Sự Liên Kết Giữa Các Thế Lực Đế Quốc Và Đạo Chúa

Trong Nỗ Lực Xâm Chiếm Và Đồng Hóa Nước Việt Nam

Lý Tuệ Châu

https://sachhiem.net/LICHSU/L/Lytuechau.php

02-Jul-2012

LTS: Với lời lẽ khẩn thiết, bài viết sau đây của tác giả Lý Tuệ Châu tóm tắt và bao hàm được nhiều điểm quan trọng về mối nguy cơ thâm độc đã ngấm vào luồng sinh hoạt văn hóa nước ta từ hơn chục năm nay, báo động tình trạng xã hội Việt Nam đang bị đồng hóa mất dần bản sắc của mình, đưa đến nguy cơ lớn hơn. Bài viết rất đáng được lưu tâm. (SH)


Trong thế kỷ qua Việt Nam đã có những tranh chấp giữa các đoàn thể/ đảng phái, sự kỳ thị/xung đột giữa lương/ giáo, sự phân biệt/nói xấu nhau giữa các tỉnh, các miền. Tất cả đều rất đáng buồn cho tình trạng chia rẽ của nước ta trong những khoảng thời gian bị thực dân chia ra để trị, bị lệ thuộc và chiến tranh. Tôi nghĩ  tình trạng nầy sẽ dần dần chấm dứt trong một đất nước độc lập và thống nhất. Những việc nầy đều có tính cách cá nhân/cục bộ, chỉ liên quan tới nội tình trong một nước.

Thế hệ của chúng tôi sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đất nước bị chiến tranh tàn khốc nhất. Lịch sử  đã bị che giấu hay vùi lấp lâu nay, nên ít người biết rõ. Dựa theo các tin tức thời sự được phổ biến trong vài thập niên trở lại đây, tôi thấy có nhiều điều đã học trong môn lịch sử không phù hợp vơí sự suy luận của mình. Tôi đã tìm sách đọc thêm. Các mạng báo điện tử trong internet đã giúp tôi sưu tầm và kiểm chứng được nhiều điều rất hữu ích.

Các chứng cớ được trình bày dưới đây liên quan tới sách lược kiểm soát thế giới, bao gồm trong nhiều kế hoạch như xâm lấn, khống chế, cai trị và trục lợi của các thế lực/tổ chức quốc tế đốí với các nước nhỏ , trong đó có nước ta, điễn hình như tình cảnh nguy ngập dươí búa Mỹ và trên đe Tàu bây giờ. Đây là cái lo chung của mọi người VN có quan tâm đến đất nước

Sự Truyền Đạo Chúa Và Chiếm Thuộc Địa Ở Thế Kỷ XV

Trong bài Hải Đảo Haiti Và Tôi, đăng trên trang điện tử cuả mình https://thaicongtung.posterous.com/, Giáo sư Thái Công Tụng kể rằng thực dân đã tàn sát, bóc lột làm tuyệt chủng dân bản địa Arawak trên đảo Hispaniola. Sau khi dân nầy chết hết, họ lại bắt làm nô lệ và đày đọa dân Phi châu da đen.  Ở đây, nhìn xa ra, ta thấy rằng những việc tàn bạo nầy bắt ngưồn từ việc Columbus được hoàng hậu Isabella de Catholic phái đi tìm đất mới và truyền đạo Thiên Chúa, bao gồm việc chiếm đất cho Spain và lấy vàng về cống hiến cho tòa thánh Vatican (Columbus is better seen as a representative of the spirit of inquiry, Christian religious zeal, and the notable achievements of Western Civilization. https://conservapedia.com/Christopher_Columbus.) Thời đó Giáo Hoàng bổ nhiệm các vua Âu châu và có quyền truất phế vua chúa. Quyền hành của Giáo Hoàng bao trùm lên tất cả quyền hành của các nhà cầm quyền thế tục (“…he (Giáo Hoàng Leo I) has declared the authority of the Roman bishop over all temporal rulers as well.”, Malachi Martin, The Decline and Fall Of The Roman Church, New York, G.P. Putnam’s Sons, 1982.) Mãi tơí cách mạng Pháp 1789, lật đổ vua Louis XVI và thành lập chế độ Cọng hòa, quyền lực của Vatican mới bị giảm.

Sau nầy, vì sự tranh dành thuộc địa giữa Portugal và Spain, Giáo Hoàng Alexander IV đã chia thế giơí làm hai cho 2 bên tha hồ đi chiếm đất (Pope Alexander VI decreed in the bull Inter caetera that all lands west and south of a pole-to-pole line 100 leagues west and south of any of the islands of the Azores or the Cape Verde Islands should belong to Spain, although territory under Christian rule as of Christmas 1492 would remain untouched, https://en.wikipedia.org/wiki/Treaty_of_Tordesillas.)

Trong cuốn Thập Giá Và Lưỡi Gươm, Linh-mục Trần Tam Tĩnh ghi như sau: "...., quyền lợi của Bồ Đào Nha đã được phân định rõ ràng trong sắc chỉ "Romanus Pontifex" do Đức (Giáo Hoàng) Nicholas V (1447-1455) đưa ra ngày 8 tháng Giêng năm 1454. Theo quyền lực Chúa ban và quyền lực của Tòa Thánh, Đức Giáo Hoàng ban cho triều đình Lisbon (Bồ Đào Nha) "toàn quyền tự do xâm lăng, chinh phục, chiến đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các quân Sarrasins (tức người Ả Rập), các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác của Giáo Hội, gặp bất cứ nơi nào: được toàn quyền chiếm cứ tất cả các vương quốc, lãnh địa, vương hầu, đất đô hộ và tài sản của chúng; toàn quyền chiếm đoạt tất cả của nổi và của chìm của chúng và bắt tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn".

... Khi ban quyền cho người Bồ Đào Nha được chiếm mọi thứ lợi lộc kể trên, Giáo Hoàng đồng thời cũng muốn mở mang nước Chúa sang các miền xa xôi. Và để nhà vua Bồ Đào Nha yên tâm hơn, Giáo Hoàng ra lệnh cấm không một ai khác được phép đặt chân tới các vùng đất ấy nếu không có phép của nhà vua, dành cho nhà vua độc quyền buôn bán và ra vạ tuyệt thông tức khắc cho bất kỳ ai dám hành động ngược lại." (L.M. Trần Tam Tĩnh, Thập Giá và Lưỡi Gươm, Paris, Sudestasie, 1978.)

Từ đây những tay anh hùng conquistadors ngoan đạo của Spain và Portugal tha hồ tung hoành chiếm đoạt và tàn sát không nương tay ở khắp lục địa Mỹ châu, làm tiệt chủng nhiều sắc dân và 2 nền văn minh Anca và Aztec mà nay ta biết rằng không kém gì văn minh Âu châu thời Trung cổ (https://en.wikipedia.org/wiki/Conquistador). Ngay cả bây giờ, ngưòi Tây Ban Nha vẫn còn rất hãnh diện là họ đã làm như thế!  Ở Phi châu và Úc châu cũng vậy. Những điều nầy không lạ nếu ta đọc Thánh kinh. Sau đây là vài đoạn trong Cựu Ước:

PHỤC TRUYỀN 6:17; 7:1-5: PHẢI TUYỆT ĐỐI TUÂN HÀNH CÁC ĐIỀU RĂN, LUẬT LỆ CỦA THIÊN CHÚA... KHI ĐỨC CHÚA TRỜI DẪN CÁC NGƯƠI VÀO VÙNG ĐẤT MÀ CÁC NGƯƠI SẼ CHIẾM HỮU…CÁC NGƯƠI PHẢI TẬN DIỆT HỌ, KHÔNG ĐƯỢC LẬP GIAO ƯỚC, KHÔNG ĐƯỢC THƯƠNG XÓT... KHÔNG ĐƯỢC GẢ CON GÁI MÌNH CHO CON TRAI HỌ, HOẶC CƯỚI CON GÁI HỌ CHO CON TRAI MÌNH VÌ HỌ SẼ DỤ CON CÁI CÁC NGƯƠI THỜ CÚNG CÁC THẦN CỦA HỌ MÀ BỎ CHÚA HẰNG HỮU.. CÁC NGƯƠI PHẢI ĐỐI XỬ VỚI HỌ NHƯ SAU: PHẢI PHÁ HỦY NHỮNG BÀN THỜ CỦA HỌ, PHẢI ĐẬP PHÁ NHỮNG CỘT TRỤ THIÊNG LIÊNG CỦA HỌ, ĐẬP NÁT NHỮNG HÌNH TƯỢNG BẰNG GỖ, ĐỐT SẠCH CÁC TƯỢNG CHẠM CỦA HỌ. (https://www.biblegateway.com/passage/?search=Deuteronomy+7%3A1-5&version=NKJV.)

