MỘT ĐÓNG GÓP CHO HẠNH PHÚC TRONG TỰ DO Hoàng Nguyên Nhuận https://sachhiem.net/HOANGNN/Hoang07.php
‘Tham nhũng không chỉ trở thành "quốc nạn", thành "giặc" mà theo tôi, còn nguy hại gấp ngàn lần ngoại xâm vì không những nó tàn phá, bóc lột không thương tiếc tài sản của nhân dân mà còn làm băng hoại cả đạo đức xã hội cũng như huỷ diệt uy tín của Đảng. Thực vậy, tham nhũng phải được coi là một cuộc ‘chính biến’ lật đổ chính quyền nhân dân, thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng và do đó, chống tham nhũng hay là chết!’ I. Nhận Mặt Đối Tượng Khắp cả nước, tham nhũng đang trở thành đề tài thời thượng ăn khách như cúm gà, như phim Hàn quốc. Người người chống tham nhũng, nhà nhà chống tham nhũng. Thế nhưng phong trào chống tham nhũng lại có vẻ như đang đi giáp vòng. Đánh đuổi thực dân đế quốc để dành lại độc lập tự do. Có độc lập tự do để làm cho đất nước giàu đẹp, hạnh phúc. Muốn xây dựng hạnh phúc thì phải hội nhập kinh tế quốc tế, phải tiếp thu hiểu biết, kỹ thuật, tiền bạc vốn liếng của nước ngoài. Hậu quả là Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 quốc gia, buôn bán với trên 220 quốc gia và trên 60 quốc gia và tổ hợp đầu tư vào gần 6 tỷ trong tài khóa 2005. Thế nhưng Đào duy Quát, Phó Trưởng ban VHTTTƯ mới đây trên tờ Văn Nghệ ngày 7/1/2006 đã nói tham nhũng là kết quả bất đắc dĩ quá độ từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Nói thế khác, ‘tham nhũng là mặt trái của kinh tế thị trường’. Ban VHTTTƯ là thánh bộ tín điều của Đảng. Văn Nghệ là cơ quan ngôn luận chính thức của Hội Nhà Văn Việt Nam, dĩ nhiên là có liên hệ mật thiết với Ban VHTTTƯ. Câu nói đó không phải là không có điều xác thực nếu nhìn lại những hậu quả tiêu cực như bạo động, bất ổn, bất công do quá trình hiện đại hóa và kỹ nghệ hóa trong giai đoạn chuyển tiếp đã gây ra trong các xã hội phương Tây. Những hậu quả tiêu cực làm hứng khởi cho Marx viết Tuyên ngôn của những người cộng sản. Vụ Australia hối lộ cho chính quyền Iraq 300 triệu để mua quyền bán lúa mì là một bằng chứng khác về mối nguy “toàn cầu hóa” hối mại quyền thế và tham nhũng. Mai này Việt Nam đi vào kinh tế toàn cầu rồi gặp những những đại ma đầu như ELRON, WORLDCOM của Mỹ, HIH và AWB của Australia khi cần dùng tiền bạc để đảm bảo những quyền lợi kinh tế tài chánh địa phương thì họ sẽ mua được cái gì, mua đến cấp nào? Tuy nhiên, câu nói của Phó Trưởng ban VHTTTƯ cũng có thể gây hiểu lầm là đánh bùn sang ao khi đổ hết tội lỗi cho kinh tế thị trường. Bởi nói vậy thì chẳng lẽ chống tham nhũng là chống kinh tế thị trường, là bế môn tỏa cảng, đóng cửa sập cầu, không hội nhập, không hiện đại hóa, không toàn cầu hóa, không WTO, không World Bank, không IMF gì cả? Tờ Văn Nghệ ngày 14/1/2006 viết: ‘tham nhũng lan tràn khắp nơi, xuất hiện ở mọi cấp, mọi ngành, từ cơ sở đến thượng tầng kiến trúc’. Nhưng nếu quả thực người người chống tham nhũng, nhà nhà chống tham nhũng thì ai tham nhũng đây?
II. Không Duồng Gió Bẻ Măng Câu dẫn khởi ở đầu bài không phải là những lời lá mặt lá trái đánh hôi của quý ông bà đối kháng đối lập có môn bài ngoại quốc. Đó là lời của Luật sư Cù Huy Hà Vũ nói với Ban Nội chính Trung ương Đảng và sau đó được phổ biến công khai. Đóng góp dưới đây cũng nằm trong chiều hướng đó. Những tài liệu được xử dụng để dẫn khởi hay minh họa là của những tờ báo mà quyết tâm phục vụ xã hội chủ nghĩa và bảo vệ chế độ là điều không thể hoài nghi. Không thể đem chuyện tham nhũng ra làm cái cớ chống Việt Nam. Mười ngón tay có ngó ngắn ngón dài. Đất nước luôn có những người trong sạch, xốn xang, xấu hỗ, phẫn uất vì nạn tham nhũng và thành tâm muốn chối từ, ngăn chận hay triệt hạ tham nhũng. Lại nữa, một đất nước anh hùng thế nào cũng có những anh hùng, ít nữa là anh hùng dám công khai theo gót người xưa để nói: Nếu ngài làm vậy, hay không chịu làm vậy, thì xin chém đầu tôi trước! Cũng không thể đem chuyện tham nhũng ra làm cái cớ chống chế độ, chống Đảng, chống Nhà Nước. Công lao cứu nước, giữ nước và dựng nước và mười năm đổi mới 1986-1996 để vượt qua những khủng hoảng cùng cực về kinh tế xã hội mở đường cho đất nước hiện đại hóa và công nghiệp hóa đã đem lại những thành quả hiển nhiên là điều không thể phủ nhận. Quyết định đặt vấn đề trình tự dân chủ hóa đất nước tất yếu cũng như quyết định cởi trói cho luật pháp và quyết tâm chống tham nhũng, cụ thể là trên mặt trận truyền thông, là những bằng chứng hiển nhiên về thiện chí và quyết tâm của số lãnh đạo chống tham nhũng.
