NÃO TRẠNG CỦA MỘT

TRÍ THỨC CÔNG GIÁO ĐẦU ĐÀN

Người Làm Vườn

https://sachhiem.net/HOANGNN/Hoang00_4.php

14  tháng 9 2007

 

 

1 - Nguyễn văn Lục, em trai của Giáo sư Nguyễn văn Trung, đã viết một bài đăng trên web danchimviet nội dung như sau:

Trí thức phải là người biết ngượng

Nguyễn Văn Lục

Trí thức thiên tả? Trí thức khuynh tả hải ngoại?

Trí thức hải ngoại cảm tình hoặc theo Cộng Sản

Sau 1975, ai là những thành phần sinh viên phản chiến vẫn tiếp tục là cảm tình viên hay ngả theo Hà nội, hoặc đi theo Cộng Sản? Thực ra khó mà biết minh bạch ai tiếp tục theo Cộng sản và ai rút lui? Một phần không nhỏ những loại này đã chọn rút lui ra khỏi tổ chức, rút lui ra khỏi sinh hoạt của tổ chửc? Lý do của sự rút lui này có thể nay họ hiểu được thực chất của cuả cuôc chiến ấy, hiểu được sự phản bội của Cộng Sản đối với MTGPMN, chính sách hà khác trù dập đi học tập đối với miền Nam miền Nam Việt Nam, những thất bại trong chính sách phát triển kinh tế Việt Nam, v.v…

Có hai con đường lựa chọn: Chọn âm thầm rút lui, không công bố hay phát biểu điều gì. Một số không nhỏ đã chọn con đường này. Nam Dao là một trường hợp trong những trường hợp ấy. Nay anh dành trọn thì giờ cho văn học. Số ít ỏi còn lại, nay đã thành đạt, đã có nghề nghiệp chọn con đường hợp tác với chính quyền Cộng Sản hiện nay. Số trí thức ít ỏi này được anh Nguyễn Hữu Liêm gọi là trí thức “từ phía trái” với những tên tuổi nổi tiếng và quen thuộc: Ngô Vĩnh Long, Nguyễn Ngọc Giao, Cao Huy Thuần, Vũ Quang Việt, Trần Hữu Dũng, Hà Dương Tường, Trần Quốc Hùng, Vũ Xuân Hân... Đây là những trí thức thiên tả lừng danh một thời…

Tôi sợ rằng những lời tán tụng của anh Nguyễn Hữu Liêm có thể quá lời mà người đọc cảm thấy sượng sùng khi nghe những lời nói hoa từ như thế. Họ đã làm được điều gì để được gọi là lừng danh một thời?

Chúng tôi xin được bàn về hai điểm nhận định về các vị trí thức này thông qua buổi hội thảo Đà Nẵng kỳ hè 2005 vừa qua:

Hội thảo Đà Nẵng dù chỉ của một nhóm trí thức trên dưới 30 chục người trong số hàng chục ngàn trí thức Hải Ngoai. Nó sẽ chẳng cần ai nói đến, vì dù sao, nó cũng biểu tỏ thiện chí muốn đóng góp điều gì của những vị ấy. Nhưmg vì được tổ chức ở VN nên có thể cần được nói đến.

Không biết ai là người đã đưa ra đề nghị tổ chức Hội Thảo Đà Nẵng và chính quyền Cộng Sản đã nhúng tay vào? Sự nhúng tay vào đã làm loãng tính chất “trí thức, khoa hoc thuần túy” như ông Cao Huy Thuần đã rêu rao. Mà làm sao có thể có một buổi hội thảo thuần túy khoa học ở Việt Nam? Cho dù không ở Đà Nẵng hay ở xó góc nào thì bàn tay lông lá cộng sản vẫn dính vào? Không ai có thể tin rằng sự có mặt của ông Võ Đại Lược trong ban tổ chức 15 người chỉ có tính cách thủ tục, xã giao? Các ông có thể hiểu như thế, nhưng người bàng quang ở ngòai thì không thể hiểu cùng một thứ ngôn ngữ như các ông được. Riêng ông Cao Huy Thuần là người phát ngôn ấn tượng trong buổi Hội Thảo này. Tôi nhận thấy ông có nhiều thay đổi đến lạ, khác trước nhiều, từ hồng sang đỏ đậm. Ngoài nhũng phát biểu trong Hội Thảo về “thư tình” cho đến cách thức ông vỗ tay tán thưởng những lời nói vàng ngọc của bà Tôn Nữ Thị Ninh đã được đo đếm cân đo tuồn ra ngoài đến nỗi tôi ngồi cách xa ông nửa vòng trái đất cũng cười.

Bà Ninh vàng ngọc thế này: quyền lợi của dân tộc phải đặt lên chỗ cao nhất, ngụ ý cao hơn cả quyền của đảng? Vỗ tay hoan hô. Nhưng nghe đề nghị lập lại tuyên bố này ở quốc hội, Ninh ngậm miệng, không trả lời.

Tôi thất vọng khi đọc bài Dân Chủ là gì và thế nào trong hoàn cảnh Việt Nam. Tôi có thể hiểu ý ông là đòi đa đảng lúc này có thể là điều không tưởng, nhưng không thể không đòi. Nhưng ông viết gần như áp đặt một lối lý luận thuận chiều. Công thức “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” mà ông dám hạ một câu “Tất cả giải pháp chính trị nằm sẵn đầy đủ trong đó”. Tôi đành chịu .

Tư cách là trí thức khuynh tả, hay phía trái. — Những người trí thức trên này thì những danh xưng phải trái tỏ ra không hợp thời nữa. Có vẻ còn trái cựa. Có vẻ đánh giá sai vai trò của họ. Có thể đẩy họ vào tư thế bị hiểu lầm, nghi kỵ của chính quyền Việt Nam. Thực tế mà nói, cho dù họ có thiện chí muốn mang trí tuệ, cái hiểu biết chuyên môn để đóng góp. Nhưng thử hỏi một cách cụ thể, đã trên 30 năm có lẻ, Họ đã đóng góp được gì? Và nhà nước chính quyền Cộng sản đã tiếp thu những đóng góp ấy như thế nào? Cụ thể như đóng góp về phát triển kinh tế, về cải tổ hành chánh, về quản lý, về tiền tệ. Quản lý ngân hàng, về bang giao thương mại quốc tế, về cải tổ giáo dục? Xin đừng kể nhiều. Kể một, hai trường hợp thôi. Họ vẫn kêu gọi Việt Kiều đóng góp chất xám. Nhưng khi đóng góp thì thường họ quẳng vào thùng rác những ý kiến đóng góp ấy. Đưa tiền thì họ hoan hỉ nhận. Ý Kiến thì hãy khoan.

Có lẽ sự đóng góp cụ thể nhất là của một số Việt Kiều hải ngoại, phần đông lại không phải trí thức tả hay hữu gì, chỉ là những chuyên viên hay người làm ăn buôn bán. Họ đã về. Những bước thử nghiệm sau hơn 30 năm kể là chậm. Cụ thể vẫn là nhỏ nhoi chưa đáp ứng lòng mong đợi của chính quyền so với lượng kiều hối hơn ba tỉ một năm.

Đồng tiền liền khúc ruột. Nhà nước đã hẳn không thể nào quay mặt để đọc một vài bài tham luận của đám trí thức về Hội Thảo ở Đà Nãng kỳ hè vừa qua.

Về tổ chức hội thảo Đà Nẵng: — Theo cái nhìn của một người phát ngôn viên là ông Cao Huy Thuần thì đây là một buổi hội thảo thành công: “Đây là một sự kiện trí thức được dư luận đánh giá cao, nhưng nếu hội thảo thành công như thế, chính vì biết khẳng định lĩnh vực của mình là lãnh vực trí thức khoa học thuần túy. Chúng tôi không muốn báo chí tham dự, vì chuyện trí thức là chuyện bình thường, chuyện làm hàng ngày, hàng giờ, có gì chính trị mà phải phô trương? Trí thức không có cái gì đóng góp ngoài kiến thức và suy nghĩ.

Ông Hoàng Ngọc Hiến coi cuốn sách đóng góp từ “Đông sang Tây” là một bó hoa khiến tôi nghĩ công việc làm của trí thức cũng thơm. Mùi thơm toát ra từ trái tim chúng tôi đấy. Thư tình mà. (Trích Bổ túc một bài phỏng vấn Thời đại mới, tháng 11, 2005). Bó hoa đó đã có gì để sánh tầm với cuốn Tranh Luận để đồng thuận? Cuốn sách với sự góp mặt của những tên tuổi như Mai Chí Thọ, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Trung, Phan Đình Diệu, Nguyễn Quang A, Nguyễn Mại, Tương Lai, v.v... Vậy mà theo Talawas.org trong lời chú thích đã tiết lộ “Có chỉ thị Miệng” nhất định cuốn sách không được phát thành rộng rãi. Hiểu như thế mới hiểu được câu nói: chúng tôi không muốn báo chí tham dự của ông Cao Huy Thuần.

Thú thực, đọc xong đoạn văn này, tôi thấy Ngượng đến sượng sùng. Tôi không tài nào viết được như vậy. Chỉ có các ông, các bà mới có can đảm viết được như vậy.

Tôi có thể đồng ý với ông Cao Huy Thuần ở một điểm là mặt tổ chức thật chu đáo. Về nhân sự với 15 người trong ban tổ chức như quý ông từng nổi tiếng một thời như Cao Huy Thuần, Nguyễn Ngọc Giao, Võ Đại Lược, Trần Hữu Dũng, Trần Hải Hạc, Mai Đức Lộc, Ngô Vĩnh Long, v.v… Ngô Thanh Nhàn. Về ông Nhàn, tôi mới nhận được một lá thư gửi cho tôi viết như sau: You mentioned Kim Phuc, the ‘napalm girl’. Please be aware that TS Ngo Thanh Nhan and his American wife, are instrumental in getting her out of Viet Nam, to Germany for treatments (...) then into the US to be helped by anti-war US veterans who then worked Clinton to obtain normalization of relations with Viet Nam. I read about this in the book ‘The girl in the picture’. Chính trị nó rắc rối thế đấy.