PHỤC TRUYỀN 20: 12-18: LÚC KÉO QUÂN ĐẾN TẤN CÔNG MỘT THÀNH NÀO, NẾU THIÊN CHÚA CHO CÁC NGƯƠI HẠ ĐƯỢC THÀNH ĐÓ, PHẢI GIẾT HẾT ĐÀN ÔNG TRONG THÀNH, NHƯNG BẮT GIỮ ĐÀN BÀ, TRẺ CON, SÚC VẬT, VÀ CHIẾM GIỮ CÁC CHIẾN LỢI PHẨM...BÊN TRONG LÃNH THỔ CHÚA BAN CHO, PHẢI DIỆT HẾT MỌI SINH VẬT. PHẢI TẬN DIỆT DÂN HÊ-TÍT, A-MO, CA-NA-AN, PHÊ-RẾT, HÊ-VÍT VÀ GIÊ-BU NHƯ CHÚA ĐÃ TRUYỀN DẠY. NHƯ VẬY HỌ KHÔNG CÒN SỐNG ĐỂ DỤ DỖ ĐỒNG BÀO HỌ LÀM TỘI ÁC, THỜ CÚNG THẦN CỦA HỌ MÀ MANG TỘI VỚI CHÚA. (https://www.biblegateway.com/passage/?search=Deuteronomy+20%3A1-18&version=KJV.)

May là ở Á châu có những nền văn minh quá lớn, vừa đông dân, nên đã tránh bớt được những sự sát hại đau thương. Nhưng sự chiếm đoạt đất đai, của cải, và đọa đày dân chúng vẫn như nhau vì sự cấu kết giữa thực dân và những người đi truyền đạo Chúa vẫn nguyên vẹn.

Xúi Dục Pháp Gây Chiến Tranh Và Cách  Áp Đặt Đạo Gia Tô Vào Việt Nam Của Các Thừa Sai Thiên Chúa

Ở VN, Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneaux de Behaine - làm theo lệnh của Hội Truyền giáo Ba Lê và vua Louis XVI) giúp vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn với một mục đích rất sâu xa nên sau nầy, trong mật thư đề ngày 24-7-1862, Đô đốc Bonard (Toàn quyền Đông Dương) gởi cho Chasseloup Laubat, có viết như sau:

Pigneaux de Behaine
Giám mục Bá Đa Lộc

Ai (các giáo sĩ, BK) cũng ôm ấp lý tưởng trở lại thời kỳ mà Giám mục Bá Đa Lộc được xem như ông vua thực sự của xứ An Nam, thời kỳ mà mọi việc chỉ có thể được thực hiện theo lời khuyến cáo của ông giám mục này, hoặc được ông cho phép. Để đạt mục đích đó, các nhà truyền giáo đã dùng kế hoạch sau đây: Nếu những ai nối vị vua Gia Long mà không theo ý của các ông giáo sĩ, thì họ sẽ tìm cách phủ nhận tính chính thống của vua này, và khi lật đổ được triều đình hiện tại thì sẽ bầu lên một ông vua khác theo ý họ.” (Bùi Kha dịch theo nguyên văn tiếng Pháp: Tous caressent l'idée de revenir au temp où l'Évêque d'Adran était le véritable souverain du royaume d'Annam, temps où rien ne se faisait que par ses conseils ou sa permission. Pour parvenir à ce but voici quels moyens ils ont employés: les unes et les autres, ne trouvant pas que les successeurs de la dynastie de Gia Long obtempérassent assez à leurs désirs, ont contesté la légitimité de ceux-ci et ont cherché à mettre en avant un candidat qui, s'il renversait la dynastie régnante, leur offrit plus de garanties pour arriver à leurs fins.  Archives du Ministère des Affaires Étrangères, Asie, Mémoires et Documents, Vol, 28, Fol. 85-88: Thư khố Bộ Ngoại giao, Á châu, kỷ yếu và tài liệu, tập 28, tr. 85-88; Cao Huy Thuan, Christianisme Et Colonialisme Au Vietnam 1857-1914.)

Linh mục Legrand De La Liraye cũng nói: “Theo thần, chiến tranh là cách duy nhất để đạt kết quả nghiêm chỉnh tại nước đó. Cần phải chấp nhận chiến tranh như là cách tốt nhất, phải đánh gấp ở Bắc Kỳ, Huế và Đà Nẵng cùng lúc, nếu được thì lật đổ chính phủ, bàn chuyện giải phóng cho hai dân tộc thua trận ở Cochinchine và đặt lên ngôi ở Bắc Kỳ một kẻ giả danh là con cháu nhà Lê.” (Bùi Kha dịch theo nguyên văn tiếng Pháp: La guerre suivant moi est le seul moyen d'arriver avec ce pays à un résultat serieux. Il faut l'accepter comme ce qu'il y a de mieux, la faire avec promptitude au Tonkin, à Huế et Tourane à la fois, renverser s'il y a moyen le gouvernement, parler de l'emancipation des deux peuples vaincus en Cochinchine et du placement sur les trône d'un pretendant de la famille des Lê au Tonkin.  Luận án Tiến sĩ của Cao Huy Thuần: Christianisme et Colonialisme au Viet Nam 1857-1914 , Đại Học Paris, Pháp, 1969.)


Linh Mục
Alexandre de Rhodes

Trước kia, đầu thế kỷ 17, Linh Mục Alexandre de Rhodes đã mang sứ mạng của một giáo sĩ Dòng Tên (Jesuite) qua Á Đông truyền đạo với lời thề nhập môn của giáo sĩ Jesuite trước Giáo Hoàng như sau: “…Con xin hứa thêm rằng, lúc có cơ hội, con sẽ tạo ra chiến tranh và tham gia bí mật hay công khai chống lại tất cả những kẻ khác tôn giáo, Tin Lành và Tự Do, như con đã được chỉ thị, để tàn sát và triệt hạ tận gốc những tên này trên khắp mọi miền của quả đất. Con sẽ không bỏ sót một tên nào; bất kể tuổi tác, giới tính hay hoàn cảnh, con sẽ treo cổ, đốt sống, bỏ vào nước sôi, lột da, siết cổ hay chôn sống những kẻ khác tôn giáo, mổ bụng, moi bào thai trong tử cung vợ chúng và đập đầu những hài nhi vào tường để tiêu diệt vĩnh viển một chủng tộc đáng ghét…  (…I furthermore promise and declare that I will, when opportunity present, make and wage relentless war, secretly or openly, against all heretics, Protestants and Liberals, as I am directed to do, to extirpate and exterminate them from the face of the whole earth; and that I will soare neither age, sex or condition; and that I will hang, burn, waste, boil, flay, strangle and bury alive these infamous heretics, rip up the stomachs and wombs of their women and crush their infants’ heads against the walls , in order to annihilate forever their execrable race…  Xem Jesuit Extreme Oath of Induction, https://www.reformation.org/jesuit-oath.html, và https://www.ianpaisley.org/article.asp?ArtKey=jesuit.)

Đó là tinh thần đi truyền đạo, các thừa sai Thiên Chúa đã mang đến xứ ta.

Cho nên giáo sư Lý Chánh Trung đã có nhận xét là: “Ngày nay hầu hết mọi người đều đồng ý rằng việc cấm đạo, giết đạo dưới các nhà vua triều Nguyễn là một hành động bất nhân và sai lầm. Nhưng nếu chúng ta đặt mình vào địa vị các nhà vua ấy, vào khung cảnh tâm lý thời đó, có lẽ chúng ta khó có thể làm khác hơn”  (Lý Chánh Trung, Tôn Giáo và Dân Tộc,Sàigòn, Lửa Thiêng, 1973.)

Giáo sư nói vậy để tỏ lòng độ lượng chứ các giáo sĩ có hiền đâu!  Hoặc là thời đó Giáo sư chưa có đủ tin tức như bây giờ. Những lời hoa mỹ như tình thương, công bình nhân ái chỉ là để lừa người nhẹ dạ mà thôi. Thật sự, các giáo sĩ đã mang theo một giả tâm rất lớn. Chắc chắn khi đến VN, họ đã giấu nhẹm lòng thù hận ngút ngàn, dựa theo những lời thề man rợ của họ trước Giáo hoàng.

