|
08 tháng 11, 2009
|
Bài các bạn đang đọc được viết với hai mục đích
có liên quan mật thiết với nhau.
▪ Thứ nhất, để góp ý với
Trần Ngọc Cư,
Hòa Nguyễn và
Trần Văn Tích về bài
Suy Tôn Ngô Tổng Thống. Thời Đệ Nhất Cộng hòa, trong buổi lễ
chào cờ, bài ca này phải được hát kèm với Tiếng gọi Công dân,
Quốc ca chính thức do Lưu Hữu Phước et al sáng tác. Nó có đoạn
như sau:
Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm
Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Xin thượng đế ban phước lành cho người
▪ Thứ hai, để trả lời một
câu hỏi quan trọng mà Dũng Vũ đã đặt ra cho tôi trên diễn đàn
talawas. Câu hỏi này có liên quan đến nhận định của sử gia Tạ Chí Đại
Trường về khối người từng làm nòng cốt cho chế độ Ngô Đình Diệm.
Tôi sẽ đi sâu vào bài
quốc ca “kép” nói trên, sau khi giải quyết xong thắc mắc do Dũng Vũ
nêu lên về nhận định của nhà viết sử họ Tạ.
Theo Tạ Chí Đại Trường, người từng sống dưới chế độ
Ngô Đình Diệm, đồng bào Công giáo từ Bắc di cư vào Nam thời đó là một
khối kiêu dân. Sau đây là toàn bộ văn cảnh của nhận định nói trên nơi
trang 457 trong cuốn Sử
Việt, đọc vài quyển, được Văn Mới xuất bản tại
California năm 2004. Khi bàn về mối hiểm họa của Cộng sản miền Bắc đối
với Miền Nam, Tạ Chí Đại Trường tự hỏi:
“Làm cách nào mà một chính quyền Sài Gòn lộn xộn
với giáo phái sứ quân, với giang hồ đạo tặc, với Công giáo di cư
ít nhiều gì cũng là kiêu dân, với cả người Pháp còn tham vọng
giữ phần đất thuộc địa cuối cùng… có thể đương cự với cả một nền tảng đe
doạ trùng trùng như thế? Lịch sử ổn định bước đầu của chính quyền đó là
một phối hợp tuyệt vọng của những người Việt chống cộng (một tập-hợp-từ
tiêu cực đúng với thực chất hổ-lốn của nó) chỉ còn một mảnh đất nương
thân, và của người Mĩ đứng nhìn trong bình diện chiến lược quốc tế thấy
mình phải chen chân vào.”
Vì họ Tạ là một sử gia có uy tín, nên sau khi đọc
câu văn mười hai chữ được nhấn mạnh ở trên vào khoảng cuối năm 2004, tôi
lập tức tìm cách kiểm chứng nó và tôi đã tìm được sự xác nhận đầu tiên
trong hai bài nghiên cứu của Nguyễn Thế Anh, “L’engagement
politique du Bouddhisme au Sud-Viêt-Nam dans les années 1960” trong Alain
Forest et al (dir.), Bouddhismes et Sociétés Asiatiques: Clergés,
Sociétés et Pouvoirs, L’Harmattan, Paris, 1990, tr. 111-124, và
“Le Sangha bouddhiste et la société vietnamienne d’aujourd’hui”, được
đăng trên trang VIET NAM Infos.
Giáo sư Nguyễn Thế Anh là một học giả có tầm vóc
quốc tế, được
đồng nghiệp Á Âu Mỹ công nhận là một trong những người có thẩm quyền
nhất về lịch sử Việt Nam thời cận đại. Thế nhưng, tôi cũng ý thức được
rằng tôi không thể chỉ dựa vào uy tín của ông để lượng định mức khả tín
của câu văn mười hai chữ nói trên. Hai bài nghiên cứu của vị cựu viện
trưởng viện đại học Huế và nguyên
Trưởng ban sử học Đại học Văn khoa Sài Gòn này chỉ là những sử liệu
hạng hai. Muốn kiểm chứng một cách thấu đáo nhận định của Tạ Chí Đại
Trường về “kiêu dân Công giáo” thời Ngô Đình Diệm, tôi phải cố gắng tìm
cho ra sử liệu hạng nhất về vấn đề này. Hai loại sử liệu mà tôi phân
chia ra thành hạng nhất và hạng hai được
Nguyễn Kỳ Phong, tác giả cuốn Vũng lầy của Bạch Ốc: Người Mỹ Và
chiến tranh Việt nam 1945- 1975,
định nghĩa một cách tương tự như sau:
“Sử liệu có hai loại: primary và secondary
documents (tài liệu chánh và tài liệu phụ). Hồi ký, văn kiện chính thức,
lời phỏng vấn từ nhân chứng, được xếp vào loại tài liệu chánh. Trích
dẫn, nghe nói lại, hay sách biên khảo của người thứ ba, là tài liệu phụ.
Hai loại tài liệu đó đều được công nhận khi dùng làm sử liệu viết sách.”
Vốn là mọt sách tu lâu năm trong Tàng Kinh Các ở
Tây Phương, nên qua phần ghi chú trong hai quyển sách viết về chiến
tranh Việt Nam, tôi đã tìm thấy hai tài liệu được hình thành trước ngày
8 tháng 5 năm 1963. Chính vì được viết ra trước khi biến cố Phật giáo
1963 bùng nổ, nên nội dung của hai tài liệu này không bị chi phối bởi
cuộc tranh chấp giữa phong trào Phật giáo và chế độ Ngô Đình Diệm. Do
đó, chúng có một mức độ khả tín rất cao. Hai tài liệu nói trên gồm
1)
“The Buddhist Movement in Vietnam and its Difficulties with the Present
Government”, một tài liệu do các nhà biên khảo Hoa Kỳ hoàn tất vào
tháng Tư năm 1961 và hiện đang được lưu trữ tại Văn khố Chiến tranh Việt
Nam ở Lubbock bên Texas, và 2)
“L’Église au Sud-Vietnam”, một phóng sự được đăng trên tạp chí Informations Catholiques
Internationales vào ngày 15 Mars
1963, từ trang 17 đến trang 26.
