Trích "Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân tại Việt Nam" nxb. Hương Quê 1988
PHẦN I: Đạo Thiên Chúa Và Sự Xâm Lăng Nam Kỳ - (MT đánh máy gửi SH).
Khi quyết định phái quân đội
viển chinh đến Nam Kỳ, Napoléon III nhằm mục đích chính yếu
có tính cách tôn giáo: cứu giúp đạo Gia Tô bị những “tên
bạo chúa “ ở một nước xa xôi có tên là Cochinchine “ngược
đãi “, Vua muốn chứng tỏ trước mắt toàn thế giới và đặc biệt
là trước mắt những tín đồ Gia Tô Pháp mà ông nương tựa, ông
là người bảo vệ quyền lợi Gia Tô ở Đông Á.
Lúc đầu đoàn quân viển chinh chỉ là một thứ biểu dương
lực lượng, dùng để uy hiếp triều đình Huế và buộc phải chấp
nhận nguyên tắc tự do truyền đạo, vì tình thế, sẽ tạo nên
giai đoạn đầu của việc xâm lăng lâu dài.
Như những Toàn quyền đầu tiên “Đông Pháp“ trong khi theo
đuổi mục đích thực dân, vẫn không quên mục tiêu tôn giáo ban
đầu: Hòa ước mong biến thuộc địa giàu, đẹp nầy thành đế
quốc Gia Tô mạnh mẽ ở Đông Á. Họ xác nhận, chúng ta không
thể làm gì tốt đẹp va vững chắc ở Nam kỳ nếu không biến nó
thành xứ Gia tô. Bằng cách áp dụng chặc chẻ chính sách đồng
hóa.
CHƯƠNG DẪN NHẬP
ĐẠO GIA TÔ TẠI VIỆT NAM & BANG GIAO VIỆT
PHÁP TRƯỚC 1857
Sự tiếp xúc của Việt nam với phương Tây có từ thế
kỷ 16. Những người Âu Châu đầu tiên xuất hiện thời đó từ bờ
biển Việt nam để tìm đồ gia vị và tìm người học đạo, họ bị
lòng tham tiền và lòng cải đạo thúc giục. Đầu tiên là những
người Bồ Đào Nha, từ năm 1557, thưòng hay đến Hội An thuộc
phần đất chúa Nguyễn,[1]
Phần họ, người Hòa Lan, ở thường trực tại Batavia từ đầu thế
kỷ 17, mở các hang buôn trên phần đất Chúa Nguyễn ở Hội An
và phần đất Chúa Trịnh ở Hưng Yên, rồi ở Hà Nội nữa. Năm
1643. họ bị đuổi khỏi Hội An sau một trận thủy chiến chống
lại thủy quân Chúa Nguyễn; chắc trận đánh đã do đối thủ Bồ
Đào Nha của họ khởi đầu. Lợi lộc mà hai giống người này thu
được nhờ buôn bán với người Việt, đã tức khắc lôi kéo một
địch thủ thứ ba: người Anh, cũng đổ bộ Việt nam năm 1673,
Công ty Đông Ấn của họ lập một hãng buôn gần Hà nội. Còn
người Pháp, cố gắng thăm dò đưọc sự buôn bán đầu tiên chỉ
thực hiện sau khi lập các Giáo đường Gia Tô.