Bề ngoài thơn thớt nói cười,

Mà trong nham hiểm giết người không dao! (Kiều)

Các Giáo Sĩ Thúc Dục Quan Chức Pháp Đánh Chiếm Việt Nam Và Lật Đổ Triều Nguyễn

Tới đây ta có thể thấy là vua Tự Đức và, nói chung, các vua đầu triều Nguyễn đã bị trách oan, đựa theo các chứng cớ minh bạch kể trên, và cũng được trình bày thêm sau đây:

Tuy tích cực giúp Pháp đánh chiếm nước ta,  như Linh Mục Pellerin, Nguyễn trường Tộ và nhiều giáo sĩ khác ra đón tàu Pháp ở cửa Mãnh Sơn, Đà nẵng, cùng nhaukhuyên Trung tướng Genouilly tiến đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm (1); như "...đầu năm 1861 Nguyễn Trường Tộ với Giám mục Gauthier trở về Sài Gòn, theo yêu cầu của Đô đốc Charner, viên chỉ huy được giao trách nhiệm gom quân để mở rộng vùng chiếm đóng ở Sài gòn” để  làm thông ngôn và  điềm chỉ(Linh Mục Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo, TP HCM, 1988);  như Petrus Ký gửi thư cho “Ðại Nguyên Soái Pháp” (Trung tá hải quân Jean Bernard Jaureguiberry) van nài xin đánh chiếm ngay Gia Định (2) v.v…  Nhưng rồi, khi hoà ước Nhâm Tuất, 1962, được ký (vua Tự Đức phải nhượng đứt 3 tỉnh Biên Hoà/Gia Định/Định Tường cho Tây và cho phép các giáo sĩ được tự do truyền đạo) họ vẫn không bằng lòng và còn gây áp lực với Đô đốc Bonard đòi VN phải nhượng bộ thêm, hoặc là đánh chiếm luôn đất Huế. Trong một văn thư mật gởi về Pháp ngày 24-7-1862, Bonard đã phàn nàn:

"Chính về phía các nhà truyền giáo mà phát sinh ra những rắc rối nghiêm trọng nhất, nếu chúng ta không hạn chế trong việc che chở hợp lý cho họ và lấy cớ tôn giáo để ủng hộ họ trong các âm mưu chính trị nhằm lật đổ chính quyền hiện hữu, các âm mưu trong đó, khổ thay, nhiều người trong bọn họ thường bị lôi cuốn vào mà không hề từ chối. Thật là nguy hiểm nếu ủng hộ họ trong việc làm như thế vì họ sẽ trở thành những kẻ gây loạn thật sự chứ không phải là những kẻ Tử Vì Đạo...

Tái Bút: Tôi vừa nhận được tin tức mới và vội vàng gửi ngay tới Ngài. Tôi xin Ngài hãy cứu xét kỹ những nhận xét trên của tôi, vì càng ngày những hành động và phát biểu của các nhà truyền giáo ở Nam Kỳ càng cho thấy họ cố hết sức đưa chính phủ vào con đường tai họa mà họ đang theo: Lật đổ vua Tự Đức.

Bất kể đến những cảnh cáo của tôi và dù tôi đã khuyến cáo họ là hãy đợi quyết định của chính phủ, của Hoàng Thượng về việc phê chuẩn hiệp ước hòa bình cùng những kết quả của nó, họ vẫn không ngừng gửi ra Huế các gián điệp đầy ý đồ xấu xa nhất, đầy tinh thần đốn mạt nhất.."(Nguyễn Thế Anh, Việt Nam Thời Pháp Đô Hộ, Lửa Thiêng xuất bản.

Lòng mù quángvọng ngoại và  tự  ti đã  làm cho nhiều giáo sĩ VN thờì  đó tự  hại gía trị của mình. Xem cách xưng hô của Petrus Ký trong thư gởi “Tây soái” chứng tỏ ông ta không có nhân cách cao (2). Giám mục Gauthier, thầy của Nguyễn trường Tộ trong hàng chục năm, cũng phê bình ông Tộ như sau: “Tên Trường Tộ trước là linh mục. Từ khi thuyền Tây đến Gia Định thì phần nhiều kém đạo hạnh, lệch lạc ra ngoài phạm vi đạo trưởng, năng lui tới Tây soái tìm vui.”  (Linh Mục Trương Bá Cần, Nguyễn trường Tộ: Con Người Và Di Thảo, Nhà xuất bản T.P. Hồ Chí Minh, 1988.)

Toàn Quyền Bonard Xoa Dịu Các Giáo Sĩ, Thiết Lập Chế Độ Giáo Dục Mới Để “Trồng Người” Theo Đạo Thiên Chúa Và Bảo Vệ Nền Tảng  Đế Quốc Cho Thực Dân Pháp

Sách Các Vua Cuối Nhà Nguyễn của Vũ Ngự Chiêu kể thêm:

“Để làm dịu lại sự chống đối của các nhà truyền giáo, Bonard ủy cho họ nghiên cứu và thiết lập trường học để "giáo hóa" dân bản xứ, thực hiện kế hoạch "trồng người" hầu cung cấp nhân lực cho việc xây đắp và duy trì nền tảng của đế quốc Pháp ở Đông Dương. Một tiểu chủng viện bắt đầu hoạt động ở Sài-Gòn để đào tạo giai tầng trí thức "tân trào" hầu thay thế giai tầng văn thân / nho sĩ. Ngoài ra còn nâng đỡ các giáo sĩ trong việc mở mang họ đạo, xây dựng nhà thờ, thu mua hoặc chiếm đóng các đền miếu, chùa chiền và ruộng đất bỏ hoang của dân tị nạn chiến tranh.”  (Vũ Ngự Chiêu, Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, Tập I, Văn Hóa, Houston, 1999.)

Cao Huy Thuần cũng nêu lên mưu đồ của các giáo sĩ và thực dân trong phần “Các Người Truyền Đạo Chống Hiệp Ước 1862: Thư Từ Của Bonard”, với những đoạn sau đây:

"Sự truyền bá đạo Gia Tô nhất định là phương tiện chắc chắn nhất để một dân tộc thuộc về chúng ta. Trong sáu tỉnh, sự truyền bá này sẽ được thực hiện bởi các trường dạy trẻ. Những người An-Nam không theo Ki Tô Giáo không có sự ghê tởm nào đến độ không giao phó con cái họ cho những nhà truyền giáo và thật là vô ích nếu chúng ta bắt buộc họ phải để cho con em họ rửa tội trước khi được nhận vào trường học, vì sự cải đạo vào Gia Tô giáo sẽ trở thành tự động và không có một trở ngại nào. Những trường học sẽ là một cơ hội tốt để chúng ta đồng hóa hoàn toàn dân tộc này bằng cách đưa ngay họ lên hàng những quốc gia dùng tiếng Tây bởi sự dẹp bỏ chữ Nho...

… Giao phó hoàn toàn cho các nhà truyền giáo và dưới sự kiểm soát của nền hành chánh, nền giáo dục này được chia ra làm hai bậc: tiểu học và trung học.

Do giáo dục trung học, người ta có thể cung cấp cho giới giáo sĩ những linh mục Việt Nam để tăng cường, và đào tạo những người cho họ có khả năng để dần dần đưa vào giữ những chức vụ cai trị khác nhau mà người ta không thể tìm được đủ người Pháp có những kiến thức cần thiết. Khi người Pháp đến Sài-Gòn, tuyệt đối không biết gì về tiếng nói bản xứ và không có thì giờ cũng như ý muốn học hỏi, họ phải cần đến ngay những thông dịch viên; phái bộ truyền giáo miền tây Nam Kỳ hào phóng tình nguyện cung cấp phần lớn những chủng sinh để tạm thời phục vụ cho chính quyền thực dân.

Nhưng chính giáo dục tiểu học mới là điểm tập trung tất cả sự quan tâm của các đô đốc toàn quyền. Tương lai địa vị của Pháp ở Nam Kỳ tùy thuộc vào đó. Đào tạo một thế hệ mới thấm nhập ý thức hệ Ki Tô Giáo và do đó, xa lạ với văn minh tổ tiên của họ, người ta đã xây dựng một căn bản vững chắc trên đó nền thống trị của Pháp được đặt một cách vững chắc và vĩnh cửu...“  (Cao Huy Thuần, Giáo Sĩ Thừa sai Và Chính sách Thuộc Địa Của Pháp Tại Việt Nam (1857-1914),Luận Án Tiến Sĩ Quốc Gia, Đại học Paris, Pháp, 1969, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội.)

