Bí Mật Về "Hải Chiến Hoàng Sa 1974" và Những Điều Chưa Biết Thanh Niên Đất Việt http://sachhiem.net/LICHSU/H/HaichienHS_bimat.php LTS: Trong khi những bài khác nhấn mạnh về cảm giác trong sự kiện Hoàng Sa, bài sau đây khảo sát thực tế, đo đạc và so sánh những gì VNCH có thể làm nhưng không "dám" làm để giữ gìn biển đảo. Ban chủ trương trang nhà xin phép tác giả để dùng tên chính thức VNCH thay vì từ "ngụy" trong nội dung bài viết này. (SH)
Khi rút quân khỏi VN thì Mỹ đã bán toàn bộ biển Đông cho Trung Quốc Đã 39 năm qua, Quần đảo Hoàng Sa thân yêu của chúng ta nằm trong tay bọn bành trướng Bắc Kinh. Từ đó đến nay, “nỗi nhớ” Hoàng Sa vẫn rực cháy trong tim mỗi người VN. Và cũng từng thời gian đó nhà nước VN vẫn đang tìm mọi cách đấu tranh đòi lại những gì của tổ tiên chúng ta bao đời dựng xây để lại cho con cháu hôm nay. Vì thời gian và thông tin không nhiều do đó mình sẽ sử dụng tài liệu của bạn “Huy Phúc_1981nb” về trận chiến Hoàng Sa.
Chủ đề này không mới nhưng để hiểu về nó thì không ai cũng biết cả. VNCH đã dâng quần đảo Hoàng Sa cho Trung Quốc năm 1974. Nhưng từ đó đến nay các "chiến binh hèn nhát" vẫn ngày đêm ra rả chửi “Việt Cộng”. Có một sự thật mà chính các sỹ quan của VNCH Lê Văn Thự chỉ huy chiến hạm, tàu HQ-16 đã xác nhận: "May là viên đạn không nổ, chứ nổ thì HQ-16 chìm tại chỗ! Lấy được viên đạn ra, toán tháo gỡ đạn dược ngạc nhiên cho biết rằng viên đạn “made in USA” và cỡ 127 ly. Sau này truy ra mới biết là đạn do HQ-5 bắn." (xem link) Một loạt các câu hỏi tại sao lại có sự “kỳ quặc” như vậy? 1. Tại sao tầu HQ-5 lại bắn vào tầu quân mình? Những câu hỏi Tại sao này chắc phải để lại cho các “chiến binh cờ vàng” đang đêm ngày “thăng cấp” vì chưa “giải ngũ” bên Cali hay Bolsa trả lời. Tuy nhiên, để mở rộng đường để tìm hiểu về trận “hải chiến” này mà các sỹ quan VNCH vẫn nổ banh salon suốt 39 năm nay. Chúng ta cùng tìm hiểu đôi chút “bí mật” về trận chiến này. I. KẾT LUẬN VỀ SỰ THẬT CỦA "HẢI CHIẾN HOÀNG SA 1974". Ông ta chép hồi ký thanh minh, rằng ông ta phải chạy vì Tầu Khựa kéo đến ồ ạt loại chiếm hạm diệt hạm Komar-class(mã NATO của Project 183R class, Liên Xô). Thực chất, đó là nhảm nhí huyễn hoặc. Dù có huyễn hoặc thì những cái huyễn hoặc của ông ta cũng chỉ có thể có lợn liệt não mới dám hốc mà không oẹ. Gạt đi những cái huyễn hoặc đó, thì ông ta cũng phải căn cứ vào các báo cáo lưu trữ và nói lên một phần sự thật. Đó là, quân ta (VNCH) mạnh hơn tuyệt đối so với địch (Trung Quốc), nhưng ta thua vì ta hoặc là ngồi nhìn, hoặc là cùng với định bắn chìm ta. Và toàn bộ không quân ném bom lớn thứ 3 thế giới ngồi nhìn, trong khi địch gần như là số không về phòng không so với trình độ máy bay lúc đó. SỰ THẬT VỀ TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA. HQ-16 do tôi, Trung tá Lê văn Thự (khoá 10) chỉ huy. HQ-16 bị soái hạm HQ-05 loại khỏi vòng chiến bằng một phát đạn 127mm. May là tầu không chìm chết mất xác vì đạn lởm. HQ-16 cùng HQ-10 lập thành cánh Bắc đánh vào trong quần đảo. HQ-4 cùng HQ-5 lập thành cánh Nam đánh vào trong quần đảo. Cánh Bắc hoàn toàn bất ngờ vì cánh Nam theo Tầu Khựa phục kích họ. HQ-10 đắm, HQ-16 bị thương không thể chiến được. Bên cánh Nam, HQ-5 chịu trách nhiệm phục kích tiêu diệt đồng đội, còn HQ-4 đực mặt ra không tham chiến. Sau trận đánh thì HQ-4 và HQ-5 dông sang Phillipines, đến mức vô lý quá, VNCH phải gọi về cho đỡ thối. Toàn bộ đoàn máy bay cường kích đứng thứ 3 thế giới lúc đó thúc thủ. Trung Quốc trong trận này gần như là số không về đối không. Vì thế, Trung Quốc không dám đánh ngay, họ dứ dần. Đến khi Trung Quốc xác định chính xác VNCH và Mỹ thật lòng dâng cho họ quần đảo Hoàng Sa, họ mới ra lấy đảo.