Như vậy, câu văn mười hai chữ của Tạ Chí Đại
Trường chẳng những được một chuyên gia hàng đầu trong ngành sử Việt xác
nhận (confirmed), mà còn được tăng bổ (corroborated)
bởi hai tài liệu chánh (sử liệu hạng nhất) mà chúng ta có quyền cho là
rất khả tín. Nhờ vậy nên tôi đã có đầy đủ căn cứ để chấp nhận rằng nhận
định ngắn gọn mà Tạ sử gia đã đưa ra về khối kiêu dân Công giáo thời Ngô
Đình Diệm cầm quyền tại miền Nam Việt Nam là một nhận định rất khả tín,
có thể giúp chúng ta hiểu được tại sao Ngô triều đã đánh mất sự ủng hộ
của người Lương và cuối cùng bị lật đổ.
Sau khi công bố những điều vừa mới được viết
bên trên trong
mục phản hồi ở diễn đàn talawas, tôi hân hạnh nhận được sự lưu tâm
và câu hỏi dưới đây của độc giả Dũng Vũ:
‘Thưa ông Trần Lâm,
Ông viết: “Tôi hoàn toàn không vô tình khi dùng 2
chữ “kiêu dân”, vì những sử liệu do tôi đưa lên mạng cho phép tôi suy
luận rằng khái niệm “kiêu dân Công giáo” là một khái niệm có thể giúp
chúng ta hiểu được tại sao chế độ Diệm đã đánh mất sự ủng hộ của người
Lương tại miền Nam Việt Nam, đưa đến sự sụp đổ của chế độ này… Tôi nói
chuyện có bằng chứng hẳn hoi, thì tại sao tôi phải sợ ai?”
Xin phép được hỏi ông: “Kiêu dân” có nghĩa là gì?
Cảm ơn ông…’
Đây là một câu hỏi rất chính đáng, cần được một sự
hồi đáp tường tận. Nếu chúng ta trả lời được câu hỏi này một cách thỏa
đáng thì có lẽ chúng ta sẽ có thể tìm được nguyên nhân sâu xa đưa đến sự
sụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm. Như đã nói qua ở trên, chế độ này còn
được gọi là Ngô triều hay Ngô trào.
Ngô Trào
Trải qua một cuộc bể dâu
Trông vời cố quận biết đâu là nhà
Khéo oan gia, của phá gia
Này là em ruột, này là em dâu!
Cửa nhà dù tính về sau
Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!
(Lãng
Nhân Phùng Tất Đắc, Chơi Chữ)
Tôi không rành chuyện văn chương, nên chỉ dám đoán
mò rằng câu Cửa nhà dù tính về sau trong bài thơ nói trên ám
chỉ việc Ngô Đình Cẩn đã cho xây một ngôi biệt thự rất nguy nga tráng lệ
ở ngoài Huế. Tôi còn nhớ cách đây khoảng 20 năm tôi có đọc trong Nhật Ký Đỗ Thọ rằng người ta đã phải đập đồ bát vỡ ra từng mảnh để
lát nền (cho một phần) trong ngôi biệt thự này. Trong những dòng chữ
dưới đây, tôi sẽ không đập vỡ bất cứ vật gì, mà chỉ cố gắng đi lượm lặt
những mảnh sử liệu vụn vặt, rồi sắp xếp chúng lại thành một bức khảm
mosaic, để Dũng Vũ nói riêng và bạn đọc bốn phương nói chung ít nhiều gì
cũng thấy được bộ mặt của kiêu dân Công giáo thời Ngô Đình Diệm.
Kiêu dân, ngươi là ai?
Thời dòng họ Ngô Đình “dĩ đức vi chính” tại miền
Nam Việt Nam, kiêu dân thường là những tín đồ Công giáo (di cư) dựa vào
sự dung túng của kẻ có thế, có quyền để hống hách ngang ngược, xem
thường luật pháp, vi phạm một cách trắng trợn nhân và dân quyền của
người khác, thường là những Lương dân vô tội.
Sau đây là vài ví dụ điển hình.
1. Trong suốt ba năm liền, kiêu
dân đã hằng đêm ném gạch, đá vào nhà thân nhân vô tội của một chính trị
phạm, mà (hình như) không hề bị cơ quan công lực trừng phạt. Xem chứng
từ của Phan Lạc Giang Đông, một cựu sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa
và cũng là bào đệ của Phạm Lạc Tuyên, một viên sĩ quan tham gia vào cuộc
đảo chính hụt ngày 11 tháng 11 năm 1960:
“Gia đình tôi kể từ ngày này hoàn toàn không còn
được yên nữa. Khu xứ đạo Thái Hòa (xứ đạo của đồng bào Bắc di cư vào
Nam), mọi người ở lối xóm dã có thái độ khác trước. Mỗi tối, khoảng từ
bảy, tám giờ thì một số người, không biết từ nhà nào đã ném gạch, đá lên
mái nhà (bằng tole) của gia đình, ông cụ thân sinh tôi rất buồn và gặp
thẳng Linh mục xứ đạo để nói việc này, song không giải quyết được. Việc
họ ném như thế kéo dài cho đến khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ mới chấm
dứt.”[1]
Xin thêm: Xứ đạo Thái Hòa, theo lời của Phan Lạc
Giang Đông, nằm ở Ngã Ba Ông Tạ. Là một người sinh ra và sống những năm
đầu đời tại một thị xã hẻo lánh ngoài Vùng II Chiến Thuật trước khi theo
cha mẹ vượt biên tỵ nạn Cộng sản, tôi thật tình không biết cái ngã ba
này nằm ở đâu. Nhưng vì chúng ta đang bàn về câu văn mười hai chữ của vị
sử gia họ Tạ, nên xin ghi luôn chi tiết vui vui bên lề này vào bài.