Chu đáo vì có thêm ông Võ Đại Lược, một cán bộ cao cấp của Hà nội, ông Lược nằm trong ban Nghiên cứu, Văn phòng Thủ Tướng. Ngay buổi hội thảo đầu tiên, ông Lược ra quân đầu tiên với bài: Những vấn đề phát triển ở Việt Nam. Giải pháp. Bên cạnh đó, người điều hành liên lạc cũng là người của chính quyền là ông Mai Đức Lộc, cơ quan: 080 51173, di động:0903584237. Đúng là “hội thảo thuần túy trí thức, thuần túy khoa học”.

Về chiêu đãi ăn uống thì như sau: Trưa: VAPEC Đà Nẵng chiêu đãi. Tối 28-7-2005: UNND thành phố Đà Nẵng chiêu đãi. Thứ sáu: Trưa VAPEC Trung Ương chiêu đãi Tối: Ban Nghiên cứu Văn phòng Thủ Tướng chiêu đãi. Thứ bảy: Ban Nghiên cứu Văn phòng Thủ Tướng chiêu đãi. Tối: UBND tỉnh Quảng Nam chiêu đãi.

Mỗi bữa ăn là một món nợ đấy. Người nào đã trót ăn là tự gánh vào thân mình một món nợ phải trả. Tiền máy bay gần 2000 đồng, tiền Hotel cũng 7, 80 chục đô la/một ngày tự mình bỏ túi ra trả. Có đáng gì 4 bữa ăn khoảng 40 chục đồng?

Chúng ta đừng quên rằng, tất cả những người thuộc chính quyền như bà Tôn Nữ Thị Ninh v.v… đều được chính quyền trả các chi phí di chuyển Hotel và tiền bỏ túi nữa. Đó là một cuộc phô diễn Dân chủ chẳng tốn kém là bao.

Cũng nằm trong những tiện nghi dành cho cuộc Hội thảo. Ban Tổ chức có ghi chú như sau: Do thời tiết ở Đà Nẵng rất nóng, các bạn nên tắm biển vào buổi sáng từ 5 giờ đến 6 giờ 30, chiều từ 17 giờ 30-18 giờ 30. Chương trình đã tính để dành cho các bạn có thể đi tắm vào buổi sáng và buổi chiều.

Chúng ta cứ tưởng tượng các buổi hội thảo về giáo dục của quý ông Hoàng Tụy, Nguyễn Đăng Hưng, Vũ Quang Việt, Trần Nam Bình đang diễn ra và một số hội thảo viên đang ở một Hotel sang nhất Đà Nẵng với nhiều sao. Bãi tắm trước mặt Hotel mà mỗi buổi sáng, người ta có thể nhìn thấy quý ông, quý bà, quý ông có vợ để ở nhà, quý bà có chồng cũng để ở nhà thoải mái đùa dỡn với biển vốn là đàn ông. Họ tý nữa đây sẽ đưa ra những đường hướng giải pháp cho giáo dục Việt Nam. Nhưng chung quanh họ là một bày những trẻ em bỏ học làm nghề đánh giầy, xin ăn, dẫn gái, sì ke ma túy, ăn cắp vặt, bán vé số, bồi bàn, phục vụ tầm quất cho quý ông, quý bà tùy theo sở thích. Và đủ thứ nghề không tên khác . Đó là những nghịch cảnh về giáo dục.trước mắt quý vi. Khi hội thảo, quý vị có nghĩ đến số phận những đối tựợng mà số phận. của họ đã bị vất ra bên lề như thế không? Tôi đã hỏi một người bạn tôi đi hội thảo câu hỏi như thế đấy? Nhưng chung quanh họ là một bày những trẻ em bỏ học làm nghề đánh giầy, bán vé số, bồi bàn, phục vụ tầm quất cho quý ông, quý bà tùy theo sở thích. Đó là những nghịch cảnh về giáo dục. Như trong bài viết của Phạm Việt Vinh về Vùng đất không mỉm cười, “khi đôi mắt không đủ sức phát sáng cho một nụ mỉm cười, là lúc con người không hạnh phúc?”.

Hay là quý vị vẫn tảng lờ đi và nhắm mắt hội thảo? J.P. Sartre đã viết rằng khi trước một người đang chết đói, cuốn sách Les Mains Sales (Bàn tay bẩn) của tôi là một điều bỉ ổi . Tôi chỉ dám nói với quý vị là phải biết ngượng.

Khi mà sau 25 năm, trẻ con Đồng bằng sông Cửu Long vần chân đất, chân không tới trường. Khi mà ở vùng đất mũi Cà Mâu, có một lớp học “độc đáo” mà thầy học vấn chưa qua hết lớp bảy, còn trò là những đứa trẻ không giấy khai sinh, không hộ khẩu, không cha mẹ, mưu sinh trên bãi rác. Khi mà đem bia ôm gái điếm, đố vui học trò. Khi mà quyết định của Bộ Giáo Dục và đào tạo vào ngày 22/12/2004, phán ràng những sinh viên Đại học, Cao đẳng hệ chính quy từ khóa tuyển sinh 2002 phải thi tốt nghiệp các môn Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Một môn học mà thày không muốn dạy và trò thì không muốn học (Lý Chánh Trung).

Định chế đã có sẵn như thế qúy vị chỉ cho tôi biết, buổi hội thảo cuối cùng vế giáo dục, quý vị đat được kết quả gì?

Khi mà như thế thì một trí thức thay vì thuyết trình hội thảo, phải biết ngượng. Và tôi nghĩ rằng, có nhiều người trong bọn họ cũng nhận thức được tính cách vô bổ, trang trí, đánh bóng, ngôn ngữ và lối nói sạch, viết sạch và điều hệ trọng nhất là không bao giờ họ dám đối đầu với sự thật hay với thực tế.

J.P. Sartre đã nhận xét mỉa mai như thế này: Trước một kẻ đang đói ăn mà đưa cho hắn đọc cuốn Les Mains sales của tôi thì là một điều bỉ ổi . Cảnh đó cũng y hệt diễn ra ngay trước của Hotel quý vị đang ở. Trẻ em thất học đang bu quanh quý vị như đàn nhặng , vậy mà quý vị có can đảm bàn về tương lai giáo dục VN.. trong đó có chúng nó dự phần.

Nhưng trong số những vị trí thức ấy, ít ra, tôi cũng nhìn thấy được một vị dám nhìn nhận một sự thật. Mặc dầu ông nói về một trường hợp khác. Ông Phong Quang, (bút danh của Trần Hải Hạc, cùng thực hiện “Từ Đông sang Tây” với Nguyễn Tùng, Vĩnh Sính, Cao Huy Thuần - NXB Đà Nẵng, 2005): “Của đáng tội, đó là nói theo pháp lý: Nhũng điều chúng tôi viết ra là những điều chúng tôi biết/nghĩ là thực. Nhưng chúng tôi (Ít nhất là tôi) đã từng nói dối ‘Par omission’, bằng cách câm miệng, không viết về một số sự việc, không nói lên một ý nghĩ, cảm xúc của mình”.

Về những đề tài thuyết trình trong các buổi hội thảo — Đó là những đề tài liên quan đến lý thuyết chung chung, vô tội vạ. Điều mà nhà nước cần, nhà nước muốn. Sau đó nhà nước sẽ cho vào thùng rác. Số phận những bài viết tham luận đã được an bài rồi. Chẳng hạn bàn về các vấn đề chính sách kinh tế nói chung. Ông Vũ Quang Việt nói về phát triển, bà Lê Anh Tú Packard: Chính sách tiền tệ, ông Đỗ Mạnh Hùng: Tìm chỗ đứng cho công nghệ, Vũ Xuân Hân: Chuyển giao công nghệ. Về giáo dục thì như vừa nói ở trên. Thêm vào bài của ông Ngô Thanh Nhàn và và Ngô Trung Việt: bàn về giáo dục chữ Nôm, Trần Hải Hạc thì bàn về: Khái niệm bóc lột từ học thuyết Mác.

Tôi không được trực tiếp dự hội thảo, nhưng có mày mò kiếm được vài bài để đọc. Những bài viết như thế, mang đi đâu hội thảo cũng được. Nhưng bảo rằng, những bài đó có giá trị tham khảo (research), giá trị thực tế thì hoàn toàn không có. Bởi vì, các vị đó không có đủ điều kiện dữ kiện (données/data) để làm việc. Nếu có viết chỉ là viết mò. Cho nên các vị ấy chỉ bàn cãi về lý thuyết, tránh thực tế để yên thân. Lấy tỉ dụ, tôi dám chắc không có quý vị nào có thể đưa ra những câu hỏi thông thường sau đây. Cần bao nhiêu tiền để giải quyết vấn đề cơ sở, trường ốc. Vấn đề lương bổng giáo chức. Vấn đề chất lượng giảng dạy và đào tạo. Vấn đề sách giáo khoa. Vấn đề thi cử. Vấn đề bằng giả. Vấn đề gian lận, tham nhũng trong thi cử. Vấn đề chương trình. Có bao nhiêu học sinh không đến trường học ngay từ tiểu hoc. Lý do tại sao? Đừng vội bàn đến Giáo dục và kinh tế thị trường v.v... Xa quá. Đụng vấn đề nào là cứng họng, không trả lời được. Bế tắc từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Sự phá sản các giá trị tinh thần, đạo đức. Cán bộ giáo dục ngu dốt, mù tịt. Lãnh đạo vừa mù tịt, vừa bất lực, vừa vô trách nhiệm.

Còn các vị trí thức. Họ ngồi ở ngoại quốc, tư cách gì bàn về những vấn đề ấy? Cần hàng 10 ngàn chuyên viên khảo sát, thu tập dữ kiện làm việc liên tục trong vài năm may ra có đầy đủ data để có cơ sở làm việc. Hiện nay, các bá cáo các phúc trình chỉ là những dữ kiện phi thực, bá cáo láo.

Ấy là chưa kể có vị đi hội thảo như một cơ hội trình diễn, cơ hội xuất hiện, cơ hội làm quen. Không có đến một xấp giấy trắng nói chi đến một tài liệu. Đầu óc rỗng tuếch. Tôi nghi ngờ thật sự về tinh thần làm việc, về trách nhiệm tinh thần, về khả năng làm việc v.v... Đừng bắt tôi nói ra.

Đất nước mình nó như thế ấy.

