 |
07 tháng 11, 2010
|
A. DẪN
NHẬP
Sự
kiện dân tộc VIỆT đánh mất nền Độc Lập CHÍNH TRỊ cách đây hơn 100 năm
kéo theo nhiều hậu quả không lường trước được. Thật vậy, nếu xưa kia, sự
LỆ THUỘC thường được chấm dứt với sự ra đi của kẻ xâm lăng, thì lần này
trái lại, chính giới TRÍ THỨC của nước BỊ TRỊ, vô tình hay hữu ý lại
tiếp tục DUNG DƯỠNG, kéo dài tình trạng Lệ Thuộc rất lâu sau khi kẻ xâm
lăng đã ra đi.. Lý do có lẽ là vì lần này, sự đánh MẤT CHỦ QUYỀN không
chỉ giới hạn ở lãnh vực Chính Trị, mà có tính chất TOÀN DIỆN hơn nên lan
rộng ra ở mọi địa hạt, nhất là ở bình diện VĂN HÓA, TRIẾT HỌC.
«Bóng Ma» DĨ VÃNG vẫn
không thôi ÁM ẢNH giới Trí Thức và Lãnh ĐạoViệt. Đến
nỗi để biện minh cho các CHIÊU BÀI như CANH TÂN, GIẢI PHÓNG
họ vẫn TRỞ
LẠI bàn về những VẤN ĐỀ, dùng những PHƯƠNG PHÁP Lý Luận, cũng như đưa ra
những GIẢI PHÁP của các thế kỷ TRƯỚC . Họ làm như hơn một thế kỷ trôi
qua, không có biến chuyển gì quan trọng đã xảy ra cả! Nói cho đúng, họ
có nhận thấy sư thay đổi, rất nhiều thay đổi là đàng khác nhưng họ chỉ
giới hạn sự QUAN SÁT ở bình diện THƯỜNG NHẬT hay ở các địa hạt như
Chính Trị, Kinh Tế, Xã Hội
., còn nếu có ai «dám lân la» vào lãnh
vực VĂN HÓA thì cũng chỉ dừng lại ở trung tầng VĂN NGHỆ, VĂN CHƯƠNG, VĂN
HỌC
..Hiếm ngưới tìm cách đi xa hơn và dẫu có người thử làm khác, thì
hầu hếtï cũng chỉ đem về một mớ TỪ NGỮ, KIẾN THỨC, Ý NIỆM
«có vẻ mới», nhưng trong thực tế «mớ Kiến Thức Chết Khô « đó cũng
CHẲNG có ẢNH HƯỞNG bao nhiêu đến LỀ LỐI và NỘI DUNG SUY TƯ của họ. Và họ
vẫn tiếp tục Suy Tư về những Vấn Đề với những Phương Pháp và Nôi Dung
của các Thế Kỷ Trước. Đúng là con người phần đông, kể cả giới Trí Thức,
sống và SUY NGHĨ với các ĐỊNH KIẾN «cũ kỹ» và Ảnh Hưởng của VĂN HÓA nếu
có thường đến rất chậm!
Nhưng có điều NGHỊCH
LÝ sau đây mà hậu quả có thể rất NGHIỆM TRỌNG là giới Trí Thức nêu trên
lại TƯỞNG mình có Tư Tưởng MỚI MẺ, là lớp Trí Thức TIỀN PHONG của Đất
Nước đang có «Sứ Mạng» thực hiện một cuộc CÁCH MẠNG TƯ DUY, CANH TÂN ĐẤT
NƯỚC !!! Nguyên nhân chính yếu có lẽ là vì những lý do khác nhau, họ
KHÔNG NẮM VỮNG những KHUYNH HƯỚNG CHÍNH YẾU của VĂN HÓA THẾ GIỚI Ngày
Nay. Do đó họvẫn còn giữ PHẢN XẠ của lớp Trí Thức Đàn Anh như nhóm «Tự
Lực Văn Đoàn» trước đây là để «Cách Mạng», «Canh Tân» thì phải THEO MỚI,
mà Theo Mới với họ là đồng nghĩa với THEO TÂY, theo Tây một cách QUÁ
KHÍCH, MÙ QUÁNG không một chút cân nhắc!!!
B. NHỮNG TRƯỜNG
HỢP ĐIỂN HÌNH
VỀ VIỆC THEO TÂY MỘT CÁCH QUÁ KHÍCH
Có Bốn trường hợp sau
đây được đơn cử như là thí dụ ĐIỂN HÌNH của
những người tuy sinh hoạt trong các lãnh vực khác nhau, nhưng
cùng chia xẻ một MẪU SỐ CHUNG là có cùng một THÁI ĐỘ như
vừa được đề cập ở trên.
PHẦN MỘT:NHÀ DẠY HỌC CHUYÊN NGHIỆP
Có lẽ
khuynh hướng của một nhà DẠY HỌC CHUYÊN NGHIỆP
là xem Độc giả như những người SINH VIÊN mà mình có nhiệm vụ
«cung cấp» một số KIẾN THỨC, Khái Niệm TRỪU TƯƠNG về phương diện học
vấn.Nhưng vấn đề là ở chỗ điều trên có thể THÍCH HỢP và ĐỦ cho đa số
SINH VIÊN vì mục tiêu của những người này là đạt cho
được MÃNH BẰNG mà họ đang theo đuổi bằng cách thâu thập một số kiến thức
cần thiết, nhưng không phải là điều mà một độc giả bình thường mong đợi.
Thật vậy, độc giả có lẽ trông chờ từø tác giả khả năng «Tiêu Hóa» mớ
Kiến Thức và Khái Niệm Trừu Tượng nêu trên «thành xương, thành thịt,
thành máu» của mình, và sau đó đưa ra những Ý TƯỞNG SỐNG ĐỘNG có khả
năng soi sáng, hướng dẫn họ trong một vấn đề hay một lãnh vực hiện là
mối bận tâm của họ.
I) NÃO BỘ
VÀ SUY TƯ:
Muốn hiểu tầm quan
trọng của công việc trên, mỗi người trong chúng ta có lẽ CẦN CẬP NHẬT
HÓA VỐN KIẾN THỨC, cũng như HỌC HỎI THÊM về PHƯƠNG PHÁP, NỘI DUNG trong
lãnh vực SUY TƯ. Và trước tiên, dưới ánh sáng của các khám phá mới mẻ
của khoa Thần Kinh Não Bộ Học, thử tìm hiểu về cách thức HOẠT ĐỘNG của
BỘ NÃO con người là điều có thể giúp chúng ta SUY TƯ
một cách ĐÚNG ĐẮN hơn.
Theo Bs L. Shlain và
nhà khoa học được giải Nobel là Ts Sperry, trong hai bán cầu của Bộ Não
thì bán cầu bên PHẢI phối hợp cảm xúc, ghi nhận hình ảnh và thưởng thức
âm nhạc. Nó giúp tâm trí nắm bắt các dữ kiện do giác quan mang lại. Nó
cũng góp phần làm nảy sinh những cảm xúc như tình yêu, óc hài hước, khả
năng thưởng thức thẩm mỹ.
Bán cầu bên TRÁI,
ngược lại, nhận thức thế giới qua lời nói, một hình thức BIỂU TƯỢNG HÓA.
Nó dùng lời nói để khu biệt, phân tích và mổ xẻ thế giới thành từng
mãnh, từng đối tượng và từng phạm trù.
Một điều cần biết là
giữa hai bán cầu bên PHẢI và TRÁI, có một cầu nối GIỮA gồm những sợi
thần kinh là CORPUS CALLOSUM với nhiệm vụ giúp hai phần não bộ liên lạc
được với nhau để bán cầu này biết bán cầu kia đang làm gì.(1)
Tính BẨM SINH như
trường hợp người PHỤ NỮ, hoặc sự LUYỆN TẬP như các
phương pháp THIỀN chuyến chú vào vùng «Corpus Callosum», còn gọi là HUỆ
NHÃN có thể giúp phối hợp nhịp nhàng hai phần phải, trái của bộ não, mà
kết quả đạt được là trực giác trở nên bén nhạy, giúp
có cái nhìn tổng thể, mở rộng ra ngoại giới cũng như vào thế giới nội
tâm.
Vì khởi thủy từ MINH
TRIẾT nên nói chung, ĐẠO HỌC Đông Phương nhấn mạnh đến việc tài bồi TRỰC
GIÁC. Riêng NHO GIÁO với Đạo Trung Dung nhắm vào
việc đào tạo Con Người TOÀN DIỆN gồm Ý - TÌNH - CHÍ, do đó chủ trương
dùng CHÍ vào việc giữ Quân Bình giữa Ý và TÌNH, tức dùng TRỰC GIÁC (
thường gọi là THẦN) mà Khoa Học Ngày Nay định vị ở vùng «Corpus
Callosum», nhằm PHỐI HỢP hai Bán Cầu NÃO Phải, Trái chứ KHÔNG GIỚI HẠN
công việc Suy Tư ở bán cầu NÃO TRÁI bằng cách đề cao quá đáng Ý NIỆM
TRỪU TƯƠNG như chủ trương của Triết Học Cổ Điển TÂY PHƯƠNG.
Đó là LÝ DO Nền Tảng
giải thích sự THẤT BẠI do tính chất TRỪU TƯỢNG, DUY LÝ, MỘT CHIỀU của
nền Triết Học Cổ Điển TÂY PHƯƠNG. «Một Chiều» vì trong lãnh vực SUY TƯ,
thay vì xử dụng Toàn Bộ NÃO, thì Triết TÂY trước kia chỉ xử dụng có Não
TRÁI mà thôi, nên mất chân đứng với Thực Tế, với thế giới con người
«bằng xương bằng thịt», «ở đây và bây giờ». Danh từ Triết học gọi tình
trạng trên là VONG THÂN.
II. TÍNH TRỪU TƯƠNG KHÁCH QUAN VÀ CÔNG VIỆC SUY TƯ:
Điều đáng ngạc nhiên
là ở đầu thế kỷ 21 rồi mà có người vẫn còn tiếp tục tuyên dương tính
chất TRỪU TƯỢNG, KHÁCH QUAN của Triết Học bằng những câu đại loại như :
«
.nếu chúng ta lẫn
lộn tư duy, văn hóa và triết học, chúng ta khó có thể khách quan»
«Những tư tưởng theo
đúng nghĩa là những tư tưởng trừu tượng»
«
để biên soạn bộ
Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, chúng ta cần phải khách quan»(2)
Những câu tuyên bố
trên đây nếu xảy ra ở thời Hồ Thích, tức vào khoảng đầu thế kỷ 20, thì
có thể được chúng ta «thông cảm». Lý do là giới Trí Thức Viễn Đông thời
đó vì mới tiếp xúc với Tây Phương , nên chưa hiểu rõ nội dung thực sự
của nền văn hóa của họ; do đó đại đa số vẫn còn bị «chói mắt» bởi tính
chất «nguy nga đồ sộ» của các hệ thống Triết học Tây Phương, cũng như
chưa thấy được tính chất PHI NHÂN BẢN được che dấu ở đàng sau. Nhưng nay
thì «bao nhiêu nước đã chảy qua cầu», bao nhiêu trào lưu đã qua: trong
lãnh vực NHÂN VĂN nào là Hiện Sinh, Hiện Tượng Luận, Cấu Trúc Luận, Giải
Cấu, Hiện Đại, Hậu Hiện đại
vvv. Còn trong khoa học VẬT LÝ, nào là Tương
Đối, Lượng Tử, Cấu trúc, Tiến Trình, Hệ Thống hay Thống Hợp
.vvv
.
Thiết nghĩ, các vị
Chuyên Viên về Triết Học vì trong nghề nên ít nhiều cũng theo dõi các
trào lưu Văn Hóa kể trên, nhưng như đã nói ở phần trước, có lẽ vì Văn
Hóa thường ảnh hưởng RẤT CHẬM, ngay cả ở giới Trí Thức, nên về mặt Suy
Tư đa số vẫn còn giữ PHẢN XẠ và thói quen suy nghĩ của thời đại
Socrates, Plato, Aristotle
..