2. Tại tỉnh Quảng Ngãi, một vị
linh mục đã thông đồng với viên tỉnh trưởng trong mưu toan cướp đất của
một ngôi chùa tại một làng trong tỉnh này để xây tượng đài cho Đức Mẹ,
đưa đến sự xung đột giữa Phật tử ở ngôi làng nói trên và chính quyền địa
phương. Xem
trang 4 trong tài liệu “The Buddhist Movement in Vietnam and its
Difficulties with the Present Government” đã được đề cập đến ở phần
đầu của bài. Xin nhắc lại, vì tài liệu này được hình thành trước khi
cuộc xung đột giữa Phật giáo và chế độ Diệm bùng nổ, nên nội dung của nó
rất đáng tin.
3. Dưới thời Ngô Đình Diệm, tín đồ
Công giáo thường được quân đội và cơ quan Thông tin tiếp tay để tổ chức
trên đường phố Sài Gòn hay Huế những cuộc rước lễ [?] linh đình, gây ra
sự tắc nghẽn giao thông trầm trọng, khiến cho người Lương phải gặp nhiều
phiên phức trong việc đi lại. Việc này đã khiến cho Giáo sư Nguyễn Văn
Trung lúc đó phải thốt lên rằng những người tổ chức các cuộc rước lễ
[?] nói trên nghĩ
đường phố là của riêng của Giáo hội Công giáo hay sao.[2]
Tuy nhiên, có người vẫn chưa hài lòng. Khi Phật tử tiến hành nghi lễ tại
chùa thì sinh hoạt tôn giáo của họ, theo chứng từ của một tín đồ Công
giáo Việt Nam,
lại bị các công xa của sở Thông tin có mang loa phóng thanh đậu ở gần
chùa phá rối.[3]
Chứng từ nói trên được đăng trong tạp chí Informations Catholiques Internationales,
phát hành vào tháng
Ba năm 1963, cho nên nội dung của nó không thể bị ảnh hưởng bởi biến
cố Phật giáo xảy ra sau đó. Vì vậy chứng từ này cũng là một sử liệu rất
đáng tin.
4. Kiêu dân gây áp lực không cho
sách của Nguyễn Hiến Lê được dùng tại các trường ngoài miền Trung, tuy
sách này đã được Bộ Thông tin cho phép phát hành. Sau đây là lời tường
thuật của chính vị cố học giả họ Nguyễn:
“Đầu niên khóa 1954-1955, trong chương trình Trung
học đệ nhất cấp có thêm môn Lịch sử thế giới dạy trong bốn năm. Ông
Thiên Giang lúc đó dạy sử các lớp đệ lục, đệ ngũ. Tôi bàn với ông soạn
chung bộ sử thế giới càng sớm càng tốt cho học sinh có sách học, khỏi
phải chép “cua” (cours). Ông đồng ý. Chúng tôi phân công: tôi viết cuốn
đầu và cuốn cuối cho lớp đệ thất và đệ tứ, ông viết hai cuốn giữa cho đệ
lục và đệ ngũ. Chúng tôi bỏ hết công việc khác, viết trong 6 tháng xong;
tôi bỏ vốn ra in, năm 1955 in xong trước kì tựu trường tháng chín. (…)
Sau một linh mục ở Trung yêu cầu bộ Giáo dục cấm
bán và tịch thu hết bộ sử đó vì trong cuốn II viết về thời Trung cổ,
chúng tôi có nói đến sự bê bối của một vài Giáo hoàng. Bộ phái một viên
bí thư có bằng cử nhân lại tiếp xúc với tôi. Ông này nhã nhặn, khen tôi
viết sử có nhiệt tâm, cho nên đọc hấp dẫn như bộ sử Pháp của Michelet;
rồi nhận rằng sách tôi được Bộ Thông tin cho phép in, lại nạp bản rồi
thì không có lí gì tịch thu, cấm bán được, chỉ có thể ra thông báo cho
các trường đừng dùng thôi; cho nên ông ta chỉ yêu cầu tôi bôi đen vài
hàng trên hai bản để ông ta đem về nộp bộ, bộ sẽ trả lời linh mục nào
đó, còn bán thì tôi cứ bán, không ngại gì cả. Tôi chiều lòng ông. ( ….)