II. DIỄN BIẾN KỊCH HẢI CHIẾN HOÀNG SA 1974: MỸ VNCH BẮN CHÌM TẦU VNCH YỂM TRỢ HẢI QUÂN TRUNG QUỐC, BÁN ĐỨNG QUẦN ĐẢO. Những bịa đặt nhục nhã của các sỹ quan VNCH bấy lâu nay cũng chỉ để che đi sự thật trận đánh hèn nhát điên khùng vụng về. Sự thật là Mỹ - VNCH diễn kịch bán đứng Hoàng Sa cho Trung Quốc. Sự thật là lúc đó hải quân Trung Quốc rất yếu, đa phần các tầu Trung Quốc tham chiến năm 1974 là tầu cá. Phòng không trên các tầu Trung Quốc lúc đó gần như là số không, trong khi VNCH có phi đội máy bay ném bom lớn thứ 3 thế giới. Như thế, không có lý do nào để Trung Quốc có thể chiếm được Hoàng Sa. Trung Quốc ban đầu cũng chỉ thử, họ không tin ngay nổi là họ có thể dễ dàng lấy được quần đảo. VNCH cử 4 tầu ra đánh 4 tầu Trung Quốc, 4 tầu VNCH này vượt trội cả về hoả lực và mức độ tiên tiến. Trong đó có tầu bắn bằng pháo điều khiển qua radar-máy tính. 4 tầu đó chia làm 2 đội. Quân ta (VNCH) dồn sức vào diệt một tầu quân ta (VNCH, HQ-16). Trung Quốc dồn sức diệt một tầu quân ta (VNCH, HQ-10 chìm), HQ-4/5 tê liệt hoả lực. Ta (VNCH) và địch (Trung Quốc loại khỏi vòng chiến 3 trong số 4 tầu của ta (VNCH), thì hỏi làm sao không thua? HQ-4 và HQ-5 co cẳng định chạy sang Philipines không dám về nhà, cho đến khi thấy yên yên mới dám quay đầu lộn về Tây Bắc. Sau đó về “tự sướng” bằng nhưng tin thức như quân Tầu dùng tầu ngầm bắn tên lửa, báo cáo về đạn tự hành diệt hạm: Nhật Tảo trúng đạn tự hành diệt hạm; không quân lớn thứ 3 thế giới của VNCH thúc thủ vì khựa bay được ra ném bom. Với số lượng các tầu nổi khá ngang nhau, tầu ngầm khựa tệ hại, thì yếu tố quyết định trận đánh chóng vánh là HQ-16 bị đồng đội loại khỏi vòng chiến. HQ-4 và HQ-5 không tấn công địch mà bắn đồng đội, loại khỏi vòng chiến 3 trong số 4 tầu. 1. Tham số và ảnh vũ khí hai bên. Nếu như trừ đi các máy bay không hề tham chiến, chỉ tính tầu biển. Thì VNCH đem ra 4 tầu phờ-rai-ghết Frigate Trần Bình Trọng (HQ-5), Lý Thường Kiệt (HQ-16), and Trần Khánh Dư (HQ-4), one corvette, Nhật Tảo (HQ-10). Trung quốc có 4 tầu rà mìn nhỏ Kronstadt, mỗi tầu dài 49 mét rộng 6 mét 271, 274, 389, 396; 2 tầu rà mìn 281, 282; (wiki gọi là tầu chống tầu ngầm, thực chất đây là các tầu rà mìn, choáng nước 390 tấn, mẫu SO-1 Liên Xô và kiểu 037 Trung Quốc). Vũ khí của các "siêu chiến hạm" Kronstad-Class lớn nhất có 2x2=4 nòng 57mm liên thanh, phòng không, đầu đạn 2,8kg. Còn lại là 4 nòng 25mm phòng không, súng cối bắn bom chìm (BMB-2 ASW mortars), bom chìm, giàn phóng bom chìm (ASW rocket launchers), thuỷ lôi.... hoàn toàn không có tác dụng trong cuộc đấu pháo tầu - tầu. Còn đây là vũ khí chính của VNCH, không tính cái phi đội lớn thứ 3 thế giới giương mắt lên nhìn. Cũng không tính ở đây các súng 40mm trở xuống vẫn thừa sức bắn các tầu cá Trung Quốc rất hiệu quả vì bắn liên thanh. Hay các ngư lôi. + RVNS Trần Bình Trọng HQ-05. Choáng nước 2.800 tấn. Pháo mũi 127mm nòng trung bình. Súng cối đa năng.Tầu có 10 nòng 40mm liên thanh phòng không, gồm 4 khẩu 2 nòng quanh đài chỉ huy và 2 khẩu hai bên sau. + RVNS Trần Khánh Dư HQ-04. Tầu khu trục Mỹ lớp Edsall. Choáng nước 1.590 tấn. Tầu có 3 tháp pháo, 1 nòng 76mm bắn nhanh 20 phát phút, là 3 nòng bắn nhanh điều khiển radar - máy tính, 2 nòng 40mm phòng không, 8 nòng 20mm phòng không. + RVNS Lý Thường Kiệt HQ-16. Như HQ-05. + RVNS Nhật Tảo HQ-10. Choáng nước 650 tấn, 1 pháo 76mm. 4 nòng 40mm. 6 nòng 20mm. HQ-10 đắm, HQ-16 hỏng nặng. HQ-4 và HQ-5 hỏng nhưng vẫn chạy được, dông sang Philipines . Tầu Khựa có 4 tầu nhỏ, mỗi tầu có 1 nòng 85mm săn tăng, 3 nòng 37mm phòng không cổ. 2 tầu to mỗi tầu 4 nòng 57mm và 4 nòng 25mm. Số pháo chỉ so sơ sơ • VNCH - 2 nòng 127mm • Tầu Khựa - 4 nòng 85mm phát một nạp đạn tay (Đ-44 bản 85mm cho hải quân).
