Nói Về Những Phong Trào Tranh Đấu Của Phật Giáo Tại Miền Nam Quán Như phỏng vấn Hoàng Nguyên Nhuận https://sachhiem.net/HOANGNN/Hoang35.php
Bắc Việt có thể có nhiều điều sai trái lầm lẫn, nhưng có một điều tôi nghĩ họ không sai đó là đã thu hồi nền tự chủ của dân tộc. Và bằng sự thu hồi ấy, đã đem lại hòa bình và tái thống nhất đất nước.... Tôi nghĩ rằng, trong cuộc chiến vừa qua, về cơ bản Miền Bắc đã chiến đấu vì độc lập nhiều hơn, trong khi Miền Nam đã chiến đấu cho tự do nhiều hơn. Vì độc lập mà chính quyền Miền Bắc đã treo giò tự do của dân chúng, trong khi chính quyền Miền Nam đã vì tự do mà đem độc lập trao cho Pháp, cho Mỹ giữ dùm. Tôi chỉ ước mong đồng bào Miền Bắc hưởng tự do mà không quên độc lập, và đồng bào Miền Nam biết nếm mùi độc lập mà không phải tiếc hận những tự do đã mất. Thành công của dân tộc và của một chính quyền vì dân tộc là thực hiện được thế quân bình độc lập - tự do đó, nơi mọi người, trong mọi hoàn cảnh. (HNN) Bài phỏng vấn ông Hoàng Nguyên Nhuận (HNN) sẽ làm rõ thêm một số chi tiết lịch sử mà bản thân ông HNN là nhân vật tham gia. Hoàng Nguyên Nhuận Hỏi: Tại sao anh chọn Phật Giáo làm điểm hoạt động? Tại sao không chọn một đảng phái nào khác như Quốc Dân Đảng hay Đại Việt? Đáp: Và cả Đảng Cộng Sản cũng như Đảng Cần Lao Nhân Vị nữa chứ. Tôi có thể trả lời anh ngay là tôi không tiên quyết chống đảng nào nhưng tôi cũng không theo đảng nào vì tôi nghĩ đạo Phật cũng đủ là khởi điểm dấn thân. Tín ngưỡng là lựa chọn và là điểm tựa tối hậu cho tôi. Đã hẳn, không phải hành động hay quyết định nào của chúng ta cũng có thể giải thích trọn vẹn như giải một bài toán. Vì nói theo chữ nhà Phật thì bất cứ chọn lựa nào cũng do trùng trùng duyên khởi. Tuy nhiên, cụ thể tôi phải nhận là trực giác tín ngưỡng, hoàn cảnh, giáo dục thường đóng một vai trò quan trọng đối với quyết tâm dấn thân của tôi. Ước vọng giải nghiệp và chủ hòa của tôi đã khiến tôi không có duyên nợ với những đảng phái hữu danh đương thời, chứ không phải vì định kiến chủ thuyết hay ý thức hệ. Tôi có cảm tưởng Hồ chí Minh và Ngô đình Diệm đã gài nhau vào thế một còn một mất, không bên nào có một dấu hiệu khoan hòa thiết thực cụ thể nào cả. Họ bị Chiến Tranh Lạnh lợi dụng hơn là lợi dụng Chiến Tranh Lạnh để làm lợi cho Việt Nam. Tôi có dịp giao tiếp với một số đồ đệ của Nguyễn thái Học còn sống sót qua các trận càn quét của Pháp, của Hồ chí Minh và của Ngô đình Diệm. Họ không có một đường lối nào khả dĩ thoát khỏi cái gọng kìm oan nghiệt của ông Hồ, ông Ngô tạo ra cho họ và cũng không có một chủ trương chính sách nào thiết thực để lôi dân tộc khỏi vũng lầy Quốc-Cộng do Chiến Tranh Lạnh đào sâu, thế nhưng vẫn bị cả ông Hồ lẫn ông Ngô xem như kẻ thù. Tôi có cảm tưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng hay Đại Việt chỉ còn là đảng của những thánh tử đạo chính trị chứ không phải là đảng của hiện tại hướng về tương lai. Về phương diện lịch sử, Phật giáo hấp dẫn tôi vì Phật giáo tự lập, không vọng ngoại, không nhuốm màu sắc ý thức hệ, có truyền thống gắn bó với đất nước, được đa số quần chúng theo, và được thiện cảm của những quốc gia và thành phần chủ hòa, không liên kết trên thế giới. Lại nữa, nói đến duyên nghiệp trùng trùng và những liên hệ gắn bó giữa đời mình với Phật giáo thì biết đâu chỉ vì kiếp trước tôi đã vào chùa chọc phá các nhà sư, ăn cắp bánh chuối, phá hoại cây cảnh trong chùa nên kiếp này phải làm Ông Ác đứng ngoài cổng chùa để sám hối? Vâng, biết đâu... H. Ý thức chính trị nhen nhúm thế nào trong anh? Đ. Tôi mới một tuổi thì thế chiến thứ hai bùng nổ. Rồi lần lược với tuổi đời, tôi thấy Nhật đến bắt Pháp, rồi Tàu đến đuổi Nhật, rồi Việt Minh, rồi Pháp trở lại đi lùng Việt Minh và hành hạ bắn giết người Việt. Chiến tranh Cao Ly và sản phẩm thời thượng của Chiến Tranh Lạnh là những chế độ độc tài ở Nam Mỹ, Phi châu và Á châu cũng là những băn khoăn chính trị đối với tôi. Hoàn cảnh đã dạy cho tôi mang máng không thích ba chuyện: chiến tranh, bị trị và độc tài. Rồi chiến tranh chấm dứt, đất nước chia đôi. Dĩ nhiên ở Miền Nam, không phải chỉ mình tôi mang máng không thích ba chuyện đó và âm thầm cầu mong người Việt đừng đối xử với nhau như kẻ thù. Mới đầu, tôi nghĩ Ngô đình Diệm muốn làm chuyện đó trên căn bản một chính quyền tự chủ và cởi mở. Nhưng đến khi ông đơn phương chấm dứt hiệp thương Nam Bắc theo Hiệp Định Genève và lạm dụng hai chữ Việt Cộng để ồ ạt phát động chiến dịch Tố Cộng mà phần lớn là nhắm đánh các giáo phái và thành phần cựu kháng chiến không chịu theo ông Hồ ra Bắc thì tôi thấy không còn hy vọng gì nữa. Thất vọng đó còn tăng dần khi tôi nghĩ rằng ông Diệm muốn Ky-tô giáo hóa Miền Nam thành một nước như Phi Luật Tân và dùng Miền Nam như một tiền đồn chống Qủy Đỏ theo chính sách đương thời của Giáo Hoàng Pius XII. Tôi còn nhớ cái cảnh năm 1959, Hồng Y Agagianian - Bộ Trưởng Bộ Tuyên Truyền của Vatican sang Việt Nam năm 1959 để chủ tọa Đại Hội Thánh Mẫu kỷ niệm 300 năm Ky-tô giáo đến Việt Nam, vinh thăng nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn lên hàng Vương Cung Thánh Đường và chứng giám cho anh em ông Diệm đem nước Việt Nam dâng cho Bà Maria. Ảnh Tổng Thống hôn nhẫn chào mừng Hồng Y Agagianian Thời này, Vatican vẫn chưa cho Ky-tô giáo ở Việt Nam hưởng quy chế giáo hội, nghĩa là vẫn còn là một bộ phận trực thuộc khối Thừa Sai hải ngoại của Vatican. Nói thế khác, quyết định dâng Việt Nam cho Đức Mẹ là một quyết định của Vatican chứ không phải của người Ky-tô Việt thông qua giáo hội bản địa. Một điểm duyên nghiệp khác tưởng cũng nên nhắc lại ở đây. Năm 1954, khi hòa bình Genève đến thì tôi mới 16 tuổi. Đầu năm đó, gia đình hứa đến hè sẽ cho tôi đi Hà Nội thăm 36 phố phường tôi hằng mơ ước qua sách vở. Hòa bình Genève đập tan dự định đó và Miền Bắc trở thành một thứ đất hứa lãng mạn xa vời của tôi. Đây là một trong những lý do tại sao mười năm sau tôi chống oanh tạc Bắc Việt, tại sao tôi âm thầm dai dẳng ôm ấp ước vọng tái thống nhất đất nước. Tội nghiệp tôi là giấc mơ Hà Nội đến nay vẫn còn là cơn mộng dài ngót nửa thế kỷ. Hòa bình thống nhất xong, tôi lại đi ở tù, tù ra thì vượt biên. Hai mươi năm rồi tôi chưa về thăm nhà, nói chi chuyện thăm Hà Nội. H. Anh thường nhắc đến mấy chữ trả nợ đời và giải nghiệp? Về tín ngưỡng, anh nguyện giải nghiệp; về tư tưởng, anh hô hào giải hoặc; về lịch sử, anh chủ trương giải thực. Có phải ba điều nầy bao giờ cũng ăn khớp với nhau không, và đâu là thứ tự ưu tiên của ba điều ấy? Đ. Người ta khác nhau không phải vì chạy theo hạnh phúc, người ta chỉ khác nhau về cách hiểu hạnh phúc là gì và làm thế nào để đạt hạnh phúc đó. Hạnh phúc của người Phật tử là tu hành để giác ngộ giải thoát. Truyền thống tu hành của người Phật tử Việt Nam là tự giác nhi giác tha và Phật pháp không rời thế gian, nghĩa là cùng tu và cùng giải thoát với đồng bào đồng loại. Phật tại tâm nên có người là có Phật, và có người Việt Nam là có tổ quốc Việt Nam. Đạo pháp và dân tộc là hai điều không thể tách rời. Truyền thống tự giác nhi giác tha của người Phật tử Việt Nam khởi từ thời đấu tranh tự chủ Trưng Vương qua Tiền Lý, Ngô, Đinh, Tiền Lê đến thời cũng cố tự chủ Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn Tây Sơn, rồi thời chống Pháp với Văn Thân, Cần Vương. Thời hiện đại là phong trào hiện đại hóa Phật giáo Việt Nam khởi từ thập niên 20 mà điểm cao là phong trào vận động tự do tín ngưỡng và bình đẳng xã hội soi sáng bởi ngọn đuốc Quảng Đức năm 1963. Ảnh khắc - Lễ khánh thành nhà thờ do chính phủ thực dân Pháp xây ở Saigon. (Chùm ảnh xưa, không đề năm) Ít nữa là cho đến thời chúng tôi thì nghiệp báo hay nợ nần lịch sử mà Việt Nam phải gánh chịu là thực dân và những tư tưởng huyễn hoặc bản địa hay ngoại nhập. Do đó, giải nghiệp trước tiên là chống những tư tưởng huyễn hoặc hay giải hoặc, và chống thực dân hay giải thực. Khổ đế hiện đại của người Việt không chỉ là cảnh kẻ ăn không hết kẻ mần không ra, cá lớn nuốt cá bé, con vua thì lại làm vua mà còn là mất tự chủ, và kình chống nhau vì uống lầm những thuốc độc ý thức hệ nhập cảng. Cho nên, giải thực và giải hoặc cũng chính là góp phần thực hiện độc lập quốc gia, hòa bình dân tộc và cách mạng xã hội. Tôi trộm nghĩ đó là con đường tự giác nhi giác tha của người Phật tử trong hoàn cảnh và thân phận của thế hệ chúng tôi. H. Đem mục tiêu tín ngưỡng là giải nghiệp buộc vào những mục tiêu chính trị như vận động hòa bình, độc lập và cách mạng xã hội có phải là đã sa vào cái hố tôn giáo hóa chính trị, nhập nhằng quốc gia và giáo hội, sa vào cái bẫy độc tôn độc thiện của Âu Châu thời Trung Cổ không? Đ. Tình trạng nhập nhằng đạo và đời, thế quyền và thần quyền đó là điều người Phật tử phải hết sức đề cao cảnh giác. Tình trạng nhập nhằng đó là nguyên nhân sa đọa tâm linh. Giúp cả nhân loại mà đánh mất chính mình thì có ích gì? Lằn mức phân định giữa minh quân và bạo chúa, giữa hạnh nguyện và cuồng vọng, giữa thiện chí và ác tâm, giữa bố thí và tham lam là một lằn mức mong manh gang tấc. Tham vọng thần quyền cũng rất dễ đưa con người phản lại nhu cầu thế trị là dân chủ tự do. Chủ trương dĩ ngoại trị ngoại có thể đúng nhưng dĩ độc trị độc vẫn có thể khiến