Để chấm dứt bài viết này, xin gửi đến quí vị trí thức trong nhóm trí thức phe hữu thân chính quyền hiện tại ở Việt Nam, thư của một người viết trước khi chết hai tháng, dân biểu Lý Quý Chung:

“Bác sĩ cho moa 12 tháng, moa sài hết 6 tháng rồi. Anh kêu tôi viết, tôi cám ơn anh, nhưng tôi nghĩ mình viết cái gì bây giờ? Mình viết về một dân tộc mà mình biêt có một phân nửa. Mình viết về thế hệ tương lai, tính từ 75. đã một thế hệ sanh ra và lớn lên mà cả hai thế hệ này nó không biết mình là ai, mà mình cũng không biết nó là ai?

Anh thấy không, anh kêu tôi viết về tuổi trẻ, về tương lai, về một thế hệ mà đã hơn một phần tư thế kỷ mình không có ở đó, cái điều đó có thể cũng không sao, nhưng quan trọng hơn, là mình không dự phần, mình không chia sẻ, thì bây giờ viết cái gì bây giờ. Nhưng anh cứ nói cho tôi biết, tôi phải viết cái gì bây giờ?”.

Làm người trí thức, trước hết là phải biết ngượng.

Copyright © 2006 DCVOnline

 

2 - Phụ họa với Nguyễn văn Lục trong bai nói trên là ‘ý kiến độc giả’ để gian tiếp đánh bóng Nguyễn văn Lục và những người đồng đạo như sau [chữ gạch đậm của NLV]:

Nhận định của tôi ở VN, thẳng thắn mà nói rằng dân công giáo họ có giáo dục hơn những người tự nhận là phật giáo. Có lẽ vì thế mà những cuộc biểu tình, nổi loạn ít khi liên quan đến công giáo. Đó là nhận định riêng của tôi, quý vị có nhận định riêng của quý vị. Xét về thành phần tư bản ở xã hội VNCH thì đa số là Ba Tàu, dân gốc Pháp, dân phong kiến (quan lại) của triều đình Huế cũ. Khó kiếm được người công giáo VN là thành phần "tư sản mại bản". Dân miền Nam theo công giáo rất ít, miền Trung nhiều hơn, đa số là dân Bắc di cư năm 54. Họ đa số là nông dân ở đồng bằng Bắc Việt chạy vào Nam tị nạn CS. Nhưng xét về dân nghèo mạt rệp, loại đầu đường xó chợ, loại mánh mung chôm chỉa và ma cô đĩ điếm thì cũng khó kiếm đựơc dân công giáo thứ thiệt. Bởi vì họ thường sống với giáo xứ của họ, nên xã hội riêng của họ không dung túng những thành phần ma cô ma cạo đó. Trước 75 dân Bắc 54 làm đĩ thì đã hiếm rồi (văn hóa cổ truyền ở Bắc nó tạo ra như vậy), nhưng công giáo mà làm đĩ thì càng hiếm hơn nữa.

Tôi đã kinh qua, đa số dân homeless (vô gia cư), đầu trộm đuôi cướp toàn là những thành phần vô giáo dục. Nếu Phật Giáo chiếm 90% dân số thì tôi thấy 99% dân đó là gốc phật giáo. Trước 75 cứ đến những khu nhà ổ chuột, những ổ điếm, những băng trùm du đãng thứ thiệt thì biết. Hiếm có công giáo, lý do đơn giản là họ thường sống trong những xứ đạo, nếu thất học thì cũng được tôn giáo của họ giáo dục khá đầy đủ. Chính quyền VC mới đầu nêu ra vấn đề xử dụng...

2006-06-01 21:31:26

Dao Cong Khai new york

3 – Có lẽ vì não trạng phe ta bao giờ cũng nhứt [cư] cả và phân Đức Thánh Cha bao giờ cũng thơm như GS Nguyễn văn Trung từng nói đó mà Trần chung Ngọc đã viết lại một bài điểm qua bài đó của Nguyễn văn Lục nội dung như sau:

 

MỘT “TRÍ THỨC“ KHÔNG BIẾT NGƯỢNG

Trần Chung Ngọc (Phần 1)

giaodiemonline ngày 07/09/2006 

hay  https://sachhiem.net/TCN/TCNdt/Nkbietnguong1.php (28May07)

Qua điện thư của một anh bạn gửi cho nhóm thân hữu của ảnh, trong đó có tôi, tôi được biết ông Nguyễn Văn Lục, một trí thức Công Giáo, có viết một loạt bài nhan đề “Trí thức phải là người biết ngượng “ trên Đàn Chim Việt. Nhân đang rảnh rỗi, tôi bèn vào Đàn Chim Việt đọc chơi và quả nhiên thấy nội dung mấy bài viết này chứng tỏ tác giả của nó là “một ‘trí thức’ không biết ngượng” nhưng lại có can đảm viết một bài với nhan đề “Trí thức phải là người biết ngượng.”

Trước đây, trên trang nhà giaodiem.com, trong bài “Tôi Đọc “Đi Tìm Thời Gian Đánh Mất (VIII)” của Nguyễn Văn Lục, tôi đã chứng minh rằng ông Nguyễn Văn Lục chẳng qua chỉ là một anh thợ giầy muốn đi lên trên nơi giầy dép. Nay đọc loạt bài này tôi thấy kiến thức của tác giả thuộc loại anh thợ giầy … bất khả thuyết. Bất khả thuyết vì trong một bài thuộc loại thảo luận trí thức thì không ai viết như vậy, trong đó có những từ không thể gọi là trí thức, và những luận cứ biểu lộ một thiên kiến dựa trên một trình độ hiểu biết rất thiếu sót của mình. Tôi sẽ chứng minh điều này trong một phần sau.

Trên Đàn Chim Việt có một số, đầu óc tương đương với Nguyễn Văn Lục, khen Nguyễn Văn Lục viết hay, hay vì luận điệu bài bác, đả kích trí thức thiên tả của Nguyễn Văn Lục hợp với tâm cảnh chống Cộng của họ. Nhưng cũng có một số thấy rõ con người và khả năng của Nguyễn Văn Lục. Trước khi đi vào phần phê bình loạt bài của Nguyễn Văn Lục, tôi nghĩ có lẽ cũng nên ghi lại vài nhận định về Nguyễn Văn Lục của một số độc giả trên Đàn Chim Việt.

Do Thi, France: Còn đám "trí thức Ky-tô giáo", nói riêng ? Khi đã đọc Bible (được gọi là "Kinh Thánh") mà không biết ngượng thì cũng là điều đáng nể thật.

Dr. Nguyen, San Jose - CA/USA:

Nếu quả thực rằng "Trí thức phải là người biết ngượng", xin mạn phép hỏi tác giả Trần Lục [???] rằng tại sao các "trí thức Công Giáo" không bao giờ tỏ ra rằng họ "biết ngượng" hết ? Nếu các "trí thức Công Giáo" có can đảm đối diện với sự thực thì họ đã phải "biết ngượng" rằng Công Giáo, mà giáo lý độc đoán và bất khoan nhượng như được mô tả rõ ràng chi tiết trong Thánh Kinh, chính ra đã là cha đẻ của mọi chủ thuyết độc tài và cực đoan khác trong đó có Chủ Nghĩa Cộng Sản. Nếu họ đã từng có chút đầu óc suy xét thì đã họ phải "biết ngượng" rằng họ đã dại dột đi theo một tôn giáo tay sai ngoại bang và là thủ phạm chính trong việc kéo đất nước và dân tộc xuống vũng vùn của 100 năm nô lệ thực dân Pháp. Và nếu họ có chút liêm sỉ tối thiểu thì họ đã "biết ngượng" rằng dù họ chỉ là một thiểu số nhỏ nhoi ở Việt Nam, nhưng mà suốt đời họ chỉ muốn áp đặt quyền lợi của giáo hội Công Giáo lên trên quyền lợi của đại đa số người Việt. Xin tác giả Trần Lục vui lòng trả lời! Cám ơn.

Cao Thanh Thiên: Cá nhân ông có biết ngượng không vậy hả ông Lục ?

Nhất Đăng: Nói người lại nghĩ đến ta, Hỏi người quay ngược chính là hỏi ta !!!

Độc hành cầu Bại, Belgium: Trí thức phải biết ngượng??? Ðúng quá! Bởi vì chính ông Nguyễn Văn Lục nên biết ngượng trước tiên nếu ông là trí thức, khoan nói chuyện tả hữu.

Thứ nhất ông theo đuôi Phạm thị Hoài khi tìm cách định nghĩa trí thức (trong lời mở đầu Bài Tết Mậu Thân) với ”dương vật buồn thiu“. Núp bóng đàn bà để thóa mạ thiên hạ. Thái độ ấy nên gọi là gì nhỉ? Từ miệng Phạm thị Hoài nói thì chữ ấy ”thơm“ mà sao qua đến Nguyễn Văn lục nghe nó ”thiu“ thế, mà thiu thật bởi vì ông lại mánh lới bẻ nó ra để chỉ dành cho trí thức Huế mà đóng ngoặc cho mình, mới…“ngượng“ chứ…. Thái độ ấy gọi là cái gì nhỉ? Tự nhìn xuống mà coi! Ngượng không?

Thứ hai, ông lại chạy theo đuôi Trần Trung Ðạo, Nguyễn Hữu Liêm rồi về hùa với những ai nữa, viết đề tài trí thức, gọi là về ”trí thức phải biết ngượng!“. Tưởng gì, ton hót theo đuôi thì gọi là gì nhỉ? Trơ trẽn! một chữ khác của ”không biết ngượng“ đấy.

Bài viết nào của ông cũng có tráo trở, không điều này thì cũng điều nọ.

Trí thức mà tráo trở nói có thành không nói không thành có là gì nhỉ?

Soi gương thì biết là gì, không gió không biển, không đú đỡn, mà ngượng chín cả mặt đi chứ phải chơi!

Có bạn đọc đã cho là ông ”ẩu“ trong phần I bài này, nếu đọc kỹ thì thấy nhiều đoạn cắt xén, hoán vị vài từ ngữ của những bài cũ rồi chắp vào. Ðúng là viết ”ẩu“, coi thường coi khinh độc giả DCV.