A) TRỪU TƯỢNG VÀ SUY TƯ
Về vấn đề Tư Tưởng
TRỪU TƯỢNG, BIỂU THỊ, chúng tôi xin được trích dẫn ý
kiến của M. HEIDEGGER là Triết Gia lớn nhất của Tây Phương cận đại.
Heidegger chỉ trích nền văn hóa Cổ Truyền của TÂY PHƯƠNG là đã ĐÁNH MẤT
NÉT GẤP ĐÔI. Điều trên có nghĩa là về mặt PHƯƠNG PHÁP, các Triết Gia TÂY
PHƯƠNG ít nhất từ thời Socrates, có lối Suy Tư MỘT
CHIỀU, nên «sản sinh» không biết bao nhiêu Triết Thuyết mà mẫu số chung
là bắt đầu bằng chữ DUY.
Còn loại Tư Tưởng mà
Heidegger theo đuổi có tên là TƠ TƯỞNG hay «Tư Tưởng Tưởng Nhớ» (theo
ngôn từ của Phạm Công Thiện nhằm dịch cụm từ Triết Học của Heidegger là
«andenkende Denken») Đó là loại Suy Tư KHÔNG chỉ có
BIỂU THỊ, GIẢI THÍCH, mà trái lại còn dám chứng tỏ lập trường của mình
bằng cách đứng lên đáp lại lời Mời Gọi đến từ TÍNH THỂ của Thế
Giới trong lòng Thể Tính của Thế Giới, từ chốn sâu thẳm nhất của LÒNG
MÌNH».(3) Nói một cách đơn giản, Triết Gia Heidegger quan niệm rằng muốn
SUY TƯ một cách ĐÚNG ĐẮN, TRUNG THỰC thì không chỉ bằng các Ý NIỆM TRỪU
TƯỢNG, BIỂU THỊ ( là «sản phẩm» của phần NÃO bên
TRÁI) mà còn bằng cả TÂM HỒN của mình (qua trung gian
của việc xử dụng TOÀN BỘ NÃO).
B) KHÁCH QUAN VÀ SUY TƯ
Còn về vấn đề KHÁCH
QUAN, trước kia, lúc khoa học còn ở giai đoạn đầu, mới chập chững khám
phá ra THIÊN NHIÊN BÊN NGOÀI CÕI HIỆN TƯỢNG, thì tiêu chuẩn gọi là KHÁCH
QUAN rất «có giá» trong các khoa học Vật Lý. Vào thời ấy, các khoa Nhân
Văn mang tâm trạng thua kém về phương diện này. Nhưng nay thì Vật Lý học
đã đi đến khám phá thế giới HẠ NGUYÊN TỬ (Subatomic physics), tất cả đều
có tính cách BIẾN DỊCH tương đối như khoa học cho thấy là «Sự vật thay
đổi không ngừng» và « Vật được quan sát biến đổi theo vị trí của người
quan sát», nên theo họ, làm gì có thế giới KHÁCH QUAN và đó chỉ là ẢO
TƯỞNG!
C) KHOA HỌC VÀ SUY TƯ
Mặt khác, cụm từ
KHÁCH QUAN thường được liên hệ với tính KHOA HỌC. Vậy tính KHOA HỌC là
gì ?
Từ ngữ này thường
khiến chúng ta liên tưởng đến lãnh vực Khoa Học VẬT LÝ với tính KHÁCH
QUAN trong công việc QUAN SÁT, đặt GIẢ THUYẾT, ĐỊNH ĐỀ và THÍ NGHIỆM để
kiểm soát tính TRUNG THỰC của các dữ kiện được quan sát với ĐỊNH ĐỀ.
Và tính KHÁCH QUAN
thường được hiểu là Nỗ Lực của đương sự nhằm QUAN SÁT Sự Kiện, Biến Cố
như nó xảy ra, cũng như việc tránh đem THÀNH KIẾN, Ý Kiến CHỦ QUAN của
mình vào công việc.
Thật ra, đó chỉ là
Thái Độ của một nhà Khoa Học LÝ TƯỞNG! (Và cụm từ VÔ TƯ có lẽ thích hợp
hơn KHÁCH QUAN để diễn tả thái độ trên).Tuy nhiên, với Khoa Học VẬT LÝ,
nhờ đặc tính CỤ THỂ, HỮU HÌNH gắn liền với các khoa này, nên người ta
cũng đạt được một số Kết Quả, Dữ Kiện có BẰNG CHỨNG, KIỂM SOÁT được.
Nhưng như đã nói ở
trên, ngay ở lãnh vực Khoa Học VẬT LÝ, tiêu chuẩn KHÁCH QUAN cũng đã bị
đặt thành vấn đề ở tầng thế giới HẠ NGUYÊN TỬ của khoa LƯỢNG TỬ.
Huống gì là ở địa hạt
Khoa Học NHÂN VĂN!
Do đó, tiêu chuẩn TỐI
HẬU của tính HIỆU LỰC (Validity) của GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
đối với Cộng Đồng các Học Giả QUỐC TẾ ngày nay là tính KIÊN ĐỊNH,
PHÙ HỢP ( Consistency) của Giả Thuyết Khoa Học nêu trên với tất cả các
KHIÁ CẠNH KHÁC của cái KHUNG KHOA HỌC(4)
III. NHẤT QUÁN HAY TÍNH KIÊN ĐỊNH, PHÙ HỢP TRONG LÃNH VƯC SUY TƯ
NHẤT QUÁN (theo ngôn
từ của Khổng Tử) hay tính KIÊN ĐỊNH, PHÙ HỢP (= «Consistency» theo ngôn
ngữ của giới Học Giả Quốc Tế ngày nay) mà cách đây ít nhất 40 năm Cố
Triết Gia Kim Định đã áp dụng qua cụm từ MẠCH LẠC NỘI TẠI (= Cohérence
Interne) vào khoa Huyền Sử của Ông, là Yếu Tố NỀN TẢNG NHẤT của ÓC KHOA
HỌC và TRIẾT HỌC.
Thật vậy, Óc NHẤT
QUÁN sẽ giúp chúng ta TRÁNH được những câu nói hay câu văn MÂU THUẪN như
sau:
A) DỮ KIỆN 1
MỘT MẶT, tác giả là
một nhà DẠY HỌC CHUYÊN NGHIỆP đã trả lời trong một cuộc phỏng vấn của
đài BBC :
«Chúng ta thường cho
là người VN hay TQ rất chú trọng đến Ý THỨC HỆ. Nhưng thực tế không phải
vậy. Mới nhất, ta đã thấy TQ thay đổi luật, cho người dân có quyền tư
hữu. Vậy phải đặt vấn đề về tâm lý của người TQ và
người VN. Có phải đó là những người quá khích , tin tưởng vào một Ý Thức
Hệ hay không?»
«Khi phân tích các
đạo giáo và tư tưởng chính trị Á Châu, tất cả đều dựa trên thực dụng.
Tôi không dám nói là duy lợi, nhưng đó là sự thực dụng - có lợi cho mình
hay không? Đó KHÔNG là vấn đề Ý THỨC HỆ mà nó gắn với cuộc sống hàng
ngày. Giữa ý thức hệ, chủ thuyết với cái cuộc sống thực dụng hàng ngày
không đồng nhất với nhau.»
«Sự chống đối của
người châu Á phụ thuộc câu hỏi có lợi hay không có lợi. Khác với với sự
chống đối của người Hồi giáo hay người Âu châu, tức là vì lý tưởng mà
chống. Với người Hồi giáo,anh có cho tôi bạc tỷ, nhưng tôi vẫn chống lại
đạo của anh. Người Á châu không phải vậy. ta thấy đạo Cao Đài, Hòa Hảo
hay những đạo dân gian ở VN đều theo một đường lối: có lợi, chúng tôi
theo; không có lợi, chúng tôi chống.»(5)
B) DỮ KIỆN 2
MẶT KHÁC, ở một BÀI
VIẾT về sau, tác giả lại viết NGƯỢC LẠI:
« Chúng tôi lập luận
rằng các nhà Nho Việt Nam đã ra sức tỉnh giảm Nho giáo thành môt loại
hình Ý THỨC HỆ đặc thù.»
«Sự tiếp biến này
theo bước mô thức đặc thù của Ý THỨC HỆ, hay logic của lòng yêu nước,
tức là mô thức tư duy của người Việt trong cuộc đấu tranh để tự sinh
tồn.»
«Từ quan điểm Ý THỨC
HỆ này, chúng tôi sẽ mở đầu với môt nhận xét ngắn mang tính phê phán về
truyền thống và sự phát triển của nó, rồi sẽ tiến
đến mổ xẻ sự hòa hợp của nó trong suốt chiều dài lịch sử Nho giáo Việt
Nam.»(6)
C) NHẬN XÉT
Đây là một thí dụ
ĐIỂN HÌNH của trường hợp CÙNG một người nhưng ở hai
hoàn cảnh khác nhau, và vì nhu cầu «thuyết phục» thính giả hay độc giả
tại chỗ, đã Lập Luận không những khác nhau, mà còn TƯƠNG PHẢN, MÂU THUẪN
nhau. Ở bài phỏng vấn, tác giả tuyên bố là về thực chất của văn hóa Việt
Nam và Á Châu, KHÔNG phải là vấn đề Ý THỨC HỆ. Trái lại, ở bài viết sau
đó, tác giả lại muốn đứng từ quan điểm Ý THỨC HỆ để trình bày
về văn hóa VN và Viễn đông!
Sự MÂU THUẪN nêu trên
thường được giải thích trong giới HIỂU BIẾT là do sự THIẾU NHẤT QUÁN
của đương sự trong lối Tư Duy, hay sự THIẾU Tính KIÊN ĐỊNH, PHÙ
HỢP (Consistency) trong cách Lập Luận hoặc THIẾU sự MẠCH LAC NỘI TẠI
(Cohérence Interne) trong phương pháp Nghiên Cứu.
Và như đã nói ở trên
tính NHẤT QUÁN hay KIÊN ĐỊNH PHÙ HỢP hoặc MACH LẠC
NỘI TẠI là Yếu Tố NỀN TẢNG NHẤT để xem một người có ÓC KHOA HỌC, TRIẾT
HỌC hay không?
IV) DUY LỢI CÓ PHẢI LÀ ĐẶC TÍNH CỦA VĂN HÓA VIỆT HAY KHÔNG ?
A) DỮ KIỆN
Trước khi trở lại vấn
đề «Nho Giáo và nhất là Việt Nho, có phải là một Ý
Thức Hệ hay không?», thử ghé qua một khiá cạnh khác là «Văn hóa VN và
Viễn Đông có đặc tính DUY LỢI» như tác giả lập luận trong bài phỏng vấn
nêu trên hay không ? Tác giả giải thích:
«Khi nghiên cứu về
các đạo giáo VN hay Trung Hoa, ta thấy đa số đều chấp nhận các tôn giáo
khác nhập vào. Nhưng với điều kiện : tôn giáo mới đó không đi nghịch lại
với lợi ích vật chất của họ. Cách đây bốn thế kỷ, các nhà truyền giáo
đầu tiên đến Trung Hoa, đem lại nhiều lợi ích nên rất được hoan nghênh.
Thế nhưng sao môt thế kỷ trước đây, khi người Châu Âu đến, TQ rất ghét ?
Bởi vì Châu Âu chiếm đất đai của họ. Thế nên người TQ bắt đầu chống lại
tất cả những gì thuộc về Âu Châu, trong đó có đạo Thiên Chúa.
Ở VN cũng tương tự. Tranh chấp hôm
nay ở VN giữa chính quyền và các tôn giáo, đặc biệt là với Công Giáo,
phần nhiều nằm ở vấn đề đất đai.