Hồi đó bộ Lịch sử thế giới của tôi chỉ còn
một số ít. Tôi hỏi các nhà phát hành, được biết có lệnh cấm các trường
ngoài Trung dùng nó; trong Nam thì không. Chỉ ít tháng sau bộ đó bán
hết, tôi không tái bản. Công giáo thời đó lên chân như vậy.”[4]
5. Cũng theo chứng từ của người
Giáo dân mà chúng ta vừa gặp ở phần trên, kiêu dân đã
lạm dụng quyền thế để đả kích tín ngưỡng của các học viên người Lương
phải theo học khóa học Nhân vị tại Trung tâm Nhân Vị ở Vĩnh Long. Vì sợ
bị ghi danh vào sổ đen, những nạn nhân này đành phải chịu đựng trong im
lặng, khiến cho các học viên Công giáo tại khóa học cũng cảm thấy hổ
thẹn trước hành động hống hách nói trên.[5]
Đây là một điểm cần phải được nhấn mạnh, vì nó cho
ta thấy rõ không phải tín đồ Công giáo nào tại miền Nam cũng là kiêu
dân khi vùng đất đáng lẽ là tự do này phải sống dưới sự thống trị của
nhà Ngô. Ngay cả trong hàng giáo phẩm Công giáo cũng đã có
những bậc chân tu cố tránh xa chế độ Ngô Đình Diệm để duy trì uy tín
và tính chất độc lập của Giáo hội.[6]
Cố học giả
Nguyễn Hiến Lê cho biết: “Ngô Đình Thục ở Vĩnh Long… tạo ra thuyết
Duy linh chống với thuyết Duy vật của Cộng sản, bắt công chức nào cũng
phải học. Họ chẳng học được điều gì mới cả, chỉ phải nghe mạt sát đạo
Phật và đạo Khổng. Những người theo học đại đa số thờ Phật, đau lòng mà
không dám cãi.”[7]
Phải chăng thái độ kiêu căng và khiêu khích của một
bộ phận quan trọng trong cộng đồng Công giáo tại Miền Nam mà chúng ta
vừa thấy qua những trường hợp nêu trên đã là một trong những nguyên nhân
chính khiến cho khối người Lương ở phía dưới vĩ tuyến 17 ngày càng
xa cách chế độ Ngô Đình Diệm, đưa đến sự sụp đổ của nó vào cuối năm
1963?
“Cả làng xin được rửa tội….”
Do những biến cố xảy ra trong năm 1963, chế độ Ngô
Đình Diệm thường bị những người chống đối tố cáo là một chế độ đã lệ
thuộc (quá) nhiều vào sự hậu thuẫn trung thành của Giáo dân (di cư) và,
vì vậy, đã dành cho khối người này một sự nâng đỡ đặc biệt. Nhưng thật
ra, không phải đợi đến năm 1963 mới thấy được sự gắn bó keo sơn giữa
(một khối) tín đồ Công giáo và nền Cộng hòa Nhân vị do anh em Tổng thống
Diệm lãnh đạo. Quan hệ này đã nhen nhúm ngay sau khi chế độ Ngô Đình
Diệm vượt qua được giai đoạn phôi thai đầy nguy hiểm. Trong tạp chí
International Affairs phát hành vào tháng 4 năm 1956, J. Donald
Lancaster nhận xét: Tổng thống Diệm bị hạn chế trong việc thế thiên
hành đạo tại miền Nam Việt Nam bởi
lòng trung thành đối với tôn giáo cũng như gia đình của chính ông ta.
Lòng trung thành nói trên rất có thể đã là một
trong những yếu tố khiến cho người Lương đột nhiên theo đạo Công giáo
hàng loạt thời dòng họ Ngô Đình cầm cân nẩy mực phía dưới vĩ tuyến 17,
một hiện tượng Nguyễn Hiến Lê có đề cập đến trong hồi ký của mình (trang
121, tập II). Ông kể lại: “Diệm-Nhu theo chính sách ba-Đ: Đảng (Cần
Lao), Đạo (Công giáo) và Địa phương (miền Trung). Chỉ công chức nào có
đủ ba Đ mới được tin dùng, cho nên con số tín đồ Công giáo tăng vọt lên,
nhất là ở miền Trung; có giáo đường làm lễ rửa tội hằng trăm người một
lúc.”
Người nổi tiếng và thành đạt nhất trong nhóm Giáo
dân tân tòng này không phải ai khác hơn là một viên sĩ quan gốc miền
Trung tên Nguyễn Văn Thiệu. Ông Thiệu lập gia đình với một nữ tín đồ
Công giáo trước khi Ngô triều được thiết lập. Nhưng mãi đến năm 1958,
tức là lúc triều đại này đã “vững nền thịnh trị”, ông mới để cho Linh
mục Bửu Dưỡng, một lý thuyết gia quan trọng của trường phái Cần lao Nhân
vị,
rửa tội tại Đà Lạt. Chính LM Bửu Dưỡng đã cho Tướng Edward Lansdale
biết điều này và nhờ bản báo cáo Lansdale gửi cho Đại sứ Elsworth Bunker
ngày 20 tháng 4 năm 1968, nên sử gia Vũ Ngự Chiêu mới có thể tìm ra được
một chứng liệu thành văn về
sự trở lại đạo của Nguyễn Văn Thiệu.[8]
Arthur Dommen, một học giả có cảm tình với họ Ngô, cũng cho biết vị Tư
lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh trong tương lai này không theo đạo lúc lập gia
đình, mà chỉ làm việc này
sau khi chiếc ghế Tổng thống của Ngô Đình Diệm đã vững như bàn thạch.[9]
Trường hợp Nguyễn Văn Thiệu, như đã nói, chỉ là
trường hợp nổi bật nhất. Hiện tượng người Lương ồ ạt theo đạo Công giáo
thời Ngô Đình Diệm mà Nguyễn Hiến Lê kể lại đã được tạp chí Informations Catholiques Internationales phát hành ngày 15 tháng 3
năm 1963 xác nhận. Nên xem những con số ngoạn mục được nêu ra trong
đó. Ngoài ra, nhờ tạp chí này mà chúng ta còn biết được Đức ông Ngô Đình
Thục đã khoe với một đồng nghiệp người Pháp rằng ở giáo phận Vĩnh
Long đôi khi có đến nguyên cả làng xin được rửa tội và, ngoài Phi Luật
Tân ra,
Nam Việt Nam là quốc gia độc nhất tại Viễn Đông sẽ phải được ở trên con
đường đưa đến sự trở lại đạo hoàn toàn.[10]
Tuy nhiên, Informations Catholiques Internationales cũng cho
chúng ta biết,
thái độ đắc thắng do cả chế độ Ngô Đình Diệm lẫn khối thiểu số Công giáo
phơi bày đã tạo ra một sự bất mãn nhất định trong khối người Lương,
một sự bất mãn mà tạp chí này cho là dễ thấy ngay
tại Sài gòn cũng như ở các ngôi làng xa xôi hẻo lánh nhất.[11]
Nhận định nói trên rất phù hợp với báo cáo mà Đại
Sứ Pháp Roger Lalouette gửi về Paris đúng một năm trước đó.[12]
Lalouette cho biết ngoài Cộng sản ra, chế độ Diệm còn phải đương đầu với
sự chống đối của những thế lực phi Cộng sản:
“Lực lượng chống đối tập họp những người ái
quốc cấp tiến, giới trưởng giả Nam Kỳ bị gạt bỏ khỏi những việc công ích
bởi những phần tử Bắc hay Trung vào tị nạn, những giáo pháo bị giải giới
và bị nghi ngờ và, một cách tổng quát, tất cả những người không Ki-tô
chống lại thiểu số Ki-tô (10% dân số) đã đặt tôn giáo Ki-tô La Mã lên
hàng quốc giáo.