III. Tại Sao Chống Tham Nhũng? Tham nhũng là dựa vào chính quyền để công khai trộm cắp của công. Khoan nói chuyện tham nhũng là điều đi ngược lại nguyên tắc công bằng bình đẳng theo trật tự tự nhiên hay trật tự nhân luân. Chuyện trước mắt là phải nhìn tham nhũng ít ra cũng theo con mắt hiện thực chủ nghĩa phê phán hay hiện thực xã hội chủ nghĩa. Đất nước ví như một con tàu, chỉ có thể tiến lên nhờ một đầu tàu giữ vai trò lãnh đạo và quản lý. Đầu tàu đó là chế độ, là Đảng, là Nhà Nước. Tham nhũng đã làm cho con tàu đó chạy lộn ngược, chạy thụt lùi, biến con tàu thành của riêng của một số đại gia, lãnh chúa, con ông cháu cha, biến tổ quốc quê hương thành một sòng bạc, một cửa hàng của bọn gian thương theo lối mòn nhất thân - nhì thế - tam quyền - tứ chế. Công thức bốn vế đó đã dần dần trở thành ba khi mà những thành phần tham nhũng nhờ thân nhờ thế mà có quyền để bòn rút của công. Chế ở đây có thể hiểu là biên chế, quy chế của cán bộ công nhân viên nhà nước ngày xưa bảo đảm cho họ một số quyền lợi đặc biệt đại chúng hóa mấy tiếng đều bắt đầu bằng vần B như Bác [thẻ đảng viên, công nhân viên] Bìa [thẻ nhu yếu phẩm] Buồng [hộ khẩu, nhà chính phủ] Bình bịch [xe mô-tô]. Mấy chữ B đó là đỉnh cao danh lợi. Chế cũng có nghĩa là chế độ. Nhờ quyền uy mà tham nhũng đầy túi rồi thì đã tự hóa thân thành tư bản đỏ, nghĩa là nhờ đỏ mà thành tư bản rừng rú và quên luôn lý tưởng một người vì mọi người.
IV. Những Khe Hở Trong Thành Trì Chế Độ Nhìn theo quan điểm hiện thực phê phán thì chế độ có thể có những khe hở cho tham nhũng tác oai tác quái. Những khe hở đó là: 1. Vô sản chuyên chính và dân chủ tập trung. Vì hoàn cảnh, vì nhu cầu tập trung và kế hoạch hóa công cuộc bảo vệ và phát triển đất nước, cũng như dốc toàn lực vận dụng chuyển hướng và phục hoạt kinh tế suy trầm bế tắc mà vô sản chuyên chính và dân chủ tập trung đã được chấp nhận như một quá độ. Trong giai đoạn quá độ này, việc phân quyền Hành pháp, Lập pháp, Tư pháp độc lập chưa thành tựu được và vẫn nằm dưới cái dù vô sản chuyên chính. Vô sản chuyên chính làm cho công thức phân quyền tam đầu chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - nhân dân làm chủ trở thành đơn đầu: Đảng lãnh đạo Nhà nước - quản lý nhân dân - làm chủ. Đơn đầu chế này có thể vô tình tạo ra hai chính quyền tồn tại song song, một bí mật toàn quyền và không chịu trách nhiệm với nhân dân, một công khai vô quyền và chịu trách nhiệm với nhân dân cũng như với đảng. Nhìn nhận thực tế đơn đầu ấy tức là thừa nhận nhận trách nhiệm tiên quyết và tiên phong của Đảng trong mọi việc, kể cả công tác phòng chống tham nhũng. Công cụ chống tham nhũng trước tiên là phải là kỷ luật đảng. Đảng dùng kỷ luật để điều động đảng viên vào các chức vụ chính quyền, nếu đảng viên biến chất thoái hóa thì Đảng phải dùng kỷ luật trước tiên. Thi hành kỷ luật thì đơn giản, trực tiếp, nhanh chóng, hữu hiệu hơn là các biện pháp của Lập pháp, Tư pháp. Mặt khác, mức độ hoài nghi, đầu hàng tham nhũng chung trong dư luận cho thấy, có lẽ hơn lúc nào hết, người dân đã gián tiếp muốn nói chỉ có đảng làm được việc này và mong mỏi Đảng tiên phong làm việc đó. Dùng luật, dùng truyền thông, dùng dư luận quần chúng, dùng các đoàn thể tôn giáo xã hội để chống tham những là thứ yếu. 2. Duy vật sử quan. Đảng hình thành nhờ lý tưởng xã hội chủ nghĩa và vận hành được nhờ kỷ luật tổ chức căn cứ trên vô sản chuyên chính độc tôn độc thiện mà căn bản lý luận là duy vật sử quan. Nhưng vì duy vật sử quan cho rằng tâm linh chỉ là cái bóng phản chiếu của hạ tằng kinh tế vật chất nên đã đặt kỷ luật trên tự giác tự nguyện, xem nhẹ yếu tố cá nhân, đạo đức. Tham nhũng không chỉ là một hiện tượng kinh tế theo ý nghĩa bần cùng sinh đạo tặc, hay lương tiền không đủ sống nên phải tham nhũng. Kẻ lợi dụng quyền hành để tham nhũng không phải vì thiếu thốn mà vì tham. Kỷ luật tập cho người ta làm tốt vì sợ chết và để sống còn chứ không phải vì tự giác nhu cầu thực hiện lý tưởng. Hỏa ngục A Tỳ của đảng viên là Ban Tổ chức. Mặt khác, chú trọng vào kỷ luật và tự giác nhưng lại xem nhẹ tâm thức, diễn dịch sai lầm về tôn giáo, đạo đức cho rằng tôn giáo đạo đức chỉ ru ngủ nhân dân, đồng lõa với cường quyền. 