Công Trạng Của Puginier Và Thành Tích Phục Vụ Pháp Của Giám Mục Trần Lục

Giám mục Puginier
Giám mục Puyginiê

Viết trong cuốn Loin du Pays, xuất bản ở Paris năm 1896, tu sĩ dòng Tên F. Rouvier khoe rằng: “Cho tới ngày chết, 25-4-1892, Giám mục Puyginiê chẳng bỏ qua ngày nào mà không hoạt động để củng cố thêm vị trí nước Pháp tại xứ sở con nuôi này của ông. Người ta đang giữ hàng chục điệp văn và bản tin tình báo mang chữ ký của ông trong văn khố của Bộ Thuộc địa. Và một phần nhờ ở các bản tin đó mà quân Pháp đã đập tan cuộc kháng chiến vũ trang của người Việt. Cuộc kháng cự hùng mạnh nhất đã xảy ra tại Ba Đình, Thanh Hóa, dưới sự chỉ huy của Đinh Công Tráng. Bề ngoài, đó là một loại làng được biến thành căn cứ, được lũy tre bảo vệ có thành, đường hầm và hệ thống giao thông hào được bố trí rất thông minh. Tinh thần chiến sĩ lúc đó rất cao. Nhằm “bình định” cứ điểm này, quân Pháp đã gửi tới một lực lượng gồm 2250 tên lính, 25 đại bác, 4 pháo hạm dưới quyền chỉ huy của trung tá Metxanhgie (Metzinger). Cuộc tấn công ngày 16-12-1886 bị đẩy lui. Quân Pháp phải tổ chức bao vây để tìm hiểu chiến thuật mới. May cho chúng, vì có một sĩ quan trẻ, đại úy Giôphơrơ (Joffre sau này là thống chế Pháp trong chiến tranh Thế Giới Thứ Nhất) nghĩ tới việc nhờ Linh mục Trần Lục, quản xứ Phát Diệm và là Phó Vương, tiếp trợ cho cuộc bình định các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Ông linh mục này đã nhận phép lành của Giám mục Puyginiê, rồi đi tiếp viện cho quân Pháp với 5000 giáo dân. Ba Đình đã thất thủ.” (Bùi Kha  dịch theo nguyên văn tiếng Pháp: Jusqu'à sa mort le 25 Avril 1892, Mgr Puginier ne restait pas une journée sans travailler à affermir la position de la France dans son pays d'adoption. On conserve des dizaines de Notes et renseignements portant sa signature dans les Archives du Ministère des Colonies. Et en partie grâce à ses renseignements, les Francais purent écraser la résistance armée des Vietnamiens. La résistance la plus farouche était menée à Ba Dinh, Thanh Hoa, sous la direction de Dinh Cong Trang. C'était en apparence un village fortifié avec une ceinture de bambous, des remparts, des tranchées et boyaux de communication savamment disposés. Le moral des combattants était très haut. Pour le “pacifier”, les Francais envoyèrent une force de 2.250 soldats, 25 canons, 4 canonnières sous le commandement du colonel Metzinger. L'attaque du 18 décembre 1886 fut repoussée. Les Francais durent l'assièger en cherchant une nouvelle tactique. Heureusemet pour eux, un jeune officier, le capitaine Joffre (qui deviendra le fameux maréchal de France pendant la première guerre mondiale). Pensa à demander l'aide du père Tran Luc, curé de Phat Diem et Vice-roi pour la pacification des provinces de Thanh Hoa, Nghe An et Ha Tinh. Celui-ci avec la bénédiction de Mgr Puginier vint à la rescousse des Francais avec 5000 chrétiens. Et Ba Dinh fut pris. Xem Linh Mục Trần Tam Tĩnh, Dieu et Cesar (Thập Giá và Lưỡi Gươm), La Mã, 19-5-1975.)

  Vài Liên Hệ Đến Các Lãnh Tụ Miền Nam Việt Nam Và Sự Can Dự Của Người Mỹ

Vua Bảo Đại được Tây đầu độc từ  nhỏ nên chỉ biết ăn chơi, Bảo Long bị Pháp hóa nên quên hết tổ tông và truyền thống . Hai ông nầy sống ở Pháp trọn đơì nhưng không buồn ghé qua Thư khố Bộ Ngoại Giao, tìm xem thử ngày trước thực đân đã làm hại ông bà và đất nước mình như thế nào. Nếu các ông ấy đọc được Đoạn Trường Tân Thanh thì có lẽ phải hổ thẹn với Thúy Kiều. Cô ta cũng biết nghĩ tơí nước nhà:

Rằng Từ công hậu đãi ta,

Chút vì việc nước mà ra phụ lòng.

Giết chồng rồi lại lấy chồng

Mặt nào là mặt đứng trong cõi đời.

Thôi thì một thác cho rồi,

Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông.          (Kiều tự kiểm sau khi Từ Hải chết)

Ngày nay chúng ta đều rõ việc tin rằng chính phủ Mỹ giúp người là vì tự do hạnh phúc của nhân loại là sai rồi.

Trong việc đánh Irak, chính phủ Mỹ đâu có thương gì dân tộc bất hạnh đó để tốn kém gần 1 tỉ đô/tuần (trong bài Hải Đảo Haiti Và Tôi, Giáo sư Thái Công Tụng cũng cho thấy Mỹ có thương gì dân Haiti ở  sát nách đây đâu). Tuy Saddam Hussein rất tàn ác, đã dùng hơi ngạt giết khoảng 20 ngàn dân Kurk ở Halabja (https://en.wikipedia.org/wiki/Halabja_poison_gas_attack), nhưng Tổng thống Bush xâm lăng Iraq giết chết trên 100 ngàn người và làm cho trên 2 triệu người tán gia bại sản, trở thành đân tị nạn thì ai thực sự thương ai?  (https://en.wikipedia.org/wiki/Casualties_of_the_Iraq_War). Bush lại còn huênh hoang tuyên bố là Chuá sai ông ta đi giết Saddam (“George, go and fight those terrorists in Afghanistan! And I did, and then God would tell me, 'George go and end the tyranny in Iraq,' and I did.” https://www.guardian.co.uk/world/2005/oct/07/iraq.usa.)

Cứ vô tư làm ác mà không sợ cắn rứt lương tâm vì trên kia đã có sẵn Thượng đế ban phước lành cho mình.  Đó là một sản phẩm đặc biệt bất nhân của truyền thống văn hóa Tây phương. Thế  nhưng, giả vờ  quên hết những sự thật tàn bạo dã  man, hàng ngày đài RFA (với sự liên kết/ bảo bọc cuả  CIA, https://www.air-america.org/News/documents/20110927_Asia_Times.pdf) cứ  tuyên truyền, cổ  võ  cho một nền văn hóa Âu Mỹ “văn minh” đầy công bình nhân ái, và nhất là, thiết tha khôn xiết vơí nhân quyền!

Như thời Tổng Thống Diệm, được biết là đã bị Mỹ lợi dụng để chặn làn sóng cọng sản cho Mỹ chớ chẳng phải thương mến gì dân tộc VN xa lạ, ở bên kia nửa quả địa cầu (cần phân biệt rõ nhiều chính phủ thường phải phục vụ cho các thế lực tư bản, khác với nhân dân Mỹ). TT. Johnson nói với ký giả:

"Cái cục c.! Diệm là thằng nhóc duy nhất mà ta có (sai bảo) được ở đó"- ( "Shit! Diem's the only boy we got out there.” https://www.xtimeline.com/evt/view.aspx?id=1511.)

Ta còn đọc thấy thư của Giám mục Ngô đình Thục gởi Toàn quyền Decoux, xác nhận anh em ông ta mấy đời trung thành và phục vụ cho Tây (3). Tài liệu mật mới giải mã cũng cho thấy TT. Nixon nói cắt đầu ông Thiệu nếu cần ("I don't know whether the threat goes too far or not, but I'd do any damn thing, that is, or to cut off his [Thieu’s] head if necessary." https://whitehousetapes.net/clip/richard-nixon-henry-kissinger-cut-his-thieus-head)... Và quân Mỹ đã làm gì ở VN?  Chúng ta ai cũng biết nhưng chưa thấu đáo.  Hãy nghe từ miệng của Thượng nghị sĩ John Kerry (từng là trung úy hải quân, phục vụ 2 nhiệm kỳ ở VN):

Tôi muốn nói rằng vài tháng trước ở Detroit chúng tôi có một cuộc điều tra trong đó có 150 quân nhân đã được giải ngũ trong danh dự đã làm chứng cho những tội ác chiến tranh phạm ở Đông Nam Á. Họ nói những câu chuyện của thời đó là chính họ đã hãm hiếp, cắt tai, chặt đầu, kẹp giây điện từ những bộ máy truyền tin vào nhưng cơ quan sinh dục rồi quay điện, chặt chân tay, làm nổ tan xác, bắn chơi vào các thường dân, triệt hạ cả làng theo kiểu của Thành Cát Tư Hãn, bắn trâu bò, chó, làm trò chơi, bỏ thuốc độc các kho lương thực và hầu như là tàn phá toàn diện miền quê Nam Việt Nam, ngoài sự tàn phá thông thường của chiến tranh và sự tàn phá thông thường và đặc biệt của những cuộc bỏ bom trên đất nước này.” (They told stories that, at times, they had personally raped, cut off ears, cut off heads, taped wires from portable telephones to human genitals and turned up the power, cut off limbs, blown up bodies, randomly shot at civilians, razed villages in fashion reminiscent of Ghengis Khan, shot cattle and dogs for fun, poisoned food stocks, and generally ravaged the countryside of South Vietnam, in addition to the normal ravage of war and the normal and very particular ravaging which is done by the applied bombing power of this country. https://www.democracynow.org/2004/2/20/john_kerry_then_hear_kerrys_historic.)