người ta vô tình bị ngộ độc chí tử. Hội chứng không đội trời chung giữa cộng sản - tư bản, giữa quốc - cộng ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua là bằng chứng. Chủ nghĩa xã hội nguyên là một chủ trương bài trừ ma tuý có lúc đã trở thành ma túy. Chủ nghĩa quốc gia là một thứ giả dược do thực dân Pháp sáng chế và đã được Vatican ban phép lành trở thành một thứ linh dược chống cộng. Chống cộng sản là chống quỷ đỏ, theo cộng sản là lạc đường xuống hỏa ngục, ngay cả với những kẻ không hề chịu phép rữa tội, không hề chấp nhận hỏa ngục thiên đàng. Để khỏi đánh mất chính mình trên đường dấn thân thế trị, người Phật tử phải nhớ hai điều. Thứ nhất, Phật Thích Ca đã bỏ thế quyền để làm thầy, chứ không để làm vua. Thứ hai, ý thức hệ và các định chế chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp chỉ có tác dụng ngăn con người lún sâu vào đường ác chứ không làm cho con người trở nên tốt lành thánh thiện. Giác ngộ tâm linh mới làm cho con người trở nên tốt lành thánh thiện. Giác ngộ là thành quả của tâm linh tự do, tự lực, biết tự thắp đuốc lên mà đi, biết bỏ thuyền bè khi đã đến bờ bên kia. Tâm linh chứ không phải tín lý tín điều, tín ngưỡng chứ không phải tôn giáo. Tín lý tín điều là sự sa đọa của tâm linh, cũng như tôn giáo là sự sa đọa của tín ngưỡng. H. Khi theo đuổi mục tiêu Độc Lập Quốc Gia - Hòa Bình Dân Tộc - Cách Mạng Xã Hội, người Phật tử thế nào cũng phải đối đầu với những thế lực cản đường, làm sao để vượt được trở ngại đó? Đ. Thực tế, Độc Lập, Hòa Bình và Cách Mạng là những mục tiêu thế trị trường cửu cho mọi quốc gia muốn thống nhất tự chủ, không riêng gì Việt Nam. Thời của tôi thì ba mục tiêu đó trở thành mục tiêu ngắn hạn cho Miền Nam. Một Miền Nam no ấm, tự chủ, đủ khả năng phát khởi tiến trình hòa hợp dân tộc và vãn hồi hòa bình giữa hai miền, tạo điều kiện thống nhất đất nước về sau. Có người dựa vào mấy chữ Việt Nam Quốc Tự để nói rằng người Phật tử chủ trương độc quyền tôn chính. Người Phật tử chẳng cần nuôi tham vọng đó. Nếu nền tảng của dân chủ là đa số thì quần chúng Phật tử - chưa kể những thành phần dân tộc chủ hòa tiến bộ khác, luôn chiếm đa số. Ý nguyện của họ là ý nguyện đa số. Chính quyền dân chủ đích thực là một chính quyền biết phát hiện rồi bám sát ý nguyện đó và tạo điều kiện cho ý nguyện đó thể hiện và tác động. Điều này giải thích tại sao chúng tôi luôn luôn chống độc tôn, độc thiện, độc tài, và luôn luôn đòi hỏi dân chủ, tự do chính trị, mỗi người một phiếu, luôn luôn vận động Quốc Dân Đại Hội, Quốc Hội Lập Hiến, Hiến Pháp... Trên đường tranh đấu, có khi chúng tôi cũng gặp những phản ứng mãnh liệt tàn tệ, và có thể đẩy chúng tôi đến chỗ phản ứng quyết liệt tàn tệ. Điều nguy cho người Phật tử là hận thù và bạo lực luôn luôn quyến rũ hấp dẫn nhất là khi người ta có thể lầm hiếu sát với sát nhất miêu cứu vạn thử. Nhưng vũ khí và mục tiêu thế trị của chúng tôi là tự giác, bất bạo động, hòa hợp và dân chủ. Nhờ vậy mà chúng tôi đã tránh được những hành động cũng như ý tưởng cực đoan sắt máu, ngay cả những khi thời cơ đã sẵn trong tay, như hoàn cảnh Miền Nam năm 1963, 1964, 1966 chẳng hạn. Sát nhân không phải là hành động chiến thắng. Sát nhân là một thất bại, thất bại trước những hận thù, sợ hãi của chính mình. H. Phong trào đấu tranh 1963 và phong trào 1966 là một diễn biến tự nhiên hay chỉ là một phong trào bột phát tự vệ? Đ. Thế quyền không phải là mục tiêu của Phật giáo và dấn thân chính trị chỉ là một cách giải nghiệp nên có thể nói các phong trào đấu tranh của Phật giáo đều chỉ là bột phát, nghĩa là bất đắc dĩ, nghĩa là chẳng đặng đừng. Các phong trào Phật giáo khác nhau về duyên khởi nhưng cứu cánh thì chỉ là một, đó là thành đạt một căn bản thế trị để giải quyết chiến tranh Việt Nam. Tôi không nghĩ ước vọng chấm dứt nồi da xáo thịt, chấm dứt lệ thuộc ngoại bang, hòa hợp hòa giải dân tộc là ước vọng riêng của anh chị em chúng tôi. Đa số người Việt chẳng muốn lệ thuộc ngoại nhân, chẳng ai muốn chia cắt đất nước trong một tình trạng Trịnh Nguyễn Nam Bắc phân tranh mới. Đa số cũng chỉ mong hai miền tạm thời chung sống hoà bình và hợp nhau tạo ra - hay chờ đợi, những thời cơ thuận tiện để thống nhất đất nước trong hòa bình và độc lập. Một Quốc Hội dân cử thực sự dân chủ sẽ nói lên ước vọng đó và yêu cầu cả Miền Bắc và Hoa Kỳ tôn trọng ước vọng đó. Bằng vào kết quả vận động quần chúng qua phong trào đấu tranh năm 1963, 1964 cũng như kết quả của cuộc bầu cử các Hội Đồng Tỉnh Thị năm 1965, bằng vào kết quả mặc nhiên của cuộc bầu cử Tổng Thống và Quốc Hội năm 1967, tôi nghĩ điều đó có thể làm được. H. Cuộc vận động 1963. Ai quyết định phát động? Đ. Quyết định phát động đấu tranh là một quyết định nhất trí của Phật giáo Huế, đầu não của Phật giáo Trung Phần cũng như Phật giáo toàn quốc dưới danh nghĩa Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Các Thượng tọa Thích Hộ Giác, Thích Thiện Minh và Thích Trí Quang (từ trái qua phải) Người gánh nhiều trọng trách thực hiện quyết định nầy là Thượng Tọa Thích Thiện Minh mà chúng tôi thường thân mật gọi là Thầy Thiện Minh. Thầy là kẻ chủ động hoàn thành hồ sơ về tình trạng Phật giáo bị đàn áp khắp Miền Nam từ năm 1959 đến 1962 tại miền Trung và cao nguyên. Hồ sơ nầy là một tối hậu thư gởi chính quyền Ngô đình Diệm ngày 20.2.1962. Đáng tiếc là chính quyền đã không quan tâm giải quyết. Thứ hai, Thầy là người chủ động phát họa các mục tiêu chiến lược cho cuộc đấu tranh năm 1963 như các biểu ngữ 'tự động' xuất hiện trong cuộc rước Phật sáng ngày Phật Đản 1963, và các văn kiện kế tiếp như Bản Tuyên Ngôn 5 Nguyện Vọng của Tăng Tín Đồ PGVN ngày 10.5.1963, Bản Phụ Đính 'Bản Tuyên Ngôn' ngày 15.5.1963, Phụ Trương Bản Phụ Đính ngày 25.5.1963. Thứ ba, thành phần chủ lực trong cuộc đấu tranh năm 1963 là tầng lớp trẻ, như Gia Đình Phật Tử, Thanh Niên, Sinh Viên, Học Sinh, Hướng Đạo dưới sự lãnh đạo của Thầy trong chức vụ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên của Tổng Hội Phật Giáo thời gian đó. Thứ tư, Thầy Thiện Minh là trưởng phái đoàn Phật giáo trong cuộc thương thuyết với chính quyền để giải quyết các yêu sách của Phật giáo. Và sau hết, Thầy là nhân vật Phật giáo cao cấp nhất đã bị Pháp, rồi Diệm, Thiệu-Kỳ-Hương và chính quyền Hoa Kỳ dĩ nhiên, và cuối cùng là Lê Duẫn cho đứng đầu sổ đen và chết trong tù. Nỗi khổ nhục và cái chết của Thầy là dấu ấn về vị thế của Thầy trong các phong trào đấu tranh của Phật giáo hiện đại. Các Thượng tọa Thích Hộ Giác, Thích Thiện Minh và Thích Trí Quang (1964) H. Anh có thể nói qua những kinh nghiệm bản thân của anh về cuộc tranh đấu 1963? Đ. Tôi tham gia phong trào tranh đấu 1963 trong hàng ngũ Đoàn Sinh Viên Phật Tử Huế mà tôi đã vận động thành lập hai năm trước đó. Thực tế, phong trào Phật giáo năm 1963 chỉ kéo dài từ ngày Phật Đản tức ngày 8 tháng 5 đến ngày 20 tháng 8 là ngày chính quyền đồng loạt tấn công chùa chiền khắp nước và hốt hết những thành phần tích cực hoạt động của phong trào. Ngoài Đoàn SVPT Huế, chúng tôi cũng đã vận động thành lập những tổ chức khác như Học Sinh Phật Tử, Thanh Niên Phật Tử và các tổ chức Giáo Chức Phật Tử Tiểu, Trung và Đại Học. Các đoàn thể nầy tuy đã hình thành nhưng chưa có danh nghĩa chính thức, vì chúng tôi không muốn cuộc đấu tranh chỉ giới hạn trong vòng 'Phật giáo'. Nhờ vậy mà sau 20.8 phong trào vẫn còn sống được cho đến ngày binh biến 1.11. 1963. Tôi bị bắt cùng nhiều anh chị em sinh viên tại chùa Từ Đàm trong đêm Nước Lũ 20.8 và ra tù sau khi Đệ Nhất Cộng Hòa cáo chung. H. Phong trào đấu tranh năm 1964 nhằm mục đích gì? Tại sao lại lấy tên là Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc gây e ngại nghi ngờ vì chữ Cứu Quốc đã được Việt Minh dùng từ năm 1945. Tại sao không dùng chữ như phong trào đấu tranh dân chủ hay vận động Quốc Hội Lập Hiến hay Hiến Pháp? Đ. Phong trào 1964 phản đối Hiến Chương Vũng Tàu của Nguyễn Khánh. Ngoài mục tiêu chính trị là chống độc tài quân phiệt và vận động dân chủ tự do, phong trào nầy còn có một ẩn số quan trọng đó là chống đối chủ trương biến chiến tranh Việt Nam thành chiến tranh của Mỹ sau khi Mỹ công khai oanh tạc Bắc Việt mà không tuyên chiến.
