Hôm nay tui xin tạm gát qua đề tài ’chính chị ...
em ta, cùng với các cha, các cố’ để trình bà con một câu chuyện nhẹ
nhàng êm ái hơn nhân sau khi tình cờ xem được bộ phim dài của Thái Lan
trên mạng, tựa đề “Chàng Tỷ Phú Mù”. Quả thật mới đọc tựa đề tui cứ
tưởng sẽ là một lọai phim rẽ tiền hạng C dành cho giới ‘ma rĩ phông ten’
giải trí, định bỏ qua; nhưng sự tò mò muốn biết phim ảnh Thái lúc rày ra
sao so với các nước khác trong vùng nên nhấp vào. Xem xong lòng tôi mang
nhiều mối thiện cảm và khâm phục kỷ thuật làm phim của dân ‘đất lành
Phật ngự’ này, không như thiên kiến coi thường sẳn có trước đây, nên cố
giành thì giờ để làm công việc quảng cáo không công cho phim ảnh Thái
Lan mà chuộc lỗi.
Thực tình bao lâu nay tui vẫn cho là những ai đã bỏ
thì giờ xem các bộ phim truyện dài tình cảm, xã hội hay võ hiệp ba lăng
nhăng của Hồng Kông và Đài Loan sản xuất trước đây chắc phải là vô công
rỗi nghề. Còn nhớ từ những năm của thập niên ‘80s, ở hải ngọai tôi đã
từng nghe có nhiều người bỏ cả công ăn việc làm, cơm nước, chỉ gặm bánh
mì, thức trắng đêm để xem cho hết những bộ phim kiếm hiệp kỳ tình phỏng
theo các cuốn truyện của Kim Dung; tiếp đến là những bộ phim tình cảm
yêu đương, éo le ngang trái đẫm lệ các bà dựa vào các cuốn tiểu thuyết
của Quỳnh Dao. Ba Tàu thì giỏi mấy cái vụ này lắm. Các lão bối mình ngày
xưa đã không từng ngất ngư con tàu vì những ‘Hồng Lâu Mộng’ đấy sao?
Cũng nhờ đó mà các tiệm dịch vụ thuê và sang phim, bán đầu máy chiếu,
máy quay ngược quay xuôi, vv... trong cộng đồng di dân Á châu đã nở rộ
như nấm gặp mưa. Ôi thôi, từng bộ phim truyện từ 5 đến 10 cuộn VHS đã
kéo dài thành hằng mấy chục cuộn lê thê để xem cả tháng, cố kiếm bạc cắt
của mấy đấng tị nạn đang hưởng trợ cấp công cộng, dư thừa thì giờ tha hồ
ngồi nhà say sưa mùi mẫn.
Tưởng “thôi thế là thôi là thế đó!” Ai ngờ lại xuất
hiện các công ty An-nam-mít di dân, sau một thời gian chuẩn bị bèn đua
nhau làm chương trình ca nhạc ‘nhớ ngày xưa, cưa chuyện cũ’, đánh vào
tình cảm xa quê của bà con, như Thúy Nga Paris, Asia, Vân Sơn vv... ào
ào nhập cuộc. Nhưng phải nói là tuy hình thức kỷ thuật phương tiện sân
khấu tân kỳ sẳn ở của xứ người có khá hơn xưa nhưng nội dung thì vẫn
‘đường xưa lối cũ’ đến chán như cơm nếp nát. Cũng chứng ấy bài bản, cũng
chừng ấy phong cách, cộng thêm vài ba đọan mở đầu của MC ra vẻ văn
chương một đống, nhưng kỳ thực rỗng tuếch kiểu thùng rỗng kêu to; nghe
mãi cùng giọng điệu, nhìn mãi cùng gương mặt đến ... ớn lên tới cổ.
Vì thế tui có lối xem các lọai video ca nhạc này
rất khác người, cốt chỉ để cập nhật hóa thời cuộc mà thôi. Sau này, khi
thỉnh thỏang có con cháu gởi biếu, hay bạn bè đưa xem; tui chỉ thóang
khỏang 5-10 phút là xong một cuộn, hay bây giờ là một đĩa DVD. Có gì
đâu, tui cho máy chạy tới nhanh rẹt rẹt, ngưng một chút ở phần giới
thiệu xem có gì mới lạ không, rồi chạy nhanh rẹt rẹt xem ca sĩ hát một
đọan ngắn thôi, rồi lại chạy tiếp rẹt rẹt. Cứ thế là xong không mấy
chốc; bởi vì các bài hát ấy đã cũ mèm như giẽ rách và đã tràn ngập trên
thị trường bán sale vĩa hè tràn lan như vỏ hến; nếu muốn thưởng thức thì
cứ mở CD hay mp3 ra nghe trong khi còn làm chuyện khác thì tốt hơn. Việc
gì lại phải vừa khổ công, mất thì giờ và khổ ... mắt xem các cô cậu ăn
mặc thiếu vải, uốn éo, điệu bộ múa men chẳng ... giống ai. Ồ có chứ!
giống đám Mỹ đen trên MTV hay VH1.