Thành thử, ta phải
hiểu rằng tâm lý của người VN và TQ, họ rất thực dụng. Sự đối nghịch
giữa TQ với VN hay với Mỹ. Đặt trên căn bản lợi ích, chứ không phải tư
tưởng ( tôi là Cộng sản, anh là Tư bản).»(7)
B) NHẬN XÉT
1) TỔNG QUÁT
Nhận xét đầu tiên là
TÂM LÝ Con Người khá PHỨC TẠP. Riêng đối với một CÁ NHÂN, việc GIẢN LƯỢC
Tâm Lý một người vào một NHÃN HIỆU là một điều nên TRÁNH. Huống gì là
đối với một DÂN TỘC! Như việc dán «nhãn hiệu» DUY LỢI cho cả nền văn hóa
VN và Viễn Đông thì hậu quả của việc làm trên là ĐÚNG ÍT MÀ TRẬT
NHIỀU!!!
Thật ra, thái độ kể
trên có lẽ bắt nguồn từ một THÀNH KIẾN của thời THỰC DÂN THUỘC ĐỊA.
Chúng ta biết là văn hóa VN và Viễn Đông vì theo tinh thần DỊCH LÝ nên
luôn luôn có tính chất HAI CHIỀU KÍCH. Chẳng hạn,
mục tiêu của việc học hỏi nghiên cứu không phải chỉ vì tính «tò mò» để
BIẾT suông, mà còn hướng về HÀNH ĐỘNG. Do đó mới có thuyết «Tri Hành Hợp
Nhất» của Vương Dương Minh hay cụm từ HỌC HÀNH như là Tôn Chỉ Sống của
Kẻ sĩ thời xưa. Hoặc về VŨ TRỤ QUAN, trong khi Tây Phương có một quan
niệm rất là TĨNH CHỈ (Static) nên gọi các các Yếu Tố Cấu Thành Vũ Trụ là
TỨ TỐ, thì văn hóa VN và Viễn Đông trái lại, có một quan niệm rất là
ĐỘNG ĐÍCH (Dynamic) và rất thích hợp với các khám phá của KHOA HỌC ngày
nay, nên gọi là các Yếu Tố nêu trên là NGŨ HÀNH.
Có một THÀNH KIẾN của
các thế kỷ trước trong giới Trí Thức THỰC DÂN cũng như giới Trí Thức
THUỘC ĐỊA là Triết TÂY vì dựa trên sự BỠ NGỠ «Vô Vị Lợi» (Étonnement
Désintéressé) của Plato là nguyên nhân của sự TIẾN BỘ của Tây Phương về
phương diện KHOA HỌC. Đó là một HUYỀN THOẠI mà những Khoa Học Gia hàng
đầu như lý thuyết gia Khoa Học G. Bachelard BÁC BỎ
Còn theo Nietszche,
triết Cổ Điển chủ trương học về «Ý Niệm Sự Vật Chung
TRỪU TƯƠNG», mà «Trừu Tượng» là cái bóng dáng, cái tưởng tượng về sự
vật, như vậy là xa thực tại, xa đời sống, xa cụ thể. Đó là lý do khiến
Nietszche tố cáo SOCRATES là người TIÊU DIỆT KHOA HỌC. Và nếu vào thế kỷ
III trước Công Nguyên không nhờ được tiếp xúc với bầu khí cởi mở bên
Alexandrie (Ai cập) thì Khoa Học Hy Lạp đã bị tiêu ma lâu rồi!(8)
Ngoài ra, sau khi
nghiên cứu con đường Tiến Hóa của Triết TÂY, chúng ta thử đem SO SÁNH
Triết TÂY với sự BỠ NGỠ « Vô Vị Lợi» với Triết ĐÔNG nhất là Nho Giáo với
Tiêu Chuẩn tương đương để xem :
a) Triết ĐÔNG hay
Triết TÂY là con đường Văn Hóa TƯƠNG LAI mà Nhân Loại hướng tới ?
b) Sự BỠ NGỠ «Vô Vị
Lợi» của Triết Tây có phải là Tiêu Chuẩn CAO NHẤT hay không ?
2) SO SÁNH TRIẾT ĐÔNG VỚI TRIẾT TÂY HAY ĐÂU LÀ CON ĐƯỜNG VĂN HÓA TƯƠNG
LAI CỦA NHÂN LOẠI ?
Nếu áp dụng
phạm trù của Ngữ Luật thì Lịch Sử Triết TÂY có thể tạm được chia
làm 3 giai đoạn: Vật Đích (Object), Chủ Từ (Subject) và Động Từ (Verb).
Giai đoạn VẬT ĐÍCH
(Object) là triết lý của Thalès, chủ trương bản chất sự vật là nước,
lửa, khí, đất
..chuyển qua Plato đặt ở Yếu Tính (Essence), và Aristotle
ở Bản Chất (Substance). Tất cả đều là Triết Lý ĐỐI VẬT, trong đó Chủ Từ
(Subject) bị Vật Đích (Object) «ăn hiếp».
Đến Descartes rồi
Kant mới «khám phá» ra CHỦ TỪ (Subject) và cố gắng đề cao Ngã Chủ Tri,
nhưng vì còn nằm trong bình diện Lý Trí, nên Chủ Tri (Subject) vẫn chưa
nuốt nổi Vật Đích (Object), cùng lắm là mới biến nó thành biểu tượng.
Vì thế Husserl đã đưa
ra thuyết «giao hỗ hiện tượng» chủ trương là không có ý thức suông, mà
hễ có ý thức thì bao gìờ cũng là ý thức về môt cái gì. Như vậy, vật đích
(object) được ý thức với chính Ý thức không còn xa cách trên hai bờ nhị
nguyên nữa , nhưng theo Husserl CHỦ TRI (Subject) với SỞ TRI (Object) đã
có thể gắn bó với nhau rồi đó!
Nhưng làm sao được vì
Ý Thức cá nhân mới ở tầng ngoài, chưa bao gồm được Tiềm Thức, thành ra
Hiện Tượng (Phénomène) hiện lên trên «màn ảnh» ý thức chỉ là cái vỏ, chứ
làm sao có được «Cùng Lý», «Tận Tính» của VẬT như trong cụm từ «CÁCH
VẬT» cuả Nho Giáo được.
Chỉ có TÂM mới đạt độ
bao la VŨ TRỤï, còn Ý thức thì chỉ ý thức về cái chi thì biết được cái
ấy. Đó có lẽ là điều Heidegger muốn nói khi nhận xét rằng Husserl đã
không đặt vấn đề căn nguyên về Hữu Thể.
Do đó, Heidegger cố
gắng trả lại cho HỮU THỂ tính chất UYÊN NGUYÊN đó nhằm đạt đợt ĐỘNG TỪ
(Verb) CĂN CƠ có khả năng nối kết CHỦ TRI (Subject) với SỞ TRI(Object)
trong chiều kích Vô Biên của Vũ Trụ, Vạn Vật, tương đương với đợt SINH
SINH kiểu NHO TRIẾT.(9)
Tóm lại, nếu dùng các
phạm trù của NGỮ LUẬT thì Tiến Trình của Triết Học TÂY PHƯƠNG là khởi
đầu bằng Triết Lý ĐỐI VẬT (Object), sau đó ghé sang Triết Lý CHỦ THỂ
(Subject), và cuối cùng với Triết Lý bằng ĐỘNG TỪ (Verb), và với
Heidegger, TÂY PHƯƠNG đang nỗ lực đi sát lại với Triết Lý
NGŨ HÀNH của NHO GIÁO
3) SỰ BỠ NGỠ VÔ VỊ LỢI CỦA TRIẾT TÂY CÓ PHẢI LÀ TIÊU CHUẨN CAO NHẤT HAY
KHÔNG ?
Phần trên cho thấy là
NGŨ HÀNH cũng như AN VI là Trào lưu Văn Hóa vàTriết Học mà Nhân loại
đang hướng tới. Và môt nền văn hóa hướng về Hành Động KHÔNG nhất thiết
có đặc tính DUY LỢI như tác giả lập luận.
Thật vậy, AN VI theo
Cố Triết Gia KIM ĐỊNH có 3 nghĩa:
- CƯỠNG HÀNH: là làm
vì bị cưỡng ép thuộc Pháp Hình : không làm thì bị hình phạt
- LỢI HÀNH:
là làm vì Lợi thuộc đợt thành công, ăn làm.
- AN HÀNH là làm vì
NGHĨA, vì thấy đáng làm thì làm
.
Và khi ta nói HỌC
HÀNH là ta nhắm vào cái Hành ở đợt ba này, ít ra khi nói về triết lý
Nhân Sinh. Và lúc đó không những cái Hành đó cũng cao như sự BỠ NGỠ «Vô
Vị Lợi» (Etonnement Désintéressé) của Triết Lý Plato, mà còn CAO HƠN là
đàng khác. Bởi vì sự Bỡ Ngỡ THĂM HỎI của PLATO xét về phương diện VÔ VỊ
LỢI thì đã vượt qua đợt Lợi Hành rồi, nhưng CHƯA ĐI tới độ Tiền Diện
Kinh Nghiệm tức HIỆN TIỀN TRỰC THỊ VỚI VẬT, một thứ Kinh Nghiệm Tinh
Ròng đến nỗi KHÔNG còn lạ lẫm TRA HỎI NỮA, nhưng đã tới đợt AN NHIÊN
không ngỡ ngàng vì đã LIỄU HIỂU , đã ĐI GUỐC VÀO LÒNG SỰ VẬT, mà Nho
Giáo kêu là CÁCH VẬT rồi !
Thế nghĩa là đã VƯỢT
qua đợt Ngỡ Ngàng TRA HỎI. Người ta chỉ tra hỏi khi chưa đủ quen thuộc,
chưa thấu suốt, và do đó kém hơn «An Hành». Bởi AN HÀNH bao hàm sự THẤU
TRIỆT không còn chi đủ làm bỡ ngỡ nên chỉ còn HÀNH một cách AN NHIÊN
không bận tâm tra hỏi nữa.(10)
Tóm lại, với tính AN
VI trong Văn Hóa Việt, VIỆT NHO là Tinh Hoa Văn Hóa của Dân Tộc VIỆT
không những KHÔNG có tính chất DUY LỢI như tác giả lập luận, mà còn VƯỢT
QUA sự BỠ NGỠ «Vô Vị Lợi» của TRIẾT TÂY nữa!
Phần trình bày trên
đây đưa thêm một bằng chứng nữa là vì THIẾU CẬP NHẬP HÓA PHƯƠNG PHÁP và
NỘI DUNG trong lãnh vực SUY TƯ, người ta vẫn tiếp tục bàn về những VẤN
ĐỀ, đưa ra những LẬP LUẬN và DỮ KIỆN với Phương Pháp
và Nội Dung của CÁC THẾ KỶ TRƯỚC!!!
V. NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ Ý THỨC HỆ HAY KHÔNG ?
Tình trạng tương tự
cũng xảy ra đối với vấn đề Ý THỨC HỆ. Thật vậy, muốn giải quyết vấn đề
này, chúng ta cần CẬP NHẬT HÓA lối SUY TƯ của chúng ta với NỘI DUNG và
PHƯƠNG PHÁP của môt số Lý Thuyết MỚI MẺ.
A) CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MỚI
1) CƠ CẤU LUẬN
Lý thuyết đầu tiên mà
chúng ta cần lưu tâm có lẽ là CƠ CẤU LUẬN (Structuralisme) của Claude
Lévi - Strauss. Những nhà Dân Tộc học phương Tây trước Lévi- Strauss, có
lẽ do đầu óc Thực Dân, Đế Quốc thời đó, có thái độ MIỆT THỊ và mang
nhiều NGỘ NHẬN về những Dân Tộc DA MÀU.
Điển hình là nhà dân
tộc học LEVY - BRUHL. Ông này quan niệm là những ngôn ngữ CỔ SƠ THIẾU
những danh từ và khái niệm TRỪU TƯƠNG để kết luận rằng những dân tộc cổ
sơ KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG TƯ TƯỞNG TRỪU TƯỢNG. Về CON SỐ chẳng hạn, theo
Lévi-Bruhl, người bán khai «cảm giác, tri giác các con số chứ không thể
quan niệm chung môt cách trừu tượng như người phương Tây».