Siêu chiến hạm Trung Quốc: tầu cá. Ảnh chụp tầu Trung Quốc khiêu chiến trước khi đánh nhau. Trung Quốc năm 1974, ảnh chụp trước khi đánh nhau. Project 122bis , mã tên NATO Kronshtadt class. Choáng nước lớn nhất 340 tấn. Project 122bis, mã tên NATO Kronshtadt class. Tầu dài toàn bộ 52,24 mét, rộng 6,55 mét. Choáng nước lớn nhất 340 tấn. Vũ khí có 1 nòng 85mm kiểu săn tăng (phiên bản dùng trên biển của D-44 WW2), 3 nòng 37mm phòng không bắn kẹp đạn cũng thế hệ WW2. Ngoài ra là những vũ khí như bom chìm hay thuỷ lôi không có tác dụng trong trận đấu pháo. Xem quân VNCH nổ tung trời đất: "Kronstadt của Trung Quốc mang số hiệu 274 và 271 sơn màu xám đen, trang bị đại bác 100 li và nhiều đại bác 37 li".
Phía trước mũi tầu là giàn phóng bom chìm. 1 pháo nòng dài 85mm kiểu săn tăng và 2 pháo phòng không 37mm.
Soái hạm, kỳ hạm Trung Quốc trong sự kiện Hoàng Sa năm 1974. Ảnh chụp trên mạng Tầu, Type 037, 390 tấn, tầu rà mìn. Vũ khí lớn nhất là 2 pháo phòng không 2 nòng 57mm thời WW2, đạn 2,8 kg (mỗi kẹp đạn - băng có 4 viên nặng 6,6kg). Phía trước mũi tầu là giàn phóng bom chìm. Tầu không có phương tiện đấu pháo tầu - diệt - tầu. Khi lâm trận, mà tầu địch còn tự vệ được, thì Type 037 chỉ có mỗi nước hạ cái nòng phòng không này xuống đấu với đạn xuyên phá diệt hạm. Loại đạn này bắn vào các tầu VNCH lúc này chỉ gãi ghẻ. Tổng cộng, loại tầu này có 4 nòng 57mm, 4 nòng 25mm, đều là súng phòng không. Ngoài sornar và rardar chống ngầm thì tầu có các giàn phóng bom chìm kiểu tên lửa, bom chìm kiểu đạn cối, thuỷ lôi... đều là các vũ khí chống ngầm, phá mìn, rải mìn....
Trần Quang Khải Frigate Class. Barnegat-class seaplane tender của Mỹ WW2. Đây là một lớp tầu của quân VNCH. Chúng khá cổ, từ WW2 (chiến tranh thế giới thứ 2), nhưng đó là các tầu to lớn gấp 7-9 lần tầu Trung Quốc, mang pháo lớn. Vì tầu Trung Quốc không có vũ khí hiện đại đáng kể, nên các tầu này của VNCH rất uy lực. Như chúng ta đã thấy trên, Trần Quang Khải Frigate Class, có 2 Tá To Thà, chỉ huy trận đánh, đã chọn HQ-05 làm soái hạm, và từ đó bắn hỏng cái còn lại HQ-16. Đây là lớp tầu lớn nhất của hải quân VNCH và số lượng tầu trong lớp cũng không nhỏ. Khi chuyển cho hải quân VNCH, các tầu pháo phần lớn trang bị chống ngầm, như các giàn phóng bom chìm, nhưng vẫn để lại sornar. Các tầu này phần lớn được đóng cuối WW2, phục vụ Hải Quân Mỹ năm 1944, năm 1949 chuyển vào Biên Phòng Mỹ, năm 1971 chuyển cho VNCH sau khi tháo bớt vũ khí chống ngầm không cần thiết và cũng đã quá lạc hậu. Phờ-rai-ghết Frigate được hiểu là các tầu chiến cỡ trung bình có nhiệm vụ đối kháng tầu - diệt -tầu. Chúng nhỏ hơn các tuần dương hạm Cruiser (kiểm soát vùng đại dương), chiến đấu hạm BattleShip (đối kháng tầu-diệt-tầu với các tầu chiến mạnh nhất. Các Frigate làm nhiệm vụ ven bờ và trên các biển nhỏ như biển Đông nhà ta. Có thể hiểu, Frigate là "tiểu Cruiser", cùng nhiệm vụ nhưng nhỏ hơn tuần dương hạm. Như vậy, dùng tầu trong trận đánh này là hợp lý và nó quá mạnh so với Trung Quốc. Các tầu này trước là lớp tầu Barnegat-class seaplane tender của Mỹ WW2, đặt hàng 41 tầu, đóng xong 35 tầu. Seaplane tender còn có tên là seaplane carrier, là một loại tầu sân bay. Chúng không có đường băng, mà chở theo các máy bay đậu nước. Nhiệm vụ của chúng là bảo vệ và cung cấp dịch vụ cho các máy bay đó, chính vì thế mà các tầu này khá lớn và rất mạnh về vũ khí. Khi chuyển cho VNCH thì tầu đã có một số thay đỏi so với ban đầu. Ngoài cấu hình vũ khí, thì tầu choáng nước nhiều hơn chút, tăng lên 2800 tấn, gấp 8-9 lần tầu Trung Quốc tham chiến. Dài cả tầu 94,72 mét. Rộng nhất 12,52 mét. Tầu có 2 trục đẩy, máy 6.000 