Viết nhào nháo, cũng vì không biết ”ngượng“, ham chạy theo cho kịp mấy trí thức trung niên, khơi ngòi cho độc giả tả hữu đập nhau chí choé, còn trí thức NVL xoa tay ngồi đếm người ra vào xem bài của ông đến ”thích“, lại mơn trớn vuốt ve ”tôi thích DCV lắm!“

Trong bài “Mảnh đất chuồi“, đến nay tôi mới tìm được cuốn tiểu thuyết của Dương Thu Hương mà ông Lục bảo lấy tên nhân vật ”cô Xuân“ trong đó, nhưng nào có cô Xuân nào đâu, hóa ra ông bày đặt chuyện để viết cho lâm li bi đát, thỏa thích tính bạo dâm của mình. (Ðộc giả DCV tìm đọc DTH thì biết ngay). Ðộc giả đòi ông xin lỗi chuyện bịa đặt, chống Cọng quá ấu trĩ mà ông có xin lỗi ai đâu? Tội này là tội gì nhỉ? Có phải tội lường gạt độc giả lương thiện, cả tin không?

Thế người trí thức cầm bút như thế có biết ngượng không nhỉ? Hay ông Lục bảo ông không phải là trí thức???? nếu không phải là trí thức thì suy ra các bài viết của ông sau này chỉ có giá trị còn thấp hơn một chữ : “ngượng“!!!

Và Sartre không ngụy tín đâu, chính Nguyễn Văn Lục mới là ngụy tín trong cách viết và tư duy chưa có tầm cỡ ”trí thức biết ngượng“ của chính ông!

Năm Chuột, Hòa Lan: Nguyễn Văn Lục viết: "Có sự khác biệt giữa nhà chính trị phe tả và người trí thức tả phái ở một điểm: Một bên dấn thân, nhập cuộc bằng hành động cụ thể, ngay cả tranh đấu để lật đổ cái cơ chế hiện hữu bằng một cơ chế mới. Đó là trưởng hợp nhóm trí thức Caravelle ra tuyên ngôn ngày 26/4/1960 với các ông Phan Huy Quát, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Tuyên, Trần Văn Đỗ. Họ là những nhà chính trị tả phái chuyên nghiệp." Xin hỏi: các ông Phan Huy Quát, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Tuyên và Trần Văn Đỗ "tả phái" ở chổ nào? Căn cứ vào đâu mà Nguyễn Văn Lục gọi họ là "những nhà chính trị tả phái chuyên nghiệp"? Không lẽ chỉ vì họ bất đồng chính kiến với chế độ Ngô Dình Diệm?

Thiên Lôi, Thiên Đình:

Ông Lục viết:

Truyền thống tả phái đã bắt đầu từ cuộc Cách Mạng Pháp, thế kỷ 18, 19, 20 bên Âu Châu. Đây là thời kỳ vàng son của trí thức Tây Phương. Họ tiêu biểu cho những trào lưu tư tưởng triết lý, chính trị, văn hóa và nhất là thẩm quyền đạo lý (Moral authorities) của thời kỳ đó.

Những điều này thật không đúng hoàn toàn. Chỉ là một loại kết luận què cụt! Có lẽ ông ảnh hưởng nhiều về lối giáo dục của các trường Tây, cho nên chỉ có thể kết luận theo kiểu này!

*

Qua một số nhận định của độc giả Đàn Chim Việt ở trên, hẳn chúng ta đã biết thực chất con người, thực chất trình độ của ông Nguyễn Văn Lục ra sao. Sau đây tôi sẽ đi vào vài điểm trong bài của ông Nguyễn Văn Lục để mua vui cùng độc giả, mua vui thôi chứ không phải là phê bình trí thức vì bài của ông Lục, như trên đã nói, không thuộc lãnh vực trí thức. Đây là một bài chống Cộng rất rẻ tiền, nhắm vào những người chống chiến tranh khi xưa, đặc biệt đả kích Cao Huy Thuần, có lẽ vì Cao Huy Thuần là tác giả của một Luận Án Tiến Sĩ Quốc Gia ở một đại học Pháp, một luận án để đời cho người dân Việt Nam: Les Missionnaires et la Politique Coloniale Francaise au Việt Nam (bản tiếng Việt: Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam, 1857-1914 (Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội, 2002)), một luận án mà những người “trí thức Công Giáo” như Nguyễn Văn Lục đọc mà không thấy ngượng mới đúng thật là con chiên của “Đức Thánh Cha”.

Trước hết chúng ta hãy đọc một đoạn đầu của ông Lục:

Truyền thống tả phái đã bắt đầu từ cuộc Cách Mạng Pháp, thế kỷ 18, 19, 20 bên Âu Châu. Đây là thời kỳ vàng son của trí thức Tây Phương. Họ tiêu biểu cho những trào lưu tư tưởng triết lý, chính trị, văn hóa và nhất là thẩm quyền đạo lý (Moral authorities) của thời kỳ đó. [Phần này, Thiên Lôi ở Thiên Đình đã phê bình rồi.]

Nhờ cái thẩm quyền tinh thần đó, tiếng nói của họ có trọng lượng. Tiếng nói được người khác nghe. Vì thế, họ thường lên tiếng, chống đối hoặc phê phán sự áp đặt (intimidation) và bất công (préjudices) của các thế lực chính quyền đương đại.

Vậy thì tất cả những ai nhân danh cái thẩm quyền tinh thần ấy để cất tiếng nói, để biết chối từ, đễ biết nói không, dứt khóat và kiên cường. Xác tín và quyết tâm theo đuổi. Kẻ đó được gọi là những người trí thức thiên tả.

Định nghĩa “thiên tả” của ông Lục hơi hẹp vì cái gọi là “Tả” [Left] bao gồm nhiều cánh lắm, thí dụ như, chủ nghĩa xã hội (socialism), chủ trương vô chính phủ (anarchism), cộng sản (communism), dân chủ xã hội (social democracy), chủ nghĩa tự do của Mỹ (American liberalism), chủ nghĩa tiến bộ (progressivism), tự do xã hội (social liberalism), và ngay cả thần học giải phóng (liberation theology) và chủ nghĩa xã hội Ki-Tô (Christian socialism) trong Ki-Tô Giáo v..v… Nhưng khi viết về những trí thức Việt Nam thiên tả, có vẻ như ông Lục hàm ý đó là thiên Cộng chứ không phải là thiên tả theo những định nghĩa của ông ở trên.

Tôi không dám phê bình khả năng tiếng Pháp của ông Lục mà có người gọi là “giáo sư”, nhưng với cái vốn tiếng Pháp thuộc loại ăn đong của tôi thì “intimidation” không phải là sự áp đặt mà là sự hăm dọa hay đe dọa. Còn “imposition” mới là sự áp đặt. Ngoài ra, “préjudices” cũng không phải là bất công mà có hai nghĩa: thiên kiến, hay những mối thiệt hại, tổn hại, “injustice” mới là bất công. Nhưng không sao, người Việt hiểu sai tiếng Pháp cũng chẳng có ai cười. “Xác tín và quyết tâm theo đuổi (dấu chấm = .)” Câu cụt này [Nội dung câu trên không thể dùng làm chủ đề cho câu này] làm cho Nguyễn Gia Kiểng chê là người Việt Nam không biết viết tiếng Việt, trong số này lẽ dĩ nhiên có cả Nguyễn Gia Kiểng. Nhưng cũng không sao, người Việt hải ngoại như tôi dễ dãi lắm, viết sao tôi đọc cũng được.

Tôi thực sự không quan tâm đến những tên tuổi “thiên tả” ngoại quốc trên thế giới mà ông Lục nêu lên, chứng tỏ là mình học rộng hiểu nhiều, và những triết lý lẩm cẩm của ông trong bài. Tôi chỉ quan tâm đến số trí thức Việt Nam mà ông Lục xếp vào loại “thiên tả” hàm ý “thiên Cộng” và do đó kéo được một số đồng minh “mèo khen mèo dài đuôi”, Công giáo viết Công giáo khen hay, y như “Vatican có đánh r…. cũng khen thơm”, và hè nhau lên tiếng rủa sả những trí thức thiên tả hay thiên Cộng.

Trích dẫn lời vàng ngọc của Lý Chánh Trung:

“Lực lượng thứ ba cuối cùng chỉ là một khát vọng hơn là một thực lực thực tế. Tổ chức vỏn vẹn có vài trăm người. Nhóm người đó mở ra mọi phía và đón nhận nhiều ảnh hưởng. Vì thế, họ không có một ý thức hệ chính xác nào.”

ông Lục viết về những trí thức Việt Nam chống chiến tranh:

Vì thế, họ có thể rơi vào tình trạng nói suông mà không làm được điều gì đích thực. Lăng xăng tuyên bố, lăng xăng có mặt như quân bài múa rối. Sinh viên phản chiến hải ngọai nằm trong cái phạm trù này. Phạm trù ngụy tín, ngụy quân tử. Chạy trốn khỏi miền Nam bằng những lá bài hợp pháp để chống chiến tranh. Điều đó thật là dễ. Nhìn họ mà thương hại. Trường hợp những trí thức tả phái rơi vào ảo tưởng, đi chệch đường không phải là thiếu.. .. Ở Việt Nam là trí thức theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN).

Nguyễn Văn Lục viết bậy, không hiểu gì về phong trào phản chiến và các sinh viên phản chiến hải ngoại, mà cũng không hiểu gì về những nhà trí thức theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Tôi tin rằng, với tư cách của một trí thức cứ tạm gọi là lội ngược dòng đi, tôi có thể giúp ông Lục thêm vào mớ hiểu biết của ông một chút kiến thức về vấn đề phản chiến. Ông sẽ thấy rằng người đáng thương hại là chính ông chứ không phải là những người chống chiến tranh.

Thứ nhất, tại sao nhiều sinh viên Việt Nam ở hải ngoại lại chống chiến tranh? Vì họ ở ngoại quốc, có nhiều thông tin chính xác về thực chất cuộc chiến tranh nhơ bẩn (la sale guerre) ở Việt Nam, không bị bịt mắt bịt tai như những người dân, trong đó có tôi, ở Việt Nam. Thực chất cuộc chiến ở Việt Nam ra sao. Ngày nay có cả hàng trăm tài liệu. Ở đây tôi chỉ cần nhắc đến một tài liệu trong thời đó: Cuốn Việt Nam: Sự Khủng Khoảng của Lương Tri (Vietnam: Crisis of Conscience, Association Press, N.Y., 1967) viết bởi ba giới chức tôn giáo: Mục sư Tin Lành Robert McAfee Brown, Giáo sư Tôn Giáo Học, đại học Stanford; Linh mục Michael Novak, Giáo sư về Nhân Bản Học, đại học Stanford; và Tu sĩ Do Thái Abraham J. Heschel, giáo sư về đạo đức và huyền nhiệm Do Thái tại trường Thần Học Do Thái ở Mỹ. Cuốn sách mở đầu bằng câu:

Những trang sách sau đây xuất sinh từ sự cùng quan tâm của chúng tôi rằng: quốc gia của chúng ta (Mỹ) bị lôi cuốn vào cuộc xung đột ở Việt Nam mà chúng tôi thấy không thể nào biện minh được trong ánh sáng thông điệp của các nhà tiên tri hay của Phúc Âm của Giê-su ở Nazareth.