Lévi - Bruhl kết luận
: «người Cổ Sơ không đếm xỉa đến cái mà chúng ta gọi là tương quan NHÂN
QUẢ tự nhiên giữa các biến cố, mà chỉ lưu tâm đến những tương quan THÔNG
PHẦN Thần Bí
.Vỉ vậy ta có thể bảo tâm trí những dân tộc cổ sơ là TIỀN
LUẬN LÝ (prélogique) hay THẦN BÍ (mystique)»(11)
Claude LÉVI - STRAUSS
trái lại, chủ trương Tinh Thần Con Người ĐỒNG NHẤT và người Cổ Sơ cũng
có KHẢ NĂNG Tư Tưởng TỔNG QUÁT và TRỪU TƯƠNG.
Theo Lévi- Strauss,
«người phương Tây đã lầm tưởng khi cho rằng người «dã man» chỉ biết thỏa
mãn nhu cầu SINH LÝ hay KINH TẾ bức thiết, mà không biết rằng chính đến
lượt họ (người phương Tây) cũng lại bị chính người «dã man» kia chỉ
trích ngược lại. Về điểm này, Handy và Pukui đã thú nhận :
«Thổ dân Hạ Uy Di xử
dụng tài nguyên thiên nhiên khá hoàn hảo, hơn hẳn cái lối khai thác tài
nguyên thiên nhiên một cách bừa bãi của giới Tư bản phương Tây hiện giờ
là chỉ lo ních chặt túi tham, bất kể «sống chết mặc bay» miễn là 'tiền
thầy bỏ túi».»
Theo Lévi - Strauss,
«những xã hội thường bị coi là man mọi lại có một tổ chức xã hội và
những quy tắc về kế thôn hết sức tế nhị và phức tạp mà các nhà toán học
phải hết sức cố gắng mới cắt nghĩa thỏa đáng được. Vũ Trụ luận
(Cosmologie) của họ làm ngạc nhiên các Triết gia phương Tây không
ít
Chẳng hạn như tổ chức GIA TỘC của thổ dân ÚC hay hệ thống luật lệ ở
Mélanésie là những Thể Chế HOÀN HẢO NHẤT thế giới». (12)
Do đó, muốn tránh
những SAI LẦM THÀNH KIẾN của các Thế Kỷ Trước, người Nghiên cứu, Học hỏi
phải có Thái Độ và Phương Pháp KHÁC trước.
Thật vậy, phải TRÁNH
có thái độ «CHA CHÚ», như đứng từ Quan Điểm và Giá Trị TÂY PHƯƠNG để đưa
ra phán đoán, mà trái lại, phải cố gắng tự ĐẶT mình vào hoàn cảnh và
ĐỒNG VĂN của xã hội đang là đối tượng của sự quan
sát.
Ngoài ra, TRÁNH So
Sánh các Yếu Tố, GIÁ TRỊ một cách RIÊNG RẼ vì như ở địa hạt Huyền Sử
chẳng hạn, Ý NGHĨA không do những yếu tố riêng lẻ cấu thành, mà
do ở CÁCH những yếu tố này PHỐI HỢP với nhau.
Do đó, CƠ CẤU LUẬN
đưa ra 4 Tiêu Chuẩn NỀN TẢNG sau đây:
1)
Vượt LÝ TRÍ để đi sang bình diện TIỀM THỨC
2)
Chú ý tới LIÊN HỆ giữa các Hạn Từ hơn là các
Hạn Từ Riêng Rẽ
3)
Đứng từ TOÀN CẢNH nhìn vào Từng Phần và Giải Thích TỪNG PHẦN bằng
Tương Quan TOÀN BỘ
4) Tìm ra những LUẬT CHUNG từ những MÔ HÌNH Dạng Thức để Suy Diễn và
Quy Nạp.
2) TƯ DUY
THỐNG HỢP:
Một Lý Thuyết MỚI MẺ
khác mà chúng ta cũng cần lưu ý là Tư Duy THỐNG HỢP (Systems Thinking).
Muốn hiễu rõ loại Tư Duy này, có lẽ nên đối chiếu với Tư Duy PHÂN TÍCH
(Analytical Thinking).
Tính chất DUY LÝ của
nền Triết Học TÂY PHƯƠNG bắt nguồn từ Socrates, Plato, Aristotle, tới
Descartes thì còn «lún sâu» thêm một độ. Thật vậy, nếu một chút Tâm
tình, Cảm xúc nào còn sót lại với các Triết gia Tiền _ Socrates, thì
«chút xíu» đó lại bị Descartes «quét sạch», vì ông phân tách Tư tưởng ra
khỏi Xác thân bằng cách gạt bỏ Linh hồn vì nó lờ mờ và không đáp ứng
những yêu sách của ông là sự HIỂN NHIÊN và PHÂN MINH (Évidence et
Distinction)
Vũ trụ quan của
Descartes đặt nền móng trên sự phân chia Thế giới ra làm hai Thực thể
độc lập và riêng biệt: thực tại Tinh thần (hiểu là Lý trí) và thực tại
Vật chất. Thế giới Vật chất, bao gồm cả Sinh vật, theo Descartes là môt
«cái Máy» (Machine) mà con người có thể hiểu được một cách trọn vẹn,
bằng Phương Pháp PHÂN TÍCH (Analytical Method) nhằm «chẻ nhỏ» ra từng
phần nhỏ nhất.
Tuy nhiên, các khám
phá và yếu tố mới mẻ của khoa Sinh vật học Hữu cơ (Organismic Biology)
trong tiền bán thế kỷ XX đã PHỦ NHẬN những nguyên tắc căn bản của Phương
Pháp PHÂN TÍCH, và đặt nền móng cho một lề lối Suy tư Mới Mẻ xuất hiện
dưới cụm từ TƯ DUY THỐNG HỢP (Systems Thinking) với những ý niệm đi kèm
như mối Tương quan (Relationship), Liên hệ (Connectedness), Khung cảnh
(Context). Theo lối nhìn THỐNG HỢP, những Đặc tính Thiết yếu của một
Sinh vật là những Đặc tính của Toàn thể (Whole) mà mỗi từng Phần (Parts)
không có, lý do là vì chính những TÁC ĐỘNG và TƯƠNG QUAN HỖ TƯƠNG
(Interactions and Relationships) giữa các «từng Phần» (Parts) làm nảy
sinh các ĐẶC TÍNH THIẾT YẾU mới mẻ này. Các Đặc tính mới phát sinh này
sẽ bị HỦY DIỆT, nếu «Hệ thống» bị PHÂN TÍCH , «Mổ xẻ» thành từng phần
RIÊNG BIỆT trên bình diện Lý thuyết lẫn Thực nghiệm. Lý do là TÍNH CHẤT
CỦA TOÀN THỂ LUÔN LUÔN KHÁC VỚI SỰ CÔNG LẠI CỦA TỪNG PHẦN.»(13)
3) PHƯƠNG PHÁP TỔNG QUAN
Thật ra, các KẾT LUẬN
của hai lý thuyết MỚI MẺ vừa nêu trên đã được Cố Triết Gia KIM ĐỊNH rút
tỉa ra cách đây khoảng ít nhất 40 năm từ Phương Pháp TỔNG QUAN là một
Phát Kiến của Cố Triết Gia. Ông viết:
« Chính ở đây chúng
ta chạm vấn đề quan trọng nhưng xưa rày chưa có một Triết gia nào đề
cập: Đó là phương pháp TỔNG QUAN khác biệt với đường lối XÁC ĐỊNH. Triết
gia thành công hay thất bại là do dùng lối Tổng Quan hay Xác định. Vì
phương pháp này liên hệ đến vận mạng của Triết Lý nên cần chúng ta
nghiên cứu kỹ. Phương pháp TỔNG QUAN là học về TOÀN THỂ, còn XÁC ĐỊNH là
học về TỪNG PHẦN.
Trước hết để nhận
chân thế nào là TỔNG QUAN, thì cần phân biệt với ĐẠI KHÁI TỔNG LƯỢT
(Global). ĐẠI KHÁI chỉ là lối nhìn một vật hay một hoàn cảnh cách SƠ
SÀI, PHIẾN DIỆN, để có ý niệm KHÁI QUÁT, thí dụ nhìn chung cái Radio.
Sau đó là cái nhìn Phân Tích XÁC ĐỊNH từng phần của máy, mỗi phần liên
hệ với nhau sao
.Lối nhìn Phân Tích XÁC ĐỊNH này cũng y như lối nhìn
KHÁI QUÁT vừa nói trên chỉ hợp cho bình diện HIỆN TƯỢNG, tức là Khoa Học
THỰC NGHIỆM, KHÔNG THỂ ĐEM VÀO TRIẾT ĐƯỢC. Đây là căn bản tối hệ.
Ở TRIẾT phải dùng lối
Tổng Quan PHỔ BIẾN không hướng vào từng sự vật lẻ tẻ, nhưng hướng tới
TOÀN THỂ vạn vật, toàn thể vũ trụ, nhưng vì mắt người không bao quát nổi
vũ trụ vô biên, nên phải «nhìn» theo cái cực nhỏ tế vi đến độ không còn
chiếm không gian và thời gian nữa và vì thế Triết ĐÔNG kêu là TÂM, cũng
có khi kêu là HUỆ NHÃN hay TÂM NHÃN. Tất cả đều chỉ cái ĐIỂM
Phi-Thời-Gian cũng là Phi-Không-Gian, ta hãy gọi nó là điểm Tụ Hợp hay
là THÁI NHẤT tức là cái NHẤT Siêu Hình, chứ không phải là cái Nhất Toán
Học. Còn toàn thể vạn vật thì kể là chu vi rộng nhất được tượng bằng số
9: tất cả các sự vật lẻ tẻ đều nằm ở khoảng giữa 1 và 9
và bị đổ khuôn theo cái nhìn chung đó không có vật nào lọt ra
khỏi được.
Đó là môt lối Cụ Thể
hóa mối Tương Quan NỀN MÓNG giữa cái «nhìn» của con người với vạn vật.
Bởi vì Triết lý không được nhìn sự vật riêng lẻ như nó hiện hình ra
trước giác quan ta, đó là cái nhìn không thật gọi là HIỆN TƯỢNG dành cho
Lương Tri và Khoa Học. Còn cái nhìn của Triết Lý là SIÊU LINH theo nghĩa
VÔ HÌNH nên nó khuôn theo và đổi thay cùng với sự mở ra của TÂM THỨC.
Khi Tâm Thức đã mở đến cực độ, thì cái nhìn cũng đạt cực độ không thể đi
xa hơn, nên cũng trở thành «chân xác».
Sở dĩ cái nhìn của
KINH DỊCH vẫn giữ được giá trị là đã biết đưa tới 1 và 9 hay nói khác đã
đạt tới cái Cực Nhỏ cũng như cái Cực Lớn gọi chung là Thái Cực. THÁI CỰC
có hai đầu, một là CỰC NHỎ đến độ không gì có thể ở lại bên trong, dù tế
vi như thanh sắc, nên gọi là «vô thanh, vô xú, vô ảnh, vô hình»; nhưng
đầu kia lại CỰC LỚN đến độ không vật nào có thể ở ngoài, nhưng tất cả ở
trong như những phần của NHẤT THỂ, của Đại Vũ Trụ(14).
B) ÁP DỤNG CÁI NHÌN TOÀN THỂ VÀO VẤN ĐỀ Ý THỨC HỆ
1) SỰ QUAN
TRỌNG CỦA BƯỚC KHỞI ĐẦU:
Vậy thử áp dụng lối
nhìn TOÀN THỂ là mẫu số chung của cả ba Lý thuyết rất Mới Mẻ nêu trên
vào vấn đề : «Nho Giáo có phải là một Ý Thức Hệ hay không ?