ngựa. Tốc độ 18. Tầm xa tối đa 6 ngàn hải lý. Vũ khí chính của tầu là pháo đa năng 127mm, vừa bắn thẳng đạn xuyên vừa câu cầu vồng bắn đạn phá, vừa đối kháng tầu - diệt - tầu, vừa bắn phá trên bờ. Trước đây tầu có tối đa 4 pháo như thế, sang Việt Nam có 1 nòng và thay bằng tháp pháo mang súng cối 81mm. Lớp tầu này của VNCH có những tầu sau (mình chưa kiểm lại đã đủ chưa). - RVNS Trần Quang Khải (HQ-02), USS Bering Strait (AVP-34) - RVNS Trần Nhật Duật (HQ-03), USS Yakutat (AVP-32) - RVNS Trần Bình Trọng (HQ-05), USS Castle Rock (AVP-35). USCGC Castle Rock (WAVP-383) - RVNS Trần Quốc Toản (HQ-06), USS Cook Inlet (AVP-36) - RVNS Phạm Ngũ Lão (HQ-15), USS Absecon (AVP-23) - RVNS Lý Thường Kiệt (HQ-16). USS Chincoteague (AVP-24) 1944-1946 . 1948-1971 tầu thuộc biên phòng Mỹ ( United States Coast Guard)USCGC Chincoteague (WAVP-375). - RVNS Ngô Quyền (HQ-17). USS Wachapreague (AGP-8) RVNS Nhật Tảo HQ-10. USS Serene (AM-300). Admirable-class minesweeper. Tầu rà mìn được đóng trong WW2. Sau WW2 tầu nghỉ, năm 1964 tầu được hiện đại hoá và chuyển cho VNCH, vũ khí khi chuyển cho VNCH thay đổi chút để phục vụ như tầu khu trục. - Tầu choáng nước 650 tấn. Dài : 184 ft 6 in 56.24 m ; rộng nhất : Beam: 33 ft (10 m); - Máy đẩy 2 × ALCO 539 diesel engines, 1.710 shp (1,3 MW). 2 trục đẩy. Tốc độ 14,8. - Biên chế 104 người. - Vũ khí chính: 1 pháo 76mm nòng dài. 6 pháo phòng không 20mm; 4 nòng pháo liên thanh 40mm. Tầu có trang bị vũ khí chống ngầm như giàn phóng bom chìm, ray phóng bom chìm, thuỷ lôi. Tầu khu trục, destroyer. Ban đầu có tên là Torpedo destroyer. Đây là các tầu ban đầu dùng để chặn các tầu phóng ngư lôi Torpedo, thường là tầu nhỏ chạy nhanh. Về sau này các tầu khu trục được hiểu là các tầu đánh đuổi các mục tiêu phức tạp, không ngầm nổi.... Các tầu này đắc dụng khi đánh đuổi các tầu nhỏ, đông, chạy nhanh.... Tuy là tầu yếu nhất hạm đội, nhưng cũng to gấp đôi tầu lớn nhất bên Trung Quốc. Về bắn pháo đối kháng tầu - diệt - tầu, thì Nhật Tảo hầm hố chẳng kém gì các tầu mạnh nhất của Trung Quốc, đương nhiên là ăn gỏi lớp Project 122bis - mã tên NATO Kronshtadt class. Chỉ riêng đám pháo liên thanh 40mm của nó đã là khủng khiếp so với đám tầu rà mìn và tầu cá Trung Quốc. Nhật Tảo đi cùng HQ-16, bị quân Tầu và cánh Nam liên quân phục kích, tầu HQ-10 bị đắm. HQ-16 bị thương, may là đạn không nổ, thuyền trưởng tỉnh táo đi về được không chìm, mới điều tra ra được là HQ-16 trúng đạn 127mm của HQ-05. Mô hình đồ chơi một chiến hạm cùng lớp: HQ-16, VNCH phóng tác là tuần dương hạm. Thực chất chúng là các tầu hộ vệ và tầu khu trục. Tầu 2.800 tấn như HQ-05. Tầu HQ-16 bị loại khỏi vòng chiến bằng một phát đạn 127mm của soái hạm HQ-05. HQ-05 do chính hạm trưởng ngự chỉ huy (chỉ bên Mỹ mới dùng đạn 5" 127mm). Pháo đối kháng tầu-tầu 127mm. Trong trận chiến, HQ-16 đi cùng HQ-10 ở cánh bắc. HQ-10 bị bắn đắm. HQ-16 bị thương vinh quang trở về. Nhưng khi mổ ra thì viên đạn là 127mm USA do Trần Bình Trọng HQ-05. Ðại Tá Hà Văn Ngạc, Hải Ðội Trưởng Hải Ðội III Tuần Dương HQVNCH, người chỉ huy trận hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, đích thân ngồi trên HQ-05 chỉ huy trận đánh: "May là viên đạn không nổ, chứ nổ thì HQ-16 chìm tại chỗ! Lấy được viên đạn ra, toán tháo gỡ đạn dược ngạc nhiên cho biết rằng viên đạn “made in USA” và cỡ 127 ly. Sau này truy ra mới biết là đạn do HQ-5 bắn". Soái hạm của VNCH quân trong trận chiến, chỉ huy hạm đội Ðại Tá Hà Văn Ngạc. RVNS Trần Bình Trọng HQ-05. Choáng nước 2800 tấn. Dài 94,7 mét. Rộng 12,5 mét. HQ-05 là Sát Thủ, loại HQ-16 khỏi vòng chiến. 1 Pháo mũi 127mm nòng trung bình. 2 Súng cối đa năng.