Kỷ thuật phim ảnh cứ tăng tiến không ngừng. Thị
trường chuyển sang VCD rồi DVD. Tiếp đến là đợt ‘sóng thần’ phim bộ tình
cảm của Hàn quốc. Tiếc là tui chẳng có nhiều thì giờ để xem được bộ nào,
nhưng nghe các bà khi gặp nhau là ríu rít bàn chuyện ‘mấy cũ sâm’ đến
... say sưa; hoặc trên mâm vào những bửa ăn đã thấy bày ‘kim chi’ chua
lè. Có những lúc bất chợt thấy các bà sụt sùi sụt sịt chấm lệ thương cảm
theo các nhân vật trong phim mà tui chẳng biết chuyện gì đã xãy ra. Bão
lụt bên nhà chăng? Nam bộ ngập nước chăng? Gớm thật, bây giờ mới biết
những cái tên lạ hoắc như Park, Jeong, Kim, Yi, Lee ... bắt đầu xâm nhập
vào quả tim bé nhỏ của các kiều nữ An-nam. Ai bảo nó không giúp gia tăng
việc các nàng bé bé xinh xinh trong nước mê lấy chồng Hàn để thụ hưởng
nhân sâm?
Ngay cả ở Mỹ còn có một kênh Cable TV tên là AZN
Television trên Comcast chuyên tãi những phim ảnh Á châu, chủ yếu là
Nhật, Nam Hàn, Trung quốc và Ấn-độ. Vào khỏang năm 2006 tình cờ thấy nó
chiếu bộ ‘Dốc Tình’ của Việt nam làm tui bắt đầu chú ý đến phim ảnh
Việt. Nhưng chẳng hiểu vì lý do gì - hết tiền chăng? - từ đó chẳng còn
thấy phim Việt xuất hiện nữa. Lại nữa, khi kênh này chiếu bộ ‘Ju-mong’
nói về nhà vua đầu tiên của Triều tiên lập quốc; đang ngon trớn nó nổi
chứng tuyên bố là ai muốn xem tiếp phải chuyển hệ từ cable sang hệ
digital, làm cho tụi Comcast kiếm bộn tiền. Như thế đủ thấy mãnh lực hấp
dẫn của điện ảnh Hàn quốc không thua gì Hundai, Daewoo, Samsung ...
Truyền thông phim ảnh ngày nay là một vũ khí tẩy não khá hiệu quả và
tinh vi.
Tìm hiểu thêm về phim ảnh Việt nam trong thập niên
vừa qua thì thấy cũng đã đạt được khá nhiều tiến bộ; tăng tốc nhất có lẽ
là từ sau ngày Việt nam gia nhập WTO. Nhà nước chịu nhường nhiều kênh
VTV cho các đại công ty, đại tổ hợp các nước ĐNÁ quảng cáo thương hiệu
nên có nhiều tài khỏan cho việc sản xuất phim truyện dài.
Tình thế chính trị xã hội trong nước cũng dần đổi
thay - cứ như anh nhà quê vừa ở làng lên tỉnh, sau khi ù chạy băng qua
đường phố đầy xe cộ một cách an tòan liền có chút tự tin - Các ngành
nghệ thuật tạm được cỡi trói và kỷ thuật làm phim tiến bộ được du nhập
nên có phong trào đua nhau sản xuất những phim bộ nhiều tập đến hàng
chục đĩa, xem mệt nghỉ. Ban đầu chỉ là dăm ba bộ video ca nhạc, kỷ thuật
còn thô sơ ... như thời ... ‘trường sơn đông nhớ trường sơn tây’, quay
cảnh làng quê mộc mạc, mái đình, con đê, người dân lam lũ... dần tăng
lên những bộ ‘nhạc tiền chiến bất hủ’, ca sĩ được thóat xác, mặc áo dài
tha thướt, vãi màu sặc sỡ. Rồi khi nghe ngóng chẳng có ông cán bộ kiểm
duyệt văn hóa nào tằng hắng bèn... tân thời tiến nhanh tiến mạnh lên
thành thị phô diễn những mảng tiêu cực của xã hội ăn chơi, đua đòi, kinh
tế thị trường, doanh nghiệp công tư vv...