3. Tham nhũng là một căn bệnh siêu giai cấp, đi liền với quyền lực chứ không đi liền với giai cấp. Ngày xưa có cái mốt cái gì xấu thì cứ đổ cho cá nhân là giai cấp phản động, hay đổ cho cơ chế là phong kiến đế quốc. Cái mốt đó hết ăn khách và hết hiệu năng cũng như hết ăn khách rồi. Tham nhũng là một phần của nhân tính, siêu cơ chế, siêu giai cấp. Tham nhũng vì cá nhân có máu tham nhũng, có máu tham, mê muội vì tham. Cái giúp cho tham nhũng tác hại là quyền lực. Dùng quyền lực, sức mạnh chính trị để thỏa mãn lòng tham là tham nhũng. Giàu nghèo, sang hèn, khôn dại, dốt nát khoa bảng... đều có thể tham nhũng như nhau. Do đó, chỉ dùng vô sản chuyên chính để chống tham nhũng là không đủ. Đảng có thiện chí nhưng không chống tham nhũng hữu hiệu là vì thế. 4. Giới hạn của kỷ luật. Đã hẳn, kỷ luật đảng không những không đòi hỏi hay cho phép đảng viên tham nhũng mà còn đòi hỏi chống tham nhũng nữa. Thời đảng còn trong bóng tối, chưa thành công, tôn trọng kỷ luật là lẽ tồn tại của đảng. Kỷ luật giúp đảng sống còn và và chiến thắng trong hoàn cảnh đấu tranh gian nguy một còn một mất. Một khi nghịch cảnh đó không còn nữa thì kỷ luật sẽ bị lơ là. Mặt khác, khi đã tranh thủ được chính quyền rồi thì đảng phải chuyển từ kháng chiến, đấu tranh thành quản lý. Đây là lúc hai vấn đề khó khăn xuất hiện. Thứ nhất là nếu hiểu một cách rốt ráo, tham nhũng là ăn cắp của công thì quyền hành đẻ ra tham nhũng vì chưa có quyền lấy gì mà tham nhũng. Thứ hai, Đảng và Nhà nước sẽ tồn tại như hai quyền lực song hành. Đảng không thể đem kỷ luật đảng để trị dân, muốn trị dân thì phải dùng luật pháp, và luật pháp trong tinh thần XHCN là một cách tổng quát hóa, hệ thống hóa và luật pháp hóa cuơng lĩnh của đảng kể cả kỷ luật đảng. Trong chế độ đơn đầu vô sản chuyên chính, con đường dẫn đến quyền lực, bất kể là quyền hành pháp, lập pháp hay tư pháp, là đảng tịch. Để bảo đảm việc thực thi lý tưởng và cương lĩnh của đảng, đảng viên phải nắm giữ những chức vụ then chốt trong cả ba hệ thống Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp. Nhưng đảng viên chỉ tuyên thệ giữ kỷ luật chứ không tuyên thệ trọng luật pháp, trong khi nhân dân chỉ biết luật pháp chứ không biết kỷ luật đảng là gì. Hậu quả là cơ chế quốc gia trở thành lưỡng đầu, như hai người dính lưng vào nhau. Một tiến tới bằng kỷ luật, một tiến tới bằng luật pháp. Vấn đề đặt ra là nhân viên chính quyền từ Chủ tịch nước, Thủ tướng đến cán bộ xã phải dựa vào kỷ luật đảng hay theo luật pháp quốc gia để quản lý? Đến mức nào thì dựa vào kỷ luật đảng, đến mức nào phải dựa vào luật pháp quốc gia? Đến mức nào và như thế nào kỷ luật đảng phải nhường chỗ cho luật pháp quốc gia để phòng chống tham nhũng? Cụ thể hơn, Viện Kiểm Sát Tối Cao nằm trên hay nằm dưới Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương? Đặt vấn đề như thế tức là đặt vấn đề cởi trói cho luật pháp quốc gia vậy. Quyền lực hay Nhà Nước là phương tiện và đồng thời cũng là mục tiêu hành động của đảng. Chưa có Nhà Nước đảng hoạt động khác, có nhà nước rồi đảng hoạt động khác. Sự khác biệt này có thể đưa đến bế tắc mà cũng có thể đưa đến hanh thông. Lối thoát cho những bế tắc đó là phân quyền và phân công. Phân công cho đối lập và phân quyền trong hệ tống quản lý nhân dân và đất nước. Phòng chống tham nhũng hữu hiệu là phải lo chuyện phân quyền và phân công ấy một cách có hiệu quả. Đảng lãnh đạo toàn dân kháng chiến thắng lợi, Đảng sẽ không chối từ thiên chức và trách nhiệm lãnh đạo toàn dân triệt hạ tham nhũng. 