Các tàu đó cũng đã mang các nhà truyền giáo Châu Âu đến
Việt nam. Chiếc đầu tiên là chiếc Ignatio có lẽ cập bến năm
1533 để giảng đạo ở Nam Định, ngoài Bắc. Đầu thế kỷ 17, các
phái bộ đầu tiên được dựng ở Việt nam bởi các tu sĩ dòng tên
bị đuổi ra khỏi Nhật do lệnh trục xuất Tokugama ( giữa
khoảng 1612 và 1614). Ngày 18-1-1615 một người xứ Gêne tên
Buzomi và một người Bồ tên Carvalho đổ bộ lên Đà Nẵng, Họ
dựng lện tại Hội An phái bộ nam Kỳ, lúc đầu gồm nhiều nhất
là tu sĩ Dòng Tên người Ý và người Bồ. Thành công của phái
bộ đã khuyến khich cấp trên của họ mở rộng cố gắng truyền
giáo ra Bắc. Năm 1622, họ phái Baldiontti ra đó. Liền sau
báo cáo của ông, việc thành lập một phái bộ tại Bắc Kỳ được
quyết định. Người ta giao nhiệm vụ nầy cho Alexandre de
Rhodes người Avignonais, Ông được xem là nhà truyền giáo
tiền phong có tiến nhất ở Việt nam vừa là người Pháp đã dẫn
nước Pháp vào đây.
Đến Bắc kỳ năm 1627, Linh mục Rhodes nhận được ân huệ của
Chúa Trịnh Tráng ngoài Bắc, ông dâng cho Chúa một đồng hồ
trái quit có bánh xe và một quyển sách toán mạ vàng đẹp đẽ,
Trịnh Tráng cho ông nhiều dễ dàng khi mới bắt đầu giãng đạo
ở Bắc. Linh mục viết trong các báo cáo gởi về cấp trên như
sau: ”Vua xứ Bắc khiến chúng ta xây cất gần dinh thự của
Ông, nhà cửa và nhà thờ. Tại đó chúng ta được giúp đở nhiều
trong khi tiến hành phận sự ”[2]
. Cuối năm 1629, ông rửa tội cho 6.700 người, trong số có
một vài công nương của triều đình và ông cũng thiết lập các
phái bộ Dòng Tên Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, liền sau đó các
linh mục Pháp của hội truyền giáo nước ngoài nối gót theo.
Nhưng ở đây, cũng xảy ra những phản ứng như ở Trung Quốc
và Nhật Bản, chính phủ lo lắng khi thấy đạo mới tấn công
thẳng vào các nguyên lý đạo đức và chính trị Nho giáo vốn là
nền tảng của xã hội cổ truyền Việt nam.
Thật vậy, toàn thể cơ cấu xã hội và chính trị của nước
Việt nam xây dựng trên quan niệm đạo đức của Nho Giáo, lòng
hiếu thảo, sự thờ cúng Ông bà, lòng trung với Vua, Nhưng đạo
mới từ Tây phương đến muốn lật nhào các tín ngưỡng cũ.
Không những việc thờ cúng ông bà bị kết án quyết liệt và
lòng sung đạo của con chiên phải thắng lòng hiếu thảo và
lòng trung với Vua. Chính phủ càng thêm sợ các hoạt động của
các nhà truyền giáo khi họ muốn tạo nên tổ chức Gia Tô không
thèm biết đến uy quyền nào khác hơn là uy quyền các lãnh tụ
tinh thần của họ.
Vì thế, Chúa Trịnh đã đuổi Alexandre de Rhodes vào năm
1630. Triều đình Nguyễn cũng ban bố đạo luật cấm đoán ẩn náo
tại Macao. Linh mục Rhodes trở lại Nam Kỳ năm 1640 để rời
vĩnh viễn Việt nam năm 1645.
Năm đó cấp trên bảo ông về châu Âu để xin viện trợ vật
chất và các người truyền giáo mới. Ông đến La mã 1649, đúng
lúc tòa thánh cố tách việc truyền giáo tại Châu Á ra khỏi
quyền hành thế tục của Bồ. Ông trình bày trước hiệp hội
truyền giáo Congregation Propaganda Fide kế hoạch thiết lập
tại Việt nam một giáo đoàn thoát khỏi sự bảo trợ Bồ Đào Nha.
Được Giáo hoàng hân hoan tiếp nhận, vị tu sĩ Dòng Tên xứ
Avignon được phép lựa chọn trong mục đích đó. Ông bèn quay
về Pháp.