Theo dõi ta thấy cũng theo mức độ gia tăng mức sống
kinh tế trong nước mà các nhân vật cũng thay đổi phương tiện di chuyển
từ đi bộ, ghe xuồng chèo tay trong ‘Đất Phương Nam’ qua đến đi xe đạp
như trong ‘Dốc Tình’, rồi cỡi độc mấy con ngựa già ốm nhách trong ‘Lục
Vân Tiên’, rồi leo lên xe Dream trong ‘Đồng Ttiền Xương Máu’, phóc xe
lửa trong ‘Giòng Máu Anh Hùng’, rồi chạy xuồng gắn động cơ hay xe búyt
trong ‘Hương Phù Sa’, xong đến xe riêng, nhà to cửa lớn sang trọng trong
‘Mùi Ngò Gai’... Hình như các lọai phim lịch sử oanh liệt thời chống
Pháp như ‘Ngọn Nến Hòang Cung’, ‘Những Đứa Con Thành Phố’ vv... nay đã
‘diễm xưa’ và nhàm rồi không còn được quan tâm mấy. Nhưng nhìn chung thì
quang cảnh xã hội trong phim còn quá nhiều lôi thôi luộm thuộm; căn biệt
thự sang trọng nằm kề khu ổ chuột; đường sá thì rác rến, ổ gà, nước
thải, bụi đường… cứ như là ‘killing fields’; giòng xe cộ thì đủ lọai hằm
bà lằng vô trật tự, dám nghĩ các xứ châu Phi còn khá hơn thế! Rồi tài
tử, chuyên viên, ca sĩ Việt kiều già trẻ lủ khủ kéo nhau về nước hợp tác
biểu diễn, làm phim hay sản xuất video, DVD… theo lời kêu gọi ‘hòa hợp,
hòa giải’; và dĩ nhiên mấy ông giáo gian và chăn chiên Ca-tô ... cũng e
thẹn, ngại ngùng theo lệnh bề trên mang tiền về giúp các họ đạo và làm
dân vận mua chuộc các giới chức đảng viên biến chất.
Theo đúng bài bản tòan cầu hóa, bộ ‘Mùi Ngò Gai’,
là sự hợp tác giữa tập đoàn CJ Media của Hàn quốc và Hãng phim Vifa của
Việt nam; nghe nói dài đến 100 tập, đã được chiếu trên kênh HTV9, mỗi
tập dài 50 phút. Từ kịch bản cho đến đạo diễn, rồi âm thanh, ánh sáng,
quay phim, dựng phim, thiết kế chính trong phim đều do người Hàn làm hết
ráo; còn phía Việt chỉ là ... thợ vịn, nên phim nặng mùi kim chi hơn là
hăng hắc mùi ngò gai.
Không lạ gì một khi các ông chủ tài phiệt Hàn quốc
bỏ tiền sản xuất nên quả là có lắm trò lố bịch. Trong bộ phim, các ông
chủ Hàn luôn được đề cao là những người tốt bụng đầy lòng nhân ái, lúc
nào cũng có những tay ‘thông ngôn’ phụ tá đi kèm để tâng bốc làm ta nhớ
lại thời tây thực dân chẳng khác. À thì ra ở thời nào ‘nịnh bợ ngọai
nhân’ vẫn là dân tộc tính của người Việt. Đã qua lâu rồi những ‘tội ác
của bọn đánh thuê Nam Hàn trong cuộc chiến Việt nam’. Đồng tiền quả là
có khả năng lớn trong việc rữa sạch mọi xấu xa phạm phải trước đây. Câu
chuyện quay quanh tiệm phở, dĩ nhiên là có nhiều ngò gai, nơi nhân vật
chính là cô Vi sinh sống; đêm kê mấy cái bàn ăn lại mà ngủ; và ông chủ
Hàn lại khóai ăn ... phở.
Có cả cảnh ông chủ cùng thông ngôn ngồi ăn ở bàn,
cô Vi đến chào hỏi và nhác thấy dây giày của ông chủ Hàn bị sút ra liền
không ngần ngại quí xuống dưới gầm bàn để buộc lại dây giày cho ông ta.
Ôi, nhân cách của thiếu nữ Việt nam được biểu hiện rẽ tiền đến thế ư?
Theo tui tụi Hàn diễn tả như thế là còn nhẹ nhàng lắm so với thực tế đời
sống. Ở một vài cảnh khác, thì cô ta lại căm hờn người cha ruột, giám
độc của một đại công ty trong nước, đã bỏ rơi mẹ con cô. Rõ là ‘một giọt
máu đào nhạt hơn một ao nước lã’. Cha thì ghét, còn ông Hàn thì thương!