Đối với các nhà Đại
Tư Tưởng trên thế giới, thì sự kiện ngày nay, trên mặt lý thuyết lẫn
thực hành, hầu hết các khuynh hướng TƯ TƯỞNG trong mọi lãnh vực : văn
hóa, triết học, tôn giáo, chính trị
..vvv
.đều gặp phải tình trạng SA
ĐỌA có rất nhiều Nguyên Nhân: như có thể là do diễn
tiến của thời gian, do những hiểu lầm ngộ nhận có thể vì trình độ tâm
thức thấp kém, cũng như vì sự lợi dụng, xuyên tạc của các thế lực đủ
loại, do sự ảnh hưởng lẫn nhau có thể tích cực nhưng cũng có thể tiêu
cực của các khuynh hướng văn hóa
..vvv
.
Giải pháp thường được
đề nghị là trở về NGUỒN CỘI của dòng Tư Tưởng để nắm bắt được
TINH HOA của khuynh hướng được nghiên cứu qua việc tiếp cận TRỰC
TIẾP với Tư Tưởng của những VỊ sáng lập ra MÔN PHÁI.
Do đó mới có những
câu tuyên bố như của Claude Lévi-Strauss trong lãnh vực Huyền Sử : «Chỉ
có những bước KHỞI ĐẦU mới LỚN LAO» hay của Paul Ricoeur : «Tất cả được
nói rồi trong các huyền thoại, chỉ còn phải tìm hiểu» (= Tout est dit
dans les mythes. Reste à comprendre».
Trong cùng đường
hướng, bên Tây Phương, các Triết Gia Lớn như Nietzsche, Heidegger
,
những Đại Thi Hào như Hoederlin
, những Đại Văn Hào như Goethe
..chủ
trương trở vể với HY LẠP Cổ Xưa trước thời Socrates để tìm lại NGUỒN Thơ
Triết Chân Thực của Nhân Loại.
Hay vào thập niên
1960, Cố Triết Gia KIM ĐỊNH đã mở đầu phong trào VỀ NGUỒN đối với văn
hóa Việt Nam với việc nghiên cứu về NHO GIÁO NGUYÊN THỦY hay VIỆT NHO.
NGUYÊN
NHÂN chính yếu làm nên mẫu số chung của tất các Bậc ĐẠI THỨC GIẢ của
Nhân Loại là vì theo họ chỉ vào buổi BÌNH MINH của Nhân Loại, con người
mới có cái nhìn TOÀN THỂ đem đến sự NHẤT QUÁN trong lãnh vực SUY TƯ, thì
mới nắm được TINH HOA của VĂN HÓA.
2) TINH HOA CỦA NHO GIÁO VÀ
CỦA TRIẾT TÂY
Có lẽ Triết Gia gốc
Pháp Francois JULLIEN là một trong những nhà nghiên cứu thích hợp nhất
để so sánh hai nền Văn Hóa ĐÔNG - TÂY. Hiện ông đang giảng dạy môn Triết
học và Mỹ học Trung Hoa Cổ điển tại Đại học Sorbonne và vào năm 2002
được bầu làm Chủ tịch Viện trưởng Viện Tư Tưởng Đương Đại (Pháp).
Trong tác phẩm «Un
sage est sans idée ou l' autre de la philosophie» được dịch ra tiếng
Việt là «Minh Triết Phương Đông và Triết Học Phương Tây hay Thể Tạng
Khác của Triết Học», ông viết:
«Bậc MINH TRIẾT thì
VÔ Ý bởi ông không giành ưu tiên cho ý nào hết (và do đó chẳng loại bỏ ý
nào hết) và ông tiếp cận thế giới mà không phóng chiếu lên đó một ý niệm
được suy tính trước nào cả; do đó ông không thu nhỏ bớt thế giới chút
nào bằng cách đưa vào đó quan điểm riêng của mình, mà luôn mở rộng nó
cho tất cả các khả năng. Vì ông không đánh giá cao bất cứ điều gì, nên
chẳng có cái «cần phải» nào áp đặt được lên ông và quy định trước được
hành xử của ông; chẳng có «tất yếu « nào quy tắc hóa trước được hành xử
ấy, dù là những châm ngôn tự mình định cho mình hay những quy tắc do xã
hội áp đặt. Ta đặc biệt thấy ông khác với một đồ đệ của ông, người chủ
trương có những nguyên tắc, và Khổng Tử không đồng tình với tính không
khoan nhượng của người đồ đệ này (Tử Lộ, x.XVII, 5 và 7): giữ một mối
quan hệ hoàn toàn mở đối với thế giới, ông có thể theo khít mọi sự khác
nhau của nó và thích ứng với từng hoàn cảnh của nó mà chẳng gặp trở ngại
nào.(15)
«Đó là chọn lựa của
MINH TRIẾT (đối diện với TRIẾT HỌC): giữ không định điều gì hết, không
đưa ra bất cứ điều gì. Đối diện, nghĩa là nhìn từ MINH TRIẾT, TRIẾT HỌC
sinh ra từ chính sự thiên vị khởi nguyên ấy, nó đưa ra trước một tư
tưởng, sau đó tư tưởng ấy không ngừng được lấy lại, làm cho biến dạng
đi, biến đổi đi, từ đó triết học không còn có thể làm gì khác hơn là sửa
chữa một quan điểm riêng biệt khác - mỗi nền triết học, như ta biết, lại
phủ nhận nền triết học trước đó. Tóm lại, nó không có thể làm gì khác là
gấp tư duy của con người theo một cách khác. Nhưng không bao giờ hoàn
toàn thoát ra được khỏi sự thiên vị mà nó đã rơi vào lúc khởi đầu - khỏi
cái nếp ấy, hay đúng hơn, khỏi cái rãnh ấy, cái tư tưởng đầu tiên được
đưa ra. Cho nên, do cái lỗi nguyên lai đó, và để vượt qua cái lỗi ấy, vì
nó không thể xoá cái lỗi đó được, nó cứ buộc phải đi tới mãi, phải nghĩ
khác mãi: từ đó mà sinh ra lịch sử triết học (nếu triết học có một lịch
sử, hay đúng hơn, chính nó LÀ lịch sử ấy) (16)
Vậy theo F. Jullien,
sự Khác Biệt NỀN TẢNG giữa Minh Triết và Triết Học là sự kiện MINH TRIẾT
thì VÔ Ý, còn TRIẾT HỌC thì khởi nguyên là đưa ra một TƯ TƯỞNG mà Tư
Tưởng thì dựa trên Ý niệm, Khái niệm, Quan niệm
vvv
Mà Ý THỨC HỆ
(Ideology) theo nghĩa giản dị nhất, là một hệ thống QUAN NIỆM và Tin
Tưởng, thường có tính chất Chính Trị của một nhóm người hay môt cá
nhân(17).
Như vậy, Ý THỨC HỆ
trong NGUYÊN NGHĨA tức theo nghĩa ĐẦU TIÊN và NỀN TẢNG nhất xuất phát từ
TRIẾT HỌC là môn ĐẶC TRƯNG của Văn hóa TÂY PHƯƠNG, Nói cách khác, Ý THỨC
HỆ trước tiên thuộc Phạm Trù của nền Văn Hóa và
Triết Học TÂY PHƯƠNG.
Do
đó, ngay từ điểm KHỞI ĐẦU, với lối nhìn TOÀN THỂ mà các Lý thuyết Nhân
Văn Tân Tiến nhất chủ trương, thì TINH HOA của NHO GIÁO chính là MINH
TRIẾT, chứ KHÔNG phải Ý THỨC HỆ như tác giả bài viết
lập luận.
Lẽ dĩ
nhiên, theo dòng thời gian, trong mục tiêu Phổ Biến, Truyền Bá,
NHO GIÁO từ tầng cao MINH TRIẾT, đã trở thành TRIẾT LÝ để cho vừa tầm
ĐẠI CHÚNG, cũng như về sau để kết hợp với các nguồn Lý Thuyết khác, CÓ
VẺ trở thành giống điều có thể gọi là»Hệ Thống Triết Học» theo nghĩa của
văn hóa Tây Phương.
Cố Triết Gia KIM ĐỊNH
cũng có bàn về Tương Quan giữa MINH TRIẾT, TRIẾT LÝ, TRIẾT HỌC như sau:
a) MINH TRIẾT
(Sagesse) nói về hình thức thì Minh Triết chỉ sự Khôn Sáng của các Thánh
Hiền đã được kết tinh vào những câu Triết Ngôn thuộc TRUYỀN THỐNG Tinh
Thần. Các Ngài là những vị Siêu Quần Bạt Chúng đã tới cái Biết TRÍ TRI
THỂ NGHIỆM nên những lới Huấn Đức của các Ngài tuy vắn tắt nhưng đó là
những châm ngôn có hiệu lực muôn đời như : Pythagore, Khổng Tử, Lão Tử,
Thích Ca
.vvv
.Các Ngài lo sống cái Minh Triết hơn là nghĩ đến viết ra
sách vở. Phương pháp các Ngài là Thể Nghiệm, Trực Giác, Không dùng Lý
Luận.
b) TRIẾT LÝ là những
Sách do Môn Đệ các Vị trên để lại như : Tuân Tử, Mạnh Tử, Chu Hy,
Cankara,Vương Dương Minh
..Những đề tài họ suy tư cũng là những vấn đề
của Thầy, nghĩa là xoay quanh cứu cạnh thân phận con người; phương pháp
là dùng Lý Luận biện chứng để tìm hiểu và phổ biến Minh Triết, nhờ thế
mà quảng đại quần chúng hiểu rõ được chỗ sâu xa của Minh Triết
.
Tuy nhiên, Triết Lý
vẫn không bằng Minh Triết. Tuân Tử lý luận rành rọt, Mạnh Tử minh biện
nhiều trang giống Platon, Trang Tử với lối văn trào lộng huy hoàng,
không có họ, có lẽ Triết của Lão, của Khổng đã mai một, vì họ làm cho
người ta hiểu được Khổng, Lão (Zenker) nhưng bao giờ họ cũng chỉ được
coi là Môn Đệ của Khổng Lão, tuy các Vị này chỉ nói có những câu cụt
ngủn.(18)
c) TRIẾT HỌC: Tới nhà
Tống thì Tổng Hợp của Chu Hy riêng về Nội Dung, theo học giả Needham,
tuy không đi qua giai đoạn vật lý Newton mà tiến thẳng vào giai đoạn Vi
Thể kiểu Einstein, còn về Hình Thức có vóc dáng bề thế không kém các «Hệ
Thống Triết Học» Tây Phương.
Mà chúng ta biết là
về Phương Pháp, TRIẾT HỌC Tây Phương theo lối Phê
Phán Phân Tích, cố tìm ra những Ý NIỆM độc đáo và tích lũy sự kiện để
kết thành những hệ thống mạch lạc chặt chẽ.
Còn về Nội Dung, nếu
lấy gốc SIÊU HÌNH mà nói, thì Siêu Hình của TRIẾT TÂY có tính chất HỮU
VI vì xây trên Ý NIỆM SỰ VẬT, mà ý niệm bao quát hơn cả là CÓ, là HỮU,
nên khoa «Siêu Hình» của Tây Phương mới mang tên là HỮU THỂ HỌC.
Nhưng đó là một nền
Siêu Hình GIẢ TẠO để nói theo ngôn ngữ của KANT, còn theo AN VI, phải
nói thêm là một nền Siêu Hình TAI HẠI vì lý do sau đây:
Trước hết, Ý NIỆM bao
giờ cùng là Ý Niệm của môt cái gì, mà đã là cái gì thì phải có HÌNH, ít
ra phải có TƯỢNG (image). Ý niệm chính là cái TƯỢNG, cái BÓNG của Sự Vật
(Phantasme), không thể là Ý Niệm Suông được. Vì thế dù ý niệm tổng quát
làm nền cho Hữu Thể Học cuối cùng cũng xuất hiện như một CHỦ TỂ, thế là
có HÌNH rồi đó, hơn nữa còn là NHÂN HÌNH nên còn SA ĐỌA hơn.Vì là Hình
Thể một NHÀ CHUYÊN CHẾ, một THƯỢNG ĐẾ,tức không những có Hình mà còn KẸT
CỨNG trong HÌNH, nên dễ biến thành Ý THỨC HỆ Một Chiều.(19)
Trái lại, NHO GIÁO
thực sự Chính Truyền, tuy trở thành TRIẾT LÝ, cả «Triết Học» nữa
vì Nhu Cầu Phổ Biến và Tổng Hợp, nhưng nhờ
KHÔNG đánh mất mối liên hệ vơi MINH TRIẾT UYÊN NGUYÊN, mà nét đặc trưng
là VÔ Ý, tức không «thiên vị» với một lập trường, phe nhóm nào cả, nên
vốn là môt Nghệ Thuật Sống Động Uyển Chuyển, do đó vẫn giữa được Khả
Năng HƯỚNG DẪN ĐỜI SỐNG trên nhiều nghìn năm.