Ông viết: “Tôi tin rằng Pháp, vì là nước ngoan đạo nhất
thế giới, sẽ cung cấp cho tôi nhiều binh sĩ để đi chinh phục
toàn thể phương Đông, cũng như ở đó, tôi sẽ có cách để có
nhiều Giám mục vốn là các Cha và các Thầy của chúng ta ở
trong các nhà thờ. Tôi rời La mã ngày 11-9-1952 với ý định
đó.
Về Paris, Alexandre de Rhodes gặp một nhóm linh mục trẻ,
liền quyết tâm biến việc đào tạo các linh mục nầy vào một
công việc của Pháp. Đó là thời kỳ chính trị Pháp bắt đầu
chịu ảnh hưởng sự thu hút của biển cả. Được Hoàng Hậu Pháp
và một vài nhân vật cao cấp ủng hộ, kế hoạch bị Bồ tấn công
mạnh mẽ, họ viện dẫn sự bảo trợ hoàn toàn mà 1493 Giáo hoàng
Alexandre Borgia đã giao cho họ. Alexandre de Rhodes chết
năm 1660 khi chưa thấy kế hoạch mình thực hiện. Nhưng cố
gắng của ông đã tựu, năm 1658 La mã bổ nhiệm hai vị đại diện
Tông tòa người Pháp Francois Ballu và Lambert de la Motte
đại diện trực tiếp cho Giáo hoàng.
Hội truyền giáo nước ngoài được thành lập, Hội được củng
cố nhờ sự tạo dựng một chủng viện, tại đây nhiều người cộng
tác các vị đại diện Tông tòa tân phong đến học tập. Lịch sử
của hội nầy sẽ gắng liền và chặt chẽ với lịch sữ ảnh hưởng
Pháp ở Đông Dương.
Bành trướng hàng hải nối tiếp việc truyền đạo Công ty
Thánh thể mạnh mẽ dự định thành lập một “Công ty Trung Quốc
truyền đạo và xây dựng buôn bán “.Đối với các người truyền
giáo Gia Tô thành công của việc truyền Phúc Âm phụ thuộc
chặt chẽ vào thành công buôn bán phương Tây, người truyền
giáo và người buôn bán nưong dựa vào nhau. Năm 1658 Francois
Pallu đề nghị tổ chức một công ty buôn bán Pháp với Đông Á:
“Dù chuyến đi Trung Quốc có mục đích chính là tôn vinh
Thượng Đế và cải đổi linh hồn, người ta lại không kèm theo
đó sự lợi ích làm sáng tỏ mối lợi người ta có thể rút tỉa ra
từ đó việc biết xử dụng mối lợi là điều cần thiết”
[3] Nhằm mục đích trên Francois Pallu ký năm 1660
với một công ty xứ Rouen muốn trang bị một chiếc tàu để chở
ông ta sang Việt nam ; các quy lệ tổ chức cụ thể sự hợp tác
giữa giáo sĩ và nhà buôn: “Vì mục đích các Giám mục,
chính của công ty nầy là để dễ dàng chuyên chở và công ty dễ
dàng thành lập…Nên quyết định rằng, sẽ tiếp nhận các giám
mục và các nhà truyền giáo thống thuộc trên tàu của công ty
cùng với tôi tớ và bộ hạ các ngài. Không nhận phí tổn vận
chuyển súc vật các ngài mang theo cũng như tiền lương thực
cho chúng và sẽ đưa các ngài đến một hay nhiều cửa biển ở
Bắc kỳ hoặc Nam kỳ hay Trung Hoa (điều XIII ).
Vì các tiện ích đó, các giám mục nói trên được toàn thể
công ty yêu cầu lưu tâm đừng bỏ sót điều gì trong xứ và sẽ
được các đại diện ghi kỹ các việc mua bán để khi trở về họ
tường trình tốt đẹp và trung thực các việc làm của họ …(
Điều XIV )[4].