Phong trào này phát khởi vào đêm 20.8.1964 là đêm thanh niên sinh viên học sinh Huế tổ chức đêm không ngủ để tưởng niệm cuộc tấn công chùa chiền của chính quyền Ngô đình Diệm cùng đêm năm trước. Bài diễn văn của Vĩnh Kha, Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Huế hôm đó có đoạn đòi hỏi Miền Nam phải chủ động chiến tranh cũng như hòa bình. Đại đa số thanh niên sinh viên học sinh không ai ủng hộ cuộc oanh tạc Miền Bắc cả. Phong trào lan nhanh đến các tỉnh, vào tận Sài Gòn buộc Nguyễn Khánh hủy bỏ Hiến Chương Vũng Tàu và hứa hẹn thực hiện dân chủ. Tội cho Nguyễn Khánh là khi ông từ bỏ tham vọng độc tài quân phiệt thì Mỹ cũng quyết định từ bỏ ông luôn vì ông đã hết là cái bình phong cho dự tính Mỹ hóa chiến tranh. Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc là một biến tướng chính trị khởi phát từ phong trào chống Hiến Chương Vũng Tàu của thanh niên sinh viên học sinh, do những thành phần cao niên, những bậc đàn anh của chúng tôi lập ra. Thanh niên sinh viên học sinh chúng tôi mặc nhiên chấp nhận vai trò chính trị của phong trào nầy như là một chuẩn bị để đáp ứng những diễn biến chính trị khả hữu khi Nguyễn Khánh nhượng bộ hay rút lui. Chúng tôi không có tham vọng và cũng không có khả năng kiểm soát hay gây ảnh hưởng đối với phong trào HĐNDCQ dù cá nhân tôi không phải là không có lúc băn khoăn về mấy chữ Nhân Dân Cứu Quốc. Tôi tự trấn an rằng có lẽ các bậc đàn anh đã chọn cụm từ ấy vì hoài niệm lịch sử hay ao ước lấy lịch sử làm vật xúc tác để tìm ra một giải pháp cho cuộc chiến Việt Nam? Đã hẳn, nếu có cơ duyên tham dự việc chọn lựa tên gọi thì tôi sẽ đề nghị tên khác, thay vì mon men lại gần cái tabou lịch sử đó. Nhưng điều tôi quan tâm không phải là danh nghĩa. Vấn đề là ở Mỹ và Bắc Việt. Điều quan trọng là thuyết phục Mỹ và Bắc Việt chấp nhận một giải pháp ít tốn kém xương máu và tâm sức cho vấn đề Việt Nam. Cách thuyết phục thiết thực nhất là cho họ thấy rõ nguyện vọng của dân chúng Miền Nam mà tôi nghĩ rằng đa số đang chia sẻ những tâm niệm như chúng tôi là hoà bình, tự chủ và dân chủ. Phật giáo đủ tư cách để làm chuyện đó. Những bậc cao niên đã không hoàn thành được chuyện đó nên năm 1965 rồi 1966 bọn trẻ chúng tôi lại phải làm nữa. Bài học mà tôi rút tĩa được là phong trào HĐNDCQ lan khắp Miền Nam một cách nhanh chóng - ít nữa cũng vào tận Sài Gòn và lên tận cao nguyên, cho phép tôi nghĩ rằng nếu có mục tiêu chính đáng thì chúng tôi có thể tạo hiện tượng vết dầu loang một cách dễ dàng để theo đuổi mục tiêu đó. Đây cũng là một nỗi ám ảnh nặng nề với bất cứ Phật tử hữu tâm nào khi họ thấy rằng Phật giáo thực sự thiếu cán bộ để chu toàn những mục tiêu thế trị khả hữu khi có cơ duyên. Cũng cố và phát triển hệ thống Trung Học Bồ Đề, Đại Học Phật giáo, kế hoạch đào tạo tăng tài trẻ, đào tạo cán bộ chính trị, hành chánh quản trị là những dự án được thai nghén thiết thực phát xuất từ lo âu đó. H. Phong trào năm 1965 nhằm mục đích gì? Đ. Phong trào 1965 lấy dân chủ chính trị để ngăn độc tài quân phiệt. Không dùng được Nguyễn Khánh nầy, người Mỹ sẽ tìm Nguyễn Khánh khác để vác cờ tiên phong hô hào Mỹ hóa chiến tranh và chiến thắng quân sự. Phong trào 1965 là phong trào chống lại mưu định đó bằng cách yêu cầu quân đội hãy lo đánh giặc và trả chính trị lại cho dân sự. Phong trào nầy dừng lại khi Bác Sĩ Phan huy Quát lên làm Thủ Tướng.
Lần nầy chúng tôi không phó mặc cho các bậc cao niên nữa. Chúng tôi trực tiếp đón Thủ Tướng Phan huy Quát về Huế bằng cuộc biểu tình vĩ đại và yêu cầu ông mấy điều. Thứ nhất, làm bất cứ điều gì có thể làm để chấm dứt chiến tranh; thứ hai tái lập Hiến Pháp và Quốc Hội để ngăn chận cái tệ nạn làm chính trị bằng súng đạn như hai năm qua. Chúng tôi hứa là sẽ ủng hộ ông trong chức vụ Thủ Tướng cũng như nếu ông có quyết định ra ứng cử Tổng Thống sau nầy. Chúng tôi cũng lưu ý ông một chuyện là Bùi Diễm, đang làm Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng cho ông. Chúng tôi gọi thẳng Bùi Diễm là một playboy Mỹ con, nếu cần sẽ phản ông như Brutus phản Ceasar. Ông bảo ông coi Bùi Diễm như con cháu trong nhà và được ủy thác của những người đã khuất phải bảo bọc nâng đỡ Bùi Diễm. Nghe ông nhắc đến chuyện tình cảm, chúng tôi không nói nữa dù trong bụng vẫn lo. Thủ Tướng Quát định triệu tập quốc hội lập hiến dưới danh nghĩa quốc dân đại hội đặt nền tảng cho một chính quyền dân sự dân chủ. Nhưng ông đã gặp ba trở lực chí tử. Thứ nhất, đa số chính quyền Hoa Kỳ ở Washington cũng như Sài Gòn đều tin vào chiến thắng quân sự nên họ không hài lòng vì thấy ông không hăng hái leo thang chiến tranh. Thứ hai, đa số tướng lãnh người Việt chỉ thích quyền lực dù phải bán linh hồn cho Mỹ và sợ rằng Thủ Tướng Quát muốn loại ảnh hưởng chính trị của họ. Thứ ba, thành phần chủ lực của chế độ cũ cho là ông quá thân Phật giáo và sau hai năm yên bụng vì thấy thiên hạ đã phần nào bỏ qua chuyện 'chế độ cũ', những thành phần nầy đã bám vào thế lực chủ chiến trong chính quyền Mỹ và các tướng lãnh Việt Nam để ngoi lên lại. Trước những áp lực và phá hoại ngầm đó, Thủ Tướng Quát đã lùi một bước hoãn bầu cử quốc hội lập hiến và chỉ bầu cử Hội Đồng Tỉnh Thị toàn quốc. Chúng tôi đồng ý với Thủ Tướng Quát là thực hiện việc bầu cử Hội Đồng Tình Thị toàn quốc làm bước đầu tiến lên Quốc Hội Lập Hiến. Đây là cuộc tổng tuyển cử đầu tiên sau khi Ngô đình Diệm đổ và là cuộc bầu cử tự do duy nhất ở Miền Nam cho đến ngày Việt Nam Cộng Hòa tiêu vong. Những liên danh Hoa Sen và những thành phần thân Phật giáo đã thắng khắp nơi. Thủ Tướng Quát cuối cùng đã ngã quỵ vì ba thế lực - chủ chiến Mỹ, tướng lãnh tham quyền và tàn dư chế độ cũ, hùa nhau khai thác những mâu thuẩn giữa ông và Quốc Trưởng Phan khắc Sửu. Thành phần nòng cốt của chế độ cũ là lực lượng Hố Nai của Linh Mục Hoàng Quỳnh nhảy vào gây hỗn loạn, tạo cơ hội cho Bùi Diễm hiến kế ve sầu thoát xác bằng cách xúi dục Thủ Tướng Quát tạm thời rút lui nhường quyền cho các tướng lãnh dẹp loạn xong thì trao quyền lại ông. Thủ tướng Quát nghe lời Diễm vô tình để cho Hội Đồng Quân Lực của Thiệu-Kỳ cướp quyền một cách danh chính ngôn thuận. Thầy Thiện Minh đã cố gắng vào phút chót khi Hội Đồng Quân Lực họp để chấp nhận sự từ chức của Thủ Tướng Quát nhưng đã muộn. Trên danh nghĩa, Diễm mất chức Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng trong chính phủ Quát nhưng bù lại đã được thưởng công bằng chức Đại Sứ tại Mỹ trong nội các của Nguyễn cao Kỳ. Thất bại của Thủ Tướng Phan Huy Quát đã làm kiên định thêm ý nghĩ của tôi rằng Quốc Dân Đảng hậu Nguyễn Thái Học chỉ là đảng của những thánh tử đạo mà thôi. H. Vụ Miền Trung 1966. Có phải chỉ vì Tướng Thi hay các anh định dùng vụ này để cắt đất ly khai? Đ. Phong trào đấu tranh 1966 hay còn gọi là Vụ Miền Trung. Chúng tôi bị kết án là chỉ vì Tướng Nguyễn chánh Thi mà suýt gây ra nội chiến. Thực tế, Tướng Thi bị cất chức và phong trào của chúng tôi là hai điều khác biệt. Sau khi Thủ Tướng Phan Huy Quát bị Bùi Diễm cho leo cây, và quân nhân trở lại chính quyền với Thiệu-Kỳ, chúng tôi im lặng chờ xem và thầm lặng cũng cố và phát triển những thành quả của hệ thống Hội Đồng Tỉnh Thị dân cử với mục đích làm áp lực tân chế độ thực hiện dân chủ, tạo cơ hội tiếp tục con đường dùng cách mạng chính trị để theo đuổi tự quyết quốc gia và hòa bình dân tộc. Vì lo ngại Thiệu trở thành thế dựa cho tàn dư của chế độ cũ khai thác chiêu bài chủ chiến đấu thầu chống cộng để trồi lên lại nên một mặt chúng tôi tỏ cho Nguyễn cao Kỳ và Nguyễn chánh Thi là chúng tôi không có ác cảm gì với họ và cũng chẳng chống đối những vận dụng quyền lực của cả hai trong tương lai. Sau khi Kỳ được chỉ định làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, tôi và anh Bùi Tường Huân đã cất công vào Tân Sơn Nhất gặp Kỳ. Qua câu chuyện, tôi có lưu ý Kỳ về âm mưu dùng người Việt làm Lê Chiêu Thống để Mỹ hóa chiến tranh của Mỹ và khổ nhục kế xấu mồi ngồi dai của Thiệu. Kỳ trả lời là không bao giờ Kỳ làm đầy tớ Mỹ, rằng Kỳ sẽ thực hiện lý tưởng cách mạng 1963 là dân chủ tự do. Kỳ quả quyết đủ sức cho Thiệu ở là ở, bảo Thiệu đi là đi vì Kỳ tự nhận mình là cái dù che chở nắng mưa cho Thiệu. Tôi nói đùa: Thiếu Tướng coi chừng, ông là cái dù nhưng Thiệu tìm cách làm cái cán thì phiền đó. Tôi nghĩ Kỳ thấy được thiện chí của chúng tôi, cho nên trước khi hoàn thành nội các chiến tranh Kỳ đã nhờ Phạm văn Liễu ra Huế bốc chúng tôi vào Sài Gòn tham khảo ý kiến. Gia chủ cho cuộc họp này là anh Ngô Trọng Anh. Anh Ngô Trọng Anh và anh Bùi Tường Huân đã đồng ý tham gia nội các của Kỳ. Phần tôi, tôi có việc làm của tôi và phải kính trọng các bậc đàn anh như tránh đường cho các con voi già nên đã cố đứng ngoài. Phạm văn Liễu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, là người giao liên giữa Kỳ với Thi, giữa Kỳ và phe tranh đấu Miền Trung trong khi anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt là người giao liên giữa phe tranh đấu Miền Trung với Thi. Kỳ nói chuyện với Lyndon Johnson tại Hawaii năm 1966, link:https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Cao_K%E1%BB%B3 Thế đó, nhưng sau khi đi gặp Tổng Thống Johnson ở Honolulu về thì Kỳ đổi giọng không còn chuyện mỗi người một phiếu nữa mà phải giáo dục chính trị cho dân thật thấm nhuần dân chủ tự do đã rồi mới cho dân đi bầu. Bộ máy huấn luyện dân chủ cho dân của Mỹ và Thiệu-Kỳ nói đến là Xây Dựng Nông Thôn, là Dân Ý Vụ, những tấm bình phong của kế hoạch Phụng Hoàng. Số phận dân chủ ở Miền Nam ra sao, mọi người đã rõ. Tuy khó chịu nhưng chúng tôi không phản ứng vội. Kỳ đang như người đội nón rơm chữa lửa, chống Kỳ thì chỉ có lợi cho Thiệu và Thiệu mới là kẻ đáng ngại, bởi sau lưng Thiệu là tàn dư chế độ cũ đang tập họp lại. Cuộc tranh chấp quyền lực giữa Thi và Kỳ xảy ra. Lý do chính là vì Tướng Thi không được mời tham dự hội nghị thượng đỉnh Mỹ-Việt ở Honolulu nên bắt đầu cay cú với Thiệu-Kỳ và cả Mỹ nữa. Phạm văn Liễu thân cả hai bên cố dàn xếp nhưng không xong. Thi được lòng quân nhân và công chức Vùng I Chiến Thuật nên khi Thi bị Kỳ cất chức Tư Lệnh Vùng thì quân nhân công chức vùng lên phản đối. Đó là phản ứng của các quân nhân công chức trong vùng, anh chị em chúng tôi không