Nhìn Nhận Sự Thật Và Con Đường Dẫn Tới Tương Lai

Thực tế lịch sử phũ phàng như vậy rất đáng buồn, nó thúc dục chúng ta không lãng tránh hay nhắm mắt làm ngơ. Trái lại, ta phải hết sức trân trọng nhìn nhận nếu không muốn sống trong ảo mộng. Đây là lịch sử của đất nước nhà, ta cần biết thật rõ mới phán đoán được chín chắn con đường nào đẫn tới tương lai.

Trăm năm tính cuộc vuông tròn,

Phải dò cho rõ ngọn nguồn lạch sông.           (Kiều)

Sử liệu về Giám mục Bá Đa Lộc và Vua Gia Long cho thấy rõ hậu quả của việc nhờ vả ngoại bang. Thư của Giám Mục Ngô đình Thục gởi cho Tòan quyền Decoux (3), cho thấy rõ chân tướng phục vụ thực dân của gia đình cụ Ngô đình Khả và của Nguyễn Thân (người Quảng Ngãi, chỉ huy đánh dẹp phong trào Cần Vương và đào mả cụ Phan đình Phùng, lấy xác bắn xuống sông Lam.) Thẳng thắn nhìn vào lịch sử với những dữ  liệu không thể  phủ bác, ta không sợ nhầm lẫn và,  ngược lại, cũng không dễ bị xuyên tạc hay hiểu lầm.

Đáng buồn hơn nữa là cho đến nay, những tàng tích nô lệ, sợ sệt vẫn còn tồn đọng trên đất nước/con người VN. Điễn hình như khi ta nói chuyện lịch sử có liên quan tới Tàu thì được, nhưng liên quan tới Tây phương thì không ít người lại e dè, ngần ngại, vì đã có sẵn thành kiến do bị nhiễm độc 100 năm tuyên truyền nhồi sọ của thực dân, rằng họ văn minh giàu có, đã góp phần khai hóa xứ mình mà không buồn tìm hiểu kỹ hơn.

Thực dân xây dựng cầu đường, nhà máy, hải cảng, sân bay, v.v..  là ưu tiên dùng để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh và kinh tế của họ, gồm cả viêc điều động quân sự, tiêu diệt nghĩa quân, kiềm giữ dân thuộc địa trong vòng nô lệ; để bóc lột sức lao động của dân ta trong các nhà máy, đồn điền; và để chuyên chở tài sản về mẫu quốc. Với số tiền kết sù đó, họ tha hồ xây dựng nhà thờ, cao ốc, đền đài.., và phô trương, lòe bịp lại dân thuộc địa. Trong tiến trình nầy, dân ta đã chịu nhiều sự chà đạp nhân phẩm, bị nghèo đói/ngu dốt, chiến tranh/chết chóc, chia rẽ/hận thù; và do đó, đã làm cho đất nước ta chậm tiến hơn nhiều so với tình trạng ở các nước láng giềng còn giữ được độc lập tự do.

Song hành với sách luợc trên, trong khi các tôn giáo bản địa bị kỳ thị, các phong tục cổ truyền bị bứng gốc/tiêu diệt bằng nhiều cách khác nhau, thì rõ ràng là các tổ chức đạo Chúa luôn luôn cấu kết vơí Tây phương đi chiếm đoạt thế giới để trục lợi. (Ở Âu Mỹ, tôn giáo không tách rời khỏi chính trị mà làm chính trị thông qua việc thành lập các đảng phái tôn giáo, hoặc tích cực cổ động việc bầu cử cho các đảng chính trị có liên kết với giáo phái của mình để tranh đoạt quyền lợi.)  Đạo Chúa làm tiền bằng cách truyền đạo rồi buộc con chiên phải đóng niên liễm hội viên: tín đồ Mormon phải đóng 10% lương; nhà thờ lớn nhất Á Đông ở Hán Thành (có hơn 3 triệu tín đồ) thâu tiền “bỏ giỏ” ít nhất 3 triệu dollars/tuần - ví dụ như mỗi người góp 1 dollar/mỗi chủ nhật.  Đó là chưa kể tiền kinh doanh ở địa phương (như các cơ sở thương mại: nhà in Nguyễn Bá Tòng, trại gà Đàlạt, thương xá Eden, nhà sách, nhà in Tân Định, đất nhà chung (4)… ở VN;  tiền bán vé vào cửa  cho du khách đi xem các viện bảo tàng, các nhà  thờ, các đền đài/phế tích của người da đỏ ở các xứ  Nam Mỹ, v.v..) gởi về làm giàu cho các chủ họ đạo gốc nhiều vô kể. “ …  Rốt cuộc thì, giám mục là người quản lý kinh doanh cho giáo phận của mình. Số tiền lớn nhất từ giáo khu gởi về Vatican gọi là Peter's Pence, và tiền thu được hàng năm từ toàn thể các nhà thờ. Đôi khi Vatican còn đòi những đóng góp thêm…

… Kể  từ  năm 1947, cả các dòng tu cũng như giáo xứ Thiên Chúa giáo đã dựa vào các cơ quan kinh tài của Vatican để kinh doanh,  hầu đạt được số lợi nhuận nhiều nhất có thể được.”   (… In the final account, the bishop is the business manager of his his diocese. The largest amount of money that goes to the Vatican from the diocese is Peter's Pence, and annual collection made throughout the Church. From time to time, the Vatican will require additional contributions and "quotas."

... Since 1947, both religious orders as well as diocese have made use of the Vatican' financial agencies in order to obtain the best investment possible for their funds. Malachi Martin, Rich Church, Poor Church, New York, G. P. Putnam's Sons, 1984.)

Tạm so sánh để có thêm một khái niệm: Đạo Chúa có 2,1 tỉ tín đồ. Nếu lấy GDP bình quân cho mỗi đầu người trên thế giới là 5 ngàn dollars thì tiền lệ phí các Giáo hội thâu được hàng năm là hơn 1 ngàn tỉ dollars (2,1x5.000x10% = 1,05x10^12.)  - Gia tài của ông Bill Gates chỉ có 61 tỉ; GDP năm 2011 của VN là 122 tỉ, của Ấn Độ là 1 ngàn 843 tỉ - (https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_countries_by_GDP_%28nominal%29.)

Sách Lược Hiện Tại Của Các Thế Lực Ở Phương Tây

Gần đây, chủ nghiã Thực Dân Mới rất nổi tiếng với kế hoạch dụ cho ăn và trừng phạt nếu bảo không nghe lời (carrot and stickapproach), và sách lược cai trị Nhật Bản, kiểm soát Nam Hàn v.v… Và, với sự áp dụng một phương pháp mềm mỏng, êm diụ hơn, như kế hoạch đòi tôn trọng nhân quyền gắn liền với giao thương và viện trợ. Kế hoạch nầy trực tiếp nhắm vào quyền lợi của người dân, nhưng hàm ý bảo đảm cho các tổ chức đạo Chúa được tự do truyền đạo với những ưu thế vượt trội về tài nguyên và phương tiện nhân sự. Chiến lược tế nhị nầy đã tạo nên những thành công vượt bực tại nhiều nơi trên thế giới, nhất là tại các cựu thuộc địa, những nơi  mà chế độ Thực Dân Cũ chưa thành công tẩy xóa được hết các nền văn hóa cổ truyền. Tất cả đều nhằm hoàn thành mục đích chính là o ép, làm thay đổi truyền thống văn hóa và xã hội của một quốc gia, để thiết lập cho được một chế độ chính trị thân hữu rập khuôn, dễ thao túng và có lợi cho Tây phương.  Tóm lại, cứu cánh vẫn như xưa.

Đặc biệt là họ ngang nhiên quảng cáo rùm beng. Nào là chương trình Praying Through The Window IV, họ hoạt động rất triệt để theo các kế hoạch truyền đạo cho “hàng tỉ người có linh hồn thiếu đói” (The 10/40 Window, encompasses the majority of the world's Muslims, Hindus, and Buddhists -- billions of spiritually impoverished souls, https://www.ad2000.org/1040ovr.htm);  nào là  Pat Robertson (cựu ứng viên tổng thống Mỹ) lập thêm viện đại học để đào tạo nhân sự , cổ võ cho kế hoạch dùng đạo Chúa để thay đổi (văn hóa và chế độ chính trị) thế giới (Christian leadership to change the world, https://www.regent.edu/about_us/leadership/chancellor.cfm) v.v..;  và tại Việt Nam cũng có thể sắp có một vài trường đại học Thiên Chúa.  