(The pages that follow grow out of our shared concern that our nation is embroiled in a conflict in Vietnam which we find it impossible to justify, in the light of either the message of the prophets or the gospel of Jesus of Nazareth.)

Trong cuốn sách này, Mục sư Tin Lành Robert McAffee Brown viết, p. 67:

Ngay cả quyền hiện diện của chúng ta ở đó (Việt Nam) cũng bị chất vấn, trong ánh sáng của luật quốc tế, bởi những người có địa vị cao trong chính phủ của chúng ta, trong đó có các Thượng Nghị Sĩ Morse, Church, Gore, và Gruening. Nhưng ngay cả khi có quyền rõ rệt, bản chất những gì chúng ta đang làm ở Việt Nam cũng càng ngày càng phải lên án.

(Our very right to be there is questioned, in the light of international law, by men highly placed in our government, among them Senators Morse, Church, Gore, and Gruening. But even if there is a clearcut “right”, the nature of what we are doing in Vietnam must be increasingly condemned.)

Như vậy, những sinh viên phản chiến hải ngoại chống chiến tranh là vì những xác tín của họ về cuộc chiến chứ không phải là họ ở trong “phạm trù ngụy tín, ngụy quân tử”. Chỉ có những kẻ cuồng tín mới là ngụy tín, ngụy tín vì một ảo tưởng, tin vào những chuyện hoang đường không thể tin được mà khoa học ngày nay cũng như thực tế đã chứng tỏ rất rõ ràng, và những kẻ “hiếu chiến” một cách vô ý thức, ủng hộ chiến tranh, mới lên án những người chống chiến tranh, chủ trương hòa bình để tiết kiệm xương máu người dân, là "phản chiến" . Ngày nay, tài liệu về thực chất cuộc chiến ở Việt Nam không thiếu, vậy mà ông Nguyễn Văn Lục vẫn còn dùng đến hai từ “phản chiến” coi đó như là vì ngụy tín, vì rơi vào một ảo tưởng trí thức nên đi chệch đường v..v.. thì tôi không hiểu là trình độ trí thức của ông Lục ở mức nào? Chẳng trách là Độc hành Cầu Bại ở Belgium đã viết ở trên là ông Lục chống Cộng quá ấu trĩ đi mà không biết ngượng. Nhưng mà ai là những kẻ ngụy tín, đi chệch đường vì ảo tưởng trí thức?? Đây này, tôi cho ông Lục biết:

Đó là giáo hoàng Paul VI, người đã tuyên bố ở giữa hội trường Liên Hiệp Quốc: Hãy ngưng ngay cuộc chiến (ở Việt Nam). Đừng có chiến tranh nữa, không bao giờ có chiến tranh nữa (Stop the war. No more war, never again war)

Đó cũng là Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc U Thant, sau khi quan sát tình hình, đã tuyên bố: Cuộc chiến chênh lệch giữa kỹ thuật Hoa Kỳ và một nước nhỏ kém mở mang (VN) là một trong những cuộc chiến "man rợ nhất" của lịch sử. (The Secretary of the United Nations, U Thant, was driven by his observations to call this mismatch between the United States and a small underdeveloped nation one of the "most barbarous" wars in history)

Đó cũng là 2700 mục sư Tin Lành, linh mục Công giáo, mục sư Do Thái (Rabbi) đã ký tên dưới một bức thư gửi Tổng Thống Johnson, đăng trên tờ The New York Times ngày 4 tháng 4 năm 1965 kêu gọi: "Nhân danh Thiên Chúa, Hãy ngưng ngay chiến tranh" (In the Name of God, STOP IT).

Đó cũng là 65 giáo sư đại học Saigon, ngày 16 tháng 1, 1968, với bản tuyên ngôn kêu gọi "Các phe hiếu chiến hãy kéo dài vô thời hạn cuộc ngưng chiến vào dịp Tết và đàm phán với nhau ngay để có một dàn xếp hòa bình." (We appeal to all the belligerent parties to extend indefinitely the Tet cease fire and to negotiate immediately a peaceful settlement).

Và còn những bậc trí thức vang danh thế giới như Bertrand Russell, Jean Paul Sartre, Martin Luther King, hàng trăm giáo sư đại học trên khắp thế giới, hai anh em cùng là linh mục Công giáo Daniel và Philip Berrigan, chưa kể đến hàng trăm ngàn sinh viên đại học Mỹ đã thường xuyên xuống đường "phản chiến". Vậy "phản chiến" thì sao? Làm sao mà một số sinh viên hải ngoại không phản chiến, một khi họ đã biết rõ thực chất cuộc chiến nhơ bẩn trên đất nước của họ, và trước phong trào phản chiến rầm rộ khắp nơi trên thế giới?

Không kể là những ngày chiến tranh đó, mà sau 30 năm người Pháp vẫn gọi đó là một cuộc “chiến tranh nhơ bẩn” (La Sale Guerre) [Xin đọc bài Người Mỹ ở Việt Nam: Bộ Máy Nghiền Thịt (Les Américains au Vietnam: l’Engrenage) của Jacques Dallos, Thạc Sĩ Sử Học, Tiến Sĩ Sử Học, và bài Chiều Sâu của “Cuộc Chiến Nhơ Bẩn” (Au Coeur de la “Sale Guerre”) của André Kaspi, Giáo Sư Đại Học Paris-Panthéon-Sorbonne trong tập “Les Collections de L’Histoire” (tạm dịch là Những Bộ Sử), số 23, Avril-Juin 2004, xuất bản tại Paris]. Cho nên chúng ta cần phải cám ơn những người “phản chiến” đã can đảm, không sợ nguy hại đến bản thân, tích cực góp phần trong công cuộc thức tỉnh lương tâm nhân loại và người dân Mỹ để cuộc chiến phải đi đến kết thúc.

Do đó, lên án họ là “ngụy tín, ngụy quân tử” hay vì ảo tưởng trí thức mà đi chệch đường là viết bậy. Có lẽ ông Lục cho rằng mình viết hay lắm vì có một đám người có đầu mà không có óc khen hay, nhưng ai muốn nói sao thì cứ nói, ai muốn khen thì cứ việc khen, viết bậy là viết bậy, có phải như vậy không?

Thứ nhì, những trí thức đi theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là vì chính quyền Ngô Đình Diệm là một chính quyền độc tài, gia đình trị, tôn giáo trị, vi phạm hiệp định Genève, dùng chiêu bài chống Cộng để tiêu diệt những người kháng chiến yêu nước cũ, để diệt các tôn giáo khác trong âm mưu công giáo hóa miền Nam, bức hại dân lành, cưỡng bách người ngoại đạo theo đạo, dung dưỡng các giám mục, linh mục công giáo làm bậy, hống hách như các lãnh chúa, cướp đất của dân, đầu độc đầu óc giới trẻ bằng những điều mê tín, đàn áp trí thức đối lập, độc quyền thông tin v..v.. và v..v.. Chẳng phải là họ đi chệch đường mà là đối diện với thực tế của một chính quyền quan liêu, lạc hậu, thiên vị, họ đã có một chọn lựa, một thái độ trí thức. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã đẩy họ vào tay Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Họ là những người can đảm, có bằng cấp, địa vị, nhưng đã dám bỏ đời sống đầy đủ nơi thành thị để sống một cuộc sống đầy thiếu thốn và nguy hiểm ở hậu phương.

Nhưng ông Lục không nghĩ thế, vì vậy ông phán những câu thuộc loại Chống Cộng Chết Bỏ (CCCB) hay Chống Cộng Cho Chúa (CCCC):

Nói họ là những trí thức con hoang là để nói đến những thành phần không dám dấn thân nhập cuộc [Bỏ tỉnh thành đi vào bưng là không dám dấn thân nhập cuộc??]. Trí thì chưa chắc đã đủ [Trí của ông Lục ở cỡ nào?? Có thể đánh giá được trí của họ hay sao??] lòng thì còn ham muốn đủ thứ [ham muốn đủ thứ ở trong bưng??], can đảm thì nhát nhúa [những kẻ nhờ Cha trốn lính là can đảm??], chân trong chân ngoài. Thích đứng ngoài để nói, để phê phán, để hô hào. [Xuống đường để bị đàn áp, ăn lựu đạn cay là đứng ngoài??] Giữa một kẻ trong cuộc và kẻ đứng ngoài. Kẻ đứng ngoài không giá trị hơn một đồng xu. Cùng lắm, họ sống bằng một cái Myth do chính họ tạo ra. [Nhưng thế nào là trong cuộc?? Là “nhân dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm?? Hay là chấp nhận một xã hội “nhất đĩ nhì Cha”? Hay là chấp nhận nửa triệu quân ngoại quốc trên đất nước?? Hay là chấp nhận các vùng “oanh kích tự do”, ấp chiến lược, thuốc khai quang, chiến dịch Phụng Hoàng v..v..và v..v..??]

Tiếp đến, ông Nguyễn Văn Lục dựa vào trình độ tự cho là trí thức của mình để đánh giá những trí thức thiên tả hải ngoại.

Thật ra chữ dùng này [Trí thức thiên tả hải ngoại] để chỉ những người trí thức hải ngoại thiên tả là không đúng, là không chỉnh. Nó chỉ thích hợp ở thời điểm trước 1975, khi những người này nghiêng về phía Hà nội, lên án chiến tranh Mỹ Thiệu hay VNCH. Vì thế, đúng ra chữ dùng này phải tiêu ma ngay khi mà miền Nam không còn nữa. Bởi vì, bây giờ mà tả thì tả với ai? Tả cái gì? Chỉ có một con đường là tả với Hà Nội? Chữ dùng đúng nhất là sinh viên phản chiến. Họ chưa đủ tầm vóc để được gọi là trí thức thiên tả theo nghĩa đã được trình bày ở phần một của bài này.