5. Ảo tưởng luật pháp chống tham nhũng. Đừng nuôi ảo tưởng chống tham nhũng dễ như chống dịch cúm chim gà, hể có luật pháp chống tham nhũng là hết tham nhũng. Thực tế, nếu ai cũng trọng luật và không ai muốn phạm luật thì không cần luật pháp. Tương tự như không có tật luông tuồng tính dục thì cần gì bao cao su hay thuốc chống SIDA, HIV. Làm luật pháp ra để ngăn chận vi phạm, mà cũng vì có người đã vi phạm. Cho nên, làm luật mà không quyết tâm áp dụng luật thi hành luật thì luật pháp trước sau sẽ trở thành nệm êm cho những kẻ có máu phạm tội, kể cả tội tham nhũng, và nhất là tội tham nhũng. Chưa kể là trình độ ý thức luật pháp của những người thi hành luật. Vụ một ca sĩ Anh phạm tội lợi dụng tình dục với hai trẻ vị thành niên là một ví dụ. Luật sư bào chữa cho ca sĩ này bảo chỉ cần bỏ ra 4.000MK bồi thường cho gia đình nạn nhân để gia đình bãi nại là xong trong khi theo nguyên tắc đây là một tội đại hình! May mà phía công tố không thỏa hiệp với đề nghị này bằng không giải quyết một vụ đại hình như thế thì có khác gì giết người đền mạng bằng con bò hay chum rượu là xong! Không hiểu ông luật sư này đã học được luật rừng, luật bộ lạc như thế ở đâu? Cho nên, nhìn vào cơ chế quyền lực, nhìn vào cơ chế sức mạnh chính trị, xác quyết trách nhiệm tiên quyết của Đảng không phải là né tránh hay phủ nhận trách nhiệm chống tham nhũng của Đảng, nhưng là phải nắm vững và triển khai trách nhiệm đó của Đảng. Đảng làm được việc không phải chỉ là phục hồi và cũng cố lòng tin của dân đối với Đảng mà còn là làm phúc cho dân cho nước nữa như thời kháng chiến chống Pháp chống Mỹ.
V. Ba Khoan 1. Khoan nói đến những biện pháp quyết liệt như tạo cơ duyên cho Chủ Tịch Hồ Chí Minh cao đăng Phật quốc để sớm hội nhập ta bà phục vụ quê hương và tiếp trợ hạnh nguyện xây dựng đất nước giàu đẹp như ước mơ của Chủ tịch. Hoặc nếu Hànội đã đầu hàng nạn quan liêu bao cấp không rũ sạch được lớp bụi cung đình tự mãn thụ hưởng thì có thể nghĩ đến chuyện nhường Hànội lại thành trung tâm văn hiến quốc gia để quân bằng với Sàigòn là trung tâm kinh tế thị trường của cả nước và đặt phương án dời đô về Nghệ An, Thanh Hóa, Bình Định hay Đông Hà. Nghệ An là quê hương Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Thanh Hóa với truyền thống đem đại nghĩa thắng hung tàn của Nguyễn Trãi, Bình Định với truyền thống Quang Trung, và Đông Hà là điểm tụ trên xa lộ xuyên Á từ Kuala Lumpur đến Vladivostok mà không cần phải qua biển Nam Hải đầy biến động, hải tặc và nhất là cái yết hầu eo biển Malacca dưới con mắt cú vọ của hải quân Anh Mỹ đang lên cơn sốt hàng ngày vì nạn khủng bố. 2. Khoan nói đến việc chính thức phát động một chiến dịch diệt trừ “quốc nạn” tham nhũng, một chiến dịch tất yếu nhưng thực tế theo Văn Nghệ ngày 14/1/2006 nói thì chưa hề có, tiến hành cuộc vận động rộng lớn để học tập và noi gương đạo đức của Chủ tịch Hồ chí Minh. 3. Khoan nói đến chuyện thực thi rốt ráo đa nguyên đa đảng dân chủ nhân quyền theo bài đồng ca Đối Lập Có Môn Bài Nước Ngoài của những con ngựa thành Troy hay Mỵ Châu thời kinh tế thị trường, cũng đừng đối lập theo kiểu khi có quyền thì không làm, khi hết quyền thì lại mè nheo trách cứ tại sao những kẻ kế vị mình không chịu làm?! Không thực thi rốt ráo ‘đa nguyên đa đảng dân chủ nhân quyền...’ không có nghĩa là không tiến hành dân chủ hóa dần dần, đặt kế hoạch thao luyện đối lập, phục hoạt truyền thống sĩ phu Dân Chủ Xã Hội từng có những đóng góp lớn lao thời cách mạng khai sinh, tạo điều kiện sinh hoạt dân chủ, tạo điều kiện và khuyến khích người dân và cán bộ đảng viên tin tưởng và tôn trọng luật pháp, tập cho cán bộ biết nghe ý kiến của người dân hơn chứ đừng cả thẹn, hoảng hốt rồi vô tình dựa vào những bùa phép đàn áp thông thường để bao che sai trái như: làm chính trị, phản động, an ninh chính trị.