dính đến. Chúng tôi cũng đã cố cứu Tướng Thi khỏi rơi vào bẫy mà không được. Vì tình riêng, tôi đã theo lời yêu cầu của Phạm văn Liễu can thiệp với Mỹ để cứu Thi về Huế, sợ để Thi bị giam ở Sài Gòn hay Đà Lạt, Vũng Tàu... thì Thi có thể bị ám hại. Vì tội nghiệp Thi cũng như nễ lời yêu cầu của Liễu nên tôi đã nhân danh phát ngôn viên bảy Hội Đồng Tỉnh Thị dân cử Miền Trung can thiệp với Tổng Thống Johnson và Đại Sứ Mỹ. Thi được thả về Huế là xong việc. Thế thôi. Thi về Huế rồi nhưng phong trào phản đối việc cất chức Thi vẫn còn và có vẻ lên mạnh nữa mặc dù mục tiêu rất yếu. Chúng tôi nhảy vào chủ động biến phong trào phản đối Kỳ của quân nhân Vùng I thành phong trào vận động dân chủ, bầu cử Quốc Hội Lập Hiến mà mục tiêu vẫn là dùng chính trị - nghĩa là dân chủ tự do, để vận động tự quyết quốc gia và hòa bình dân tộc. Trọng điểm đấu tranh lần nầy là chống Mỹ hóa chiến tranh và cố gắng cụ thể hóa một giải pháp chấm dứt chiến tranh, trước hết là chiến tranh ở Miền Nam . H. Chấm dứt chiến tranh như thế nào? Đ. Cuộc vận động của chúng tôi công khai thì nói chuyện hòa bình dân chủ, Hiến Pháp, nhưng thực chất là nhằm vận động dư luận cho ba điểm. Một, tạm thời Nam Bắc làm hòa để có lý do cho Mỹ rút chân ra khỏi Việt Nam cái đã. Bằng không Mỹ quậy thì tan nát hết. Hai, Miền Nam trung lập trong vòng 20 năm để tránh hơi nóng của Chiến Tranh Lạnh, và moi viện trợ của bất cứ của ai có thể moi được. Thứ ba, Nam Bắc hiệp thương đi đến một Liên Bang Cộng Hòa Dân Tộc Dân Chủ Xã Hội gồm ba miền Bắc, Trung, Nam hoặc một Liên Bang Cộng Hòa Đông Dương gồm 3 miền Việt Nam và Cambốt, Lào như thời Pháp. Tôi muốn 'cướp' Quốc Hội để nói chuyện này một cách công khai dứt khoát, nghĩa là đặt viên gạch lót đường cho những người đi sau giải quyết vấn đề Việt Nam. Thí nghiệm các liên danh Hoa Sen trong cuộc bầu cử Hội Đồng Tỉnh Thị năm 1965 là một giai đoạn thao dượt để chuẩn bị cướp Quốc Hội này đó. Tôi nghĩ rằng nếu nhiếp hợp được Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam hay những thành phần có khuynh hướng tương tự - nghĩa là thuyết phục được người Nam chấp nhận một giải pháp hòa hợp hòa giải thì có thể mở đường cho Mỹ giải kết rút lui mà không bị mang tiếng thua trận, có thể chấm dứt chiến tranh, cứu vãn Miền Nam và thực hiện được hiệp thương hoà bình Nam Bắc trong khi chờ đợi thời cơ thuận tiện để tái thống nhất đất nước. Tôi nghĩ rằng, đa số những thành phần cựu kháng chiến đã ly khai Việt Minh hay đã rửa tay gát kiếm sau 1954, những thành phần cán bộ được gài lại để chuẩn bị Tổng Tuyển Cử 1956, những thành phần chủ hòa, tiến bộ hay khuynh tả không cộng sản ở Miền Nam, những thành phần Ky-tô giáo ôn hòa tiến bộ đều có ý nguyện đó. Mặt khác, thật khó mà quả quyết rằng những thành phần nầy đều bị Bắc Việt mua chuộc lợi dụng hết. Trong hoàn cảnh xa xôi vạn dặm, lại nghèo khổ, ăn bom hằng ngày như thế thì Bắc Việt lấy gì mà mua chuộc, lợi dụng những thành phần đó? Lại nữa, nếu Bắc Việt đã như thế mà làm được thì tại sao Miền Nam lại không làm được?! H. Có những điều không sáng tỏ và đã trở thành mục tiêu để người ta công kích anh như vụ đem bàn thờ Phật xuống đường, vụ Thanh Bồ, các hành động chống Mỹ như đốt xe, đốt phòng thông tin, thư viện, đòi Mỹ rút quân... Hypothetically nếu làm lại thì theo anh nên làm thế nào? Đ. Vụ Thanh Bồ Đức Lợi ở Đà Nẳng, chuyện đốt xe Mỹ ở Sài-Gòn, đốt Phòng Thông Tin, Tòa Lãnh Sự Mỹ ở Huế, khẩu hiệu 'US Go Home', bàn thờ Phật xuống đường... là những điều vẫn thường được khai thác như bằng chứng để lên án cá nhân tôi cũng như phong trào sinh viên tranh đấu là quá khích, là thánh chiến, là thân Cộng... Thanh Bồ Đức Lợi ở Đà Nẵng là một biến cố xảy ra ngoài ý muốn của chúng tôi và cũng không do chúng tôi tự ý gây ra trước. (xem "Ai gây ra vụ đốt phá Thanh Bồ Đức Lợi ở Đà Nẵng 45 năm trước ?" https://sachhiem.net/NDX/NDX007.php) Sự việc xảy ra là vì giáo dân trong vùng đã bị tẩy não nên quá lo sợ sẽ bị trả thù. Họ đã phản ứng quá đáng rồi gây đổ máu vì trong tay họ sẵn súng đạn mà họ đã thủ đắc một cách hợp pháp qua chính sách Ấp Chiến Lược và âm mưu thành lập các đặc khu yễm trợ cho chiến dịch xâm nhập Miền Bắc của Mỹ. Giáo dân trong vùng đã nổ súng và ném lựu đạn vào đoàn biểu tình tay không. Lệ Hằng đã nói lý do nào gây ra vụ này trong quyển Bản Tango Cuối Cùng. Lệ Hằng là người Thanh Bồ Đức Lợi và đã sống ở đó trong thời gian xảy ra vụ nầy. Tướng Thi lúc đó là Tư Lệnh Khu XI Chiến Thuật hẳn cũng còn nhớ vụ này khi ông cho lệnh tước khí giới của những toán dân quân tự vệ trong Thanh Bồ. Xe Mỹ bị đốt chỉ xảy ra ở Sài Gòn. Ở Huế thì Phòng Thông Tin và sau đó là tòa Lãnh Sự Mỹ đã bị đốt phá. Tôi không chủ trương cũng không phát động việc này, chỉ vì tôi không muốn bạo động, thế thôi. Cũng không thể nói là cộng sản nằm vùng len lỏi vào phong trào tranh đấu để làm việc nầy vì bằng chứng cụ thể là sau 1975, trong phong trào báo cáo kể công, không một ông bà cộng sản nào kê khai thành tích nầy, một vài sinh viên sau nầy chạy qua bên kia cũng chưa bao giờ dám khoe thành tích đốt nhà đốt xe Mỹ cả. Vì thực tế họ không làm, họ không dám làm. Các cơ quan an ninh Mỹ Việt hồi đó biết rõ là tay chân của Mỹ và những người muốn phá hoại uy tín của phong trào đấu tranh của Phật giáo đã làm chuyện nầy để biện minh cho việc Mỹ lựa chọn Thiệu-Kỳ và để biện minh cho việc Thiệu-Kỳ triệt hạ phong trào Miền Trung 1966. Một vài Phật tử chính hiệu cũng bị sa vào bẫy bạo động tai hại này mà không hay. Phản đối những điều sai lầm của chính quyền Mỹ ở Việt Nam cách nào đi nữa thì cũng là phản đối. Đa số những người Mỹ ở Việt Nam đã hành xử như cha ông họ trong phong trào Tây tiến diệt Da Đỏ thuở trước. Phải có một cách gì để nói lên sự sai trái đó. Trút những giận hờn bất mãn lên xe cộ, cơ sở của họ cũng có thể là một cách. Còn hơn là bạo hành với họ ngoài đường phố. Còn hơn là uất ức chạy qua phía bên kia cầm súng đánh nhau. Nguyễn cao Kỳ còn gọi Đại Sứ Mỹ Bunker là Thái Thú thì còn bằng mười đốt nhà đốt xe Mỹ. Tôi không chống nước Mỹ, tôi cũng không chống chính quyền Mỹ vì chủng tộc, tôn giáo hay vì ý thức hệ, hay vì nhiệm vụ quốc tế, vì giai cấp. Tôi chống những sai lầm của chính quyền Mỹ ở Việt Nam. Chống cộng không phải là tuyệt đối phục tòng Mỹ, cho là cái gì Mỹ làm cũng đúng. Không chống những sai lầm của Mỹ ở Việt Nam thì lấy gì mà chống cộng?! Chẳng lẽ chống cộng vì đã làm bồi Mỹ hay để làm bồi Mỹ!? Việt tính hay nhân cách Việt Nam đồng nghĩa với tự quyết, tự do. Đánh hay đàm, đàm hay đầu hàng, chiến thắng hay chiến bại, đàng nào thì người Việt cũng phải chủ động. H. Có bao giờ anh cố gắng nói thẳng cho người Mỹ biết như vậy không? Đ. Có chứ. Đầu năm 1965, qua lời yêu cầu của người bạn quen là J. Negroponte, Lãnh sự Mỹ ở Huế, tôi có gặp Henry Kissinger hai lần. Lần trước, trong buổi dạ tiệc ở Tòa Lãnh Sự để đón chào Kissinger đến Huế, và sáng hôm sau ở nhà tôi. Hồi đó Mỹ mới đổ quân vào Chu Lai. Mấy tháng trước đó, tôi đã biết chuyện này khi Negroponte và trưởng phòng thông tin Mỹ đến gặp tôi và hỏi tôi nghĩ thế nào về chuyện lính Mỹ sẽ xài đô-la đỏ ở Việt Nam. Tôi trả lời thẳng Negroponte là không nên vì đó là một cách ăn quỵt! Mới vào chuyện, Kissinger hỏi ngay tôi sao lại chống việc để cho học sinh sinh viên Huế vào Đà Nẵng tặng hoa đón chào Thủy Quân Lục Chiến đổ bộ vào Việt Nam? Nghĩ sao nói vậy, tôi bảo Kissinger rằng hôm đó tôi không biểu tình hô hào 'US Go Home' là may rồi cớ sao phải đi đón?! Kissinger không dấu ngạc nhiên vì sự bộc trực của tôi và hỏi tại sao thì tôi giải thích rằng Mỹ đánh Bắc Việt mà không tuyên chiến, nghĩa là sẽ không có thắng bại trên danh nghĩa, muốn thì đánh, không muốn thì thôi. Chẳng có gì ràng buộc Mỹ phải chơi tới cùng cả, làm sao người ta dám tin và hết mình với Mỹ được. Tôi dịch cho Kissinger nghe một câu đồng dao: Bồng bồng cõng chồng đi chơi Đi đến lục tỉnh đánh rơi mất chồng... Mỹ đang cõng Miền Nam như người đàn bà trong câu hát đó. Lúc nào thì Mỹ sẽ vứt người chồng đó để đi một mình?! Cho nên, nếu Mỹ công khai đổ quân để tấn công thẳng ra Bắc và sẵn sàng đương đầu với Trung Hoa như hồi ở Cao Ly thì tôi sẽ tình nguyện làm tên lính đánh thuê đi đầu. Nếu Mỹ không làm vậy mà chỉ múa tay trong bị ở Miền Nam, biến Miền Nam thành một thuộc địa, Mỹ hóa chiến tranh và tự tung tự tác như Pháp trước đây thì làm sao người Việt còn chút tự ái tự trọng có thể ngồi yên. Sau năm 1945, Pháp trở lại Việt Nam và coi người Việt như tôi tớ hay đàn em nhỏ. Hậu quả là sau chín năm thì chúng tôi mất nửa nước. Mỹ bây giờ cũng tấp tễnh bắt chước Pháp thì bao lâu chúng tôi sẽ mất nửa nước còn lại?! Ngoài chuyện Mỹ không tuyên chiến mà tấn công Bắc Việt, oanh tạc Bắc Việt mà không dám đụng độ với Trung Hoa, tôi cũng dại mồm dại miệng nói cho Kissinger nghe những điều mà tôi cho là khó hiểu. Thứ nhất là giải pháp quân sự hay giải pháp chính trị? Cụ thể là tương lai Miền Nam và cách ứng phó với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Bảo rằng MTGPMN là công cụ của Miền Bắc và sổ toẹt không thèm đếm xỉa đến có phải là chủ trương thiết thực không? Nhưng Bắc Việt xa xôi, không tiền không bạc, không danh lợi mà lại 'lợi