trai, Thiền Thất, Phật Thất ngắn
ngày cho tín đồ thấm sâu đạo đức. Mở rộng mạng lưới thư viện, phòng đọc
sách, phòng nghiên cứu Phật học cho giới sinh viên và trí thức.
Về mặt xã hội, ngoài những đóng góp theo sự kêu gọi, PG phải có một hay
nhiều đoàn thể hòa nhập xã hội, giúp dỡ những vùng sâu, vùng xa và vùng cao
để nâng cao kiến thức vệ sinh và kiến thức phổ thông mà cuộc sống văn minh
chưa được tiếp cận.
Ngoài các đơn vị Gia Đình Phật Tử, cần có các đoàn thể khác của các ngành
nghề để giúp họ hiểu đạo và sống theo tinh thần yêu nước, tôn trọng sự sống
và sự thật trong xã hội.
4/ Nhân sự:
Không xét theo lý lịch, không bổ cử theo phe phái, tông môn, không có óc địa
phương. Tu sĩ cũng như cư sĩ điều hành, phải có tâm, có đạo đức, có tác
phong, có kiến thức phổ thông và Phật Pháp, năng nổ và hy sinh; không quỳ
lụy trước quyền lực và lợi lộc…
Điều tối quan trọng, nếu có thể, PG làm một cuộc đột phá về tổ chức Giáo
Hội:
Tu sĩ chỉ là cố vấn trong mọi ban ngành, và chuyên sâu tu tập, người điều
hành là những cư sĩ có trình độ, có năng lực, hiểu đạo; Ngoài nhiệm vụ hộ
trì Tam Bảo, cư sĩ còn có bổn phận làm cho chánh pháp phát triển. Ngày nay,
hầu hết các tổ chức PG trên thế giới, cư sĩ điều hành phần lớn nhiệm vu và
kết quả do tính năng nỗ không thể phủ nhận.
PGVN phải can đảm đổi mới và đổi mới toàn diện
MINH MẪN
Chỉnh Lý Tăng Chế Và Đào Tạo Tăng Tài
A. Thành lập hội đồng luật sư gồm những bậc Tăng già tinh thông giới luật để
giám sát giới hạnh tăng chúng. Ngoài những ban trung ương còn có những ban
địa phương đặt tại các tỉnh, những ban này gồm có 5 vị gọi là luật sư. Mỗi
tỉnh được chia ra nhiều địa phận, mỗi địa phận có 1 vị luật sư giám sát. Khi
có báo cáo về sự vi phạm giới luật của một vị tăng thì vị luật sư phải thân
hành đến tận nơi để tra cứu, và cuối mỗi năm trình lại hội đồng luật sư để
tài phán.
B. Tổ chức những ban thầy cúng gồm những người biết tán tụng, cầu an, cầu
siêu và hướng dẫn tang lễ. Những “thầy cúng” này chỉ được mang áo màu xám 5
thân, không được mặc áo tràng, áo nhật bình, y màu nâu hoặc y màu vàng. Họ ở
nhà riêng, chùa riêng để hành nghề cúng đám chứ không được ở Thiền viện, Tổ
đình, nơi dành riêng cho Tăng sĩ thực thụ mà giới pháp là 10 giới sa di và
250 giới tỳ kheo.
Muốn làm “thầy cúng” thì tối thiểu cũng thọ một hoặc hai giới. (53)
Ngoài ra, cư sĩ cũng tham gia vào việc chỉnh lý Tăng sĩ bằng cách:
1/ Không nên nhận người phá giới là Tăng sĩ.
2/ Phá bỏ những điệp quy y do những ông thầy nói trên cấp cho.
3/ Công bố sự phạm giới có bằng cớ của Tăng sĩ.
4/ Bảo hộ và cúng dường các vị tinh nghiêm giới luật.
5/ Không tham dự vào những công việc không phù hợp với Phật Pháp.
6/ Tham dự vào công việc hoằng dương chánh pháp và chỉnh đốn Tăng già. (54).
Sau này, tại sơn môn các tỉnh, lúc nào cũng có một vị kiểm tăng để giám sát
về giới luật của tăng chúng địa phương.
(Trích: VIỆT NAM PHẬT GIÁO SỬ LUẬN)
Các bài Tôn Giáo cùng tác giả
|