VI. Những Bước Tiên Khởi Tất Yếu Để khởi sự, và chứng tỏ quyết tâm đổi mới một lần nữa bằng những việc làm tối thiểu mà Đảng có thể làm ngay, không cần đại hội, không cần tu chính Hiến pháp, không đợi làm luật. Những việc làm tối thiểu đó là: 1. Đưa ra vài con số làm bằng để tạo niềm tin. Để khởi sự chiến dịch cả nước chống tham nhũng, có lẽ đã đến lúc phải công bố những số liệu cho thấy: Số lượng những người hữu trách thành khẩn nhắc đến tác phong cần kiệm liêm chính chí công vô tư gương mẫu của Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Số lượng đảng viên, cán bộ bị phê bình, sửa sai, trừng trị vì tội tham nhũng và hối mại quyền thế. Số đảng viên bị kỹ luật, bị trừng trị, bị tù vì tội tham nhũng tỷ lệ với số người phạm tội tham nhũng nhưng không phải đảng viên. 2. Phân minh kỷ luật với pháp luật. Như đã nói trên, Người dân không tuyên thệ tôn trọng kỷ luật Đảng và chỉ tôn trọng luật pháp quốc gia và muốn hữu hiệu thì luật pháp phải minh bạch, công khai, rõ ràng và phổ biến. Do đó, khi nói với quần chúng, hô hào quần chúng trọng pháp, đảng viên nên nhớ phải quên mình là đảng viên để khỏi nhầm lẫn nghị quyết, chỉ thị cho đảng viên với luật pháp cho toàn dân. Trong bài phát biểu ý kiến dẫn thượng, Nguyễn khoa Điềm nhắc đến Chỉ thị 27-CT/TW và Chỉ thị 14/1998/CT-TTg trong khi Đào duy Quát, trong tài liệu dẫn thượng đã nói đến Nghị quyết trung ương 6 [lần 2] khóa 8 đảng ta đã tuyên chiến một cách rất căn bản với quốc nạn bằng quyết tâm chiến lược tiến hành cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng. Báo Lao Động ngày 6-9-2005 cũng nói: thể hiện thái độ nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong việc chống một trong bốn nguy cơ xâm hại đến lợi ích sống còn của quốc gia, dân tộc như Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ. Nhưng Chỉ thị 27-CT/TW và Chỉ thị 14/1998/CT-TTg, Nghị quyết trung ương 6 [lần 2] khóa 8 và của Đại hội IX của Đảng là cái gì, ban hành lúc nào, đã được Quốc Hội biến thành luật để áp dụng cho toàn dân chưa? Tại sao dân phải biết đến những quyết định mà theo nguyên tắc là riêng tư bí mật đó? Mấy đảng viên có thể trả lời câu hỏi ấy, khoan nói là người dân. Mặt khác, Đảng và Quốc Hội có những buổi họp định kỳ, hay bất thường. Chưa kể là theo nguyên tắc họp đảng là họp bí mật, không có người ngoài tham dự dù là quan sát viên. Và nếu phải thông tin cho quần chúng, sao lại không dùng những cụm từ đơn giản, dễ hiểu dễ nhớ như đại hội thường niên, khóa họp thường kỳ hay bất thường, thay vì những bí số bí mật có tính cách liệt kê thành tích. Thói quen nhắc đến nghị quyết này chỉ thị nọ, số mấy ngày mấy có thể làm người ta liên tưởng đến chức sắc các tôn giáo, mở miệng ra là tông huấn này, giáo chỉ nọ, là sách nào, chương mấy, câu mấy... nếu không như một cách tỏ ra mình chính thống độc thiện độc tôn thì cũng là một mánh mung hù họa ta đây. 3. Phân minh thế quyền với thần quyền. Xét lại quan niệm tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Tham những không chỉ là một vi phạm kỷ luật và luật pháp. Tham nhũng còn là một vi phạm các điều luật của tôn giáo, các khuôn thước của lương tri. Nói thế khác, đối diện với họa tham nhũng, không thể hoàn toàn đổ lỗi cho kỷ luật đảng, cho vô sản chuyên chính hay duy vật sử quan. Tôn giáo, những nhà văn hóa trí thức cũng phải nhận phần trách nhiệm của mình, ít nữa là đã không đóng đúng vai trò những gương sáng của lương tri, đã không tạo được sức ép chống tham nhũng mà có khi đã đầu hàng hay thỏa hiệp với tham nhũng. Cho nên, việc cần làm, và đảng có thể làm ngay được, là không chỉ phải minh định thế nào là tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân mà cũng cần phải có chính sách tách thần quyền khỏi thế quyền. Phân định rõ ràng thế nào là trong