dụng' được MTGPMN, trong khi Miền Nam cận kề lại có đủ mọi thứ, tại sao không mua chuộc được MTGPMN? Như vậy sức sống của MTGPMN là chính trị chớ không phải tài lợi. Lại nữa, để cho MTGPMN nổ súng tự khai sinh rồi mà lại không tìm cách giải quyết bằng chính trị thì có đúng hay không? Thứ hai, tôi bảo Kissinger rằng tình cảnh nầy Mỹ thủ huề là thắng rồi, nhưng tôi không tin Mỹ sẽ có thể thủ huề. Kissinger hỏi sao thì tôi nửa đùa nửa thật: Người Mỹ bày ra chữ Việt Cộng để phân biệt bạn thù, cộng sản quốc gia. Nhưng quốc gia hay cộng sản thì cũng là người Việt như nhau cả. Cái làm cho họ như nhau đó là Việt tính, hay lòng yêu nước. Cái như nhau đó cuối cùng sẽ làm cho người Mỹ khó biết ai bạn ai thù. Mặt khác, người Mỹ quen lối làm việc 9-to-5, sang Việt Nam họ cũng chỉ đánh nhau 8 giờ một ngày chưa kể morning tea, afternoon tea và cách xa hậu cứ cả chục ngàn cây số thiếu thốn đủ mọi thứ. Người Việt có thể đánh nhau 24 giờ trên 24 giờ và ở ngay trên quê hương mình, cho nên ngay cả lúc họ xay lúa, trồng rau, câu cá, ngay cả lúc nghỉ ngơi, tắm táp, làm tình thì cũng coi như chiến đấu. Kissinger còn đó, Negroponte thì sau Việt Nam đã đi làm đại sứ ở một nước Nam Mỹ rồi đại diện Hoa Kỳ ở Liên Hiệp Quốc. Nhưng đó không phải là lần cuối cùng tôi không có duyên với nước Mỹ. Henry Kissinger, April 29, 1975, link:https://en.wikipedia.org/wiki/Henry_Kissinger H. Lần cuối cùng là lần nào? Đ. Trong trại tỵ nạn Songkhla, Thái Lan năm 1980. Nhưng đó là chuyện khác, có dịp tôi sẽ trở lại sau. H. Xin anh trở lại chuyện bàn thờ xuống đường năm 1966. Ai quyết định và tại sao có quyết định đó? Bàn thờ Phật xuống đường Đ. Bàn thờ xuống đường là quyết định quyết tử của Thầy Trí Quang sau khi biết rõ chính quyền Mỹ cũng như riêng Đại Sứ Lodge mà Thầy coi là bạn, quyết dẹp tan thế lực chính trị của Phật giáo để rảnh tay leo thang chiến tranh và theo đuổi chiến thắng quân sự. Sau khi ra lệnh cho bàn thờ xuống đường thì Thầy đến nằm vạ tại Tòa Tỉnh Trưởng Thừa Thiên tuyên bố tuyệt thực cho đến chết. Khi Huế thất thủ, Thầy bị bắt vào Sài Gòn giam lỏng tại bệnh viện Duy Tân và tiếp tục tuyệt thực tiếp cho đến khi có lệnh của Tăng Thống bảo ngưng. Kẻ đem giáo lệnh đó đến là Thầy Thiện Minh. Thực tế, điều tôi lo sợ nhất sau khi bàn thờ xuống đường là Thầy Trí Quang đổi ý chuyển từ quyết định tuyệt thực đến chết sang quyết định tự thiêu. Chuyện đó xảy ra thì Miền Nam - ít nữa là từ Quảng Trị vào tận Sài Gòn lên tận Đà Lạt, sẽ bốc cháy, thực sự bốc cháy. Đó là điều chúng tôi âm thầm lo sợ, thực sự lo sợ. Trong tình thế tuyệt vọng này, quyết định đó không hẳn là không có dụng ích. Thật vậy, những ngày đầu khi bàn thờ mới xuống đường thì bàn thờ trở thành những địa điểm để cho những thành phần Thiệu Kỳ như các toán Xây Dựng Nông Thôn, một số đảng viên Đại Việt, Quốc Dân Đảng theo Thiệu Kỳ ra trình diện, nạp vũ khí. Rút tĩa kinh nghiệm đó, chúng tôi chuẩn bị biến các địa điểm có bàn thờ xuống đường thành những nơi để cho phe ta trình diện, giao nạp vũ khí một khi quân Thiệu-Kỳ tràn ngập Huế. Điều chúng tôi níu kéo để hy vọng giảm những cú sốc chiến bại chính là những bàn thờ ngoài đường và Đài Tiếng Nói Cứu Nguy Phật Giáo. H. Đài Phát Thanh Tiếng Nói Cứu Nguy Phật Giáo? Đ. Vâng, đài phát thanh Tiếng Nói Cứu Nguy Phật Giáo. Khi biết rằng không còn đường nào để thuyết phục Nguyễn cao Kỳ và Tòa Đại Sứ Mỹ chấp nhận bầu cử tự do để thiết lập một QHLH, chúng tôi biết đã đến hồi phải làm mạnh, ít nữa cũng là để tự vệ. Mấy lần tôi dò ý Thầy Trí Quang và các Thầy khác, các đàn anh lớn cũng như Tướng Thi, Tướng Đính về chuyện tách Miền Trung và giải pháp Trái Độn, nghĩa là làm mạnh rồi thương thuyết với Mỹ và Thiệu-Kỳ về một giải pháp chính trị nội bộ. Chẳng ai chịu vì đủ thứ lý do. Tôi đành từ bỏ ý nghĩ đó và bàn với anh chị em để chuẩn bị thua theo cách chúng tôi. Làm cho quần chúng biết chúng tôi muốn gì, và dùng áp lực quần chúng để cản ngăn hành động đàn áp của Thiệu Kỳ đã được Mỹ bật đèn xanh. Muốn vậy thì tiếng nói và nguyện vọng của phe tranh đấu phải được hâm nóng và phổ biến rộng rãi. Với sự tiếp trợ đồng lõa của một số Phật tử trong Đài Phát Thanh Huế, chúng tôi đã đánh cắp một máy phát tuyến rồi bí mật thiết lập một đài phát thanh lưu động lấy tên là Tiếng Nói Cứu Nguy Phật Giáo phát thanh 24 trên 24 giờ. Làn sóng bị phá dữ dội nhưng vẫn lan đến Sài Gòn và cao nguyên. Lệnh bàn thờ xuống đường của Thầy Trí Quang được phổ biến qua đài này nên mới lan rộng nhanh chóng như thế. Dù là vào phút chót chúng tôi đã ngăn được quyết định pháo kích và tấn công phi trường Đà Nẵng là nơi Nguyễn ngọc Loan đặt bản doanh của chiến dịch đàn áp, cuộc đối kháng giữa phong trào tranh đấu và lực lượng Thiệu-Kỳ ở Đà Nẵng đã làm cho trên 300 người bị chết và bị thương. Không có những bàn thờ ngoài đường đó thì Huế đã trở thành một chiến trường còn đẩm máu gấp trăm lần. H. Trong Vụ Miền Trung 1966, ngoài chuyện bàn thờ xuống đường, còn chuyện những đoàn sinh viên quyết tử. Phật giáo định đem sinh viên làm con thiêu thân trước súng đạn của ông Thiệu ông Kỳ sao? Đ. Trong lúc bàn thờ xuống đường, một điều khác khiến chúng tôi lo lắng là súng đạn rơi vào tay thanh niên sinh viên học sinh. Thành phần này đã hăng say biểu tình, bây giờ lại sẵn súng đạn nữa. Chưa kể một số sinh viên lại ngã nghiêng, kẻ nằm vùng cho Thiệu-Kỳ, kẻ nằm vùng cho Mặt Trận. Chúng tôi lo ngại thanh niên sinh viên bị đẩy vào cảnh hy sinh như ở Hungary hồi 1956. Cuối cùng chúng tôi phải đi đến quyết định là phải đoàn ngũ hóa để kiểm soát. Đoàn Sinh Viên Quyết Tử được khai sinh vì đó. Một số quân nhân, công an cảnh sát Phật tử được giao việc cố vấn tổ chức sinh viên thanh niên thành đội ngũ, kiểm kê súng đạn họ đang giữ, huấn luyện căn bản quân sự và đưa họ đi tập bắn. Cũng may là không ai thiệt mạng hay bị thương trước cũng như trong khi Nguyễn ngọc Loan phóng tay phát động đàn áp. Đa số đã đem súng đạn giao lại cho Phật trên các bàn thờ ngoài đường giữ dùm trước khi ra trình diện đầu hàng hay im lặng rút lui, hay bị bắt. Chúng tôi chuẩn bị thua một cách kỷ càng đến độ sau khi Huế thất thủ rồi mà đài phát thanh vẫn còn sống, truyền đơn vẫn tung bay, ban phụ trách thông tin tuyên truyền và Đài TNCNPG, cũng như đại đa số thành phần lãnh đạo sinh viên tranh đấu không ai bị bắt cả. Điều này đã khiến Nguyễn ngọc Loan đã điên lại càng điên nặng và bố cáo treo đầu chúng tôi với giá khá cao khắp nơi. H. Như vậy là anh không bị bắt trong vụ 1966 ở Huế? Đ. Không. Sau một thời gian trốn tránh ở các làng quê do đồng bào Phật tử cưu mang đùm bọc, cuối năm 1966, chúng tôi được Phật giáo Huế bí mật phân tán khỏi Huế, một số vào Sài Gòn, một số các tỉnh khác. Phần toán của chúng tôi thì đến năm 1968 mới bị bắt cùng một lần với Thầy Thiện Minh khi chính quyền tấn công càn quét Trung Tâm Thanh Niên Phật Tử Quảng Đức số 294 đường Công Lý Sài Gòn. Chúng tôi bị nhốt vào Nha Cảnh Sát Đô Thành, rồi Quân Lao Gò Vấp, ra tòa lảnh án rồi bị cưỡng bách nhập ngũ. Đây là lần thứ hai tôi vào tù. Một trong những luật sư đã biện hộ không công cho Thầy trò chúng tôi hồi ấy hiện đang sống ở Úc là Luật sư Bùi chánh Thời. H. Mặt Trận có khai thác được gì qua vụ phong trào 1966 bị đàn áp không? Đ. Những người thuộc chế độ cũ còn mang hận nhà Ngô bị lật đổ, những thành phần Đại Việt, Quốc Dân Đảng không được Tướng Thi trọng dụng, những toán Biệt Chính, Dân Ý Vụ trực tiếp do Mỹ chỉ huy đã triệt để khai thác chủ trương triệt hạ thẳng tay của bộ ba Loan - Lãm - Toàn để trị tội cứng đầu cứng cổ của dân Miền Trung. Vụ đàn áp mùa Hè năm 1966 nặng nề gấp chục lần vụ đàn áp năm 1963 vì có Tòa Đại Sứ Mỹ đứng sau lưng và các thành phần đảng phái tiếp sức cho lực lượng đàn áp. Chính một số người Mỹ cũng bất mãn với sự cứng rắn tàn bạo này. Hành động phản kháng của Tướng Lewis Walt Tư lệnh quân đội Mỹ ở Miền Trung là một ví dụ. Một phần cũng vì thái độ hiểu biết của ông tướng này với phong trào 1966 mà chúng tôi cố thuyết phục phe tranh đấu ở Đà Nẵng bỏ chuyện phong tỏa hay pháo kích phi trường Đà Nẵng. Sau khi Tướng Huỳnh văn Cao được Sài Gòn cử ra thay thế Nguyễn chánh Thi bị đuổi về thì Thiệu-Kỳ lại cử một người rất thân Phật giáo ra làm Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật đó là Tướng Tôn thất Đính. Đính ra Huế gặp phe tranh đấu và yêu cầu phe tranh đấu cử một người theo Đính vào Đà Nẵng để thuyết phục Đà Nẵng chấp nhận quyền chỉ huy của Đính. Tôi được chỉ định làm việc ấy. Tôi còn nhớ cảnh máy bay của chúng tôi vừa hạ cánh thì một đám đầu trâu mặt ngựa ăn mặc quần áo xốc xếch, nồng nặc hơi rượu ùa ra chận lại, theo sau là Loan, mình trần, chỉ mặc một cái quần xà lỏn màu đỏ, ngất ngưỡng sặc mùi rượu. Loan chỉ vào tôi hỏi ai đó thì Đính nhanh trí bảo là người bà con theo Đính vào Đà Nẵng chữa bệnh. Đính nói chuyện riêng với Loan một lúc và Loan khoát tay cho bộ hạ dạt ra để chúng tôi lên xe rời khỏi phi trường. Việc phát hiện Loan ở trong phi trường Đà Nẵng cho tôi thấy rõ trò chơi nước đôi của Mỹ và Thiệu-Kỳ. Trên đường từ phi trường về chùa Tỉnh Hội để cho Đính ra mắt phe tranh đấu, tôi hỏi Đính nghĩ sao về chuyện Miền Trung tự trị? Đính trả lời: Thì tụi nó