Họ không đòi hỏi sự thay đổi trong chế độ, mà là thay đổi cả một chế độ.”
Chính nội dung của những tư liệu được hình thành
trước biến cố Phật giáo nói trên đã cho phép chúng ta (tạm) tin lời
Vũ Tài Lục, người đã từng sống trong thời cai trị của nhà Ngô, khi
vị học giả này khẳng định rằng đến tháng 5 năm 1963 thì sự kỳ thị tôn
giáo dưới chế độ Ngô Đình Diệm (mà ông gọi là chế độ Diệm-Thục để nhấn
mạnh vai trò của Đức Tổng Giám mục Ngô Đình Thục trong đó) đã
đến mức không thể chịu đựng hơn được nữa, nên Phật tử đã phải xuống
đường để phản đối. Dù sao đi nữa thì mối liên hệ nhân quả giữa tệ trạng
kỳ thị tôn giáo dưới chế độ Ngô Đình Diệm và Biến cố Phật giáo 1963 sẽ
được phân tích một cách tường tận hơn trong một bài khác, đang được
chuẩn bị.
Một hiện tượng thuộc lịch sử?
Ngoài việc kỳ thị tôn giáo, chế độ do anh em Ngô
Đình Diệm cầm đầu còn gây ra cho người dân miền Nam những bực mình không
cần thiết. Khi bàn đến một tấm hình ăn ý của ông ta,
Đoàn Thêm, một viên chức cao cấp làm việc trong Dinh Độc lập thời Đệ
Nhất Cộng hòa, có kể lại:
“Một người bạn trẻ ở ngoài chính giới đã bảo tôi:
- Coi bộ thì cũng không đến nỗi nào, nhất là bức
ảnh Âu phục chụp nghiêng 3/4 thấy treo ở nhiều nơi.
Tôi cho biết là chính ông ưa bức đó hơn cả, nhưng
anh ta lại càu nhàu luôn:
- Chỉ phải cái rất bực và rồi phát ghét, là cứ phải
chào! Sao lại đem in tròn giữa quốc kỳ để bắt đứng dậy chào khi xem xi
nê? Thà tới chậm, mất hẳn đoạn phim thời sự, còn hơn phải ngắm mặt mũi,
bảnh bao mấy cũng bỏ đi!
Tôi không thể chối cãi, vì chính là trường hợp tôi mỗi khi muốn coi
phim…”
Không những chế độ Ngô Đình Diệm làm phiền người
dân, chính cá nhân họ Ngô cũng quấy rầy nhân viên dưới quyền ông ta.
Theo Đoàn Thêm:
“Ông Tổng thống luyến tiếc các biểu hiệu quân chủ,
nên tái lập Kim Khánh của nhà Nguyễn và công nhận là huy chương cao nhất
của Việt Nam. Ông gây lại không khí cung đình, đặt lễ phục gấm lam khăn
đen cho các nhân viên cao cấp, và chỉ nhận chúc Tết Nguyên Đán vào sớm
ngày mồng một. Đã có vài người xin ông cho chúc vào chiều ngày ba mươi,
vì Tết đầu năm là ngày của gia đình, theo cổ tục, buổi sáng dành cho gia
tiên, đa số còn phải đèn nhang cúng vái, hoặc mừng tuổi ông bà cha mẹ.
Ông không nghe, vì theo ông, xưa kia phải triều bái ở điện Thái Hòa hoặc
ở Vọng Cung các tỉnh, nghĩ đến Vua rồi mới đến nhà, vì Vua là là nước.
‘Vua ban hồng phước không tốt hơn là chờ người xông đất hay sao?’
Bởi vậy, cứ tám giờ mồng một, là hàng trăm người,
cả nhân viên, lẫn đại diện đoàn thể dân chúng, đành phải xúng xính áo
khăn vào cầu ơn trên phù hộ cho ông.
Một công chức bực quá đã thốt ra một câu chua chát:
- Thôi thì coi bái khánh như một công vụ đã được
tính vào số lương tháng rồi!
Có lẽ vì thế mà
hai tiếng Ngô Triều đã được nói đến ngay từ 1957, chớ không phải từ
sau Cách mạng 1963, do một Tôn Thất nhà Nguyễn đương làm Giám đốc một
Nha.”