Dòng Tên ở Mỹ đã gởi giáo sĩ Giulietti qua VN hoạt động, chuyên chú và tỉ mỉ nghiên cứu tình hình trên 16 năm nay (“in the last 16 years, assimilating Vietnamese culture, learning to navigate obscure bureaucracies, and developing many close contacts along the way”)  để “cấy người” và đào tạo lãnh tụ trung thành phục vụ họ trong tương lai, với một sự  mưu  tính đến hàng 100 năm về sau! (“… and plan -- in unique ways, sometimes looking decades, even centuries, into the future. …  The Loyola Vietnam Center has grown out of the visions of Giulietti; Jesuit Fr. Michael J. Garanzini, president of Loyola University Chicago; and Patrick Boyle, associate provost at Loyola Chicago. All are notably global thinkers who see the value in providing value-oriented education, in forming global leaders”, https://ncronline.org/news/new-jesuit-foothold-vietnam).

Cũng là Dòng Tên nữa!  Họ chắc chắn mang theo lời thề độc với Giáo Hoàng như giáo sĩ Alexander de Rhodes ngày nào. (“Linh mục Alexandre de Rhodes là một gián điệp dòng Tên đã đến VN để nghiên cứu về tình hình địa thế, dân tình, chính trị, kinh tế để tường trình và báo cáo về Vatican.”, Avro Manhattan, Catholic Imperialism And World Freedom, Arno Press, 1972). Rhodes cũng là người đầu tiên vận động Pháp đánh chiếm Việt Nam (Xem sách ông ta viết: A. de Rhodes, Divers Voyages et Mission. Bản dịch tiếng Việt của Hồng Nhuệ, Hành Trình và Truyền Giáo, Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo xuất bản, TP Hồ Chí Minh, 1994).

Họ nói ra thẳng thừng và minh bạch như thế, chẳng lẽ ta laị phải giấu dùm, sợ họ quá ngông cuồng, lỗ mãng ư?

KẾT

Đây là một sinh hoạt trí thức nghiêm túc nói về sự thật lịch sử/nhân vật lịch sử. Các vấn đề nêu ra đều rất trung thực và có tính xuyên quốc gia; không hề mang tính tùy hứng hay có tính cách cá nhân, cục bộ, hẹp hòi. Các tin tức đều được trích dẫn từ những nguồn tin chọn lọc, có giá trị cao; từ các giáo sư đại học/ký giả/linh mục đứng đắn ở Âu Mỹ, và từ các cơ quan truyền thông/mạng báo điện tử có uy tín.

Khi mới đọc thấy những sử liệu trên, tác giả đã giật mình. Tìm hiểu thêm, người viết đần dần thấy mở ra trước mắt mình một bầu trời trong sáng của sự thật, trong đó không còn những đám mây u ám của ngụy biện, giả dối và xuyên tạc, tuyên truyền. Buồn chăng là đã phí trên 60 năm tuổi đời, sống trong sự mịt mờ che phủ trí tuệ, trong hoàn cảnh thông tin bị bưng bít, để đến nỗi nhiều lúc đã lầm giặc là cha!  

Nước VN đang trong thơì đổi mới, người người đều quyết chí tiến lên, hăng hái học tập/kinh doanh để thoát khỏi vòng lẩn quẩn của sự đói nghèo và ngu dốt.  Nhưng, khổ nỗi, nhiều người không cưỡng lại được sự đầu độc áp đảo của lối sống tham lam, chạy theo “chủ nghiã vật dục bỉ tiện” (vulgar materialism, theo Alexander Solzhenitsyn,) đã vội vàng tiêu thụ những rác rưởi, bọt bèo của nền văn hóa phương Tây; và do đó, đã làm cho xã hội sa đọa, đạo đức suy đồi, nghĩa là hấp thụ ngay những cái xấu xa nhất của nền văn hóa mới. Một phần nào đó, phương Tây đã bất chiến mà tự nhiên thành!    ”Dục tốc” sẽ đưa tơí một sự phát triễn/giàu có với rất nhiều bất cập. Sự sửa lại các thói hư tật xấu đã bị nhiễm, và tu chỉnh lại đạo đức con người không phải là mau. Phải mất nhiều thập niên, có khi hơn cả 100 năm. VN ta đã có một truyền thống văn hóa ưu việt hàng ngàn năm rồi, dạy ta phải biết “gạn đục khơi trong”, chẳng đáng nên trân trọng lắm sao?

Viết xong ngày 18 tháng 6 năm 2012.

Lý Tuệ Châu

 


Phụ lục:

(1) Trích từ sách “Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo” của L. M. Trương Bá Cần, nhà xb TP HCM, 1988 tr. 22:
Ngày 16.10.1858, Nguyễn Trường Tộ ra cửa Mành sơn Đà Nẵng để chào mừng quân Pháp và cùng với đồng bọn làm áp lực để Pháp đánh Huế.
Sử liệu:Theo lời khai của một lang y (người thôn Thuận An, tổng Thanh Vân, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) tên Trần Vinh bị tàu Pháp bắt đem đi rồi sau trốn thoát được, kể lại thì ngày 10 tháng 9 (tức 16/10/1858), tàu Pháp (trên đó có Trần Vinh) đến đảo Nhãn Sơn, trước cửa Mành Sơn, để đón “Đức Thầy Huy và Cố Lý” (tức Giám mục Gauthier và Linh mục Croc, cũng có tên là Hậu và Hòa) nhưng “hôm qua hai vị đã lấy thuyền Nhà Chung với 8 người đi rồi”. Khi tàu Pháp trở về Trà Sơn, Đà nẵng, thì thấy thuyền Nhà Chung đã ở đó rồi” (xem Châu bản Triều Nguyễn CBR 22/47). Các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà Nẵng đứng đầu là Giám mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng bộ chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không thể dễ dàng tiến đánh Huế mà phải chuyển hướng về Sài Gòn. Do đó, trước khi đem quân vào Sài Gòn, Đô đốc Rigault de Genouilly đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đã đi Hồng Kông trong những điều kiện như thế vào đầu năm 1859”.

 

(2) Ghi chú của Hợp Lưu:

- Petrus Key Nhận Bắc Đẩu Bội Tinh đệ ngũ đẳng của Pháp ngày 4 tháng 8 năm 1886.
- Một trong những “tác phẩm” nổi tiếng của Petrus Ký là lá thư ra mắt Ðại Nguyên Soái (Grand Chef) Pháp của Petrus Key :

TÀI LIỆU I (theo Sử gia Vũ Ngự Chiêu)
Tháng 3/1859, Petrus Key viết thư ra mắt Ðại Nguyên Soái (Grand Chef) Pháp, van nài hạm đội Pháp hãy tấn công ngay các thành trì miền Nam để giải phóng giáo dân Ki-tô và dân tộc Việt dưới ách cai trị chuyên chế, bạc đãi giáo dân của nhà Nguyễn.

Vì lý do kỹ thuật, phóng ảnh của tài liệu lịch sử trên không được toàn vẹn (có một số từ rất khó đọc).
Luật sư Trần Thanh Hiệp tóm lược nội dung thư như sau:

Thư Petrus Key có thể chia làm 3 điểm:

1-Petrus Key đã nhân danh một người che chở, bảo vệ cho tất cả Giáo dân Ki-tô cầu cứu hạm đội Pháp như các tông đồ kêu cứu Chúa và Chúa đã gửi xuống những Samson, Moise, Joseph để cứu khổ, cứu nạn. Petrus Key đã nói những lời van nài (supplications) thật sự, của những nạn nhân bị đàn áp một sống, mười chết. Ðể được ứng cứu, Petrus Key đã hết lời ca ngợi hạm đội Pháp vượt qua bao khó khăn trên bước viễn chinh để đến Việt Nam, và Petrus Key rất mong sự ra tay của binh lực Pháp.

2-Ðể giải thích lời kêu gọi cấp cứu của mình, Petrus Key đã mô tả thảm cảnh cấm đạo, giết đạo đang diễn ra, giáo dân "như đàn cừu non giữa đám sói tham mồi," hàng ngày tính mạng bị đe dọa, bị đặt vào thế phải lựa chọn ở khắp các ngả đường, giữa "bước qua thánh giá" hay bị chết chém. Ðó là chưa kể việc còn nhiều đe dọa đối với an ninh bản thân, tính mạng của giáo dân, bị theo dõi ngày cũng như đêm, tên tuổi bị niêm yết khắp nơi, bị quan quân tróc nã, tra hỏi, xét xử, đánh đập, giam cầm. Trong vòng vây nghiệt ngã ấy, Petrus Key đã không thể liên lạc được với binh lực Pháp nên chỉ còn biết chờ đợi được giải vây.

3- Petrus Key cho người Pháp biết rằng nội bộ quan quân của triều đình rất rối ren. Quan quân rất sợ binh lực Pháp. Lính hàng ngày bỏ trốn nếu có cơ hội. Dân chúng hoang mang, oán trách quan quân gây chiến, chỉ mong có hoà bình để được sống yên ổn. Bởi vậy binh lực Pháp không nên trì hoãn nữa. "Hãy thương xót chúng tôi," "Hãy giải phóng chúng tôi khỏi nanh vuốt kẻ thù," đó là những lời kêu cứu của người viết thư!