sợ vậy tụi nó mới cử moi ra đây? Lúc đó chúng tôi nghĩ chỉ còn một giải pháp là tuyên bố tự trị rồi thương thuyết, còn hơn là chờ đợi đầu hàng. Các tướng Đính, Thi, Nhuận đều không muốn, Thầy Trí Quang và chùa không muốn, phe tranh đấu muốn chuyện đó chỉ là thiểu số. Tôi như một con chuột trong căn nhà cháy, nhưng ích lợi gì mà gây đổ máu trong khi chờ đợi đầu hàng? Dân chúng Miền Trung không uất ức chạy theo phía bên kia, nhưng tâm hồn họ đã nặng trĩu thêm về những ưu tư về một đất nước chiến tranh, mất tự chủ, quyền nội trị nằm trong tay những tên vong bản thượng đội hạ đạp. Miền Bắc thấy rõ dân chúng theo Phật giáo vì lý tưởng hòa bình, tự do. Huế là trọng điểm của cuộc đàn áp thanh trừng năm 1966 của Mỹ và Thiệu-Kỳ, và đồng thời là trọng điểm của cuộc tổng công kích tổng khởi nghĩa Mậu Thân 1968. Chỉ vì Huế bướng bỉnh với cả hai chính quyền Miền Nam cũng như Miền Bắc. Mậu Thân 1968 ở Huế là một cuộc biểu dương lực lượng đối với dân chúng Hoa Kỳ và đồng thời là một cách thị uy đôi với dân chúng Miền Trung, không theo Mỹ mà cũng không theo cách mạng. H. Chúng ta hãy trở lại lời tố cáo các anh chống Công giáo? Đ. Hoàn cảnh Miền Nam trong những năm 1963-1966, quả thực nếu chúng tôi có ác tâm đàn áp trả thù thì chắc chắn máu và nước mắt đã đổ, dù nhiều dù ít chưa biết. Chúng tôi không làm chuyện đó vì điều đó đi ngược với tinh thần Việt tính và tín ngưỡng của chúng tôi. Nhưng một số đồng bào Ky-Tô giáo đã làm chuyện đó năm 1964 tại Sài Gòn khiến cho một số thanh niên Phật tử chết và bị thương khi họ bị một số chủ trương 'thà mất nước không thà mất Chúa' kéo về Sài Gòn làm loạn. Nếu biến cố 1963 là do một tôn giáo khác khởi động thì thánh chiến có thể đã xảy ra rồi sau khi Ngô đình Diệm bị lật đổ. Chiều ngày 2.11.1963 khi tôi mới ra khỏi tù về nhà thì Sư huynh Ferdinand Đặng văn Toán là thầy của tôi ở Đại Học Huế đạp xe đạp đến gặp tôi và yêu cầu tôi đừng dọn nhà rời khỏi làng Phủ Cam. Trong làng nầy nhà tôi là gia đình duy nhất không phải Ky-Tô giáo. Thầy tôi sợ rằng gia đình tôi dọn đi nơi khác thì thiên hạ sẽ nhào vào 'làm cỏ' Phủ Cam. Thầy tôi bảo đã nói chuyện với Cha Nguyễn văn Lập trước khi đến thăm tôi. Cha Lập là người rất thân với tôi hồi Trung Học. Người ta có thể lên án tôi quá khích, không thỏa hiệp nhưng không thể bảo tôi là cuồng tín khát máu chỉ mù quáng nghĩ đế tôn giáo mình mà không biết đến anh em đồng bào đồng loại. Tôi không chống Ky-Tô giáo như một đạo, tôi chống những kẻ núp bóng Ky-Tô giáo để làm chính trị, nhân danh tín lý Ky-tô để bức ép, hành hạ, bóc lột kẻ khác. Đó là những kẻ xúi dục Bồ Đào Nha gây hấn với Việt Nam, tiên phong mở đường cho Pháp chiếm Việt Nam, làm cộng tác viên cho Pháp đô hộ Việt Nam, những kẻ đã ban phép lành cho Chiến Tranh Lạnh ở Việt Nam và cộng tác đắc lực với Mỹ để biến chiến tranh Việt Nam thành chiến tranh của Mỹ. Lại nữa, tại sao Ky-Tô giáo tại Việt Nam lại không thể là Ky-Tô giáo Việt Nam như đạo Tin Lành ở Âu châu hay Mỹ châu? Nhìn lại quá trình nhập cuộc của tôi trong thời gian 1963-1975 ở Việt Nam tôi không khỏi 'mừng' để thấy rằng sự đối kháng nhiều khi cực đoan mãnh liệt đó đã không thúc đẩy tôi gây ra 'thánh chiến' để trả thù hay 'đi theo cộng sản' để trừng trị những người đã làm khổ tôi, làm khổ đồng bào, đồng loại. Cũng nhờ đạo Phật. Đạo Phật có thể đã cho tôi cái nhẫn để lì lợm, quá khích không thỏa hiệp với điều tôi cho là không phải, và đồng thời cũng làm nhẹ những hận thù oan nghiệt đối với những điều tôi cho là sai lầm, bất công, tàn ác. H. Trong khi anh biết là Cộng Sản sẽ khắt khe hơn về tự do tôn giáo, và nếu đồng minh giai đoạn với Mỹ để dân chủ hóa Việt Nam trước có phải là một chiến thuật khôn ngoan hơn? Hypothetically nếu làm lại thì theo anh nên làm thế nào? Đ. Nếu chỉ vì quyền lợi tôn giáo hay quyền lợi của tôn giáo mình thì đương nhiên tôi phải thỏa hiệp với Mỹ - hay trước đó với Pháp. Một số tôn giáo ở Việt Nam đã có những quyết định chính trị loại đó. Nhưng nhãn quan Phật giáo làm cho tôi thấy thế giới chúng sinh và Việt Nam là một. Việt tính hay nhân cách Việt Nam đồng nghĩa với tự quyết, tự do. Không có độc lập, tự chủ thì làm gì có dân chủ tự do. Người Phật tử chống Mỹ vì đã theo Cộng Sản thì cũng có thể sai lầm như chống Cộng Sản vì đã theo Pháp, theo Mỹ. Đã đánh mất nhân cách Việt Nam, đánh mất Việt tính rồi thì thắng bại cũng vô ích. Điều nầy có vẻ không tưởng, cực đoan, phi lý so với những chủ trương thực tiễn chính trị, kinh tế. Nhưng đó là một di truyền lịch sử mà tôi đã thừa hưởng, khó quên được. Người Phật tử là 'con tin' của cả hai thế lực quốc tế là 'cộng sản' và 'quốc gia'. Chúng tôi bị gọi là thành phần thứ ba vì lý do đó. Chúng tôi kêu gọi hòa hợp hòa giải cũng vì lý do đó. Hòa hợp hòa giải trên căn bản dân tộc, tự chủ. Nếu có cơ hội và phải làm lại thì tôi nghĩ, cách đi có thể khác, nhưng con đường thì không. H. Sau 66 và nhất là sau Mậu Thân 68, thái độ của Phật giáo đã thay đổi toàn bộ như hợp tác trong bầu cử, chống chiến tranh, chống hai phe, xin cho biết rõ động lực, hoàn cảnh và thay đổi chính sách của Phật giáo? Phản ứng và hoạt động của Phật giáo sau Hòa Đàm Paris có thay đổi nữa không? Thay đổi và phản ứng như thế nào? Đ. Về căn bản, sự thay đổi đó là một cách chuẩn bị hậu chiến. Tổng Thống Johnson bỏ cuộc không ra tái ứng cử là dấu hiệu Mỹ từ bỏ tham vọng chiến thắng quân sự. Việc Mỹ Việt Hóa chiến tranh để bỏ chạy chỉ là chuyện thời gian. Phật giáo phải quay về chuẩn bị để sống trong một hoàn cảnh hậu chiến, hoặc trung lập hoặc do Bắc Việt chủ động mà thôi. Sau Mậu Thân cho đến khi hòa hội Paris hình thành tôi vẫn còn hy vọng vào một giải pháp trung lập chuyển tiếp cho Miền Nam. Nhưng đến khi Nixon đắc cử rồi kẹt vào vụ Watergate thì hy vọng đó tiêu tan. Lại nữa, lịch sử cho thấy nếu không kẹt vụ Watergate thì Nixon đã tiếp tục theo đuổi chiến thắng quân sự chứ chưa chắc đã dùng ngay Hội Đàm Paris để bỏ chạy. Cũng vì chủ trương quay về lo chấn chỉnh nội bộ chuẩn bị 'sống chung hòa bình' hậu chiến đó mà các Thầy đã bị cả hai phe đánh để níu kéo. Đây là thời gian mặt trận truyền thông của Thiệu, mặt trận dân vận của phe bên kia đã mở chiến dịch đánh phá điên cuồng nhất nhắm vào Thầy Thiện Minh Phó Viện Trưởng, Thầy Huyền Quang Tổng Thư Ký, Thầy Mãn Giác Tổng Vụ Trưởng Văn Hoá và Thanh Niên. Tôi là Vụ Trưởng Sinh Viên Phật Tử Vụ nên cũng bị lây. Tờ Điện Tín của nhóm Hồ Ngọc Nhuận, Ngô công Đức từng tố khổ tôi trên trang nhất là 'Giáo Gian Hoàng văn Giàu' chỉ vì tôi quyết quét dẹp Đoàn Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn và Vạn Hạnh vì đa số thành phần điều khiển những đoàn nầy không còn là... Phật tử nữa. H. Về cá nhân anh, anh bị công kích nhiều từ mọi phía, nhất là các thành phần cực hữu. Ví dụ như quá khích, liên hệ vụ Mậu Thân, liên hệ CIA khi về Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị / Cục An Ninh Quân Đội, cán bộ trí vận của Cộng Sản... Xin nói thêm về các điểm nầy. Đ. Tôi như cái móc áo cho thiên hạ treo đủ thứ áo với những màu sắc khác nhau. Hoàn cảnh Việt Nam từ khi tôi trưởng thành cho đến ngày chiến tranh chấm dứt, đất nước thống nhất là một hoàn cảnh tất yếu phải sắp hàng nhập cuộc. Tôi nhập cuộc không phải vì thấy một trong hai phe đúng nhưng là vì thấy cả hai đều có chỗ quá đáng, sai trái. Nghĩa là tôi đã tích cực đứng ngoài cả hai phe. Do đó mà cả hai phe đều, hoặc nghi rằng tôi là người của phe bên kia, hoặc muốn trừng trị tôi bằng cách chụp mũ tôi là người của phe bên kia. Đệ Nhất Cộng Hòa bỏ tù tôi năm 1963, Đệ Nhị Cộng Hòa năm 1969 và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa năm 1975. Quá khích? Người quốc gia gọi tôi là quá khích, người cộng sản gọi tôi là tôn giáo cuồng tín và dân tộc quá khích. Tôi nghĩ là tôi quá khích trong việc chống chiến tranh và những gì xâm phạm tình dân tộc và nền tự chủ của Việt Nam. Tôi cũng quá khích trong ý nghĩ rằng người Phật tử phải đứng lên trên cả quốc gia lẫn cộng sản. Tôi quá khích trong ý nghĩ rằng dấn thân chính trị là một cách trả nợ, một cách giải nghiệp chứ không phải gây thêm nợ. Nếu chính trị được định nghĩa như một khoa học của những khả thể hay một phương thức hành động trên căn bản thỏa hiệp thì tôi không làm chính trị, và cũng không thích làm chính trị. Tôi nghĩ tôi nương theo đúng con đường Phật đã chỉ là từ bỏ chính trị để 'tự minh thành' như Khổng Tử nói. Người Phật tử hôm nay đã và đang đi vào con đường các Phật tử Lý Trần đã đi, đó là đường qua cầu lịch sử mà vào Niết Bàn như Thầy Mãn Giác nói. Chuyện Mậu Thân. Sau vụ 1966, tôi được đưa vào Trung Tâm Quảng Đức, Sài Gòn. Khi Vụ Mậu Thân xảy ra, tôi ở Trung Tâm Quảng Đức nhưng sau đó lại có tin tôi là Tướng Việt Cộng đem quân về đánh Huế và bộ chỉ huy đóng ở chùa Từ Đàm. Một vài người quen gia đình tôi có thân nhân bị bắt đã đến nhà gặp ông thân tôi nhờ ông gặp tôi can thiệp dùm cho họ. Ông thân tôi hỏi ra thì mới biết từ đâu có chuyện tôi đang ở Sài Gòn mà lại có mặt ở Huế như thế. Thì ra khi mới chiếm Huế, người ta đã cho xe loa đi khắp nơi kêu gọi đồng bào tập trung về Phú Vân Lâu tham dự mít-tinh do tôi điều khiển. Một đồn mười, mười đồn trăm thế là có người tin tôi làm Tướng Việt Cộng đánh Huế Tết Mậu Thân. CIA và Cục An Ninh Quân Đội: Năm 1969, một số anh em chúng tôi cùng bị bắt với Thầy Thiện Minh ở Trung Tâm Quảng Đức. Ra Toà, Thầy bị 15 năm, anh em chúng tôi kẻ năm năm, người ba năm nhưng chính quyền đã dùng quân đội như nhà tù để nhốt chúng tôi nên thay vì thọ án chúng tôi đã bị cưỡng bách nhập ngũ. Đơn vị của tôi là Tiểu Đoàn 1 của Đại Úy Vinh, Trung Đoàn 31 của Trung Tá Kiểm, Sư Đoàn 21 của Chuẩn Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi. Tiểu đoàn của tôi đóng ở căn cứ hỏa lực Bình Minh giữa rừng U Minh. Ở đó, tôi cũng được trực thăng bốc quăng ra giữa rừng và cũng dăng hàng ngang lùng diệt như bao nhiêu binh sĩ không có thân nhân gốc gác để được ở nơi yên ổn. Thời gian nầy là kinh nghiệm máu xương cho tôi biết thêm chiến tranh là gì, tại sao tôi phải chống chiến tranh. Gần một năm sau, các Thầy, thân nhân, bè bạn đã tìm mọi cách vận động cho tôi về Sài Gòn. Vì áp lực chính trị cũng như tình cảm, Thiệu đã bảo Tướng Đặng văn Quang dàn xếp cho về Cục An Ninh Quân Đội thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị của Tướng Trần văn Trung. Tướng Quang đã báo động với Tướng Trung rằng '...