Một trân bão đã hủy diệt chiếc tàu xứ Rouen, kế hoạch đó
bị thất bại. Nhưng năm 1664, cũng là năm hội truyền giáo
nước ngoài được thành lập tại đường Du Bac ; Colbert lập
công ty Đông Ấn: kể từ đó, Pallu chú tâm lôi kéo hoạt động
của công ty hướng đến Bắc kỳ. Trong các thư từ liên lạc với
Colbert, ông cho Colbert biết những tin tức về thương mại và
chính trị ở những xứ ông rao giảng Phúc Âm. Chính lúc bị một
cơn bão thổi tạt vào bờ biển Phi Luật Tân, Giám mục Pallu
đang mang một “Kế hoạch thành lập công ty Hoàng gia Ấn ở
Vương quốc Bắc kỳ “. Nhưng các nhà buôn không bị mắc mưu, họ
biết rõ “tham vọng và óc xâm lăng của các nhà truyền giáo
muốn bành trướng, xây dựng các hãng buôn khắp nơi, nhất là
ở Bắc kỳ để thiết lập các phái bộ truyền giáo của họ “[5]
Thực tế, các việc của công ty Đông Ấn thu gọn trong vài
chuyến đi có tính cách buôn bán, còn các dự định kèm theo
không bao giờ thực hiện được. Chúng ta có thể nói rằng cho
đến cuối thế kỷ 18, thương mại của Pháp không có đại diện
nào ở Việt nam ngoài các nhà truyền đạo. Thời gian các nhà
truyền giáo Pháp đến ngẫu nhiên trùng hợp với thời gian các
Chúa Việt Nam có thái độ cứng rắn. Trước các tiến bộ gia
tăng của đạo Gia tô, lệnh trục xuất lỏng lẻo lúc ban đầu trở
thành gắt gao hơn.
Trước tiên là Chúa Trịnh, mấy năm sau là Chúa Nguyễn, cấm
truyền đạo và dưới các vị truyền giáo. Hoạt động của các vị
truyền giáo không vì thế mà giảm bớt, khi thì công khai
trong thời kỳ dễ dãi, khi thì bí mật. Những tranh chấp giữa
người truyền giáo khác quốc tịch cũng khiến mối nghi ngờ của
Vua Chúa vững chắc thêm. Thật vậy, các giáo sĩ Dòng tên
người Bồ, luôn luôn thù ghét các Đại diện Giáo hoàng, họ tố
cáo với Vua,quan rằng những người nầy là những tên gian manh
và là những kẻ gây rối. Nhưng các Chúa Việt Nam, nhất là
Chúa Nguyễn biết chìu lòng các kẻ đi giảng đạo mới, dù họ đã
từng ra lệnh trục xuất trong suốt thế kỷ 18, chúng ta đã
thấy có các giáo sĩ Dòng Tên, các thầy thuốc, các nhà kỹ hà
học hay toán học, giữ các chức vụ quan trọng trong triều
đình như các đồng nghiệp của họ bên Trung Hoa.
Năm 1787, Hiệp ước đầu tiên giữa Pháp và Việt Nam ra đời.
Bị Tây Sơn đánh đuổi ra khỏi xứ, Chúa Nguyễn Ánh trốn tránh
ở Hà Tiên và tại đó, năm 1784 chúa đã gặp Giám mục Pigneau
de Béhaine, nhân viên phái bộ truyền giáo nươc ngoài, Giám
mục khuyên Nguyễn Ánh nên cầu viện Louis XVI. Dù chưa chấp
nhận đề nghị, nhà truyền giáo nầy vẫn đi Pháp điều đình với
thượng thư Bộ ngoại giao Montmorin một hiệp ước Đồng Minh ký
ngày 28-11-1787. Vua Pháp cam kết phái quân độì và tàu bè
đến giúp nguyễn Ánh cố gắng khôi phục đất nước, bù lại “Vua
nhường cho Pháp các đảo gần Đà nẳng và Côn lôn để Pháp toàn
quyền buôn bán, không cho bất cứ nước nào khác thuộc Châu Âu
nữa cả “.