Chuyện lố lăng nhất mà chế độ Nhân vị của dòng họ
Ngô Đình đã gây ra là việc họ bắt buộc người dân miền Nam hát bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống trong lễ chào cờ. Cách đây trên hai mươi
năm, tờ Làng Văn, một nguyệt san chống Cộng hữu danh tại hải
ngoại, có
đăng trong số 47 một bài mang tên “Sơ kết vấn đề Quốc-Ca”, trong đó
có chứa đựng những dữ kiện lý thú về bài hát sùng bái cá nhân nói trên.
(Khi đó tôi là một học sinh trung học, còn hai năm nữa mới được thi tú
tài, nhưng cũng đã bắt đầu có quan tâm đặc biệt đến chế độ Ngô Đình
Diệm, nên đã cẩn thận cất giữ tờ báo đó cho đến ngày hôm nay đem ra
xài.)
Tờ Làng Văn viết:
“Vấn đề Quốc ca đã được mang ra bàn cãi tất cả ba
lần. Lần thứ nhất do Quốc hội đệ nhất Cộng-hòa năm 1956…
Lần thảo luận thứ nhất không đưa tới một sự thay
đổi nào, vì có một số đại diện dân cử vì lòng tôn sùng cá nhân, muốn đưa
bài Suy tôn Ngô Tổng Thống… ra thay bài Tiếng gọi công dân…
Cuộc bàn cãi để đi tìm một bài hát khác làm Quốc ca thay cho bài hát
đương thời, với tác giả chính đã đứng về phía CS, lại biến thành một
cuộc tranh chấp giữa tin thần tôn quân kiểu mới và khuynh hướng dân chủ
tự do. Phe tôn quân không thắng nổi số đông, mà phe đa số cũng không dám
dùng thế lực của mình để loại bài suy tôn cá nhân. Trong trường hợp đó,
thà giữ nguyên bài cũ còn hơn.
Cuối cùng, vì đoàn kết quốc gia, vì thể diện của
lãnh tụ,
và quan trọng hơn hết, vì an ninh bản thân, một giải pháp chìm xuồng
đã được đưa ra, dung hợp cả hai chủ trương: giữ lại bài Tiếng gọi
công dân làm Quốc ca, và hát kèm bài Suy tôn Ngô Tổng Thống
ngay trong lễ chào cờ. Từ đó, 1956, Việt Nam Cộng hòa có một bài quốc ca
‘kép’. Tình trạng này kéo dài tới 1963 mới chấm dứt, sau khi Trung tướng
Dương Văn Minh đảo chánh thành công, kết thúc chín năm cai trị của Ngô
triều.”[13]
Trong mục phản hồi trên diễn đàn talawas,
Trần Ngọc Cư mới đây có lời than phiền về tệ trạng sùng bái cá nhân
nói trên. Nhưng có lẽ là người tuổi đã cao, nên họ Trần không muốn nhắc
đến khả năng đề kháng thụ động của khối người Lương trước sự lố lăng này
của chế độ Ngô Đình Diệm và thái độ kiêu ngạo của tập đoàn Công giáo di
cư phía sau lưng nó, một sự đề kháng được biểu lộ qua câu Toàn dân
Bùi Chu mút cu Ngô Tổng Thống. Đây là một sử liệu truyền khẩu mà
tôi được những người lớn tuổi đã từng sống dưới sự thống trị của Ngô
triều kể lại cho nghe tại hải ngoại. Nó rất ăn khớp với những sử liệu
thành văn mà tôi đã thu thập được và vừa giới thiệu trong bài này. Do
đó, nó rất đáng được gìn giữ và phổ biến.
Cách nhìn nói trên không phải là một cách nhìn được
mọi người chấp nhận. Hòa Nguyễn và Trần Văn Tích hình như muốn tương đối
hóa việc làm lố bịch của chế độ Ngô Đình Diệm.
Hòa Nguyễn viết: “Nhưng cũng nên “thông cảm” những bài hát suy tôn ở
vào cái thời thế giới (thứ ba) thích ca tụng các lãnh tụ “anh minh, vĩ
đại” của họ, như Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông, Tưởng Giới Thạch, Kim Nhật
Thành, Lý Thừa Vãng, Sukarno (được bầu làm tổng thống trọn đời).”
Trong bảng Phong thần do Hoà Nguyễn nêu ra không
thấy có tên của Jawaharlal Nehru, Thủ tướng Ấn Độ. Ấn Độ trong giai đoạn
đó cũng là một quốc gia thuộc thế giới thứ ba, nhưng hoàn toàn không có
tệ trạng sùng bái Nehru. Có lẽ vì Ấn Độ là một quốc gia dân chủ, nhất là
khi so sánh với Indonesia, Nam, Bắc Hàn, Nam, Bắc Việt Nam, Trung
Quốc hay Đài Loan. Bản chất dân chủ của một chế độ không cho phép chuyện
lố bịch nói trên xảy ra.
Hơn nữa, việc sùng bái cá nhân không phải chỉ xảy
ra tại thế giới thứ ba. Chuyện này đã xảy ra ngay tại nước Pháp dưới
thời Pétain và cũng đã lan tràn sang Đông Dương, lúc đó đang nằm dưới sự
kiểm soát của
chế độ Vichy do Pétain cầm đầu.
Trần Văn Tích viết:
“Thời Pháp thuộc tôi lớn lên ở thành phố Đà Nẵng,
lúc bấy giờ có tên chính thức là Tourane. Học trò nhà nước chúng tôi
trước khi sắp hàng vào lớp thường phải đứng nghiêm để hát bài Maréchal, nous voilà ca tụng Thống chế Pétain, trong đó có câu
“Devant toi, le sauveur de la France”. Vậy nếu Tổng thống Ngô Đình Diệm
sau này được xem là “cứu đất nước” v.v… thì cũng chỉ là một hiện tượng
thuộc lịch sử vào một giai đoạn nhất định.”