RVNS Trần Khánh Dư HQ-04. Tầu khu trục Mỹ lớp Edsall, mạnh nhất trong trận đánh này. Ban đầu, trong WW2 tầu được đóng với nhiệm vụ đầu tiên là khu trục - hộ tống Destroyer Escort. Sau khi chuyển cho VNCH, tầu vẫn giữ nhiệm vụ này nhưng hiện đại hoá. Choáng nước tối đa 1.590 tấn. lắp máy 6 ngàn ngựa. Tốc độ 22. Tầu dài 306 ft - 93,3 m. Tầu rộng nhất 36 ft 7 in - 11,2 m. VNCH được Mỹ chuyển giao 2 chiếc là. DE-251 USS Camp - Trần Hưng Đạo. Năm 1975 chạy sang Philippines đổi tên là Rajah Lakandula. DE-334 USS Forster Trần Khánh Dư HQ-04, bị bắt năm 1975 đổi tên là HQ-03, quân ta dùng huấn luyện. http://www.edsallclassveterans.org/EDSALL_CLASS_SHIPS.DOC.htm http://www.ussslater.org/history/dehistory/history_classes.html http://uboat.net/allies/warships/class/81.html http://destroyerhistory.org/de/edsallclass/ http://www.destroyersonline.com/usndd/classedsa.html Tầu có 3 tháp pháo, mỗi tháp 1 nòng 76mm bắn nhanh 20 phát phút, là 3 nòng bắn nhanh 60 phát/phút ("hải pháo 76 ly tự động"), điều khiển radar - máy tính. Đây là các pháo đa năng vừa bắn thẳng đạn xuyên vừa câu cầu vồng đạn phá. Ngoài ra, tầu có 2 pháo liên thanh 40mm, 8 pháo liên thanh 20mm, 3 ống lôi 533, 8 nòng phóng tên lửa mang bom chìm chống ngầm, và 3 giàn phóng bom chìm khác. Đáng ra chỉ 1 tầu này cũng làm gỏi quân Tầu. Lúc đó, bắn bằng máy tính - radar là cực lỳ ưu thế so với quân Tầu, càng ưu thế hơn khi tầu có tốc độ cao. Cỡ những tầu cá nhỏ mà liều thân thì pháo liên thanh 40mm làm gỏi. Ðại Tá Hà Văn Ngạc , Hải Ðội Trưởng Hải Ðội III Tuần Dương HQVNCH , người chỉ huy trận hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974: "Khu Trục Hạm HQ4 nằm về phía tây nam của Tuần Dương Hạm HQ5 đặt mục tiêu là chiếc Kronstad 274 nằm về phía Bắc tức là tả hạm của chiến hạm . Nhưng chẳng may , HQ4 báo cáo bị trở ngại tác xạ ngay từ phút đầu tiên và phải chờ sửa chữa . Việc này đã làm đảo lộn các dự tính của tôi và làm tôi bối rối . Sau vài phút thì chiến hạm này xin bắn thử và kết quả là vẫn bị trở ngại và cần tiếp tục sửa chữa thêm , nhưng tôi vẫn còn chút hy vọng . Khu Trục Hạm HQ4 vài phút sau lại xin tác xạ thử lần thứ ba nhưng vẫn không có kết quả". Như vậy. HQ-05 cùng với quân Tầu Khựa tiêu diệt HQ-10. HQ-16 bị quân Tầu vây. HQ-4 trợ chiến với HQ-5 bắn đắm HQ-10 xong thì ngồi nhìn. Ðại Tá Hà Văn Ngạc chép trong hồi ký là sau đó Tầu kéo ồ ạt đến, nhưng thực chất điều đó đã được phản bác.
2. Ảnh sơ đồ trận đánh: Ðại Tá Hà Văn Ngạc, Hải Ðội Trưởng Hải Ðội III Tuần Dương HQVNCH, người chỉ huy trận hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974: "vào khoảng ngày 11/01/1974 , chỉ khoảng vài ngày sau khi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Kissinger rời Trung Cộng, thì đột nhiên Ngoại Trưởng Trung Cộng lại một lần nữa tuyên bố về chủ quyền của họ trên các quần đảo Hoàng và Trường Sa."Ban đầu, Trung Quốc chỉ có các tầu cá ra thăm dò. VNCH đổ quân lên chiếm đảo, bị Trung Quốc chĩa AK vào tầu chiến mang pháo 127mm, thế là VNCH chạy. Sau đó đánh ta. VNCH chia làm hai mũi. Phía Bắc là các HQ-10 và HQ-16. Phía Nam là HQ-4 và HQ-5. Trong đó, mũi Nam là chủ lực có tầu chiến hiện đại, pháo lớn và điều khiển radar. Thế nhưng cả cánh Nam, VNCH và Tầu chung sức nhau tấn công tiêu diệt cánh Bắc của quân VNCH, HQ-10 chìm, HQ-16 hỏng nặng hoàn toàn mất tác dụng. Sau đó HQ-4 và HQ-5 chạy sang Phillipines không dám về nhà. Chạy được một đoạn thì nhà gọi bắt về không nhục quá.