Chẳng phải chỉ là sinh viên mà có nhiều người đã tốt nghiệp từ những đại học lớn ở Pháp, Đức v..v.. mà vẫn tiếp tục “phản chiến”. Theo như ông Lục thì chúng ta phải gọi Paul VI là “giáo hoàng phản chiến”, U Thant là “Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc phản chiến”, 2700 mục sư Tin Lành, linh mục Công giáo, mục sư Do Thái là những “thầy tu phản chiến”, 65 giáo sư đại học Saigon là các “giáo sư phản chiến” v..v.., không có một người nào có đủ tầm vóc để được gọi là trí thức? Chỉ có ông Lục không phản chiến nên đáng được gọi là trí thức, trí thức nhưng hình như thiếu một chữ “dỏm” hay hai chữ “gia nô”. Nhưng có một người mà cả thế giới đều công nhận là một bậc trí thức với 2 giải Nobel: đó là Bertrand Russell, mà Bertrand Russell lại là người phản chiến nặng ký nhất trong những người phản chiến, và hơn thế nữa, thân Cộng nhất trong những người thân Cộng. Không những thế, Bertrand Russell còn thiết lập một Tòa Án Quốc Tế để xét xử Mỹ trong cuộc “chiến tranh nhơ bẩn” ở Việt Nam.

Điểm qua vài mặt trí thức Việt Nam phản chiến mà ông Nguyễn Văn Lục nêu tên, ngoài Cao Huy Thuần, chúng ta thấy Nguyễn Ngọc Giao , Hà Dương Tường v..v.. Họ có phải là trí thức không, hay chỉ là “sinh viên phản chiến”? Họ đều xuất thân từ những đại học lớn ở Pháp, ra trường từ giữa thập niên 1960. Thí dụ như Hà Dương Tường, xuất thân từ Trường Bách Khoa Kỹ Thuật [École Polytechnique] của Pháp, một trường kỹ thuật nổi tiếng vào bậc nhất trên thế giới mà không phải ai cũng có thể thi đậu vào đó học. Sinh viên trường đó chưa ra trường các hãng đã tranh nhau mời làm việc rồi. Ngoài ra, Hà Dương Tường còn có thêm bằng Tiến Sĩ về Toán. Đời sống của họ rất chừng mực, không xa xỉ, ăn chơi. Nhưng chỉ vì họ phản chiến và có tinh thần quốc gia nên không đủ tầm vóc để được gọi là trí thức. Vậy thế nào mới là trí thức? Viết bậy như ông Lục mới là trí thức? Hay làm nô lệ cho Vatican mới là trí thức?

Tôi thực sự hết muốn phê bình loạt bài “Trí Thức Là Người Phải Biết Ngượng” của ông Nguyễn Văn Lục, vì càng đọc tôi càng thấy ngượng, ngượng thay cho một người không biết ngượng. Vậy thì tôi xin cắt ngắn bài phê bình này. Phải cắt ngắn vì càng đọc càng thấy ông Lục “Viết nhào nháo, cũng vì không biết ”ngượng“”, đúng như “Độc Hành Cầu Bại” ở Belgium đã phê bình ở trên.

Cũng có thể chứng minh cái “không biết ngượng” của ông Lục như sau. Trong bài, ông Lục viết lăng nhăng về một số vấn đề và dùng chính bài viết của mình trên Hợp Lưu để xác định thẩm quyền những ý kiến của ông. Nhưng mà nói thật, ông viết rất kém, kém một cách thảm hại, chỉ vì ông ở trong một định chế tôn giáo, tin theo những lời giảng rất thiếu thông minh của các “bề trên”, dựa trên loại đạo đức vô đạo đức của Công Giáo. Chứng minh?

Ông Lục viết:

Xin trích dẫn một vài đoạn của chính người viết bài này [nghĩa là Nguyễn Văn Lục]:

Thuốc ngừa thai: đó là công trình khám phá của thế kỷ thứ 20, trở thành biểu tượng của tự do và giải phóng tình dục. Hình như mọi chuyện đều có thể, mọi chuyện đều được phép. (Trích Phụ nữ và vấn đề tình dục, Nguyễn Văn Lục, Hợp Lưu số 85, tháng 10-11, 2005)

Giáo hội Công giáo cấm giáo dân dùng thuốc ngừa thai vì con chiên càng đẻ nhiều bao nhiêu thì giáo hội càng có nhiều tín đồ bấy nhiêu và càng thu vào được nhiều lợi nhuận bấy nhiêu. Mặt khác, Vatican cấm con chiên dùng thuốc ngừa thai nhưng vẫn đầu tư vào dịch vụ sản xuất thuốc ngừa thai. Đó là loại đạo đức không chỉ là “đạo đức giả” mà còn là “vô đạo đức” của Vatican. Nhưng ông Lục không biết chuyện này, theo đúng tâm cảnh “Tòa Thánh có đánh r… cũng khen thơm” nên viết bậy bạ về thuốc ngừa thai.

Thuốc ngừa thai không phải là biểu tượng (sic) của tự do mà là để ngăn chận nạn nhân mãn trên thế giới. Thuốc ngừa thai có một khía cạnh đạo đức trong đó, ngừa thai tốt hơn là có thai rồi đi phá thai. Thuốc ngừa thai không phải để “giải phóng tình dục”, tình dục là khía cạnh sinh lý tự nhiên của con người, và thuốc ngừa thai là để ngăn chận tình dục khỏi đưa đến những hậu quả tai hại nếu không kiểm soát. Tất cả thế giới đều lo nạn nhân mãn trên thế giới. Chỉ có Công giáo là vẫn khuyến khích con chiên đẻ cho nhiều, không nuôi được thì ráng chịu, chứ toán học của Tòa Thánh chỉ biết đến dấu cộng (vơ vào cho nhiều) và không bao giờ biết đến dấu trừ (chi ra để cứu giúp con chiên trong các nước nghèo khổ) dù rằng tài sản của Vatican đã lên đến cả ngàn tỷ đô-la và các “bề trên” ở Vatican sống trong nhung lụa. Tôi muốn ông Lục và các tín đồ Công giáo Việt Nam đọc tài liệu sau đây để hiểu thế nào là ảnh hưởng của chính sách cấm dùng thuốc ngừa thai của Công Giáo.

Trong những chương trình phát thanh đặc sắc nhất ở Columbus, Ohio, đài CBN và TV, (Greatest Hits from Ohio, AA Press, Austin, Texas, 1991, p. 182), Frank R. Zindler bình luận về John Paul II như sau:

"100 năm sau, ai là người mà thế giới cho là ác nhất trong thế kỷ 20? Chắc các bạn cho rằng đó là Adolf Hitler. Có thể, nhưng không hẳn vậy. Tôi nghi rằng nếu nền văn minh này còn tồn tại 100 năm nữa thì các sử gia khi đó sẽ đưa ra những bằng chứng bất khả phủ bác là John Paul II là con người ác nhất trong thời đại của chúng ta. Điều chắc là, hình ảnh của Hitler sẽ không sáng sủa hơn chút nào qua dòng thời gian. Người ta sẽ nhớ tới y như là một người đã giết chết nhiều triệu người vô tội. Nhưng những tội ác của y sẽ trở thành mờ nhạt bên cạnh danh sách những tội lỗi của John Paul II.

Trong khi Hitler phạm tội dự tính diệt chủng đối với một nhóm người đặc biệt (Do Thái. TCN), John Paul II sẽ bị kết tội dự tính diệt chủng đối với toàn thể nhân loại.

100 năm sau, ít nhất là một tỷ nguời sẽ sống trong những cơn hấp hối kéo dài và chết chóc vì John Paul II chống đối sự kiểm soát sinh đẻ, phương pháp diệt trùng để khỏi sinh sản, và phá thai.

Người ta sẽ nhớ rằng John Paul II đã đi tới những vùng đang chết đói ở Phi Châu và Nam Mỹ và khuyến khích dân chúng ở đây gia tăng sinh sản những đứa trẻ vô tội xấu số không tránh khỏi chết đói về sau.

Người ta sẽ nhớ rằng John Paul II là người làm tăng sự nghèo khổ của con người hơn bất cứ ai khác trong lịch sử văn minh..

Giáo hội Công giáo La Mã đã giết trên 11 triệu người trong thời đại của những tòa án xử dị giáo, nhưng John Paul II sẽ giết hại nhiều hơn thế trong cuộc sống của Ngài. Cái chủ thuyết diệt chủng mà Ngài phát động sẽ còn tiếp tục giết những người vô tội trên trái đất này dài dài trong tương lai."

(A hundred years from now, who will be remembered as the most evil man of the twentieth century? Adolf Hitler, you say? Perhaps, but not likely. I suspect that if there is any civilization surviving on this plundered planet a century hence, its historians will point with irrefutable evidence to Pope John Paul II as the most evil man of our times. To be sure, Hitler's image is not likely to improve any with age. He will always be remembered as a man who brought about the deaths of several millions of innocent people. But his crimes will pale beside the list of sins ascribed to John Paul II.

Whereas Hitler was guilty of premeditated genocide against particular groups of humans, John Paul II will be charged with premeditatation of genocide against the human race itself.

By a hundred years from now, at least a billion people will have suffered extended agony and death because of John Paul II's opposition to birth control, sterilization, and abortion.

It will be remembered that the pope went to the starving in Africa and South America and encouraged them to increase manyfold the number of unfortunate innocents who would have to starve later on.

John Paul II will be remembered as the man who increased human misery more than anyone in the history of civilization.

The Roman Catholic church killed over 11 million people in the course of the Inquisition, but John Paul II will murder more than that in his own lifetime. The juggernaut of genocide which he has set in motion will continue to crush and kill the innocent of this earth far into the future.)

Ông Nguyễn Văn Lục đã phạm phải một lỗi lầm nặng, không chuyên ngiệp (unprofessional) trong nghề viết lách. Không có ai viết ra một ý kiến rồi lại trích dẫn chính những ý kiến của mình trong một bài viết khác để làm hậu thuẫn. Sự trích dẫn này chỉ có thể được khi đó là một tài liệu mình đã dùng trong bài mà mình trích dẫn. Ngoài ra, ông Lục cũng còn trích dẫn những ý kiến của những nhân vật ít người biết đến qua những câu chuyện riêng tư của họ với bạn bè, hoặc qua một cuốn hồi ký. Thí dụ những câu như: “Như Võ Long Triều đã nói với những người bạn của ông là Đức, Tri, Phúc….”, “Sau này, Đức có nói một câu với Võ Long Triều”, “Trích hồi ký Võ Long Triều”, “Theo Trần Trung Việt”, “Theo hồi ký của Kỹ sư Võ Long Triều”, “Cũng theo Võ Long Triều”, “Võ Long Triều trong hồi ký cũng có nhắc đến truyện này…” loanh quanh chỉ có vài tên nghèo nàn, và tuyệt đối không có giá trị thuyết phục đối với người đọc, vì độc giả không có lý do nào để quan tâm đến hay tin những lời ông Triều nói với bạn bè, hay tin vào những điều ông Võ Long Triều viết trong hồi ký, một khi chưa có cách nào kiểm chứng. Nghệ thuật viết bài cho ra hồn đâu có phải là dễ.