Nhưng hiệp ước nầy vô hiệu, chế độ quân chủ Pháp đang
nghiêng nghữa và kiệt sức vì cuộc chiến Châu Mỹ. Không đủ
sức dự vào cuộc chiến quá xa xôi như thế. Vì thế, khi Bá
tước De Conway, tòan quyền vùng Ấn thuộc Pháp không chịu thi
hành hiệp ước, Pigneau de Béhaine quyết định hành động một
mình. Được các người Pháp ở Ile de France và Pondichéry giúp
đở, Y mang đến cho Nguyễn Ánh, lúc đó đã chiếm lại Nam kỳ
hai chiếc tàu đầy khí giới và đạn dược cùng nhiều quân chí
nguyện, nổi tiếng nhất là Olivier Chaigneau, Vannier Dayot
Forsans, nhóm người Pháp nầy sẽ giúp Nguyễn Ánh huấn luyện
một phần quân đội theo cách thức Châu Âu, lập một đội Pháo
binh cùng thủy quân hiện đại.
Nguyễn Ánh, làm Vua dưới niêm hiệu Gia Long chỉ còn biết
mừng vui việc chánh phủ Pháp không thi hành hiệp ước 1787 vì
hiệp ước bao gồm việc cắt nhường hai đảo Việt Nam. Ông vẫn
giữ gìn không thắt chặt mối liên lạc chính thức cũng như các
cam kệt chính trị với chính phủ phương Tây để khỏi sa vào
những lỗi lầm dẫn đến số phận của Ấn. Anh là nước đầu tiên
muốn lập lại các liên lạc buôn bán với Việt nam, những liên
lạc đã bị cắt đứt từ năm 1700. Là chủ biển cả, là kẻ hưởng
lợi đầu tiên của cuộc cách mạng kỹ nghệ, phát xuất từ Án Độ,
xâm lăng các thị trường Đông Nam Á, vì thế năm 1803, một
tàu của công ty Ấn Anh được phái đến Đà Nẳng, sứ giả của
Công ty đó, Robert, yêu cầu được mở hãng buôn ở Trà Sơn
(Quảng Nam ), Gia Long không nhận tặng phẩm và không cho
phép. Về phần các nhà buôn Pháp ở Bordeaux và các hải cảng
khác, bị đuổi ra khỏi Ấn Độ mà không có hy vọng trở lại, họ
đi tìm một vùng hoạt động mới, ở Viển Đông. Năm 1817 phái
đoàn De Kergariou đến Đà Nẳng trên tàu La Cybèle không yêu
cầu gì khác hơn là áp dụng hiệp uớc 1787, hiệp ước đã chết
non khi mới lọt lòng và việc cắt nhưọng Côn Đảo. Gia Long
rất cẩn thận không chịu tiếp kiến Viên chỉ huy De Kergariou
với cớ y không phải là đại diện cho Vua nước Pháp. Cùng năm
ấy, Quận công Richelieu gởi đến cho ông Chaigneau ( một sĩ
quan Hải Quân đồng thời cũng là một vị quan trong thời vua
Gia Long) một điện văn. Điện văn nầymục đích để hỏi ông
Chaigneau tin tức về Việt Nam. Quận công viết rằng: “Ngài
có thể được chính phủ ưu ái bằng cách dựa vào các phương
tiện mà địa vị hiện giờ của ngài có được, trước hết làm cho
việc kinh doanh đầu tiên của các chủ tàu chúng ta được biệt
đãi, và các tin tức chính xác hầu tôi có thể biết được phải
làm gì để đạt được mục đích đã nhắm, tức là thiết lập một
nền thương mại đều đặn và thường trực với xứ mà ngài đang ở
“[6]
Điều ước vọng nầy của chính phủ thúc giục Chaigneau trở
về Pháp, sau khi được Louis XVIII tiếp kiến, y trở về Huế
năm 1820 với danh nghĩa Lãnh sự và Khâm sai để ký kết hiệp
ước thương mại giữa hai nước. Nhưng Gia Long chết khi viên
Lãnh sự đầu tiên của Pháp tại Việt nam đến Huế. Trước khi
Gia Long chết, người Anh đã chiếm Singapour, biến cố nầy
kích động mối nghi ngờ của Vua, và khi chết, trong di chiếu
ông nhắc nhở con là Vua Minh Mạng đối xử tử tế với người Âu,
nhất là người Pháp nhưng hết sức cảnh giác trước các tham
vọng của các nước Châu Âu.