chùa, trong nhà thờ và ngoài chùa, ngoài nhà thờ, thánh thất, nhà nguyện. Tôn giáo không nghĩ đến hay không làm được gì trước tình trạng so le, bất quân bình xã hội, cá lớn nuốt cá bé, con vua thì lại làm vua, không làm được gì cho những kẻ bất hạnh thua thiệt, không làm được gì để bảo vệ những kẻ bất hạnh chống lại huyễn mị lừa đảo bao che lấp liếm chèn ép, không làm được gì để cải thiệ tác phong ứng xử giữa người với người, tín hữu với tín hữu đạo khác... thì tôn giáo phải trở về chùa, trở về nhà thờ, thánh thất, nhà nguyện để để ngồi xây mặt vào vách như Bồ Đề Đạt Ma thuở nào. 4. Lùi bước trên sân khấu chính trị quốc gia, ít nữa cũng như thời kháng chiến khi Chủ Tịch Hồ chí Minh cố gắng hội nhập những thành phần yêu nước nhưng không đồng chính kiến và tìm sự đồng tình của Mỹ và Anh trong việc khôi phục nền độc lập cho Việt Nam. Tránh bớt chuyện ‘thưa các đồng chí’ trong những văn thư phát biểu đại chúng. Đảng phải coi việc rút lui vào bóng tối như thời kháng chiến này như một hành động chiến lược. Đặt vấn đề như vậy tức là đặt vấn đề trình tự dân chủ hóa đất nước tất yếu vậy. 5. Tạm thời đóng ngoặc công trạng để hòa hợp hòa giải. Ban Tổ Chức của Đảng và chính phủ tạm thời đóng ngoặc những công trạng thật hay không thật của mình đi trong việc dùng người và tuyển mộ nhân tài giúp nước như tờ Văn Nghệ ngày 31/12/05 khẩn khoản yêu cầu. Xét lại định nghĩa công - tội. Trưởng ty Giáo dục Bình Trị Thiên Nguyễn Kỳ đã nói một câu để đời: Những ai ở Miền Nam trước đây cho dù chỉ một ngày nếu không cầm súng theo cách mạng đều có tội với tổ quốc, kể cả trùm chăn như Nhất Linh. May mà ông Nguyễn Kỳ này chỉ là một Trưởng Ty chứ ông mà là Tổng Bí Thư Đảng thì pháp trường và các trại cãi tạo hẵn đã làm việc mệt nghỉ và biển Đông còn lềnh khênh thuyền vượt biên nhiều nữa. Thay vì dựa vào lý lịch ba đời, tại sao không dựa vào tiêu chuẩn an ninh quốc gia và tiền án mà tuyển lựa nhân sự. Lý tưởng xã hội chủ nghĩa là triệt con đường mòn đường tắt con vua thì lại làm vua và thực hiện bình đẳng cơ hội thăng tiến, cho nên bỏ bao cấp, giao vào tay một người cả ba quyền hạn lập pháp-tư pháp-hành pháp là điều phải xét lại. Một ví dụ là nếu Lê minh Hoàng mà không vừa làm bí thư đảng ủy, kiêm Giám Đốc Công Ty Điện Lực Sàigòn, kiêm Đại biểu Quốc Hội thì mức độ tham nhũng gây ra có trầm trọng như vậy không? Khoan nói là Lê minh Hoàng sinh năm 1945 thì có công lao sự nghiệp gì với cách mạng để được tương xứng với những chức vụ cao trọng như thế? 6. Giản lược danh chức. Triệu Ẩu, Trưng Trắc, Lý thường Kiệt, Trần hưng Đạo còn chưa đòi ai kêu ông kêu bà kêu cụ, thế mà bây giờ báo Văn Nghệ nhắc đến Đào duy Quát đã cần cù liệt kê ông này đến ba chức vụ là Phó giáo sư, Tiến sĩ và Phó Trưởng ban. Nhân Dân Online khi nhắc đến Nguyễn khoa Điềm cũng đã cẩn thận kê khai đến bốn chức vụ là đồng chí, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư TƯ đảng và Trưởng ban... trong khi chính Nguyễn khoa Điềm đang hô hào giản lược, điều chỉnh, tiết kiệm, lành mạnh hóa nghi lễ. Mở báo mở đài ra là nghe toàn Tiến sĩ, Phó tiến sĩ, Giáo sư, Phó giáo sư, lại có cả Phó Giáo sư Thượng tướng Tiến sĩ, hay Thượng tướng nhà văn, nghệ sĩ nhân dân, nếu không thì cũng nhà này, nhà nọ, trong khi báo chí lại kêu ầm lên về nạn bê bối ở nhà thương, nhà tiêu công cộng, nhà xác...Tố Hữu trước khi từ trần đã thấm thía thở than với Trần đăng Khoa về hiện tượng lãng quên và cả thẹn với huân chương. Ngày xưa đảng viên cán bộ chỉ tồn tại với những bí danh cụt ngủn Hai X, Ba Y, Tư Z... mà dân vẫn thương, vẫn theo, vẫn đùm bọc, sao bây giờ tên dài rỗn rảng, chức tước dài lê thê như thế? Hồ chí Minh, Nguyễn thái Học, Lê hồng Phong, Nguyễn thị Minh Khai, Phạm văn Đồng, Trường Chinh, Lê Duẫn đâu có cần danh chức lỉnh kỉnh luộm