Sơ đồ trận đánh do Trung Quốc vẽ. Bằng hoả lực mạnh, hiện đại, chính xác, bắn nhanh pháo bắn nhanh điều khiển radar. Đội Nam HQ-4/5 nã đại vào đội Bắc, loại khỏi vòng chiến cả hai tầu đội Bắc. Sau đó đội Nam chạy. Cũng cần nhắc rằng, Trung Quốc chỉ mang mấy cái tầu rà mìn đó ra chiến thôi, không hề có cái tầu bắn tên lửa nào như ông chỉ huy VNCH viết hồi ký.
3. Không quân VNCH lớn thứ 3 thế giới ngồi nhìn mất quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Lúc đó, VNCH có đội máy bay cường kích lớn thứ 3 thế giới, chỉ sau Mỹ và Liên Xô. Các tầu chiến Trung Quốc thì như trên, chỉ toàn pháo phòng không bắn máy bay cánh quạt WW2, ngắm bắn thủ công, tốc độ chậm. Không hề có các thiết bị phòng không hiện đại như radar-máy tính ngắm bắn đối không, không hề các pháo bắn nhanh thế hệ mới 23mm và 30mm (như ZSU-23-4 của Việt Cộng hay A-213-Vympel-A, dùng AK-630 Liên Xô), càng không hề có các đạn được lái-đạn tự hành-tên lửa có điều khiển đối không SAM, như SAM-2 hay SAM-7 lúc đó đã là lạc hậu, mà Việt Cộng có. Thậm chí là những súng máy của các phiên bản phòng không đó, không tính phần điều khiển tự động, thì Trung Quốc cũng không có, như Gryazev-Shipunov GSh-6-30 (6 nòng quay, không dùng motor như Gattling, tốc độ bắn 4000-6000), Gryazev-Shipunov GSh-23, Gryazev-Shipunov GSh-6-23 (6 nòng tốc độ bắn 10 ngàn phát / phút), Gryazev-Shipunov GSh-301 (1 nòng,1500 phát/phút), Gryazev-Shipunov GSh-30-2 (2 nòng, 3000). Như trên, loại tháp pháo phòng không mạnh nhất của Trung Quốc là tháp pháo 2 nòng 57mm dùng trên tầu, nó đơn giản hơn nhiều tháp pháo thời WW2 của ZSU-57-2, ngắm bắn thủ công, mỗi đầu đạn nặng 2,8kg, bắn từng kẹp đạn (băng) 4 viên. Các pháo cổ này có tốc độ bắn rất chậm, tốc độ đầu đạn thấp... so với các pháo băng dây nói trên. Khi bắn các máy bay phản lực thế hệ mới thì chúng đã quá lạc hậu. Vả lại, tổng cộng thì toàn bộ hạm đội Trung Quốc chỉ có vài nòng pháo phòng không 37 và 57 cổ lỗ này là đáng kể, nên coi toàn bộ phòng không hạm đội Tầu Khựa là con số không. Nếu như không quân VNCH xuất kích thì Trung Quốc bó tay. Chính vì thế Trung Quốc cũng không dám đánh mạnh từ đầu, mà dò ý dần, thấy VNCH quyết chí dâng đảo, thì Trung Quốc mới ra lấy. Ðại Tá Hà Văn Ngạc, Hải Ðội Trưởng Hải Ðội III Tuần Dương HQVNCH, người chỉ huy trận hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974. "Vào giờ này thì tin tức từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân tại Sài Gòn do chính Tham mưu phó hành quân cho hay là một phi đội khu trục cơ F5 đã cất cánh để yểm trợ cho Hải Đoàn Đặc Nhiệm. Do sự liên lạc từ trước với Bộ Tư Lệnh SưĐoàn I Không Quân tại Ðà Nẵng , tôi hiểu là phi cơ F5 chỉ có thể yểm trợ trong vòng 5 tới 15 phút mà thôi vì khoảng cách từ Ðà Nẵng tới Hoàng Sa quá xa so với nhiên liệu dự trữ. Tôi vẫn tin rằng loan tin việc phi cơ cất cánh , Bô Tư Lệnh Hải Quân đã cho rằng tin này có thể làm cho tôi vững tâm chiến đấu. Một điều nữa là từ trước tới giờ phút đó tôi chưa được thấy có cuộc thao dượt hỗn hợp nào giữa Không Quân và Hải Quân nên tôi rất lo âu về sự nhận dạng của phi công để phân biệt giữa chiến hạm của Hải Quân Việt Nam và chiến hạm Trung Cộng , nhất là lúc có mây mù thấp, nên phi cơ có thể gây tác xạ nhầm mục tiêu. Máy VRC 46 trong Trung tâm chiến báo phải chuyển sang tần số không hải và đích thân tôi dùng danh hiệu để bắt liên lạc với phi cơ. Một viên đạn xuyên nổ trúng ngay Trung tâm chiến báo từ hữu hạm , sát gần ngay nơi tôi đứng, làm trung tâm bị phát hoả. Các nhân viên trong trung tâm còn mải núp sau bàn hải đồ thì tôi nhanh tay với một bình cứu hoả gần chỗ tôi đứng dập tắt ngay ngọn lửa. Tôi bị té ngã vì vấp chân vào bàn hải đồ , bàn chân trái bị đau mất vài ngày . Tôi vẫn vẫn tiếp tục liên lạc với phi cơ nhưng sau chừng 5 tới 10 phút vẫn không thấy đáp ứng nên tôi phải ngưng và chuyển tần số về liên lạc với các chiến hạm khác vì cuộc giao tranh đã đến độ khốc liệt hơn."