(về chuyện tranh đấu quá khích) Lê Tuyên một, tên nầy (tôi) thì mười cộng một'. Ở Cục ANQĐ, tôi được chỉ định làm việc ở Phòng Điều Hành của Trung Tá Thận, Khối Phản Tình Báo của Đại Tá Học. Công việc là đọc và đúc kết các hồ sơ, phúc trình, báo cáo. Có năm tôi lại còn được chỉ định khởi thảo Đường Hướng Cục ANQĐ cho năm tới. Tôi cũng có nhiệm vụ đọc, dịch và tóm lược các báo cáo mật của Toà Đại Sứ Mỹ, của DAO gởi Bộ Tổng Tham Mưu Cục ANQD... Một dạo, tôi còn được giao phó việc nghiên cứu hồ sơ, sơ thẩm các bị can trong vụ Qủy Tiết Kiệm thuộc Bộ TTM nữa. Nói thế khác, hoặc các cơ quan an ninh của chính quyền đã biết rõ tôi chẳng ăn nhậu gì với cộng sản, hoặc họ chẳng còn nhớ tôi là ai nữa cho nên để cho tôi tha hồ đụng đến những cái có thể coi là bí mật quốc phòng. Tôi đã sống những ngày khá lè phè ở Cục An Ninh Quân Đội, viết tắt là ANQĐ mà chúng tôi thường đọc trại ra là Cục Ăn Nhậu Quá Đáng. Thời gian này tôi cũng trở lại Đại Học Vạn Hạnh để tiếp tục công việc. Một trong những cấp chỉ huy lè phè như tôi hiện đang sống ở Mỹ là cựu Thiếu Tá Trần Duy Hinh hay nhà văn Thảo Trường. Tôi không thân cộng sản mà cũng chẳng phải quốc gia theo nghĩa thông thường. Tôi chỉ làm những gì có thể để ngăn cộng sản giết quốc gia cũng như ngăn quốc gia giết cộng sản. Có cảm tình với Miền Nam đến mấy đi nữa thì bất quá tôi chỉ có thể giúp họ thủ huề hoặc không thua đậm thôi. Bắc Việt có thể có nhiều điều sai trái lầm lẫn, nhưng có một điều tôi nghĩ họ không sai đó là đã thu hồi nền tự chủ của dân tộc. Và bằng sự thu hồi ấy, đã đem lại hòa bình và tái thống nhất đất nước. Người Mỹ ở Việt Nam không ưa tôi vì nghi rằng tôi khuynh loát đường lối thế trị của mấy Thầy. Thời ấy, người đặc trách về các đoàn thể đối lập của Tòa Đại Sứ Mỹ là Coleman. Coleman thương nói với một số nhân sĩ Phật giáo quen thân với ông như Bùi tường Huân, Trần quang Thuận rằng về chính trị, 'mấy Thầy đã suy nghĩ, viết và nói như G.'. Có phải vì người Mỹ đã đánh giá các Thầy quá thấp như vậy nên họ đã đối xử - và để cho Thiệu-Kỳ đối xử, với Phật giáo bất công tàn tệ đến thế? Tháng 8.1963, sau khi Thầy Trí Quang vào tá túc trong Tòa Đại Sứ Mỹ và tiếp chuyện với Đại Sứ Lodge trong mấy tháng trời, người Mỹ hẳn đã biết rõ Phật giáo nghĩ gì về chiến tranh, hòa bình, quốc gia, cộng sản. Duyên nợ của tôi với Mỹ chưa phải là đã chấm dứt vào năm 1975. Năm 1980, tôi vượt biên đến Thái Lan và tôi đã nạp đơn xin đi định cư ở Mỹ. Chẳng phải vì tôi thích ở Mỹ nhưng là vì tôi nghĩ đây là cơ hội để tôi giải quyết vấn đề Mỹ đúng hay tôi đúng ở Việt Nam. Nhân viên Sở Di Trú và Tòa Đại Sứ Mỹ ở Thái Lan đã bảo tôi chống Mỹ tại sao lại muốn đi Mỹ?! Họ bảo tôi có muốn đi nước khác thì họ giúp cho. Tôi trả lời, tôi không phải là cộng sản, tôi chống những hành động và chính sách sai lần của Mỹ ở Việt Nam và của chính quyền Việt Nam đó là quyền và nhiệm vụ của một người biết thế nào là tự do dân chủ, tôi không phạm tội hình sự, không ăn bám, Hiến Pháp Mỹ bảo nước Mỹ không chối từ bất cứ một nguời nào lương thiện muốn đến nước Mỹ. Muốn bác đơn tôi thì phải cho tôi biết tại sao. Họ phỏng vấn, điều tra rồi bác đơn, tôi khiếu nại; họ lại điều tra, phỏng vấn lại bác, tôi lại khiếu nại. Cái trò chơi đấu lý nầy kéo dài gần hai năm, đến khi tôi biết chắc Ngọai Trưởng Mỹ là Alexander Haig đã ra lệnh cho Tòa Đại Sứ Mỹ ở Thái Lan tái xét hồ sơ của tôi - nghĩa là để cho tôi vào Mỹ, thì tôi lẳng lặng nhận lời đi Úc. Tôi còn giữ bản sao lá thư của Haig về việc nầy. Có lẽ vì bực bội không biết phải trả lời cho Haig thế nào cho ổn nên Sở Di Trú và Tòa Đại Sứ Mỹ lại trả thù nữa bằng cách báo cho Úc biết Mỹ đang xét đơn tôi thì tôi lại bỏ ngang xin đi Úc. Đây là điều tối kỵ trong thủ tục xin định cư. Tôi lại bị Úc phỏng vấn đặc biệt. Người phỏng vấn tôi là một người Úc có tên rất Việt Nam là Nguyễn văn Binh cho tôi biết tại sao phải tái thẩm đơn xin của tôi và hứa sẽ can thiệp cho tôi rời trại càng sớm càng tốt. Tôi đến Úc vào ngày 30.4.1982, đúng bảy năm sau khi Việt Nam có lại hòa bình thống nhất. H. Xin hãy cho một nhận định tổng quát về những nhập cuộc chính trị mà anh đã tham dự và đánh giá thành bại của những nhập cuộc đó theo ý anh. Đ. Sự dấn thân của tôi có thể chia làm bốn giai đoạn. Năm 1963, năm 1964, năm 1966 và từ năm 1970 trở đi. Năm 1963, chúng tôi đã thành công. Về phương diện tiêu cực, phong trào 1963 chứng tỏ Phật giáo là một đoàn thể áp lực dù mới tượng hình có thể có những ảnh hưởng chính trị quyết định. Tôi từng ví sự xuất hiện của Phật giáo trong giai đọan nầy với sự xuất hiện của Phù Đổng Thiên Vương. Về phương diện tích cực, phong trào nầy đã đẩy tất cả Phật tử đến chỗ phải có quyết định về cách thức sống đạo của mình trong hoàn cảnh đặc thù của đất nước, nói thế khác, kể từ đó trở đi, họ không thể 'mủ ni che tai' nữa. Điều ấy có cái hay là những nguyện vọng, đòi hỏi và áp lực chính trị đối với chính quyền - Việt Nam cũng như Hoa Kỳ, trở thành cụ thể đáng kể hơn họ không thể làm ngơ hay đương nhiên chà đạp, nhưng đồng thời đây cũng là điều nguy hại đối với một số người, bằng chứng là sau 1963 có một số Phật tử tại gia cũng như xuất gia đã choáng váng lạc nẽo khi mon men đến gần hấp lực chính trị. Có thành thì có hoại mà. Phong trào 1964-1965: Đã thành công triệt được Hiến Chương Vũng Tàu của Nguyễn Khánh và đã bày tỏ cụ thể thái độ chống Mỹ hóa chiến tranh. Nhưng phong trào nầy đã không thành công trong việc tái lập nền móng cho một thể chế dân chủ là Quốc Hội Lập Hiến và Hiến Pháp, mà Dương văn Minh đã triệt hạ vô điều kiện khi chấm dứt Đệ Nhất Cộng Hòa năm 1963. Nếu thực hiện được nền móng đó thì Phật tử hẳn đã bớt tốn công lao hy sinh hơn trong các cuộc vận động về sau. Một thất bại nữa là người Phật tử đã không bảo vệ được chính quyền dân sự Phan huy Quát, nghĩa là không bảo vệ được cái nền móng dân chủ phôi thai mà chính phủ nầy đã chật vật tạo ra. Phong trào 1966: Thực tế đây là một hành động 'mượn hoa cúng Phật'. 'Hoa' đó là phản ứng của dân chúng và chính quyền ở Miền Trung khi Tướng Thi bị bãi chức. 'Phật' đây là Quốc Hội Lập Hiến, Hiến Pháp. Không còn đường nào khác hơn cho Thành Phần Thứ Ba thực hiện chủ trương hòa hợp hòa giải để chấm dứt chiến tranh thực hiện hòa bình tự chủ ngoài con đường dân chủ hiến định. Thời gian nầy, khi chúng tôi nói đến 'cách mạng chính trị xã hội' là chúng tôi nói đến con đường dân chủ hiến định đó trước tiên. Đây là một trong ba vế tạo thành mục tiêu giải nghiệp bằng chính trị của chúng tôi: Hòa Bình Dân Tộc - Độc Lập Quốc Gia - Cách Mạng Xã Hội. Hoa Kỳ và và thành phần chủ chiến độc tôn chính trị ở Miền Nam mà Thiệu là đại diện cũng đã thực hiện thủ thuật 'mượn hoa cúng Phật' để bầu cử Quốc Hội Lập Hiến sau khi đã triệt hết thành phần chống đối. Nguyễn cao Kỳ là kẻ đã mất công bưng nước cho Hoa Kỳ và Thiệu uống. Từ năm 1970 trở đi. Củng cố nội bộ và chuẩn bị sống chung hòa bình hậu chiến. Lần nầy thì chúng tôi không chơi trò mượn hoa nữa mà quyết 'trồng hoa' cúng Phật, chuẩn bị nhân sự về Giáo Hội cũng như Phật tử tại gia để có thể tích cực và chủ động tham gia mọi sinh hoạt của chính quyền, lập pháp hành pháp cũng như tư pháp. Chấn chỉnh nhân sự và hoạt động của Hội Đồng Hiện Hóa Đạo, Viện Tăng Thống và hệ thống Ban Đại Diện Giáo Hội địa phương, Trung Tâm Quảng Đức, Đại Học Vạn Hạnh, các đoàn thể thanh niên... là mục tiêu chủ yếu. Có một điều mà Thầy Thiện Minh không làm được là đã không thuyết phục nổi Thầy Trí Quang trở lại Viện Tăng Thống và đặc trách vấn đề tu thư kinh điển cho Giáo Hội. Dương văn Minh đã học được bài học đắc giá. Năm 1963, sau khi lật đổ Diệm, Dương văn Minh gặp Thầy Trí Quang không chào và làm ngơ như thể muốn chờ Thầy chào và cám ơn trước. Thầy không chào, không cám ơn và còn mặc nhiên để cho Nguyễn Khánh muốn làm gì thì làm. Lần nầy chuẩn bị trở lại chính quyền, nhóm Dương văn Minh, Vũ văn Mẫu, Nguyễn văn Huyền đã vây quanh và trọng vọng Thầy như quốc sư trong khi Thầy Thiện Minh và một