Đạo lý Việt đấy ư?
Lại có nhiều cảnh cô Vi và cậu Khanh, người em cùng
cha khác mẹ với Vi nhưng không hề biết sự liên hệ huyết thống, trót yêu
nhau cùng đến nhà thờ Tin Lành để cầu nguyện. Một đất nước với đại đa số
dân theo Phật giáo mà các nhân vật của bộ phim này ... nhất định phải
vào nhà thờ Chúa cầu nguyện mới được. Âu là khía cạnh tuyên truyền nhẹ
nhàng của đồng tiền được bỏ ra?
Xem xong phần lớn bộ phim (vì nghe đâu bị ngưng
ngang xương!) nhiều người thất vọng quá với những đối thoại dài lê thê
nhạt thếch, bối cảnh thì hết tiệm phở đến nhà trường, hết nhà trường về
tiệm phở đến mờ cả mắt, diễn xuất thì tầm thường ... lắm lúc cô Vi bỗng
cười lên hô hố thực vô duyên cứ như là ... mát dây. Tòan bộ cuốn phim,
với ngân quỉ to lớn như thế mà chẳng chuyển tải được một khía cạnh đẹp
nào của văn hóa Việt, và hình như cốt đánh bóng người Hàn để họ sang
Việt nam sau này làm ăn dễ hơn chăng? Quả là một lối tuyên truyền siêu
hạng. Tiền bỏ ra thực đáng!
Thêm nữa, gần đây những tin tức xấu về các ‘giáo
hội’ Phật giáo trong và ngòai nước (giáo hội của ai?). Ở hãi ngọai thì
‘mấy ông thầy chùa háo danh’ đang chia rẽ trầm trọng do những tay lái
buôn chính trị mang danh Phật tử nhận tiền ngọai bang và ngọai đạo để
phá nát uy tín của hàng tăng già, biến chùa chiền thành những ổ chống
cộng ăn theo; tay Phật cũng phải cầm cờ vàng ba sọc thay vì cầm hoa sen,
lạng quạng không theo đúng chỉ đạo là bị bọn côn đồ xóm đạo đến quấy
nhiễu. Tự do tôn giáo mà lị! Chẳng hiểu mấy ‘ông thầy chùa’ này thường
có đọc Kinh Pháp Cú với đọan “lấy óan báo óan, óan óan chập chùng; lấy
đức báo óan, óan ấy tiêu tan” không nhỉ? Đạo Phật là đạo từ bi; nhưng
sao các vị cứ mãi chìm đắm trong căm hờn chống cộng vậy? Để được gì nào?
Hay muốn yên thân? Bây giờ vở lở ra thì đã muộn; xấu hổ cả một tập thể
bất tài vô trí. Thực sự điều này nhiều Phật tử chân chính đã thấy rõ từ
lâu, bíết trước con đường ‘nhân quả’ phải đến, nhưng cô thế đành phải im
lặng tránh xa chùa chiền; đó cũng là trúng kế của ngọai đạo nằm vùng
trong cái tổ chức giáo hội này.
Còn trong nước thì các ‘sư ông đảng viên’ chen vào
hàng ngũ lãnh đạo lèo lái Phật sự theo đúng chủ trương của Mặt trận Tổ
quốc - mà các ‘tu sĩ đảng viên’ này không tôn giáo nào trong nước mà lại
không lồng vào nằm vùng - nên những tệ nạn suy đồi đạo hạnh của mấy ‘ông
thầy chùa trẻ’ ở các tỉnh hội cứ như nước vỡ bờ. Tin tức liên tục về sự
sa đọa mê say sắc dục, ham muốn vật chất, tiền tài, danh vọng của các
‘ngài mặc áo nâu sòng’ đã làm cho uy tín của Phật giáo càng sút giảm và
hình ảnh của Phật giáo càng bị ‘phá sản’ trầm trọng trong lòng dân
chúng. Có lẽ đây cũng là một chủ trương kín đáo?