(xem link) Bản đồ khoảng cách gần nhất, xa nhất từ các căn cứ không quân chính đến các đảo chiến sự, và so sánh với tầm các máy bay ném bom VNCH. Máy bay A-37. Đây là máy bay ban đầu được thiết kế - sản xuất để huấn luyện. Nhưng vì nó thích hợp nên sau này dùng rất nhiều vào việc cường kích. Cấu hình trọng lượng-khí động của máy bay này rất giống Su-25, nên nó rất linh hoạt khi bổ nhào, ném bom rất chính xác. Tuy nhiên, nó không được thiết kế giáp trụ và điện tử như Su-25, vì máy bay khá nhỏ so với Su-25. Sau này Việt Cộng cũng nhai lại rất nhiều A-37 vì đặc tính này, dùng cả khi đánh VNCH và đánh Campuchia. VNCH Sài Gòn có 254 máy bay Cessna A-37 Dragonfly chủ yếu là kiểu A-37B dùng máy đẩy J-85-GE-17A. Kiểu này là máy bay lưỡng dụng, vừa huấn luyện vừa cường kích. Kiểu này cũng là kiểu chủ yếu được sản xuất. So với các kiểu A-37 khác thì kiểu này có thêm khả năng mang dầu, bay xa, tiếp dầu trên không. Sau này Việt Cộng mót rác nhai lại được 95 chú. A-37 như là máy bay sản xuất riêng cho Việt Nam, rẻ tiền và hiệu quả với địch không có, hoặc có rất yếu đối không. Cessna A-37 Dragonfly có: -Khối lượng rỗng 6.211 lb = 2.817 kg. Khối lượng tối đa 14.000 lb = 6.350 kg. -Tầm bay điển hình. -Tầm tối đa: 800 nm = 920 mi = 1.480 km; -Bán kính chiến đấu: 400 nm = 460 mi = 740 km; con số này là mang 4.100 lb = 1.860 kg bom. Xem ra, chỉ cần độ 10-20 con này tham chiến thì các bác VNCH đỡ chút vì nhổ được cái gai Hoàng Sa. VNCH được các đồng minh cấp 158 máy bay F-5A Freedom Fighters, 10 RF-5A 8 F-5B huấn luyện, USA cung thêm bản mới nhất của dòng F-5 là F-5E Tiger II. Theo các bác VNCH già thì máy bay ấy tốt lắm nên Việt Cộng sau 1975 có những 40 cái nâng như nâng trứng, còn đem dâng lên Liên Xô nữa. F-5 là các máy bay phản lực hiện đại, tốc độ khoảng 2 lần âm thanh, cân nặng cỡ MiG-21. So với MiG-21, thì MiG ưu thế ở độ cao trên 6km, khi đó MiG có lực đẩy vượt trội cho không chiến. Nhưng MiG-21 yếu hơn F-5 xa ở khả năng ném bom, độ cao thấp, không khí đặc, tốc độ chậm, mang nặng... F-5 ném bom bổ nhào tốt, bổ nào chính xác, dễ bám sát mặt đất né đạn. - Khối lượng rỗng: 9.558 lb =4.349 kg - Khối lượng cất cánh điển hình: 15.745 lb =7.157 kg - Khối lượng cất cánh tối đa: 24.722 lb =11.214 kg - Tầm thông thường: 760 nmi = 870 mi = 1,405 km - Tầm tối đa: 2.010 nmi = 2.310 mi = 3.700 km Cụ thể Đời đầu F-5A Freedom Figher - Tầm tối đa 1387 miles = 2232 km. - Bán kính chiến đấu với vũ khí tối đa: 195 miles = 313 km - Bán kính chiến đấu với 2 bom 530-pound: 558 miles = 898. Đời sau F-5E Tiger II - Tầm bay tối đa : 1543 miles = 2483 km - Bán kính chiến đấu với 2 đạn AAM không chiến: 656 miles = 1055. Xem ra, vùng xa nhất của chiến sự 1974 chỉ bằng nửa tầm của các máy bay F-5, cả tầm ném bom lẫn tầm không chiến. Căn cứ không quân lớn nhất là Đà Nẵng và hàng loạt căn cứ Miền trung. Vị trí gần trận đánh nhất là Quảng Ngãi , trận đánh xảy ra giới hạn tại khu vực Đá Bông bay, quân Tầu đã chọn vị trí này và không thể đi thêm vì lo chính cái máy bay VNCH, họ sẵn sàng nướng các tầu tiền tiêu này nếu VNCH xuất quân, thành thế giằng co mỗi bên giữ một nửa hoặc bỏ mồi quay về, còn nếu VNCH không xuất quân thì họ lấy trọn quần đảo như đã xảy ra. Khoảng cách từ Cù Lao Ré là 121 hải lý. Năm 1974, ngoài F5 chủ lực (tầm bay tối đa 1400/3700 km), VNCH còn có Cessna T-37 Tweet (1500km), và có thể có B57. Trong đó, phòng không của Trung Quốc gần như là con số không, với các súng phòng không từ thời Đại Chiến Thế Giới Lần Thứ Hai. Tầu Trung Quốc không dám vào phía Tây và Nam, càng vào gần, khả năng chiến đấu của 300-400 F-5, A-37 càng tăng lên. Nếu như VNCH muốn giữ, họ không tốn nhiều công để chí ít chia đôi quần đảo chờ cãi cọ, hoàn toàn có sức làm hạm quân Tầu phải bỏ cuộc giữ được toàn vẹn quần đảo. Nhưng chỉ sau loạt đạn chóng vánh, tầu VNCH bỏ cả đồng đội chạy té về Đông Nam rồi vòng về bờ. Thậm chí là các tầu VNCH còn không dám chạy vào bờ ngay, định sang Philipine, sau thấy yên yên mới dàm mò về phía Tây. Khoảng cách từ căn cứ Chu-lai ra quần đảo và vùng chiến sự nằm trong tầm tác chiến của A-37 và F-5
Điên rồ, hèn nhát và ngu ngốc. Ngoài các chuyện máy hỏng, vũ khí hỏng..... đặc trưng của một hỗn quân vô luật và ngu si. Xem ra quân đội VNCH chê thịt quân Tàu, chỉ thích thịt đồng bào, máu đỏ da vàng của mình thôi.