thuộm để đi vào lịch sử, cũng như ngày xưa Lý thường Kiệt, Trần hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Lê quý Đôn, Nguyễn Du, cũng như Marx, Lenin, Tôn dật Tiên, Mao trạch Đông, Đặng tiểu Bình... Mặt khác, cũng cần có những khóa hội thảo để đào luyện tác phong lịch lãm, không cần cà-vạt cổ cồn thì đừng cà vạt cổ cồn. Cứ đi vào một quán ăn, nhất là những quán sang thì thấy rõ tác phong của cán bộ cần đến những khóa huấn luyện này như thế nào dù công thành danh toại chức quyền đã ngoài 30 năm. 7. Bỏ lễ hội xa hoa dềnh dàng tốn kém để khỏi mang tiếng dĩ công pha tư. Cố gắng dàn xếp tổ chức sinh hoạt đảng vào ngày cuối tuần, hay nghỉ lễ chính thức như Tết, Trung Thu, Phật Đản, sinh nhật Chủ Tịch Hồ chí Minh...để khỏi mang tiếng dĩ công pha tư, để tiết kiệm tài nguyên, công quỹ và tiền thuế của dân. Vạn bất đắc dĩ nếu phải hội họp vào ngày thường thì đảng viên gián đoạn công vụ để tham dự phải phải xin phép nghỉ không lương. Chấm dứt nạn dĩ công pha tư. Ở Australia, không thiếu những Dân Biểu, Nghị Sĩ, Bộ Trưởng ở tù vì tội hà lạm công quỷ, gian lận phụ cấp vãng phản, lạm dụng phụ cấp giao tế, lạm dụng công xa, công ốc. 8. Tuyên thệ công khai khi nhậm chức. Thực hiện thể thức tuyên thệ vì nước vì dân như là điều kiện hoàn chỉnh thủ tục đăng quang hay nhậm chức các công vụ đầu nước, đầu tỉnh. Thể thức tuyên thệ này sẽ có giá trị như tuyên thệ trước tòa án và thề dối thề ẩu là một hình tội. 9. Tòa án nhân dân thầm lặng. Thiết lập các đường dây nóng thực sự vô danh để theo dõi và chống tham nhũng. Cấp xã, phường và các đơn vị kinh tế cơ sở hiện nay đang là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng tác oai, tác quái. Ngày xưa có lệ oan ức không biết kêu ai thì liều chết lên kinh đô đánh trống kêu oan, ngày nay không có những trống kêu oan cứu nguy đó thì sẽ có những đường điện thoại nóng, đưòng điện thư nóng tuyệt đối khách quan, bảo mật đóng vai trò những tòa án nhân dân thầm lặng. Bao nhiêu chuyện oan ức bùng nổ thành loạn động bất phục hay tự tử đau thương có thể tránh được nếu có đường giao liên vô hình và nóng đóng vai trò tòa án nhân dân thầm lặng này. Đây là những biện pháp tiên khởi tối thiểu mà chỉ có Đảng, chỉ có lề lối vô sản chuyên chính và dân chủ tập trung mới phát động được thôi. Đảng áp dụng kỷ luật và đảng viên thi hành, chẳng cần phải đợi hoàn thành những bộ luật, những toà án.
VII. Giữ Lửa. Đồng bào Sàigòn đường Phan kế Bính và Trương Định lâu nay truyền tụng huyền thoại về ngôi nhà 6.000 cây vàng. Chủ nhân đi theo kháng chiến từ hồi nào, nhưng thực sự nổi danh nhờ trong vụ Mậu Thân Tướng Nguyễn ngọc Loan của Miền Nam ba chớp ba nháng vô tình phong ông làm trùm biệt động thành nên ông lên hương từ đó. Thời còn dựa vào dân để hoạt động và sống còn, ông tự nhận là đã gặp Phật Việt Nam, cách mạng thành công rồi, ông in thơ và làm lơ chuyện gặp Phật Việt Nam vì sợ mất lòng Tòa Tổng Giám Mục. Ông được thưởng hai căn nhà, một căn để ở và một căn nhà lớn trị giá 6.000 cây xem như tiền hưu bổng tính theo thâm niên công vụ. Ba mươi năm theo cách mạng, lãnh hưu 6.000 cây vàng, trung bình mỗi năm 200 cây, mỗi tháng 17 cây, vừa ăn vừa đổ cũng chưa hết, đâu cần băn khoăn sinh kế. Không biết làm gì, ông ngồi viết bài ca tụng mấy ông cố đạo gián điệp đặc công cho Pháp như Pignau de Béhaine, Alexandre de Rhodes... Lửa cách mạng của ông đã bị hơi vàng làm nguội lạnh. Làm sao giữ lửa cách mạng để sưởi ấm con tim và khối óc? Gián tiếp trả lời cho câu hỏi ấy, Đào duy Quát, trong tài liệu dẫn thượng đã thú nhận còn nhiều điều phải làm về phương diện văn hóa, cụ thể là văn học nghệ thuật yếu kém vì có ‘rất ít tác phẩm đỉnh cao, cả về giá trị tư tưởng, cả về giá trị nghệ thuật’. Nhân Dân Điện Tử ngày 31/7/2005 phổ biến lại ý kiến của Nguyễn