Trong Phần 3 của loạt bài, ông Nguyễn Văn Lục chủ tâm phê bình tiêu cực cuộc Hội Thảo 2005 ở Đà Nẵng có một số trí thức hải ngoại về tham dự, nhưng tôi có cảm tưởng là ông chưa bao giờ được dự một cuộc hội thảo trí thức nào cho nên viết ra những nhận xét rất nhảm nhí chứng tỏ trình độ hiểu biết của ông quả thật là tệ.

Ông Lục viết:

Hội thảo Đà Nẵng dù chỉ của một nhóm trí thức trên dưới 30 chục người trong số hàng chục ngàn trí thức Hải Ngoại. Nó sẽ chẳng cần ai nói đến, vì dù sao, nó cũng biểu tỏ thiện chí muốn đóng góp điều gì của những vị ấy. Nhưmg vì được tổ chức ở VN nên có thể cần được nói đến.

Thế này là thế nào? Có lẽ ông Lục có ý hạ thấp cuộc hội thảo, dè bỉu là chỉ có trên dưới 30 người ở hải ngoại về tham dự hội thảo, chứ 30 chục, nghĩa là 300 thì quá nhiều đi. Phải chăng ông muốn ám chỉ chỉ có trên dưới 30 người thiên Cộng về tham dự còn hàng chục ngàn trí thức hải ngoại không thèm tham dự. Nhưng ông viết kém quá đi. Cái kém của ông Lục là ở câu “trong số hàng chục ngàn trí thức Hải Ngoại”. Mỗi lần có cuộc hội thảo của người Việt ở đâu là hàng chục ngàn trí thức hải ngoại cũng phải cùng tham dự mới gọi là hội thảo hay sao? hay nói khác hơn, nghĩa là hàng chục ngàn trí thức hải ngoại đều phải là những chuyên gia về những chủ đề trong cuộc hội thảo??. Nói cho đúng, một cuộc hội thảo chuyên đề mà có 30 trí thức hải ngoại về tham dự thì kể cũng là khá nhiều rồi. Điều rõ ràng là ông Lục phát dị ứng (allergy) với Việt Nam, cho nên ông viết một câu hết sức vô nghĩa và ngớ ngẩn:

Nó [cuộc hội thảo] sẽ chẳng cần ai nói đến, vì dù sao, nó cũng biểu tỏ thiện chí muốn đóng góp điều gì của những vị ấy. Nhưng vì được tổ chức ở VN nên có thể cần được nói đến.

Câu thứ nhất vô nghĩa, phần trước chửi phần sau. Còn câu thứ hai lại càng vô nghĩa hơn nữa, vì điều cần thảo luận là các chủ đề trình bày trong cuộc hội thảo chứ không phải là địa điểm tổ chức hội thảo. Mà Việt Nam thì sao. Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, có hơn 84 triệu dân, có một chính quyền cả thế giới công nhận (dù rằng có thể ông Lục và đồng loại CCCB hay CCCC không công nhận) trong đó có Mỹ và Canada. Vậy tổ chức ở Việt Nam thì cũng như tổ chức ở các nước khác, có gì là lạ đâu. Nếu tôi không lầm thì nhóm trí thức này đã từng tổ chức nhiều cuộc hội thảo trước đây, thường vào mùa hè hàng năm, với các chủ đề khác nhau và ở các nơi khác nhau như: New York City (1998, Vấn Đề Tranh Chấp Biển Đông); Liège (1999, Việt Nam: Định Chế Xã Hội Và Phát Triển); New York City (2000, Việt Nam Và Vấn Đề Toàn Cầu Hóa); Aix-en-Provence (2001, Việt Nam: Các Vấn Đề Văn Hoá Xã Hội Trong Giai Đoạn HộiNhập); Maine (2002, Toàn Cầu Hóa Và Các Vấn Đề Con Người Việt Nam); Munich (2003, Việt Nam: Sau 11 Tháng 9); ), New York City (2004, Các Yếu Tố Thúc Đẩy Và Phát Triển); Đà Nẵng (2005, Tiếp Tục Đổi Mới Kinh Tế Và Xã Hội Để Phát Triển); và Berkeley, California (2006, Dân Chủ Và Phát Triển)

Ai là người có thể phủ nhận thiện chí đóng góp trí thức của họ cho đất nước? Những đóng góp trí thức này phải nói là rất cần thiết trong giai đoạn mà Việt Nam phải dò từng bước trên con đường phát triển, cải thiện và tiến bộ, đồng thời phải đối diện với những sự đánh phá từ những kẻ vô trí như ông Lục.

Chúng ta hãy đọc một câu để lộ bản chất của ông Lục như sau:

Cho dù không ở Đà Nẵng hay ở xó góc nào thì bàn tay lông lá cộng sản vẫn dính vào?

Đó là văn phong của một trí thức biết ngượng hay sao? Văn phong này rất quen thuộc trên những diễn đàn thông tin hải ngoại, văn phong của bọn CCCB, hay CCCC. Vấn đề tổ chức đã rõ ràng: “Hội thảo Hè 2005 do VAPEC (Vietnam Asian-Pacific Economic Center), The Vietnamese Heritage Institute, và Đại học Đà Nẵng đồng hỗ trợ. Chi phí cá nhân (đi lại, ăn ở) hoàn toàn do cá nhân người tham dự trách nhiệm.” Ông Lục sợ Cộng Sản đến nỗi rét run lên, nhìn đâu cũng thấy Cộng Sản và ra công chống Cộng ở nơi không có Cộng. Đó là tâm trạng chung của những người Việt chống Cộng hải ngoại.

Cuối cùng, tôi có cảm tưởng là ông Lục chưa từng được tham dự một cuộc hội thảo chuyên đề trí thức nào, cho nên ông không biết gì về cách tổ chức một cuộc hội thảo, và tiếp tục viết bậy. Viết bậy như thế nào?

Số là những người tham dự được UBND thành phố Đà Nẵng, cơ quan hỗ trợ hội thảo VAPEC, và Đại Học Đà Nẵng khoản đãi vài bữa ăn trưa và tối. Đây là chuyện rất thường tình. Hội thảo tổ chức ở Đà Nẵng, mang nhiều lợi nhuận kinh tế đến cho thành phố. Cơ quan hỗ trợ hội thảo VAPEC và Đại Học Đà Nẵng khoản đãi trong vấn đề giao tiếp và hiếu khách đối với một số người đã tự túc đến đóng góp ý kiến cho cuộc hội thảo. Vậy mà ông Lục coi đó như là hối lộ hay mua chuộc và viết:

Mỗi bữa ăn là một món nợ đấy. Người nào đã trót ăn là tự gánh vào thân mình một món nợ phải trả. Tiền máy bay gần 2000 đồng, tiền Hotel cũng 7, 80 chục đô la/một ngày tự mình bỏ túi ra trả. Có đáng gì 4 bữa ăn khoảng 40 chục đồng?

Nhưng chính câu sau cùng của ông đã nói lên cái tâm địa lắt léo của ông Lục. Thật vậy, như ông Lục viết, người ta đã bỏ ra Tiền máy bay gần 2000 đồng, tiền Hotel cũng 7, 80 chục đô la/một ngày tự mình bỏ túi ra trả, Vậy mà có thể nói là người ta ham mấy bữa ăn đáng giá vài chục đồng để mà mang trên người một món nợ hay sao? Tôi nghĩ đầu óc ông Lục chắc thiếu nhiều chất xám rồi. Viết như vậy mà cũng viết lên được thì thật là tài.

Còn nữa, chúng ta hãy nghe ông Lục viết về bà Tôn Nữ Thị Ninh:

Chúng ta đừng quên rằng, tất cả những người thuộc chính quyền như bà Tôn Nữ Thị Ninh v.v… đều được chính quyền trả các chi phí di chuyển Hotel và tiền bỏ túi nữa. Đó là một cuộc phô diễn Dân chủ chẳng tốn kém là bao.

Tại sao phải đừng quên vì đây là chuyện đương nhiên, ai cũng biết, trừ ông Lục. Người ta thường bảo “Làm đầy tớ người khôn còn hơn làm Thầy người ngu”, nhưng tôi tính vốn dại, nên cứ ngu ngơ đi làm Thầy một chuyến.

Bà Tôn Nữ Thị Ninh là Đại Sứ của Nhà Nước, là thành viên trong Quốc Hội Lập Pháp của Việt Nam. Vậy ngoài công việc tư, bất cứ Bà đi đâu, làm việc gì vì công vụ, đương nhiên Nhà Nước phải đài thọ mọi chi phí: di chuyển, ăn uống, và tiền tiêu hàng ngày. Đây là một cái “norm” của mọi cơ quan nhà nước, mọi tổ chức, mọi hãng sản xuất, đại học v..v.. đối với nhân viên các cấp của mình. Cái chuyện sơ đẳng như vậy mà ông Lục cũng không biết đến. Ông Lục chống Cộng đến độ này thì Cộng nào cũng phải phì cười vì cái dốt của ông.

Trong phần 3, ông Lục có ý bài bác cuộc hội thảo 2005 ở Đà Nẵng, một cuộc Hội Thảo với đề tài tổng quát: “Tiếp Tục Đổi Mới Kinh Tế Và Xã Hội Để Phát triển”, một đề tài rất quan trọng về những vấn đề quan thiết của quốc gia hiện nay và gồm có ba cụm đề tài chính:

Thứ nhất là những yếu tố kinh tế: Đánh giá nhiều mặt của phát triển kinh tế: vấn đề phân tích các cơ chế hành chính, quản lý và luật pháp nào đang còn kìm hãm phát triển, vấn đề nâng cao chất lượng phát triển, vấn đề tạo hướng phát triển nhằm tăng số lao động có việc làm.