Có thể đây là một nhận định chưa hoàn toàn chính
xác. Trước khi Pétain lên chấp chính năm 1940, không có một chính quyền
nào của Đệ Tam Cộng hòa lại bắt học sinh hát bài ca tụng Thủ tướng
Clemenceau là cứu tinh của nước Pháp, tuy không ai phủ nhận công lao rất
lớn của ông trong giai đoạn quyết định cuối Đệ Nhất Thế chiến. Nền Cộng
hòa dân chủ này đã vinh danh
“le Père-la-Victoire” bằng một
cách văn minh hơn. Bởi thế nên việc chế độ Vichy do Pétain cầm
đầu bắt học sinh làm chuyện tào lao nói trên có thể được xem như là một
triệu chứng của bản chất bệnh hoạn của chế độ này, một chế độ trung gian
bản xứ đã tỏ ra rất đắc lực trong việc truy lùng, bắt giữ và chuyển giao
người Do thái cho Đức quốc xã - việc làm nhơ nhuốc nhất bên cạnh
những việc phản động khác của chế độ Vichy.[14]
Bác sĩ Tích viết tiếp: “Nghĩ lại, nếu quốc ca nước
Anh có lời hát “God save the Queen” thì lời bài “Suy tôn Ngô Tổng thống”
có câu “Xin Thượng Đế ban phước lành cho người” có thể được xem là hai
hiện tượng lịch sử – như đã trình bày – hay chăng?”
Câu hỏi này hình như được đặt ra trên những dữ kiện
còn thiếu sót. Kể từ khi vua Henry VIII đọan giao với Tòa thánh La Mã để
lập ra
Giáo hội Anh giáo, các vị quốc vương hay nữ hoàng Anh quốc không
những là nguyên thủ của một quốc gia mà còn phải đóng vai trò lãnh tụ
của một tôn giáo (Supreme
Governor of the Church of England). Vì vậy, cầu nguyện Thượng
đế phù hộ cho ông hay bà ta là việc không có gì đáng nói. Hơn nữa, bài
God save the Queen hay God save the King có từ thế kỷ
thứ 18,[15]
và hình như không mang ý nghĩa khẩn cầu cho một cá nhân cụ thể nào,
chẳng hạn Victoria hay Elizabeth II, mà chỉ cầu mong sự bảo bọc của bề
trên đối với ngôi vị nguyên thủ của một quốc gia quân chủ có truyền
thống Ki-tô lâu đời. Có lẽ do những lý do nói trên mà bài hát này vẫn
còn được giữ làm Quốc ca Anh Quốc cho đến ngày hôm nay, trong khi bài ca
sùng bái Ngô Đình Diệm phải chịu chung số phận với cái chế độ
đã ép buộc người dân miền Nam hát nó.
Vậy chúng ta có thể tạm kết luận rằng những nỗ
lực tương đối hóa mà Hòa Nguyễn và Trần Văn Tích đã dành cho tệ trạng
sùng bái cá nhân dưới sự thống trị của Ngô triều vẫn chưa đủ sức thuyết
phục. Có thể cũng như trong trường hợp của chế độ Vichy, tệ trạng này
phản ảnh bản chất kém lành mạnh của chế độ Ngô Đình Diệm. Trong chế độ
lành mạnh nào mà nhân viên an ninh có thể áp dụng một chính sách trả thù
bỉ ổi đối với lương dân vô tội mà những kẻ lèo lái quốc gia lại không hề
hay biết? Sau cuộc đảo chánh hụt năm 1960, tay chân của anh em Ngô Đình
Diệm đã xâm phạm tính dục nhiều người vợ của những viên sĩ quan tham gia
vào biến cố đó và, ít nhất là trong trường hợp của Phan Lạc Tuyên, đã
bao vây kinh tế cha mẹ, khiến cho con cái họ bị thất học. Nhưng cả ông
Ngô Đình Diệm lẫn ông Ngô Đình Nhu, theo chứng từ của Trần Ngọc Nhuận,
một sĩ quan tình báo cao cấp trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đều không
biết đến tội ác động trời này![16]
Phải chăng vì họ không biết chế độ của họ đang bị côn đồ hóa, nên cuối
cùng chính họ đã bị thuộc hạ cũ giết chết bằng một cách rất côn đồ?
Chính sách trả thù đối với đàn bà, người già và trẻ em nói trên đã được
kể lại trong: 1)
Trần Ngọc Nhuận, Đời quân ngũ, Xuân Thu, 1992, tr. 305-306,
và 2)
Phan Lạc Giang Đông, “Nhớ lại và suy nghĩ”, trong Chính Đạo (chủ biên),
Nhìn lại biến cố 11/11/1960, Văn Hóa, Houston, 1997, tr.
207-231.
© 2009 Trần Lâm
nguồn http://www.talawas.org/?p=12797 ngày 11 tháng 6, 2009
[1] Nguồn:
Phan Lạc Giang Đông, “Nhớ lại và suy Nghĩ”, trong: Chính Đạo [Vũ Ngự
Chiêu] (chủ biên), Nhìn lại biến cố 11/11/1960, Văn hóa,
Houston, 1997, tr. 210.
[2] Informations Catholiques Internationales, “L’Église au
Sud-Vietnam”, 15 Mars 1963, tr. 21.
[3] Ibid, tr. 19.