Tân vương tuân hành các lời nhắn nhủ trên. Chẳng những
ngài từ chối không ký hiệp ước thương mại với Chaigneau bằng
cách trả lời với Luis XVIii rằng việc buôn bán được tự do
cho mọi nước theo quy định luật pháp Việt nam
[7], mà Ngài còn không trả lời các đề nghị của
Pháp hay Anh muốn nối lại các liên lạc buôn bán và chính trị
với Việt nam, Vua sợ rằng các trao đổi với phương Tây, kẻ
đang nắm những kỷ thuật tiến bộ sẽ làm nguy hại nền độc lập
và trật tự quốc gia.
Thấy sự vô ích của các cố gắng và địa vị hờ của mình ở
triều đình, Chaigneau và Vanier xin về Pháp vĩnh viễn. Từ
năm 1831 đến 1839 các liên lạc giữa người pháp và Việt nam
bị gián đoạn. Những người Âu còn lại ở Việt nam, chỉ là
những người truyền đạo. Nhưng rồi nền quân chủ nhà Nguyễn,
hoạt động của họ hình như còn nguy hiểm hơn áp lực về đạo
Gia Tô đã đe dọa toàn thể cơ cấu chính trị và xã hội Việt
nam. Vụ Lê văn Khôi và nhiều vụ khác đã trình bày rõ rệt
cho vua quan thấy rằng các người truyền giáo, thay vì đứng
nguyên trong vai trò thiêng liêng của mình lại xen vào chính
trị, tìm cách thúc đẩy những người đổi đạo chống lại chính
quyền hợp pháp để chuẩn bị cho một chính phủ thân Thiên Chúa
giáo lên cầm quyền. Khôi là con nuôi của Tổng trấn Lê văn
Duyệt. Ông nầy là bạn và chiến hữu của vua Gia Long. Viên
Tổng trấn chống đối việc chọn Minh Mang làm Đông cung Thái
tử, cho nên khi lên ngôi Vua, Vua đã thi hành những biện
pháp cực kỳ nghiêm ngặt đối với Lê Văn Duyệt, người đã sống
và chết cùng giòng họ ông ta. Do đó, Khôi nổi dậy chống Minh
Mạng từ 1833 đến 1835, chiếm toàn thể Nam kỳ và bổ nhiệm
quan lại. Các nhà truyền giáo và các con chiên rất tích cực
vào cuộc nổi dậy nầy. Một bức thư bắt được trên chiếc tàu bị
chận ngoài khơi Phú Quốc, trong thư Lê văn Khôi yêu cầu Giám
mục Tabert, lúc đó đang trốn tránh tại Xiêm la trở lại
Saigon, Những người đi Xiêm cầu viện là những tín đồ Gia Tô.
Khi chiếm lại Saigon triều đình thấy trong thành có linh mục
Marchand, người đã được Linh mục Việt Nam dẫn từ Trà Vinh
lên và chắc muốn đóng vai trò của Pigneau de Behaine bên
cạnh các người nổi loạn, với hy vọng biến Nam kỳ thành một
vương quốc ly khai đặt dưới quyền lãnh đạo của Thiên Chúa
giáo. Linh mục Marchand cùng năm người cầm đầu khác bị đưa
về Huế và bị xử lăng trì.