4. Phi công Nguyễn Thành Trung nói về kế hoạch dùng máy bay phản công. "Đã quá cái tuổi lục thập nhi nhĩ thuận, còn điều gì ông thấy hối tiếc, hoặc món nợ nào ông chưa trả được?" (xem link) Đến giờ này tôi vẫn ân hận, tiếc là không được chết vì Hoàng Sa. Ngày 18.1.1974, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên chiếm đảo Hoàng Sa, phía Việt Nam Cộng hoà khi đó có một đại đội địa phương quân chốt trên đảo Phú Lâm. Hai bên đánh nhau, cùng có thương vong về con người nhưng quân số Trung Quốc đông quá, 51 lính địa phương quân của ta bị bắt đưa về Trung Quốc. Việt Nam Cộng hoà lên tiếng phản đối việc Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự để chiếm đảo của Việt Nam một cách phi pháp. Đây là sự kiện lớn, dư luận thế giới cũng phản đối việc đó. Lúc này hải quân của Việt Nam Cộng hoà không thể đổ bộ chiếm lại đảo được. Ngày 19.1.1974, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu điều năm phi đoàn F5, bốn ở sân bay Biên Hoà, một ở sân bay Đà Nẵng, mỗi phi đoàn có 24 máy bay và 120 phi công ra Đà Nẵng chuẩn bị đánh lấy lại Hoàng Sa. Mọi người rất phấn khởi, tụi tôi đi ra với tư thế là đi lấy lại một phần lãnh thổ đất nước. Sĩ quan cấp tá ở các phi đoàn 520 – Nguyễn Văn Dũng, 536 – Đàm Thượng Vũ, 540 – Nguyễn Văn Thanh, 544 – Đặng Văn Quang, 538 – Nguyễn Văn Giàu đều đã lên kế hoạch tác chiến kỹ lưỡng. 150 phi công thuộc sáu phi đoàn F5 của không lực Việt Nam Cộng hoà khi đó đều ký tên chung vào một lá đơn tình nguyện “Xin được chết vì Hoàng Sa”. Hàng ngày, máy bay RF5 có nhiệm vụ bay và chụp ảnh các toạ độ từ nhỏ nhất ở Hoàng Sa, xem có thay đổi gì, tàu chiến Trung Quốc di chuyển ra sao, bố trí các cụm phòng thủ thế nào… đưa về chiếu ra cho tất cả phi công theo dõi. Tụi tôi đếm từng tàu một, thậm chí đếm được cả số ghi trên tàu, chia bản đồ ra làm bốn, mỗi góc tư giao cho một phi đoàn, phi đoàn thứ năm bay bảo vệ trên không. Họ có 43 tàu tất cả và quyết tâm của tụi tôi là đánh chìm tất cả 43 tàu đó trong vài giờ. Về không quân, vào thời điểm đó chúng tôi có nhiều lợi thế hơn Trung Quốc. Bay từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa bằng cự ly từ đảo Hải Nam ra. Ưu thế của phi đội tụi tôi là máy bay bay ra, đánh nửa tiếng vẫn thừa dầu bay về còn Trung Quốc chỉ có Mig 21, bay ra đến Hoàng Sa thì không đủ dầu bay về. Khí thế phi công lúc đó hừng hực, mấy anh chỉ huy trưởng từ đại tá trở xuống đòi đi đánh trước. Tất cả háo hức chờ đến giờ G là xuất kích.Nhưng giờ G ấy đã không đến. Hạm đội 7 của Mỹ trên biển không cứu các hạm đội của đồng minh Việt Nam Cộng hoà bị bắn chìm và bị thương trên đảo. Dường như vì lợi ích của mình, các quốc gia lớn có quyền mặc cả và thương lượng bất chấp sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác. Một mảnh đất dù nhỏ cũng là tổ quốc mình, cha ông ta đã đắp xây nên bờ cõi, là con dân của đất nước ai cũng có nghĩa vụ thiêng liêng gìn giữ lấy. Tụi tôi háo hức sẵn sàng tất cả nhưng cuối cùng không được chết cho Hoàng Sa. Tới bây giờ tôi vẫn ân hận. Sau này bạn bè tôi gặp lại nhau cũng cùng một tâm trạng: đáng lẽ tụi mình chết cho Hoàng Sa thì vinh dự hơn! Tham khảo link tổng hợp Nguồn http://my.opera.com/thanhniendatviet/blog/show.dml/62466952 Những bài về Trường Sa & Hoàng Sa đăng trong sachhiem.net --- > http://sachhiem.net/LICHSU/H/HoangSa_list.php
Trang Lịch Sử |