 

Lược Dịch Thư Petrus Key Gửi Ðại Nguyên Soái Pháp

Kính gởi Ðại quan (Ông chủ lớn)
Và các sĩ quan tôn kính của Ðoàn Chiến Hạm Pháp Quốc,
Ðáng lẽ tôi không được phép viết thư cho một người giữ chức vụ cao quý như Ngài; nhưng khi cái chết đang đe dọa từng bước chân, khi những hiểm nguy dồn dập đang vây quanh chúng tôi khắp nơi, tôi tin chắc rằng tấm lòng độ lượng của Ngài sẽ miễn thứ cho tôi được gởi đến Ngài những dòng chữ này. Tôi không dám hành động do lòng kiêu căng vô lối mà chỉ do sự dẫn giắt của ích lợi chung, và những hiểm nguy đang bao vây chúng tôi đã thúc đẩy tôi có hành động này.
Thuở xa xưa, khi các tông đồ bị bão tố dồi đẩy, đã van xin một cách tin tưởng với Thượng đế An lành "Hãy cứu chúng con, chúng con đang bị đắm chìm." Nhưng nhu cầu khẩn thiết bất chấp các luật lệ. Mảnh giấy thô thiển này, lá thư vụng viết này sẽ trình bày rõ với Ngài hoàn cảnh thật khốn khổ của tôi; thực ra, ở đây, dọc đường đi, tôi chẳng có gì trên người, không giấy, không tài liệu, không cả nghiên mực đàng hoàng, không ngòi bút thích hợp. Nhưng tôi xin nhân danh người đại diện cho các đạo hữu Ki-tô, dâng lên Ngài những lời than van của chúng tôi; tôi xin kể cho Ngài nghe tất cả nỗi đau khổ và bạo tàn mà chúng tôi phải gánh chịu dưới ách chuyên chế của bọn quan lại, vì quí Ngài là những người báo thù cho sự Tự do cho chúng tôi, vì quí Ngài là sứ thần của Thượng Ðế, trong cõi nước Chúa, đã được Chúa lựa chọn để giải cứu chúng tôi khỏi bàn tay của kẻ thù chúng ta, giống như trước đây Chúa đã sai Samson đi rửa hận cho dân tộc ông ta, hay đã sai Moise đến giải phóng dân Israel (Do Thái) khỏi lao tù Egypt (Ai Cập), hay đã phái Joseph đến giới thiệu ngôi nhà của Jacob trong những cánh đồng bình an ở Channan....
Chiêm nghiệm sự thụ mệnh Thượng Ðế, nhìn lại biết bao đại dương Ngài đã vượt qua, biết bao xứ và vương quốc Ngài đã đặt chân, biết bao mối hiểm nguy, trên đất liền cũng như ngoài biển cả, để đến được với chúng tôi, chúng tôi có một niềm tin và hy vọng sẽ được Ngài bảo vệ. Hiện nay, chúng tôi giống như bầy cừu non giữa đàn chó sói đói mồi; sự chết truy đuổi không ngừng; sự khủng bố dầy phủ chốn cư ngụ; và lưỡi gươm chờ trực trước cửa. Giữa bầu không khí sợ hãi triền miên đó, giữa những nguy hiểm bất tận đó, trợ lực duy nhất của chúng tôi là hy vọng vào Ngài. Chiến dịch bài đạo ngày càng gia tăng, nơi đâu cũng có đặt Thập tự Giá dưới bước chân của chúng tôi, và [quan binh] căn cứ trên thái độ kính mến hay khinh bỉ Thập tự Giá mà nhận diện chúng tôi; những tòa án chờ đợi chúng tôi ở mọi ngả đường. Chúng tôi ngã xuống, chết vì những đòn vọt; chúng tôi bị vất vào ngục thất để chờ chết. Ngày thì phải lo việc sưu dịch nặng nhọc, ban đêm thì phải canh gác bảo vệ an ninh làng xóm, và thật ít khi có được giấc ngủ. Họ tên chúng tôi bị niêm yết trên những bản cáo thị, ngày đêm bị kiểm soát, không phút giây xao lãng. Tôi còn biết nói gì hơn...? Ngày và đêm trĩu nặng ưu tư. Lưỡi dao của đao phủ đe dọa. Trước mắt là hố thẳm, sau lưng đàn sói! Và chúng tôi kẹt giữa ngục đá và sự tử đạo dưới lưỡi dao đang dơ cao. Nhiều nhà truyền giáo đang bị giam cầm trong ngục thất và rất nhiều đạo hữu Ki-tô đang ở trong tay kẻ thù. Hôm qua, văn thư của các quan lại lưu truyền khắp các làng mạc, cho lệnh tăng cường thêm từ 10 tới 20 người cho các toán lính chịu trách nhiệm lùng bắt tín đồ của Chúa; và đã có nhiều người đang phải rên xiết dưới gông cùm trong tòa thành mà người ta mới dựng lên gần cầu Tham Lương. – Tất cả chúng tôi chắc sẽ chịu chết nếu Ngài không kịp đánh đuổi kẻ thù của chúng ta. Ðây là tình trạng khốn khổ mà chúng tôi đang sống; tinh thần chúng tôi trôi nổi bấp bênh; mối sợ hãi và lo lắng làm héo mòn và tiêu tán dần con người của chúng tôi. Chẳng còn sự nghỉ ngơi thân xác! Chẳng còn được sự an bằng tinh thần! Thật đúng vậy! Bụng dạ đâu mà nhai nuốt, hay cách nào thưởng thức sự êm ái của chiếu nằm khi con người luôn luôn thấy lưỡi gươm đang treo trên đầu họ?... Phần tôi, kẻ nô bộc hèn mọn của Ngài, đang nôn nóng tìm gặp Ngài, đã buộc phải dừng lại sau khi đã đi được ba phần tư chặng đường, sau khi đã đổi ngựa và người để đi cho đến đích cuối của cuộc hành trình. Các đồn binh được dựng lên khắp mọi nơi, những cuộc khám xét thường xuyên dài theo các trục lộ mà tôi phải vượt qua, và tôi như một con cá đang lội trong một dòng sông khô cạn, chẳng còn phương tiện để tiếp tục. Tôi đã cố gắng vượt qua rừng rậm, đồng ruộng, đồi núi và bình nguyên để đến với Ngài, dù khó khăn cách nào đi nữa chẳng quản ngại, mà cũng không được. Chỉ đành biết chờ đợi các vũ khí vô địch của Ngài đến giải cứu tôi. Trên đây là những nỗi khó khăn của chúng tôi, mà theo chỗ tôi hiểu, có lẽ Ngài không phải không biết đến.
Nếu trái tim Ngài chưa khép kín sự Bác ái mà Chúa Jésus Christ đã từng rao giảng, để làm tròn sự mong đợi của Giáo hội, thì xin Ngài hãy mở rộng bàn tay cứu giúp, giương rộng cánh tay đầy quyền năng, và Ngài sẽ xứng đáng với Chúa và Giáo hội. Rất đông [quân địch] đang bao vây Ngài, nhưng Ngài sẽ chế ngự được họ không mấy khó khăn. Vì sự sợ hãi đã xâm chiếm kẻ thù của chúng ta và làm cho họ không dám đến gần.
Tôi đã thấy những đám lính đào ngũ, và đã nghe tin đồn rằng trong quân đội, từ cấp chỉ huy đến tên tiểu tốt, hầu hết đều nói rằng mặc dù có lệnh quan, họ neo thuyền giữa giòng sông để nếu cần sẽ lội thoát thân. Cả dân tộc, kể cả kẻ ngoại đạo, đang rên xiết và đòi hỏi hòa bình với những lời thảm thương. Họ nói: "Nếu vì quyền lợi vương quốc thì họ phải cho chúng ta thấy có một ông vua đem lại sự thái bình cho chúng ta, chấm dứt những công việc khổ nhọc... mà các quan lại đòi hỏi để phục vụ chiến tranh – Tại sao lại phải làm việc không công suốt ngày? Ai muốn ngồi trên ngai vàng cũng được miễn là họ làm nhẹ được gánh nặng của chúng tôi?" Xin đừng chần chừ nữa, xin mở rộng bàn tay giải phóng của Ngài để chấm dứt những nỗi cơ cực của dân tộc chúng tôi. Sự quang vinh và danh dự của Ngài đòi hỏi Ngài phải làm, những mối ưu khổ của chúng tôi cũng đòi hỏi Ngài phải làm nhiệm vụ đó. Và các thế kỷ sau sẽ nói đến chiến công của Ngài, sự tưởng nhớ Ngài sẽ không bao giờ phai, những lời tán dương về Ngài sẽ lưu truyền trong lịch sử Giáo hội, và tên Ngài sẽ được tôn vinh đời này qua đời khác, và quan trọng hơn cả là Ngài sẽ xứng đáng sống đời đời trên cõi Trời, cuộc sống hằng cửu, mà người thường khó đạt được.
Hãy thương xót chúng tôi. Hãy thương xót chúng tôi. Quí Ngài là những nhà giải phóng của chúng tôi và bàn tay của kẻ thù đã xâm phạm đến chúng tôi! Than ôi! Người đi giày biết rất rõ chiếc giày thốn đau ở chỗ nào. Chúng tôi cũng biết là "Kẻ nào ôm đồm quá nhiều thì giữ không được chặt." Nhưng những nỗi khổ đau của chúng tôi đã khiến chúng tôi phải kêu cứu đến quyền lực của Ngài và đệ trình lên Ngài, tự đáy lòng của chúng tôi, tất cả những sự việc kể trên mong chờ sự thận trọng và minh triết của Ngài phán đoán.