Vụ nầy làm cho các biện pháp trục xuất trở nên gắt gao
hơn đối với người truyền giáo. Các đạo luật nghiêm ngặt nhất
về cấm đạo đã được mang ra áp dụng lại sau năm 1833. Trước
kia, năm 1825, khi một người truyền đạo đổ bộ lén lút lên Đà
Nẳng - điều nầy hình như thách đố chính quyền nhất là khi
các nhà truyền giáo không lúc nào chịu thi hành luật pháp
của nước họ đến – trong đạo luật cấm đạo đầu tiên Vua Minh
Mạng ra lệnh đóng cửa tất cả nhà thờ và kiểm soát nghiêm
ngặt tàu bè, bờ biển và triệu những vị truyền đạo về Huế, để
dịch sách vở Âu Châu.
Năm 1839, Anh can thiệp quân sự tại Trung Quốc “Chiến
tranh nha phiến “bùng nổ. Vua Minh Mạng hiểu ngay đó là
mối đe dọa của đế quốc Tây phương sắp đè nặng lên xứ sở
mình. Ngài cho rằng nên thăm dò ý đồ các nước Châu Âu hầu đi
đến một thỏa hiệp về đạo Thiên Chúa cũng như về buôn bán.
Chính nhằm mục đích đó, đầu năm 1840, ông gởi nhiều đoàn sứ
giả đi Pénang, Calcutta, Batavia, Paris, Luân Dôn. Tại Ba
Lê, đoàn sứ giả không được Louis Philippe yết kiến, các phái
bộ truyền giáo nước ngoài, để ngăn chận một hiệp ước mà họ
sợ phải gánh chịu sự thua thiệt, đã mưu mô vận động ở triều
đình trình báy vua Minh Mạng như một kẻ thù quyết liệt của
tôn giáo và giáo hoàng cũng phản đối.
Khi các sứ thần trở về Huế, Minh Mạng vừa mới băng hà.
Dưới triều Thiệu trị sự cấm đạo chấm dứt. Theo lời yêu cầu
của Thuyền trưởng Evéque tàu Héroine, Tân vương bèn thả năm
người truyền đạo đã bị kết án tử hình. Chiếc Alemême thuộc
hạm đội của Đô đốc Cécille, năm 1845 cũng xin phóng thích
giám mục Lefébvre. Được đưa về Singapour, Giám mục nầy không
bao lâu lại trở lại Việt nam, dù ông biết pháp lệnh trói
buộc ông, Bị bắt giữ ở cưa sông Saigon, Ông chỉ đưa lại
Singapour.
Nhưng áp lực phương Tây gia tăng, và võ lực sẽ tiếp nối
sự thuyết phục.
Nhờ Hiệp ước Nam Kinh (1842 ), Anh quốc chiếm được Hồng
Kông và mở năm cảng, Pháp cũng nhận được các mối lợi tương
tự qua Hiệp ước Hoàng Phố (1844 ), ngoài ra còn được lời
hứa tự do truyền đạo. theo lời kêu gọi của các nhà truyền
giáo nền quân chủ tháng bảy lúc đó nghỉ là cần can thiệp tại
Việt nam để có những đặc nhượng tương tự. Trong mục đích đó,
Anh đã phái đến hai tàu chiến do Rigault De Genouilly điều
khiển, y tống tối hậu thư đòi rút lệnh trục xuất và đạo
Thiên Chúa phải được tự do truyền giáo tại Việt nam như tại
Trung Quốc, trong cuộc thương thuyết tại Đà Nẳng, Pháp thấy
các chiến thuyền Việt nam đến gần, chúng liền tấn công mà
không một lời báo trước và đến đánh đắm toàn thể đoàn thuyền
(1847 ) Vua Thiệu Trị tức khắc ra lệnh xử tử mọi người Âu
Châu trong nước. Sau đó, không bao lâu ngài băng hà.