khoa Điềm về Cưới tang, lễ hội kế thừa truyền thống, điều chỉnh thích hợp để hình thành nghi thức mới lành mạnh, tiết kiệm. Cải cách nghi lễ về quan hôn tang tế là một ước vọng chính đáng muốn lần theo bước chân của Khổng Tử, của Phật Thích Ca, của những minh quân ngày trước. Hoàn thành được cải cách này thì chỗ đứng của Nguyễn khoa Điềm trong lịch sử văn hóa nước nhà là điều không ai có thể phủ nhận. Đảng và Nhà Nước đã thực hiện được một số việc thiết thực, thực sự văn minh và tiên tiến như thiết định nội dung quyền làm người và quyền tư hữu, tách rời tôn giáo và nhà nước, cưỡng bách giáo dục phổ thông, thiết định nữ quyền, cấm quảng cáo rượu thuốc lá dưới mọi hình thức... Đóng góp của Ban VHTTTƯ trong việc này hẳn không nhỏ. Đã đến lúc nghiêm chỉnh đặt vấn đề đổi mới và hiện đại hóa sinh hoạt đảng cho xứng với xu thế và nhu cầu của thời đại và đất nước. Điều mà lâu nay người dân chờ đợi Ban VHTTTƯ hoàn thành đó là một Bách Khoa Đại Tự Điển để làm nền trí tuệ và luận lý cho công cuộc đổi mới và hiện đại hóa. Cách mạng Pháp được khởi phát và truyền thống đó vẫn được duy trì bằng bộ Encyclopédie của Diderot. Hiện nay, Pháp có Grand Dictionnaire Universel của nhà Larousse, Anh có Encyclopeadia Britannica, Mỹ tối thiểu cũng có Hutchinson Encyclopedia. Tại sao Việt Nam lại không thể có một công trình điều hướng tư duy cập nhật hóa tương tự? Công tác hình thành một Bách Khoa Đại Tự Điển thật sự cần thiết khi những câu hỏi này được đặt ra: Đâu là nội dung XHCN và chủ nghĩa Marx đã lỗi thời chưa? Cởi trói cho luật pháp quốc gia và dân chủ hóa đất nước có phải cũng là một quá độ XHCN không? Thế nào là phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN? XHCN là một quá độ lên Cộng sản chủ nghĩa bằng cách nhấn mạnh đến quy chế sở hữu các phương tiện sản xuất và phân phối, cũng như nhấn mạnh đến việc thực thi lý tưởng đạo đức và dân chủ. Nếu ý thức xã hội ai cũng như ai, nếu mười ngón tay đều dài ngắn bằng nhau thì chẳng cần XHCN nữa. Chủ trương công hữu và tổ hợp của XHCN, ngoài lý do kinh tế, còn có lý do đạo đức xã hội đó là tình trạng so le, bất quân bình xã hội, cá lớn nuốt cá bé, con vua thì lại làm vua. Thực hiện XHCN là thực hiện từ bi bác ái, nghĩ đến kẻ bất hạnh thua thiệt, là thực hiện bình đẳng cơ hội, là lựa lời mà ăn nói cho vừa lòng nhau chứ không mở miệng ra là thằng này thăng nọ, chê bai dè bĩu khinh khi, là tứ đại công khai, là bảo vệ những kẻ bất hạnh chống lại huyễn mị, lừa đảo, bao che lấp liếm,chèn ép. XHCN không phải là không phải là treo giò dân chủ, để duy trì quan liêu bao cấp muôn năm. Thực hiện XHCN là cãi tạo xã hội và thực hiện công bằng bình đẳng ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Vấn đề là làm sao điều hướng, hâm nóng và giữ lửa cách mạng. Còn lửa cách mạng thì bớt tham nhũng, triệt được tham nhũng. Trong chiều hướng cải thiện nghi lễ mà Nguyễn khoa Điềm ao ước thực hiện cũng như trong bài báo dẫn thượng, Đào duy Quát đã gián tiếp đặt vấn đề phải làm gì để phát hiện và nuôi dưỡng những kẻ ‘thực sự “yêu”, say với cuộc đời, sự nghiệp của dân tộc và lao động sáng tạo’. Có lực lượng đó là có người để đổi mới và hiện đại hóa đất nước, sinh hoạt đảng và chống tham nhũng.
Tạm Thay Kết Luận Chúng tôi không có thói quen xăm lo vào chuyện quản lý nước non. Chúng tôi cũng không cầu mong một ân huệ hay danh chức nào qua việc ấy. Lý tưởng của Việt Nam hiện đại như Chủ Tịch Hồ Chí Minh nói là Độc Lập-Tự Do-Hạnh Phúc. Lời nói ấy đã trở thành một quốc huy. Dân tộc đã lận đận 30 năm vì độc lập. Cả dân tộc cũng đã chật vật ngót 30 năm để xây dựng tự do hạnh phúc, hạnh phúc trong tự do. Hạnh phúc và tự do đó đang bị họa tham nhũng ngán trở và hăm dọa. Những dòng chữ này là một đóng góp tự do cho hạnh phúc trong tự do.
Trang Thời Sự |