Người nô bộc hèn mọn và vô dụng.

Petrus Key

(https://honvietquochoc.com.vn/Tu-lieu/Tu-lieu-lich-su/Vai-tai-lieu-moi-ve-Petrus-Key-Truong-Vinh-Ky-1.aspx)

 

(3) BẢN DỊCH THƯ VIẾT BẰNG PHÁP NGỮ CỦA GIÁM MỤC NGÔ ĐÌNH THỤC GỬI ĐÔ ĐỐC JEAN DECOUX, TOÀN QUYỀN ĐÔNG DƯƠNG

* Trích từ: Tạp chí Lên Đường, số Ra mắt, Houston.

Tòa Truyền Giáo Vĩnh Long, ngày 21 tháng 8 năm 1944

Vĩnh Long (Nam Kỳ)
Thưa Đô đốc,

Một Linh mục từ bổn Tòa được phái đi Saigon để lo việc cho chủng viện vừa cho tôi biết rằng hai người em của tôi đang bị truy tố tại Huế. Vì đã lâu không nhận được tin tức gì từ Huế, tôi không biết là điều tôi vừa được báo cáo có đúng sự thật hay không.

Tuy nhiên, nghĩ đến nỗi đau đớn và sự bất nhẫn rất đúng mà chắc chắn là Đô Đốc đã cảm thấy - nếu sự truy tố các em tôi là có thật, tôi vội viết thư này để bày tỏ với Đô Đốc nỗi đau đớn lớn lao của tôi về việc này.

Nếu hoạt động của hai em tôi được chứng tỏ là có hại cho quyền lợi nước Pháp thì - với tư cách của một Giám Mục, của một người An-nam, và với tư cách là người con của một gia đình mà phụ thân đã phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ-an, Hà-tịnh - tôi, tự đáy lòng, không chấp nhận (hoạt động của các em tôi).

Thưa Đô Đốc, tôi tuyên bố như vậy không phải với mục đích bảo toàn địa vị cá nhân của tôi: bởi vì nếu xét rằng cá nhân hèn mọn của tôi có thể phương hại đến quyền lợi của đạo (Thiên Chúa), tôi sẽ vui vẻ rời khỏi Tòa Giám Mục nầy ngay.

Lời tuyên bố của tôi chỉ có mục đích là tỏ cho Đô Đốc thấy rằng lòng tin tưởng trìu mến của Đô Đốc (đối với tôi) đã không bị đặt vào một kẻ bất xứng hay vô ơn.

Thưa Đô Đốc, tôi chưa bao giờ tiếc là đã xa Huế như thế nầy. Giá có mặt ở đấy thì tôi đã có thể khuyên răn các em tôi tốt hơn, và khi chuyện xẩy đến tôi đã có thể chống lại các chủ đích của các em tôi, nếu quả thật các em tôi có nghĩ đến những dự định có thể gây hại cho chính quyền lợi của nước Pháp.

Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, tôi xin thú thực là không tin - cho đến khi được chứng minh ngược lại - rằng các em tôi đã phản lại truyền thống của gia đình chúng tôi đến như thế, một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp và chỉ quyết định thiên về Pháp khi thấy có lợi.

Ngay chính các em tôi đã từng liên tục đưa mạng sống ra vì nước Pháp, trong cuộc nổi loạn của Cộng Sản. Diệm, người em kế tôi, suýt đã phải ngã gục dưới những phát súng của một Hoa kiều Chợ Lớn được phái đến Phan-rang với mục đích hại Diệm, Phan-rang là nơi mà Diệm đã mãnh liệt chống giữ lối xâm nhập vào An-nam của các cán bộ Cộng Sản được từ Nam Kỳ phái đến.

Lẽ tất nhiên, sự tận tụy của các em tôi trong quá khứ không phải là điều nêu ra để làm cớ mà biện hộ cho hoạt động bất cẩn của họ ngày hôm nay, nếu sự bất cẩn nầy được chứng tỏ là điều đã gây nên tội. Tuy nhiên, tôi không nghĩ là tôi đã làm chuyện vô ích khi kêu gọi đến sự khoan hồng đầy xót thương của Đô Đốc hầu xét với hảo ý trường hợp các em tôi. Đô Đốc không phải là người chỉ xét đến hiện tại mà lại bỏ quên đi quá khứ. Tôi nêu ra điều nầy khi xét thấy rằng thân phụ tôi là Ngô Đình Khả đã từng được vinh dự phục vụ nước Pháp dù sinh mạng bị hiểm nguy, và khi xét đến quá trình lâu dài của các em tôi, một quá trình được hình thành bằng lòng tận tụy vô bờ của các em tôi đối với nước Pháp, mà không sợ phải hy sinh mạng sống của mình cho nước Pháp.

Thưa Đô Đốc, một lần nữa bày tỏ với Đô Đốc tất cả niềm đau đớn của tôi trong vụ nầy, tôi xin Đô Đốc vui lòng nhận nơi đây lời kính chào trân trọng nhất của tôi.

Ngô Đình Thục

 

(4) Trích từ cun Thập Giá Và Lưỡi Gươm của Linh Mục TrầnTamTĩnh, Nhà xuất bản Trẻ, Paris, 1978:

 Việc phát triển Công Giáo trước hết là về mặt kinh tế. Nhằm tỏ lòng tri ân đối với các hoạt động thừa sai, ngày 28-8-1862, tức chỉ 2 năm sau khi chiếm được ba tỉnh ở Nam Kỳ, toàn quyền thực dân đã ra nghị định dâng "nhưng không cho Nhà Chung mạn Tây Nam Kỳ, hoàn toàn được chủ quyền về một sở đất tọa lạc tại Sàigòn". Đằng khác, mặc dầu có luật tách biệt nhà thờ khỏi nhà nước được bỏ phiếu vào năm 1905 và áp dụng tại "mẫu quốc" rồi, luật đó vẫn không bao giờ được công bố và áp dụng tại đất thuộc địa. Nhiều vụ nhượng đất đai đã được thực hiện cho Nhà Chung, chẳng hạn những năm 1923, 1926, 1927, 1929, 1930, 1931, không nói tới các vụ hiến đất "cách riêng tư", một số quan người Pháp đã lấy đất công dâng cho Nhà Chung thể theo lòng đạo đức cá nhân của họ.Năm 1939, tài sản của Nhà Chung thừa sai Pháp trị giá trên năm (5) triệu, tức năm mươi (50) triệu quan tiền Pháp. Trị giá đó là chính thức, nhưng theo các luật gia thuộc địa Caratini và Grandjean thì thấp hơn giá trị thực tế và không bao gồm tất cả các tài sản của Giáo Hội, vì đã bỏ ra ngoài các của cải các xứ đạo và nhiều pháp nhân giáo hội khác vốn có quyền sở hữu. Tài sàn Nhà Dòng Đa Minh Tây Ban Nha cũng rất quan trọng. Nói cho đúng, một phần các tài sản của Dòng, nhất là đất đai và ruộng vườn thường là của trối, hoặc của dâng cúng từ phía giáo dân. Nhưng các Nhà Chung được liệt vào hạng địa chủ lớn nhất của thời ấy.
….

Trong một báo cáo mật gửi lên Toàn Quyền Đông Dương, viên Thống-sứ Nam Kỳ đã trình với quan thầy rằng: "Không nên quên rằng từ những năm đầu cuộc chiếm đóng của chúng ta, Nhà Chung đã quan tâm chiếm cho được tại Nam Kỳ những tài sản khổng lồ. Nhà Chung có tất cả 28.500 hecta ruộng, không kể đất đai ở thành thị cũng như các bất động sản và của cải khác. Tại Miền Tây Nam Kỳ, Nhà Chung làm chủ vùng đất lớn rộng tới ba bốn hoặc sáu ngàn hecta.”

 

Trang Thời Sự