số các vị khác nghĩ rằng Mỹ đang cần một người cầm cờ trắng ra hàng và người đó không thể là Thiệu, vì Thiệu là kẻ biết quá nhiều về chuyện Mỹ hóa chiến tranh và Việt hóa chiến tranh của Mỹ. Hy vọng của tôi là chậm lắm năm 1980 Phật tử khả dĩ có đủ điều kiện để tham dự chính trị một cách khả dĩ chủ động. Thời gian không đợi chúng tôi nên dự định đó phải đứt quảng nửa chừng... Chiến tranh chấm dứt, hòa bình trở lại, đất nước đã tái thống nhất nhưng với tôi đó là một hạnh nguyện viên thành và một dự định dang dở. Tôi thường tự vỗ về những lận đận thăng trầm của đời mình bằng hạnh nguyện đó. Nếu gọi dự định dang dở đó là thất bại thì tôi phải nhận là tôi đã thất bại. H. Trong quyển Công Cuộc Tranh Đấu của PGVN từ Phật Đản đến Cách Mạng của Quốc Tuệ trang 308 có ghi lại công điện ngày 10.8.63 của Thầy Trí Quang từ Sài gòn đánh ra Huế cho ông Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên đích danh nhắc đến tên anh khi Thầy phản đối hành động trả thù của chính quyền đối với những ngươi tranh đấu. Điều đó phần nào nói lên mức độ thân cận của anh với Thầy Trí Quang. Mặt khác, anh cũng là người thân cận với Thầy Thiện Minh. Xin cho biết là giữa Thầy Thiện Minh và Thầy Trí Quang, đường lối chính sách khác nhau và giống nhau ở chỗ nào? Sách báo xem như Thầy Trí Quang là người khuynh loát chính sách của giáo hội Phật giáo và ít khi nói tới Thầy Thiện Minh, trừ Thầy Nhất Hạnh. Đây là lịch sử sống, nếu những người như anh qua đi, không ai biết hư thực như thế nào. Anh có thể bạch hóa mấy chi tiết nầy và bạch hóa đến mức nào thì tùy anh. Đ. Về Thầy Thiện Minh và Thầy Trí Quang, tôi đã có nói qua trong quyển Từ Chốn Lưu Đày của tôi. Cái giống nhau của hai Thầy là thứ nhất họ nghĩ rằng Phật giáo phải dấn thân truớc để tự minh định như một tín ngưỡng truyền thống của Việt Nam; thứ hai, góp phần đem lại hòa bình và độc lập cho dân tộc; thứ ba họ ý thức rõ thái độ chuyên độc cực đoan ấu trĩ của những người mát-xít về vấn đề tôn giáo. Cả hai Thầy đều đã tham gia kháng chiến và sau đó đã phải ly khai về thành. Cả hai Thầy đều có một nỗi xao xuyến mà tôi nghĩ bất cứ người Việt Nam yêu nước không cộng sản nào ít nhiều cũng có trải qua đó là để quyền lợi của tôn giáo hay cá nhân mình trước hay tự chủ tự quyết dân tộc trước? Tôi nghĩ rằng về cường độ, nỗi xao xuyến của Thầy Trí Quang nhẹ hơn Thầy Thiện Minh vì Thầy Trí Quang dễ có những quyết định tùy cơ dứt khoát. Nói thế khác, có khi Thầy dứt khoát để tôn giáo lên trên, có khi để dân tộc lên trên, không đắn đo. Việc Thầy quyết định tuyệt thực đến chết khi Vụ Miền Trung năm 1966 bị dẹp tan, việc Thầy trực tiếp đối đầu với Thiệu về Sắc Luật 23/67 là văn kiện đã phá nát thế thống nhất pháp lý của Giáo Hội, hoặc việc Thầy công khai tích cực ủng hộ giải pháp Dương văn Minh vào phút chót là những ví dụ. Ruột để ngoài da, Thầy Trí Quang muốn gì, ai cũng biết. Thầy Thiện Minh trái lại đã chừng mực hơn trong các quyết định thế trị. Thầy mềm dẽo trong chiến thuật nhưng kiên định trong chiến lược. Và mục tiêu chiến lược của Thầy là phục hồi vai trò và vị thế lịch sử của Phật giáo bằng cách tích cực đóng góp vào việc chấm dứt chiến tranh vãn hồi hòa bình cho xứ sở. Thầy trở thành nguy hiểm cho những kẻ lãnh đạo bất xứng hay đã làm điều sai trái. Cho nên, năm 1963, Thầy bị nhốt, năm 1966 Thầy bị ám sát, năm 1969 Thầy lại bị nhốt với cái án 15 năm. Năm 1978, Thầy chết trong tù... Diệm, Kỳ, Thiệu, Duẫn đều sợ Phật giáo, đều ngán kẻ nắm vững đường lối thế trị của Phật giáo là Thầy. Vai trò và trách nhiệm của Thầy trong cuộc vận động tự do tín ngưỡng năm 1963, việc Thầy đồng ý thành lập Đoàn Sinh Viên Phật Tử Huế năm 1962, xây dựng Đại Học Vạn Hạnh, Trung Tâm Quảng Đức, Lực Lượng Phật Tử Việt Nam, cho ra tờ nhật báo Đất Tổ, thương thuyết với cánh Thầy Tâm Châu và Thầy Tâm Giác để tái thống nhất Giáo Hội, thực hiện chương trình huấn luyện Phú Lâu Na để đào tạo tăng tài nhập thế là những điều không phải ai cũng có thể thấy trước và làm được. Thầy là người chịu trách nhiệm khởi thảo những văn kiện có tính cách đối ngoại quan trọng nhất của Phật giáo. Thầy quyết tâm nhưng ôn hòa. Sau khi Thiệu ban hành Sắc Luật 23/67 công nhận Việt Nam Quốc Tự, Thầy là Phó Viện Trưởng, trước khi Hội Đồng Viện Hóa Đạo họp về việc nầy, Thầy bảo tôi thảo lời tuyên bố của VHĐ về việc nầy. Tôi vâng lời và thưa là mình không nên dùng hai chữ Giáo Gian để lên án. Thầy đồng ý, bản dự thảo không có hai chữ đó nhưng khi đem ra thảo luận trong hội đồng Viện thì Thầy thuộc phe thiểu số. Thầy Trí Quang là một trong những vị đồng ý dùng hai chữ đó có lẽ vì trước đây Thầy đã tốn nhiều tâm sức để bảo vệ Thầy Tâm Châu trong chức vụ Viện Trưởng Viện Hóa Đạo trong khi các vị khác không muốn? Link: https://gdpthaingoai.org/?p=608 Sau khi ở tù về tôi đến thăm Thầy Thiện Minh ở Già Lam thì việc đầu tiên Thầy khuyên tôi là nên viết một quyển sách về các phong trào đấu tranh của Phật giáo thế kỷ nầy. Tôi phân vân không biết có phải Thầy Nhất Hạnh cũng đã nhận được lời khuyên đó và đã tuân thủ một cách thành công với bộ Việt Nam Phật Giáo Sử Luận? Khi chuẩn bị vượt biên, tôi hỏi ý Thầy có đi không. Thầy chối từ, như tôi đã chối từ đề nghị đó của gia đình tôi trước và trong ngày 30.4.1975. Thầy dặn tôi ra nước ngoài thì nên cố gắng duy trì và phát triển sự hiểu biết của quốc tế về Phật giáo Việt Nam và tiếp tục đóng góp được gì cho đất nước thì nên cố gắng. Thầy không khuyên tôi ở lại phục vụ chế độ, Thầy biết tôi đã chối từ lời yêu cầu 'phục vụ cách mạng' sau ngày 30.4.1975 và sau đó đã đi tù mất mấy năm, nhưng không một lúc nào Thầy khuyên hay gợi ý tôi nên tiếp tục con đường đối kháng chính trị như tôi đã từng đi qua trước năm 1975 với Diệm, với Thiệu, với Hoa Kỳ. Việc Thầy bị bắt rồi bị chết trong tù vẫn còn là một bí ẩn với tôi. Tôi không nghĩ là vì Thầy đã công khai đối kháng với chế độ như Thầy từng làm trước năm 1975. Thầy thọ nạn có lẽ vì Thầy không đồng thuận cho tầng lớp lãnh đạo Việt Nam thời đó khống chế Phật giáo như họ đang khống chế những thành phần dân chúng và tôn giáo khác trên con đường 'tiến nhanh tiến mạnh lên Xã Hội Chủ Nghĩa'? Thầy chết trong tù vì thành phần lãnh đạo chế độ thời đó vẫn ngán thế lực chính tôn chính của Phật giáo và người có thể đem lại một đường lối, một phương thức dấn thân hiệu dụng cho thế lực đó? Tôi nghĩ, nếu Thầy Thiện Minh còn sống thì Thầy Huyền Quang và Quảng Độ đã không bị kẹt như mấy năm vừa qua. Chết là một cách giải nghiệp, là trả xong nợ đời. Tôi không oán hận những kẻ đã giúp Thầy giải nghiệp, tôi chỉ tiếc là họ đã không biết khai dụng tài năng, tâm nguyện và thế đứng của Thầy trong Phật giáo và quần chúng để làm những việc ích lợi lâu dài cho đất nước. Xét về những đóng góp cho độc lập quốc gia và hòa bình dân tộc, tôi nghĩ Thầy Thiện Minh, Thầy Trí Quang và qúy Thầy khác trong hàng ngũ lãnh đạo Phật giáo đã đóng góp lớn lao cho hòa bình và tự chủ của Việt Nam. Uy tín của Thầy Trí Quang đối với quốc nội cũng như quốc tế chỉ thua Hồ chí Minh mà thôi. Ấn Quang không còn là tên gọi của một ngôi chùa, hay một phe phái Phật giáo như những dư luận ác ý cố gán cho, Ấn Quang là tên gọi của một cuộc vận động, một phong trào dấn thân thế trị của những người muốn thực hành ý nguyện làm bất cứ điều gì có lợi cho mình cho người theo khuyến cáo của Phật giáo và góp phần phát triển Phật giáo theo nhu cầu và hoàn cảnh đặc thù của quốc gia. H. Anh nghĩ gì về tình hình Phật giáo hôm nay và trách nhiệm của Phật giáo đối với đất nước? Đ. Phật pháp bất ly thế gian pháp. Người Phật tử phải biết định cho mình những ưu tiên trong việc phục vụ đạo pháp và dân tộc. Có những bài học về cách ứng xử của các bậc tôn túc ngày xưa trong những thời gian chuyển tiếp chính trị người Phật tử tại gia cũng như xuất gia hôm nay phải học lại cho kỷ. Điều quan trọng là giáo pháp chứ không phải định chế và giáo pháp và dân tộc là hai điều bất phân ly. Dứt khoát về những lấn cấn chuyển tiếp đó rồi thì sẽ thấy rõ nhiệm vụ của Phật giáo đối với dân tộc trong giai đoạn này. Nhiều người đã làm chuyện ấy, nhưng một số vẫn còn u u minh minh với những vọng ngữ thời thượng, cơ hội và mị dân. H. Xin anh một nhận định cuối cùng về hoàn cảnh đất nước. Đ. Hạnh phúc là điều quý nhất thiêng liêng nhất đối với mỗi người. Độc lập tự do là điều kiện của hạnh phúc nên Hồ Chí Minh đã quả quyết không có gì quý hơn độc lập, tự do. Tôi nghĩ rằng, trong cuộc chiến vừa qua, về cơ bản Miền Bắc đã chiến đấu vì độc lập nhiều hơn, trong khi Miền Nam đã chiến đấu cho tự do nhiều hơn. Vì độc lập mà chính quyền Miền Bắc đã treo giò tự do của dân chúng, trong khi chính quyền Miền Nam đã vì tự do mà đem độc lập trao cho Pháp, cho Mỹ giữ dùm. Tôi chỉ ước mong đồng bào Miền Bắc hưởng tự do mà không quên độc lập, và đồng bào Miền Nam biết nếm mùi độc lập mà không phải tiếc hận những tự do đã mất. Thành công của dân tộc và của một chính quyền vì dân tộc là thực hiện được thế quân bình độc lập - tự do đó, nơi mọi người, trong mọi hoàn cảnh. Quán Như: Xin cám ơn anh.
Nguồn https://www.chuyenluan.net/index.php?option=com_content&view=article&id=7655:phong-vn-hoang-nguyen-nhun Trang Tôn Giáo |