[4]
Tại trang 99 và 100 trong cuốn Đời viết văn của tôi, do Văn
Nghệ xuất bản tại California năm 1986.
[5] Ibid.
[6] Ibid, tr. 21.
[7] Hồi kí, Tập II, Văn Nghệ, California, 1990, trang
120-121.
[8] Xem: Chính Đạo, Mậu Thân 68: Thắng hay Bại?, Văn Hóa,
Houston, tái bản lần thứ hai, 1998, tr. 355. Xem thêm: Arthur Dommen,
The Indochinese Experience of the French and the Americans,
Indiana University Press, 2001, tr. 658.
[9] Arthur Dommen nói rằng Nguyễn Văn Thiệu là đảng viên Đại Việt,
còn Vũ Ngự Chiêu thì cho biết ông ta là Ủy viên Quân ủy Cần lao Nhân vị
Cách mạng Đảng. Xem Nguyên Vũ, Paris Xuân 96, Văn Hóa, 1997,
tr. 87-88.
[10] Nguyên văn: “C’est le seul pays d’Extrême-Orient (à part
les Philippines) qui soit en marche vers une conversion totale…”
[11] Nguyên văn: “Ce que nous avons appelé, pour faire image, le
‘triomphalisme’ conjugé du régime et de la minorité catholique ne manque
pas de nourrir un certain mécontentement chez les non-catholiques.
Quoique en contradiction avec les conversions massives dont nous avons
parlé plus haut, il est facilement observable à Saigon comme dans les
plus lointains villages.”
[12] Báo cáo này đã được Vũ Ngự Chiêu tìm thấy, dịch sang tiếng Việt
và cho in lại trong Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1939-1975, Tập
I-C: 1955-1963, Văn Hóa, Houston, 2000, tr. 248-250.
[13] Bạn đọc bốn phương cần lưu ý đến chi tiết này: Nguyễn Hữu
Nghĩa, Chủ bút tờ Làng Văn, đã bị một số người hiểu lầm (?)
khái niệm
tử năng thừa phụ nghiệp tố cáo là
con trai của đại tướng VC Nguyễn Chí Thanh. Nhưng nhờ có Bác sĩ Trần
Văn Tích, một người có lập trường chống Cộng rất vững vàng, từng là cộng
tác viên cho tờ báo này, nên tôi mới dám xài những dữ kiện do nó cung
cấp về bài Suy tôn Ngô Tổng Thống.
[14] Bạn nào hiếu kỳ muốn biết thêm về nó thì nên tìm đọc: Robert
Paxton, Vichy France: Old Guard and New Order, 1940-1944,
Knopf, New York, 1972. Sau Đệ Nhị Thế chiến, người Pháp đã cố che giấu
sự thật, cố tương đối hóa những việc làm kém sạch sẽ của chế độ
này. Chính nhờ sự đào bới trong văn khố Đức của Paxton, một sử gia người
Mỹ, mà bộ mặt nhơ nhuốc của nó đã bị lột trần trước công chúng Pháp.
Cách đây vài năm, tạp chí Journal of Contemporary History có
đăng một bài nghiên cứu về tầm ảnh hưởng sâu rộng của ông ta đối với
giới sử học Pháp. Tôi đã đưa bài đó lên mạng, các bạn có thể
đọc nó tại đây. Thật thú vị khi thấy một người Mỹ quê ở Virginia
giảng cho mấy ông Tây bà Đầm nghe về quá khứ khá bẩn thỉu của quốc gia
họ. Nhưng dân Phú Lang Sa vẫn còn giữ được tinh thần thượng võ. Mới đây
họ đã
trao tặng cho Paxton huân chương Légion d’honneur để bày tỏ lòng
biết ơn đối với công trình nghiên cứu của ông: “Son œuvre a été
controversée à une époque où la France refusait de regarder son passé en
face, même s’il est difficile à accepter. Grâce à lui on sait que,
contrairement à la légende, Vichy n’a pas été contraint à collaborer à
ce point et que la Révolution nationale de Pétain, son régime fasciste,
n’a pas été imposée par les Allemands.”
[15]
“Like many aspects of British constitutional life, its official status
derives from custom and use, not from Royal Proclamation or Act of
Parliament.”
[16] Hai anh em ông Diệm, ông Nhu cầm vận mệnh quốc gia trong tay,
mà khi thủ hạ của họ hại dân vô tội – những người mà họ có bổn phận bảo
vệ - họ lại hoàn toàn không biết. Điều này khiến chúng ta phải tự hỏi
tại sao họ không biết. Ở một quốc gia văn minh, nạn nhân có thể dựa vào
hệ thống tư pháp độc lập hoặc hệ thống truyền thông tự do để lưu ý giới
hữu trách đến những tệ trạng mà họ phải gánh chịu. Vì dưới nền Cộng hòa
Nhân vị, hệ thống tư pháp không được độc lập và giới truyền thông không
được tự do nên hai anh em ông Diệm mới có thể không biết gì cả. Việc
giới lãnh đạo của một quốc gia không biết dân vô tội bị xâm phạm phi
pháp và việc những nạn nhân này không có cách nào làm cho giới lãnh đạo
biết được tệ trạng nói trên thật ra là một bản cáo trạng đối với giới
lãnh đạo đó: Họ không biết, vì bộ máy chính trị của họ là một bộ máy kém
lành mạnh, nếu không muốn nói là bệnh hoạn.
Bài liên quan đến kiêu dân Công Giáo thời Ngô Đình Diệm có đăng trong sachhiem.net
- Việc Tranh Chấp Đất Của Giáo Xứ An Bằng (Lê Minh Tựu)
- Kiêu dân công giáo thời Ngô Đình Diệm (Trần Lâm)