Tóm lại, TINH HOA của
NHO GIÁO chính là MINH TRIẾT, còn của TRIẾT TÂY là Ý THỨC HỆ.
3) Ý THỨC HỆ THUỘC PHẠM TRÙ
CỦA VĂN HÓA TÂY PHƯƠNG
Bây giờ, thử xem về
phương diện LỊCH SỬ, câu tuyên bố ở trên là « Ý THỨC HỆ thuộc Phạm Trù
của Văn Hóa và Triết Học TÂY PHƯƠNG» có CĂN CỨ nào chăng ?
Như đã định nghĩa ở
trên, Ý THỨC HỆ (Ideology)là một hệ thống QUAN NIỆM và Tin Tưởng, thường
có tính chất Chính Trị của một nhóm người hay một cá nhân.
Cụm từ này đã được
Triết gia gốc Pháp Antoine Destutt de Tracy đặt ra. Ông này còn được gọi
là «nhà Ý thức hệ» nữa, tìm cách cải tổ xã hội Pháp thuộc giai
đoạn Hậu Cách mạng 1789 theo Tư tưởng có tính Thực dụng.
Còn Ýù nghĩa thời mới
của Ý THỨC HỆ bắt nguồn từ các tác phẩm của Karl Marx để chỉ những hệ
thống tư tưởng chính trị, xã hội, luân lý sai lầm mà theo Marx, được
giai cấp thống trị đặt ra vì mục tiêu Tư lợi. Theo chân Marx, các phe
nhóm, đảng phái thường cáo buôc lẫn nhau là tư tưởng
của đối phương không diễn tả trung thực Sự Thật mà bị làm méo mó bởi đầu
óc Ý Thức Hệ. Và các cuộc tranh chấp Ý Thức Hệ của thế kỷ 20 thường có
tính cách quá khích kiểu Chính trị và Tôn giáo, như trường hợp của chủ
nghĩa Phát Xít và Cộng Sản. Thí dụ điển hình nhất là cuộc Chiến Tranh
Lạnh mà hai «diễn viên» thù nghịch chính yếu là Hoa Kỳ và Nga Sô tranh
dành ảnh hưởng ở khắp nơi trên mọi chiến tuyến từ chính trị tới kinh tế,
tâm lý
vvv
»(20)
4) CÓ NÊN ÁP DỤNG CÁC PHẠM TRÙ CỦA Ý THỨC HỆ VÀO VĂN HÓA VIỆT NAM VÀ
VIỄN ĐÔNG HAY KHÔNG ?
Như phần trình bày
trên cho thấy, về cả hai phương diện TRIẾT HỌC và LỊCH SỬ, Ý THỨC HỆ
thuộc Phạm Trù của Văn Hóa TÂY PHƯƠNG, nên nếu KHÔNG KHÉO thì việc áp
dụng các Phạm Trù của Ý THỨC HỆ vào các vấn đề của VIỆT NAM và VIỄN ĐÔNG
có nguy cơ đưa tới những SAI LẦM, NGỘ NHẬN tương tự như những TỆ HẠI mà
Claude Lévi- Strauss với CƠ CẤU LUẬN đã cảnh cáo về trường hợp
các nhà Dân Tộc học trươc ông áp dụng bừa bãi
các Phạm Trù của văn hóa TÂY PHƯƠNG vào việc nghiên cứu văn hóa của các
dân tộc DA MÀU.
Dưới ánh sáng của sự
trình bày ở trên, thì cái SAI LẦM NỀN TẢNG NHẤT của tác giả bài «Tinh
Hoa Ý Thức Hệ của Việt Nho» là việc đi Nghiên Cứu NHO GIÁO qua Lăng Kính
ĐỘC NHẤT của Ý THỨC HỆ thuộc Phạm Trù của Văn hóa và Triết học TÂY
PHƯƠNG, trong khi TINH HOA của NHO GIÁO chính yếu là một nền MINH TRIẾT
UYÊN NGUYÊN.
a)TRƯỜNG HỢP NHÀ HÁN VỚI ĐỔNG TRỌNG THƯ:
Có lẽ lý do chính yếu
khiến các Phạm Trù Ý THỨC HỆ thường được đem ra áp dụng ngày nay là một
phần do màu sắc CHÍNH TRỊ sẵn có của cụm từ này, cộng với sự THẮNG TRẬN
của Văn Minh TÂY PHƯƠNG trong các thế kỷ vừa qua, đưa tới việc người ta
có khuynh hướng ÁP ĐẶT các Phạm Trù của Văn Hóa TÂY PHƯƠNG trong lãnh
vực NGHIÊN CỨU.
Một thí dụ ĐIỂN HÌNH
là trường hợp NHÀ HÁN với ĐỔNG TRỌNG THƯ. Ngày nay, chúng ta thường đọc
hay nghe nói về cụm từ «Ý THỨC HỆ» NHÀ HÁN với Đổng Trọng Thư như là
«Kiến Trúc Sư» của «Hệ Thống Triết Học» này!
Chúng ta có thể nhận
thấy là các cụm từ «Ý Thức Hệ» và «Hệ Thống Triết Học» thuộc Phạm Trù
của Văn Hóa và Triết Học TÂY PHƯƠNG. Ngoài ra, Thực Tế
thường PHỨC TẠP hơn điều mà người ta muốn cho chúng ta nghĩ!
Nhưng trước tiên, có lẽ nên đề cập một chút về LỊCH
SỬ.
Nhiều Nho Gia đã ca
ngợi Hán Vũ Đế , coi như quan thầy của Nho Giáo, vì đã có công đưa Nho
Giáo đến chỗ toàn thắng. Nhiều học giả Tây Phương ví Vũ Đế như
Constantin của Công Giáo, hoặc như Acoka với Phật
Giáo. Điều đó chỉ là cái dáng dấp bên ngoài mà thôi. Còn chính nội dung
thì khác.
Thực ra, nhà Hán kế
tiếp nhà Tần không những trong di sản chính trị là TẬP QUYỀN TRUNG ƯƠNG
và luôn cả ÓC CHUYÊN CHẾ. Hai phái Pháp Gia và Lão Gia vẫn nắm then chốt
trong guồng máy chính quyền ở đầu nhà Hán. Lệnh «cấm thư» mãi cho đến
đời thứ hai mới được «bãi»
..Tuy bị triều đình cấm đoán nhưng Nho Giáo
vẫn được truyền dạy ở ngoài dân gian và càng ngày càng thấm nhập
.Cho
đến đời Hán Vũ Đế thì càng ăn sâu hơn vào dân chúng.
Hán Vũ Đế có mời vài
Nho Gia vào triều và bất đắt dĩ nghe lời Đổng Trọng Thư mà tuyên dương
Nho Giáo. Nói BẤT ĐẮC DĨ vì thực ra Hán Vũ Đế không ưa gì Nho Giáo, bởi
tự trong bản chất, Nho Giáo vốn CHỐNG óc Độc Tài Chuyên Chế và vốn đề
cao Ý DÂN là Ý TRỜI.
Còn Hán Vũ Đế tuy có
nói là tuân theo «Ý Trời» trong việc cai trị, nhưng «Ý Trời» thì không
tìm trong Ý DÂN, mà lại đi tìm qua Điềm Trời, Sấm
Vĩ, Bốc Phệ theo thuyết Âm Dương Gia, Mặc Địch
Chính vì Đổng Trọng Thư
giải thích XUÂN THU theo lối Tai Dị đó, như «vua đi
đâu có rồng theo
.» nên mới được Hán Vũ Đế chấp nhận và nghe lời ông mà
đặt ra nhà Đại Học với 50 chức bác sĩ. Làm việc đó, Vũ Đế có vẻ ủng hộ
Nho Giáo, nhưng thực ra là tại Nho Giáo lan quá rộng không thể gạt bỏ
được, nên tìm cách kiểm soát sự giải nghĩa Kinh Sách và uốn nắn cho hợp
ý của mình: cố biến Nho Giáo trở thành dụng cụ cho lối TRUNG ƯƠNG TÂP
QUYỀN CHUYÊN CHẾ là chủ trương của phe Pháp Gia, chứ không phải thành
thực đề cao Nho Giáo.
Riêng về Đổng Trọng
Thư không những không được tin dùng, mà chỉ muốn hại đi , nhưng lại sợ
bị mang tiếng, nên Hán Vũ Đế định nhờ tay hai anh em của ông là Địch
Vương và Giao Tây Vương hại thay, nhưng nhờ Đổng Trọng Thư khôn khéo nên
thoát chết.
Đôi khi Hán Vũ Đế có
gọi Đổng Trọng Thư đến hỏi ý kiến, nhưng chẳng qua là để che đậy dã tâm
đã muốn mưu hại ông, chứ thức không có bụng dùng, bởi tuy ông có theo
Tai Dị, nhưng tâm trí còn quá nặng ÓC NHO. Ông nhấn mạnh đến điểm vua
phải bắt chước Trời mà Yêu Dân, và cực lực phản đối việc cho người nộp
nhiều thóc lên làm quan và làm quan lâu được thăng chức
..Ông xin lấy
TÀI ĐỨC làm tiêu chuẩn và không cần phải làm lâu, miễn là tài nhiều thì
được thăng chức lớn
..
Tóm lại, những nguyên
tắc của Nho Giáo, Đổng Trọng Thư còn duy trì được khá nhiều nên không
bao giờ Hán Vũ Đế dùng ông, mà chỉ dùng người khác
là Công Tôn Hoàng làm Tể tướng.(21)
ĐỔNG TRỌNG THƯ là một
thí dụ về sự kiện là Thực Tế thường PHỨC TẠP hơn định kiến, «khuôn mẫu»
mà người ta cố dựng lên để biện minh cho một Ý Đồ nào đó. Ông là trường
hợp ĐIỂN HÌNH của nhiều NHÀ NHO phải ra làm quan giúp dân, giúp nước, mà
sự «xung đột nội tâm» xảy ra giữa một bên là tư cách
của KẺ SĨ với nội dung MIMH TRIẾT, Triết Lý mà tùy
trình độ tâm thức họ được tiêm nhiễm ít nhiều từ các lời GIÁO HUẤN được
chứa trong Tứ Thư, Ngũ Kinh và bên kia với tư cách là THUỘC HẠ của một
ông Vua với những Ý Nghĩa thông thường thuộc các lãnh vực Chính Trị, Xã
Hội, KinhTế
với sự pha trộn xen lẫn ý nghĩa của các học phái khác, chưa
kể lâu lâu lại cộng thêm một ÂM MƯU Chính Trị ở đàng sau như trường hợp
HÁN VŨ ĐẾ.