Thứ hai là những yếu tố xã hội và văn hoá, đặc biệt là việc cải cách giáo dục đại học ở Việt Nam và vai trò của xã hội dân sự.

Thứ ba là những yếu tố quốc tế, chính trị lẫn kinh tế, chẳng hạn như việc gia nhập WTO, tranh chấp Biển Đông, chính sách của Mỹ...

Nhưng chủ đích của ông Nguyễn Văn Lục không phải là quan tâm đến những vấn đề xây dựng quốc gia mà ông viết loạt bài “Trí Thức Phải Là Người Biết Ngượng” chỉ để “đánh” Cao Huy Thuần, và những trí thức hải ngoại “phản chiến” khi xưa tham gia hội thảo. Nhưng có điều ông Lục không nhận ra, nhưng mọi người khác đều nhận ra, là: So với các Giáo sư Đại Học ở Pháp, Đức như Cao Huy Thuần [Giáo sư émérite Đại Học Picardie (Pháp), Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Liên hiệp Âu Châu (Centre de Recherche Universitaire sur la Construction Européenne, viết tắt : CRUCE)], Thái Kim Lan (Giáo sư Ludwig Maximilian Universität, München), Nguyễn Ngọc Giao (Giáo sư Đại Học Denis Diderot (Paris VII)), Hà Dương Tường (Giáo sư Đại Học Công Nghệ Compiègne, Pháp) v…v…thì ông Lục chỉ là một anh học trò thuộc lớp dưới xa với một kiến thức khó có thể gọi là kiến thức. Bài “Trí Thức Phải Là Người Biết Ngượng” của ổng thật đã chứng tỏ như vậy.

TCN.

*********************

 

4 – Thay vì trả lời Trần chung Ngọc, Nguyễn văn Lục đã email cầu viện một người đàn bà tên Thái Kim Lan như sau:

 

Datum: Mon, 18 Sep 2006 21:36:32 -0400

Von: "Van Luc Nguyen"

An: KimLanThai@

Betreff: Re: anh khong the chap nhan loi viet boi bac khon nan cua no. roi dung em de boi nho anh. em phai co phan ung thich hop, gui thang cho no.

5 – Người đàn bà này tìm cớ thoái thát không cho Nguyễn văn Lục níu:

From: "Kim Lan Thai"

To: "Van Luc Nguyen"

Subject: Re: Re:

Date: Tue, 19 Sep 2006 14:12:22 +0200

Anh a,

Em da doc so bai cua TCN, theo em bai do chang co gia tri gi ca, boi vi noi loan xa ngau va dem chuyen CG ra de da kich, nen that su no khong thuyet phuc ai ca, chi co nhom nguoi nho ve hua thi theo thoi, chu nguoi ngoai doc vao la thay tum lum ca. Theo em nghi, anh khong them tra loi gi ca, neu bay gio anh lam am len thi hoa ra bai cua ong ay co gia tri doi voi anh. Nhan xet cua em nhu the nay: co nhung nguoi ho benh vuc dieu gi, goi la BA.N, nhung su benh vuc cua ho lam luc lai gay tac hai bang 4 ke thu`day, anh a. Truong hop nay chang hay ho gi cho nhung nguoi duoc neu ten. Thoi ta dep chuyen ay lai, dung lam to chuyen nua. Va chang, web nay cung chua ai doc.

Con chuyen em la thay. anh la hoc tro thi...cung nhu anh hay noi bong dua, neu KL qua giang o Montreal thi de tu NVL se xin di nghe ngay. Xem nhu the di, chu co ai lai dam bao em la thay cua anh, chi la mot loi noi choc tuc nhau, ma keo em vao nhu the, that la phien. Lat nua anh goi cho em, minh noi chuyen.

6 - Nguyễn văn Lục thất vọng vì bị người đàn bà xưng anh anh em em ngọt xớt với mình phụ rãy nên đành phải gồng mình ra tay và hăm dọa luôn TKL bằng một bài gửi cho giaodiemonline và giaodiemonline chuyển đi nguyên văn:

6a- To Chuc Giao Diem to TCN, HQ, DHT, DB, luongphan1, tutinh, CHT, me, min180 Xin chuyen den cac anh 1 email cua NVLuc. Bi anh TCN danh qua dau, NVLuc chom len nhu 1 thu du, de lo chan tuong hen ha, ban thiu...

 

6b- ---------- Forwarded message ----------

From: "Van Luc Nguyen"

To: giaodiemonline@yahoo.com

Date: Tue, 19 Sep 2006 09:27:35 -0400

Subject: FW: Re: Re: xin chuyen cho tran chung Ngoc

Toi voi Giao diem moi hay giao diem cu chang co moi quan he gi ca. chuyen cac ong chui ton giao la nghe cua ong, la cai su menh ban thiu cua cac ong. khong them noi toi. Bai toi viet. da ba lan Tran Chung Ngoc cho mom vao chi cot boi nho va khong du can dam va hieu biet de tranh cai tung diem.

Bai viet lem nhem, chui boi chup mu thuoc loai ha cap, do day. Cung van khong de cap den ba phan chinh cua bai. Trich dan thi lay nhung loi binh pham cua doc gia doi khi cung khong co trinh do. Tai sao, khong co du tu minh viet ma phai trich dan tu doc gia Dan Chim Viẹt lai chi trich dan nhung nguoi che. Ban qua. Hen quạ.

Lai dung Cao Huy Thuan Thai kim Lan nhu con tin, de ha thap toi, de boi ban toi gui thu nay de ong biet. Rat nhieu nguoi trong ho nha ong cho toi biet Mau khung dien khong phai chi co mot minh ong ma con ca noi nhung anh em dong ho khac nua. Ong biet ro la toi quen than voi vai nguoi trong gia dinh ong . toi da co lan noi voi ho, nen noi voi TRan Chung Ngoc , han bot chui boi di. Han tu tam tich duc dị .Tu ong biet day. Nhu toi da noi, tu khi sang day, ong chua viet duoc bai nao tu te. Nghe viet chui hay ho gi .

Co bao nao dam dang bai cua TCN.. Cai nghiep cua ong da xay ra nhan tien roi day . con chau ong do cai nghiep chui boi, nghe chui cua ong da dem den cai chet bat dac ky tu cua con chau ong roi do. ong dau xot. toi muon nhac nho ong den cai dau xot do de bot gay them nghiep chuong .. Toi khong muon dung cham den dua chau nho. Nhung chi muon nhac ong thoi . Hay nhiin cho ky lai chuyen do va cham dut chui het nguoi cong giao nay den nguoi cong giao no.chui du thu. Dao Phat hay thi cu giu lay, ke cha nguoi khac.

Ve truong hop dung Thai kim Lan, toi buoc long cho ong biet, chung toi than thiet nhau tu lau, ong dung ke ha sach do la nham. Toi cho ong doc thu ThaiKim Lan de ong mo mat ra, dung bo do hen kem kieu do nua Tran chung Ngoc a. Lam luc, toi cam thay ong benh hoan den thuong hại . Khong tra loi ong tren bao vi lam co cho ong boi ban tiep. Chu ai so cai thu dau oc benh hoan nhu ong.

Gia roi qua benh hoan roi nen im tieng di la vụa Con tiep tuc noi nua toi se cho biet them rat nhieu dieu ve TKL, Cao Huy Thuan de thay rang su that khong phai nhu ong nghi dau.

________________________

From: "Kim Lan Thai"

To: "Van Luc Nguyen"

Subject: Re: Re:

Date: Tue, 19 Sep 2006 14:12:22 +0200

Anh a,

Em da doc so bai cua TCN, theo em bai do chang co gia tri gi ca, boi vi noi loan xa ngau va dem chuyen CG ra de da kich, nen that su no khong thuyet phuc ai ca, chi co nhom nguoi nho ve hua thi theo thoi, chu nguoi ngoai doc vao la thay tum lum ca. Theo em nghi, anh khong them tra loi gi ca, neu bay gio anh lam am len thi hoa ra bai cua ong ay co gia tri doi voi anh. Nhan xet cua em nhu the nay: co nhung nguoi ho benh vuc dieu gi, goi la BA.N, nhung su benh vuc cua ho lam luc lai gay tac hai bang 4 ke thu`day, anh a. Truong hop nay chang hay ho gi cho nhung nguoi duoc neu ten. Thoi ta dep chuyen ay lai, dung lam to chuyen nua. Va chang, web nay cung chua ai doc. Con chuyen em la thay. anh la hoc tro thi...cung nhu anh hay noi bong dua, neu KL qua giang o Montreal thi de tu NVL se xin di nghe ngay. Xem nhu the di, chu co ai lai dam bao em la thay cua anh, chi la mot loi noi choc tuc nhau, ma keo em vao nhu the, that la phien. Lat nua anh goi cho em, minh noi chuyen.

_________________________________

Datum: Mon, 18 Sep 2006 21:36:32 -0400

Von: "Van Luc Nguyen"

An: KimLanThai@gmx.de

Betreff: Re:

anh khong the chap nhan loi viet boi bac khon nan cua no. roi dung em de boi nho anh. em phai co phan ung thich hop, gui thang cho no.

____________________________

From: "Kim Lan Thai"

To: "Van Luc Nguyen"

Subject: Re: Date: Mon, 18 Sep 2006 14:35:17 +0200

Toi no vay. Tai sao phai rut mong no, ac qua! hen chi no dau.

 

-------- Original-Nachricht --------

Datum: Mon, 18 Sep 2006 07:19:13 -0400

Von: "Van Luc Nguyen"

An: kimlanthai@gmx.de

Betreff:

meo em a. bi mo, bi rut mong ngay tu hai tuan. chac bi traumatisme du nghich lam. con kho hon gelsomina nua.

7 – Trần chung Ngọc thấy tội nghiệp cho mgười đàn bà mà Nguyễn văn Lục muốn níu váy để đỡ đòn giùm nên đã mở cánh cửa hẹp cho người đó bằng một email như sau:

TCN – 21/09/06 – 12:22AM

Thua cac anh: Toi da forward message nay cho chi Thai Kim Lan. Toi khong nghi do la van cua Thai Kim Lan. Doc vai chi tiet trong do toi biet nguoi nguy tao thu trao doi giua NVL va chi TKL la ai roi. Khong can ban tam.

TCN

8 – Chưa thấy người đàn bà tội nghiệp này hồi âm Trần chung Ngọc.

 

NGƯỜI LÀM VƯỜN

 

Trang Thời Sự