Từ 1825, như thế giữa Pháp và Việt nam không có liên lạc
nào khác hơn là các cuộc viếng thăm của các tàu chiến mà mục
đích chính là bảo vệ các người truyền đạo. Thực tế thì các
can thiệp đó có hại hơn là có lợi. Quả vậy, các biện pháp đe
dọa chỉ gia tăng “Hận thù và khinh bỉ “của các vua chúa
Việt nam đối với đạo mới. Sự báo nguy trận tấn công của
Rigault de Genouilly thật trầm trọng cho Việt nam. Vua Tự
Đức, người nối ngôi Thiệu Trị, và các quan lại ý thức đúng
mức về tai họa dẩn đến.
Nhưng triều đình Huế, để đương đầu với các mối nguy và
các tham vọng lớn của phương Tây, không tìm ra cách tự vệ
nào khác hơn là chính sách “Bít ải đóng cảng “ triệt để.
Đồng thời chính sách tôn giáo của Huế không thay đổi, vì
thái độ và chính sách của các nhà truyền đạo không hề thay
đổi. Thật vậy, những người nầy vẫn tiếp tục xúi giục nổi
loạn, can thiệp vào các âm mưu trong triều luôn luôn với mục
đích lật đổ vua đang trị vì để thay thế bằng một kẻ khác tận
tâm với họ. Vụ Hồng Bảo là một ví dụ, Bị gạt ra khỏi ngôi
vua, Hồng Bảo là anh ruột của vua Tự Đức, bèn kêu cứu đến
các người truyền đạo ở kinh đô, hứa với họ việc được tự do
tôn giáo nếu các con chiên tham gia cuộc nổi loạn. Phe cánh
Hồng Bảo còn trả tiền trước cho các người truyền đạo để đạt
được sự giúp đở của Châu Âu. Âm mưu bị khám phá, Tự Đức ban
bố đạo dụ trục xuất thứ nhất (1848 ) chống lại “những kẻ cả
gan đến độ quyến rủ một hoàn thân “ và hơn lúc nào hết bắt
đầu giữ chổ trong đời sống chính trị trong nước. Hai dụ khác
1851 và 1855, đuổi các nhà truyền đạo nào vẫn tiếp tục vào
Việt nam.
Triều đại Đế chế thứ nhì đánh dấu một bành trướng mới của
Pháp. Năm 1855 Napoléon Iii ra lệnh phái đoàn y tại Trung
Quốc tập trung mọi tài liệu các phái bộ truyền giáo Đông
Dương mà y muốn che chở và ở đó y tìm ra người để đương đầu
với Anh. Phái đơàn Montigny được gởi ra Huế để đòi tự do
truyền giáo và buôn bán cùng lập một tòa Lãnh sự ở Kinh Đô
và một hãng buôn ở Đà Nẳng. Trước đó đã có một tàu chiến,
chiếc Catinat, tấn công biện pháp phòng vệ của các quan chỉ
huy thành trì Đà Nẳng, tàu nầy tự cho mình có quyền đánh úp
một trận trên cảng nầy ( 1856 ) Đến Huế vào tháng giêng
1857, Montigny không đạt được gì cả mà phải ra về vì không
được Tự Đức tiếp.
Ghi Chú:
[1] Lúc đó Việt Nam bị chia hai, dưới quyền hai
họ thù nghịch, miền Bắc thuộc Trinh, miền Nam thuộc Nguyễn
[2] Taboulet, Công nghiệp Pháp ở Đông Dương,
Paris 1955 Andriou-Maisonnuve tập 1 tr 15
[3] Contier, Đại cương Lịch sử Trung Quốc, tập
III
[4] Contier, Đại cương Lịch sử Trung Quốc, tập
III
[5] P.Isoart, Hiện tượng quốc gia Việt nam
[6] Thư khố Bộ ngoại giao, Châu Á tập 27 tr
136-137
[7] “Nếu các người trong xứ nào muốn đến nước
tôi buôn bán, Minh Mang viết trong thư gởi Louis XVIII, họ
phải tuân theo luật lệ, vì đó là điều hợp lý “(Silvertre,
la Politique Francaise dans L’Indochine) Niên giám của
trường Tự Do về khoa học chính trị 1859.
Những bài cùng tác giả.