Phần trên cho thấy là
thực tế khá PHỨC TẠP vì cuộc đời thường có rất nhiều
khía cạnh, nên không thể lập luận một cách đơn giản MỘT CHIỀU như tác
giả viết về Đổng Trọng Thư:
«Ông đã có ảnh hưởng
sâu đậm đến giới Nho Sĩ Việt Nam
vì ông đã có tác động chính trong
việc cải biến Nho Giáo thành một ý thức hệ hay giáo điều cho chính
quyền. Có nghĩa là trí thức Việt Nam đã học Nho Giáo
không phải trực tiếp từ kinh điển mà qua kiến giải của họ Đổng, và họ
chỉ được phép học Nho giáo Đổng mà thôi(Sic).»(22)
Còn về lập luận của
tác giả liên quan đến việc Hán Vũ Đế nghe Đổng Trọng Thư mà bãi bõ Bách
Gia Chư Tử:
« Hãy nhớ rằng Nho
Giáo đã loại trừ các học phái khác để giành độc tôn về giáo điều
ý thức hệ và tồn tại mãi đến năm 1905 tại Trung Quốc»
Thì Cố Triết Gia KIM
ĐỊNH có ý kiến như sau: «Sự thật thì không phải là bãi bõ Bách Gia chi
hết, mà chỉ là kế hoạch chính phủ dùng để vừa lòng dân vẫn sùng Nho
Giáo, vừa chiếm độc quyền kiểm soát việc chú sớ kinh sách và cả đến «san
định» lại các Kinh Truyện đã bị thất lạc sau vụ «đốt sách chôn Nho» của
Tần Thủy Hoàng.Do đấy mà Lưu Hâm được sai ra làm sách NGỤY KINH của Cổ
nhân, nhằm gọi những sách bí thư trong gác Thạch Cừ
của riêng chính phủ, tư nhân không ai có.»
Và Cố Triết Gia kết
luận: «Việc bãi bỏ BÁCH GIA CHƯ TỬ là một cú CHÍ TỬ đánh vào Nho Giáo,
đem đặt vào miệng Khổng Tử những điều Ông đả kích, để môn đệ ông phải
chấp nhận và từ đấy Nho Giáo biến thành HÁN NHO.»(23)
b) VIỆT NHO CÓ PHẢI LÀ Ý THỨC HỆ HAY KHÔNG ?
Một trong những khám
phá quan trọng nhất trong công trình đồ sộ của Cố Triết Gia là sự Khác
Biệt giữ VIỆT NHO và HÁN NHO. Nhưng VIỆT NHO có phải là một Ý THỨC HỆ
như tác giả cố ý lập luận hay không ?
Nhận xét đầu tiên là
có lẽ do cái nhìn ĐỘC CHIỀU có tính chất Ý THỨC HỆ của chính tác giả
được khẳng định ngay từ đầu, nên đụng vào điều gì thì tác giả cũng nhìn
thấy qua LĂNG KÍNH Ý Thức Hệ cả!
Điều thứ hai là như
đã đề cập ở trên, theo Cơ Cấu Luận chẳng hạn, chúng ta KHÔNG nên LẠM
DỤNG những Cụm Từ như Ý THỨC HỆ, CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN
vvv
..thuộc Phạm
Trù của một nền Văn Hóa khác để bàn về những vấn đề của Việt Nam và Viễn
Đông, vì điều này dễ đưa tới những LẦM LẠC trong sự Phán Đoán.
PHẠM CÔNG THIỆN có
thể đồng ý với chúng tôi khi ông viết:
« Từ lâu, chúng
thường khi lầm lẫn ngay từ căn rễ mỗi lần chúng ta thảo luận về Dân Tộc
Tính:
_ Chúng thường đồng
hóa lầm lẫn CHỦ NGHĨA QUỐC GIA, CHỦ NGHĨA DÂN TỘC với Dân Tộc Tính
_ Còn Cộng Sản Hà Nội
thì lầm lẫn đồng hóa CHỦ NGHĨA QUỐC TẾ, CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN TÂY PHƯƠNG
với Dận Tộc Tính
._ Nguy hiểm nhất là
chúng ta đã sử dụng một cách bừa bãi NHỮNG Ý NIỆM VĂN HÓA TÂY PHƯƠNG HẬU
THỜI để giải thích và tìm hiểu Dân Tộc Tính của Việt Nam.» (24)
Về lòng YÊU NƯỚC, thì
nhiều người có thể đồng ý là Kim Định RẤT YÊU NƯỚC. Nhưng có lẽ Ông còn
YÊU CHÂN LÝ hơn cả Yêu Nước!
Thật vậy, trên hành
trình đi TÌM CHÂN LÝ, Ông viết về SỨ MỆNH TRIẾT LÝ
như sau:
«Tổng hợp những suy
tư, những phân tích bất kể đến từ Đông hay Tây, Nam
hay Bắc.»(25)
Do đó, Ông bắt đầu
công cuộc tìm kiếm trong môi trường của TRIẾT TÂY. Ông thường «tâm sư»ï
là không có một triết gia, tư tưởng gia có chút «thế giá» nào của Tây
Phương mà Ông không bỏ công ra nghiên cứu để xem có điều gì học hỏi hay
không? Nhưng cuối cùng, Ông kết luận là tuy các Triết thuyết Tây Phương
có dáng dấp «nguy nga đồ sộ», nhưng khi xét về thực chất, nội dung bên
trong thì thường thiếu «chất sống» cần thiết để nuôi dưỡng đời sống Tâm
Linh, nên không có khả năng hướng dẫn đời sống.
Bước thứ hai là nền
TRIẾT ẤN với đầy dẫy Mâu Thuẫn trong triết lý cũng như trong đời sống.
Vì bên cạnh những điểm cao SIÊU HÌNH là những tệ nạn ĐẲNG CẤP.
Phải chờ đến tuổi «Tứ
thập bất hoặc» thì mới bắt đầu ló dạng từ một vài câu chữ NHO thoạt
trông có vẻ «lơ mơ», «rời rạc», một «vài tia sáng» đem lại sức sống, sự
thống nhất vào mớ kiến thức đồ sộ cho đến đây vẫn còn «Ngổn ngang trăm
mối». Và có lẽ đây là bước khởi đầu của hành trình của Cố Triết Gia về
với VĂN HÓA DÂN TỘC.
Và như đã nói ở trên,
giống như các Bậc ĐẠI THỨC GIÁC khác, sỡ dĩ Ông chủ trương VỀ NGUỒN là
vì theo Ông, chỉ vào buổi BÌNH MINH của Nhân Loại,
con người mới có cái nhìn TOÀN THỂ đem đến sự NHẤT QUÁN trong lãnh vực
SUY TƯ, thì mới nắm được TINH HOA của VĂN HÓA.
Tóm lại, do LÒNG
THÀNH đi tìm CHÂN LÝ, KIM ĐỊNH đã phát kiến ra VIỆT NHO, chứ KHÔNG do
lòng Yêu Nước «Cuồng Nhiệt» hay «âm mưu» CHÍNH TRỊ hay Ý THỨC HỆ nào cả
như tác giả lập luận.
Dùng Nghịch Lý
MANHEIN để áp dụng vào KIM ĐỊNH là VÔ ÍCH, vì bước KHỞI ĐẦU của Ông là
MINH TRIẾT, chứ đâu phải Ý Thức Hệ mà lập luận là «người ta không thể tự
giải phóng mình ra khỏi Ý Thức Hệ!!!
Điều đáng ngạc nhiên
hơn nữa là tác giả lại viện cớ là các nhà nghiên cứu trong nước đang đi
tìm yếu tố Ý Thức Hệ trong Nho Giáo để «gán ép» VIỆT NHO là Ý Thức Hệ.
KIM ĐỊNH đâu có liên
quan gì với đảng CSVN!!!
c) NHO GIÁO CÓ PHẢI LÀ MỘT LÝ THUYẾT «NHẬP CẢNG» HAY KHÔNG?
Tác giả còn muốn cho
độc giả thấy là Nho Giáo chỉ thuần túy là một Lý thuyết» nhập cảng» từ
Trung Hoa mà vua chúa Việt Nam sử dụng để cai trị
dân cũng như dùng làm vũ khí chống xâm lăng.
VIỆT NHO
trái lại, dựa trên các khám phá mới nhất của Khoa học, chủ trương
là Bách Việt vào đất Trung Hoa trước nên đặt nền móng đầu tiên cho Nho
Giáo. Người Tàu vào sau chỉ «công thức hoá» nội dung của Bách Việt. Một
thí dụ là Kinh Thi có nội dung là Ca Dao, Tục Ngữ của dân gian. Mà dân
gian VIỆT thì giống nhau, dẫu ở đất Trung Hoa hay đất Việt.
Vậy nên khi Nho Giáo
theo ngã vương triều mà vào đất Việt, thì không phải là đến một xứ sở xa
lạ, mà thực sự là TRỞ VỀ QUÊ CŨ. Sự khác biệt giữa Nho Giáo và Văn Hóa
Vìệt chỉ về ngôn ngữ mà thôi, còn nội dung là MỘT.
Như «Rồng Tiên» trong Huyền Sử VIỆT là «Âm Dương» trong Dịch Lý, «Bánh
chưng bánh dầy» là «Thiên viên địa phương»
..vvv
.
5)TÁC GIẢ DÙNG PHẠM TRÙ CỦA VĂN HÓA NGOẠI LAI ĐỂ GIẢI THÍCH VIỆT NHO
Tóm lại, trái với
những lập luận của tác giả , phần trình bày trên cho thấy là VIỆT NHO
giống như NHO GIÁO NGUYÊN THỦY là một nền MINH TRIẾT
UYÊN NGUYÊN , chứ KHÔNG phải là một Ý THỨC HÊÏ hay một Lý Thuyết «nhập
cảng».
Trái lại, chính tác
giả lại dùng Ngôn Ngữ, Phạm Trù của Văn Hóa và Ý THỨC HỆ NGOẠI LAI để
bàn về các vấn đề của Văn Hóa VIỆT. Và đó mới là thực sự VẤN ĐỀ!.
a) VIỆT NHO CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO HAY KHÔNG?
Hết gán cho Nho Giáo
nhãn hiệu Ý THỨC HỆ mà chúng tôi chứng minh ở trên là KHÔNG PHẢI, tác
giả lại bảo Nho Giáo là một TÔN GIÁO :
«Nho Giáo đầu tiên
được tiếp nhận bởi giới cầm quyền như là một ý thức hệ, và chỉ mãi sau
này mới được quần chúng tiếp nhận như môt loại tôn giáo.»(26)
Không
biết tác giả căn cứ vào đâu để viết ra những dòng trên. NHO GIÁO KHÔNG
có Tín Điều hay Mặc Khải, KHÔNG có Nghi Lễ Tế Tự với những Phép Màu,
KHÔNG có hàng Tư Tế, thì LÀM SAO GỌI LÀ MỘT TÔN GIÁO ĐƯỢC ???
Tác giả còn dùng
những cụm từ của các Tôn Giáo Tây Phương như TÍN ĐIỀU, GIÁO ĐIỀU để áp
dụng cho các sách Trung Dung và Luận Ngữ. Theo thiển ý, cụm từ GIÁO HUẤN
có vẻ thích hợp hơn !!!
b)TRÁNH LẠM DỤNG NGÔN NGỮ TRIẾT TÂY
KHI BÀN VỀ VĂN HÓA VIỆT
Ngoài ra, cách dùng
TỪ NGỮ của tác giả để viết về các nhân vật quen thuộc của Sử Sách VIỆT
như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ khiến độc giả có thể gặp khó
khăn trong việc nhận diện các VỊ này!
● NGUYỄN
TRÃI
_ «Nguyễn Trãi đã
phát triển một dạng Việt Nho theo nguyên lý thực nghiệm
.»
_ «
.ông nhất
thiết đòi hỏi nền độc lập toàn diện cho Việt Nam dựa trên nguyên lý đa
nguyên và tương trọng.»
_ «Nguyễn Trãi đòi
hỏi phải mạnh dạn quay về với lý thuyết nguyên bản của chủ nghĩa nhân
đạo trong sách Luận Ngữ» (27)õ
ĐỀ NGHỊ :
_ «Nguyễn Trãi là một
nhà Nho gốc Việt mà triết lý hướng về hành động»
_ «
..ông nhất
thiết đòi hỏi nền độc lập toàn diện cho Việt Nam dựa trên sự tương kính
và chấp nhận dị biệt.»
_ « Nguyễn Trãi đòi
hỏi phải mạnh dạn quay về với triết lý Nhân Bản Nguyên Thủy trong Luận
Ngữ.»
●
NGUYỄN DU
« Tuy đại thi hào
Nguyễn Du không phải là môt Triết gia lớn như
Nguyễn Trãi hay Nguyễn Công Trứ, nhưng trong triết lý của ông, ta
có thể tìm thấy những yếu tố nhân đạo và hình thái duy tâm của Việt
Nho.» (28)
ĐỀ NGHỊ
« Tuy tác phẩm của
đại thi hào Nguyễn Du có vẻ không bàn nhiều về khía cạnh Triết lý như
tác phẩm của hai nhà Nho có óc Triết là Nguyễn Trãi và Nguyễn Công Trứ,
nhưng trong triết lý của ông, ta có thể tìm thấy các yếu tố nhân chủ và
tâm linh của Việt Nho.»
●
NGUYỄN CÔNG TRỨ
_ « Tương tự như vậy,
Nguyễn Công Trứ là một Triết gia thực dụng hàng đầu.
_ « ông đề nghị môt
triết lý nhân sinh, một sự hiện hữu của những nhân vật toàn thể, tức là
sự hiện hữu của một con người toàn thể (homo integralis), một con người
mang tính kinh tế, lý lẽ và tôn giáo(homo economics, homo rationalis,
homo religious) (29)
ĐỀ NGHỊ
_ «Nguyễn Công Trứ
cũng là một nhà Nho mà triết lý hướng về hành động»
_ « ông đề nghị một
nền triết lý nhân sinh với sự góp mặt của những nhân
vật có một nhân cách toàn diện bao gồm nhiều khía cạnh như kinh tế, lý
luận và tôn giáo.»
KẾT LUẬN: VIỆT
NHO LÀ MÔT NỀN NHÂN BẢN TOÀN DIỆN:
Bắt nguồn từ một nền
MINH TRIẾT Uyên Nguyên, VIỆT NHO trong Lịch Sử đã có những Vị Đại Diện
Ưu Tú như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ
vvv
.mà tác giả có đề
cập trong bài viết. Vì VIỆT NHO là một nền TRIẾT LÝ
NHÂN SINH nên các VỊ trên hoạt động trong nhiều lãnh vực khác nhau trong
Cuộc Sống, chứ KHÔNG chỉ là những CHUYÊN VIÊN về TRIẾT HỌC như ở bên
Trời TÂY.
Viết về NGUYỄN TRÃI,
tác giả cho biết Ông là «một vị Tướng, một nhà Thơ và một nhà Nho». Còn
về NGUYỄN CÔNG TRỨ, «« ông đề nghị một nền triết lý nhân sinh với sự góp
mặt của những nhân vật có một nhân cách toàn diện bao gồm nhiều
khía cạnh như kinh tế, lý luận và tôn giáo.»
Có lẽ vì
VIỆT NHO là một nền NHÂN BẢN TOÀN DIỆN bắt
nguồn từ MINH TRIẾT nên các VỊ Đại Diện nêu trên mới theo đuổi suốt cuộc
đời LÝ TƯỞNG Cao Quý nhắm vào việc đào tạo nên những con người với một
NHÂN CÁCH TOÀN DIỆN.
Tác giả có nhận xét
là NHO GIÁO cách chung và VIỆT NHO cách riêng, là
ĐỐI TƯỢNG của nhiều THẾ LỰC không những KHÁC NHAU mà
nhiều khi còn MÂU THUẪN nhau, THÙ NGHỊCH nhau nữa.
Chẳng hạn trước đây,
«chính quyền Ngô Đình Diệm tái lập Nho học như là vũ
khí chống chủ nghĩa xã hội», còn trong thời kỳ chiến tranh VN thì chính
quyền CSVN lại «huy động toàn diện để chống các
cường quốc nước ngoài như đế quốc Mỹ và bá quyền Trung Quốc'«.
Sự kiện trước kia Nho
Giáo bị giới Trí thức Tây học đỗ lỗi cho là «thủ phạm» của sự «chậm tiến
và hủ lậu» thì ai cũng biết, nhưng ít người biết hơn là «Đặng Tiểu
Bình
đã tìm thấy chút giá trị trong Nho Giáo cho công cuộc hiện đại
hóa», cũng như «với chính sách đổi mới của Nguyễn Văn Linh, chính quyền
VN
..khuyến khích nghiên cứu thêm về Nho Giáo,
đặc biệt về vai trò của nó trong công cuộc hiện đại hóa ở Á Đông.»
Ngày nay, trong khi
các nhà nghiên cứu CSVN đang thử «gợi ý cho việc nghiên cứu với quan
điểm khoa học», thì «các nhà trí thức Công Giáo nghiên cưú Nho Giáo để
hòa hợp Đức tin của họ với Truyền thống dân tộc».(30)
Trên đây là những
nhận xét Hữu Ích mà tác giả đã đưa ra về ảnh hưởng Rộng Lớn của Nho Giáo
trên nhiều khuynh hướng, phe nhóm, tôn giáo, đảng phái, chính
quyền
.vvvv
.Nhưng ĐÁNG TIẾC là đối với các biến cố, dữ kiện vừa được mô
tả ở phần trên, , tác giả chỉ thấy khía cạnh TIÊU CỰC của vấn đề mà
thôi. Tác giả viết: «Tức là người ta nghiên cứu cho những mục đích ngoại
lai chứ không phải vì giá trị tự thân của nó». Thì đó CHỈ là điều ĐÁNG
TIẾC cho NGƯỜI NGHIÊN CỨU mà thôi! CHỨ KHÔNG LIÊN QUAN GÌ ĐẾN GIÁ TRỊ TỰ
THÂN CỦA NHO GIÁO CẢ!!!
TRÁI LẠI LÀ ĐÀNG
KHÁC!!! Thật vậy, Sự kiện là nhiều khuynh hướng, phe nhóm, tôn giáo,
đảng phái, chính quyền
.không những KHÁC NHAU mà nhiều khi còn MÂU
THUẪN, THÙ NGHỊCH nhau nữa, nhân danh NHO GIÁO để chống lại quan điểm
đối phương của họ, dẫu họ chỉ lãnh hội được MỘT PHẦN của NHO GIÁO qua
LĂNG KÍNH của Ý THỨC HỆ của họ, thì KHÔNG vì vậy mà
LÀM GIẢM GIÁ TRỊ CỦA NHO GIÁO.
Lý do là GIÁ TRỊ Thực
Sự của NHO GIÁO KHÔNG giới hạn ở những lối nhìn,
quan điểm, ý tưởng
RIÊNG RẺ mà mỗi khuynh hướng, phe nhóm, tôn giáo,
đảng phái, chính quyền
nhìn thấy trong NHO GIÁO qua LĂNG KÍNH của
riêng họ, mà là TỔNG HỢP của TẤT CẢ lối nhìn, quan điểm, ý tưởng
của
TẤT CẢ khuynh hướng, phe nhóm, tôn giáo, đảng phái, chính quyền
..
Thật vậy, CHỈ với cái
nhìn TOÀN THỂ của các Phương Pháp Khảo Cứu TÂN TIẾN NHẤT như Cơ Cấu
Luận, Tư Duy Thống Hợp, Phương Pháp Tổng Quan, thì mới nắm bắt được TINH
HOA của NHO GIÁO và VIỆT NHO bắt nguồn từ nền MINH TRIẾT UYÊN NGUYÊN của
buổi Hừng Đông của Nhân Loại, KINH QUA suốt chiều dài Lịch Sử của đoàn
dân LẠC VIỆT để đạt đến Đỉnh Cao SIÊU HÌNH của một nền NHÂN BẢN TÂM LINH
TOÀN DIỆN mà chúng ta đang chứng kiến hôm nay.
Có lẽ Quý Độc Giả
cũng đã đoán biết GS Trần Văn Đoàn là tác giả bài viết «Tinh Hoa Ý Thức
Hệ của Việt Nho» mà chúng tôi đã đề cập ở phần trên.
Chúng tôi cũng
sẽ xin Hân Hạnh lần lượt trình bày cùng Quý Vị
BA Trường Hợp ĐIỂN HÌNH còn lại trong các dịp tới.
Lê
Việt Thường
Bấm vào
đây để đọc Bài 2 Trường Hợp " Tổ Quốc Ăn Năn " của Nguyễn Gia
Kiểng
CHÚ
THÍCH
(1)
Minh Thư và Tú Ân, «Văn Tự và Phái Tính», tập san «Việt», số 4,
tháng 6/1999, Viết theo bài «Good Goddess» , «The Australian», thứ tư,
26/5/1999 _ trích từ cuốn «The Alphabet Versus the
Goddess : Male Words and Female Images» của Leonard Shlain, California
Medical Centre
(2)
Trần Văn Đoàn, «Vài Suy Tư về việc Biên Soạn Bộ LSTTTHVN «, tập
san «Tư Tưởng», số 23 & 24, th. 9/2003
(3)
M. Heidegger, «Poetry, Language, Thought», Harper, NY, 1975,
tr.X-XI
(4)
Encarta 95, Article «Scientific Method»
(5)
& (7)
Trần Văn Đoàn, «Nghĩ về tâm lý thực dụng của người Việt», Phỏng
vấn BBC do Lê Quỳnh thực hiện, 04/04/2007 đăng trên mạng «Cánh Én»
(6)
Trần Văn Đoàn, «Tinh Hoa Ý Thức Hệ của Việt Nho», th.7/2007 mạng
«anviettoancau.net», tr.1
(8) Kim Định, «Nhân
Chủ», Thanh Niên Quốc Gia, tr.51-52
(9)
Kim Định, «Chữ Thời»,Thanh Bình, SG, VN,1967, tr.131-132
(10) Kim Định, «Định
Hướng Văn Học», Ra Khơi Nhân Ái, SG, VN, 1969, tr.17
(11) Trần Đỗ Dũng,
«Luận Lý và Tư Tưởng trong Huyền Thoại», Trình Bày, SG,VN, 1967, tr.70 -
74
(12) Trần Đỗ Dũng,
Idem, tr.77 & từ trang 113
..
(13) F.J.Capra, «The
Web of Life», Harper & Collins, London, UK, 1998
(14) Kim Định, «Định Hướng Văn Học», Idem, tr.39-42
(15) F. Jullien,
«Minh Triết Phương Đông & Triết Học Phương Tây , NXB Đà
Nẵng,VN, 2003 , tr. 42 dịch từ «Un sage est sans idée ou l'autre
de la philosophie», Du Seuil, Pháp 02/1998,
(16) F.
Jullien, Idem, tr.37
(17) & (20)
Encarta 95, Article «Ideology»
(18) Kim
Định, «Những Dị Biệt giữa Hai Nền Triết Lý Đông Tây», Ra Khơi Nhân Ái,
SG, VN, 1969, tr.19-20
(19) Kim
Định, «Sứ Điệp Trống Đồng», Thanh Niên Quốc Gia, USA 1984, tr.388-389
(21) & (23)
Kim Định, «Cửa Khổng», Lĩnh Nam, Louisiana, USA, 1997, tr.68-71
(22)Trần
Văn Đoàn, «Tinh Hoa Ý Thức Hệ của Việt Nho», Idem, tr. 11
(24) Phạm
Công Thiện, «Một Đêm Siêu Hình với Hàn Mạc Tử», Viễn Thông, CA, USA,
2000, tr. 69-70
(25) Kim
Định, «Những Dị Biệt giữa Hai Nền Triết Lý Đông Tây» Idem tr.36
(26)Trần
Văn Đoàn, «Tinh Hoa Ý Thức Hệ của Việt Nho», Idem, tr. 8
(27) Trần
Văn Đoàn, Idem, tr.17
(28) Trần Văn Đoàn,
Idem, tr.18
(30) Trần Văn Đoàn,
«Tinh Hoa Ý Thức Hệ của Việt Nho», th.7/2007 mạng
«anviettoancau.net»
https://www.tinparis.net/vanhoa/vh_0907_09_PhuongPhapNoiDung_LeVietThuong.html
Cùng đề tài:
- Đọc "Tổ quốc ăn năn" của Nguyễn Gia Kiểng (Vũ Huy Quang)
- Vài nhận xét về cuốn "Tổ Quốc Ăn Năn" của Nguyễn Gia Kiểng (Nhật Tiến)
- Forum Vietbao: Đọc sách Tổ Quốc Ăn Năn của Nguyễn Gia Kiểng