Chẳng qua cũng là do tự thân bệnh họan, tự lực suy
yếu của các tổ chức Phật giáo Việt nam, vốn thiếu sức mạnh tập thể,
thiếu tăng tài cao đức, thiếu tầng lớp cư sĩ hộ pháp kiên cường nên đành
để chiếc bè trôi sông ... tùy duyên. Các sư ông cứ mãi hăng hái bàn
chuyện ‘tánh không’ của vạn hữu nên xem cái gì trên đời cũng đều là
‘không’, và cứ tiếp tục lim dim ‘tọa thiền’, chẳng buồn nhấc tay đuổi
ruồi nữa. Cũng mong các sư cứ tíếp tục ‘vô vi’ như thế - hợp ý các thế
lực ngọai bang và ngọai đạo hằng mong muốn - để ngộ ra các pháp hư
huyển, tới một lúc chẳng còn chỗ để đặt tọa cụ mà ngồi. Đến lúc ấy chắc
là các sư phải lên chổ thâm sơn cùng cốc để tu tiếp ... với khỉ thôi.
Gương của Ngài Lạt Ma Tây Tạng còn sờ sờ ra đấy. Nay phải đi nhờ các
cường quốc Ki-tô can thiệp giùm để mong có ngày tự trị. Thương thay.
Sức mạnh và nghị lực của các sư là
lấy việc nghiêm trì giới-định-tuệ để tăng
cường đạo hạnh và phát huy bản thể thanh tịnh lục hòa của Tăng già. Một
khi các vị cứ nghe lời xúi giục của ngọai đạo chuyên chú chống cộng mà
quên công phu tu tập thì hậu quả bi đát không lường phải xảy ra. Vã lại
ở thế giới tây phương đầy cám dỗ vật chất, quí vị không kiên định đạo
hạnh thì dĩ nhiên sớm bị ‘ma ngọai đạo đưa lối quỉ ngọai bang dẫn đường’
mà thôi. Than thở với ai? Chỉ vì quí vị quên mất lời Phật dạy đấy thôi.
Riêng bàn về chuyện truyền thông; thì ở hải ngọai,
hết hồi tang thương ngẫu lục sau chuyến tháo chạy của bộ máy cầm quyền
Ca-tô miền nam, dần dần các bề trên Vatican ‘lên tiếng gọi đàn’, chi
tiền ồ ạt để tái tổ chức nắm bắt lại các đòan thể chính trị, các hội ái
hữu, các hội văn hóa, các cơ sở truyền thông, điện đài, báo chí ... để
tiếp tục thao túng các cộng động di dân Việt ở khắp nơi mà hang ổ là Hoa
Kỳ và Úc châu. Ngay cả các cơ sở sản xuất video ca nhạc, báo chí cũng có
các nhà thờ đầu tư vào để lèo lái đường hướng theo chủ trương của tòa
thánh. Bọn họ chỉ tung hê những văn sĩ, nghệ sĩ phe ta ngoan đạo, cổ đeo
thập giá thực to trước ống kính; trong khi đó lại trơ tráo bôi nhọ những
tài năng Phật tử trong và ngòai nước không chịu chui vào tròng kim cô
của Ca-tô.
Ở nơi tui sinh sống, vào các năm 80s, cộng đồng
công giáo Việt nam địa phương muốn có nhà thờ riêng nhưng không đủ khả
năng vay tiền ngân hàng tư liền phải đến chầu chực ca bài ca con cá sống
nhờ đô-la với tòa tổng giám mục địa phận. Có ông ‘trùm sò’ tiết lộ “Bộ
bác tưởng là vay không lời ấy ư? Đừng có nằm mơ! Nào có kém gì ngân hàng
bên ngòai, nhưng ít điếu kiện giấy tờ hơn!” À ra thế! Không thầy đố mầy
làm nên.
Do đó mà ta thấy các video ca nhạc nổi danh hải
ngọai đều do bầu đòan các tay Ca-tô gộc làm chủ, rồi đến MC cũng thế, để
nhẹ nhàng nhồi nhét vào chương trình những tuyên truyền có lợi cho giáo
hội mình. Trong nước thì nào có khác, các nội dung văn nghệ đều được ban
văn hóa Đảng chỉ đạo, bố anh nào giám đi chệch. Do đó mà có thể bảo các
sản phẩm nghệ thuật văn hóa được sản xuất trong và ngòai nước hiện nay
chẳng hề phản ảnh đúng bản sắc dân tộc Việt, cho dù cả hai phía đều tự
đánh lừa mình. Chúng trở thành lai căng kệch cỡm, tây không ra tây, Việt
không ra Việt - gống hình ảnh tui nhìn thấy ở Hà Nội năm nào, mấy anh
phu cyclo mặc áo veston cà vạt đạp cyclo cho đòan đám cưới; trông ngộ
nghĩnh đếch chịu được! Nhưng ít ra nhà cầm quyền Cộng sản còn cai quản
được tòan bộ đất nước với gần 85 triệu dân; còn cái thành phần nhố nhăng
ở hải ngọai chỉ là một đám dân ăn nhờ ở đậu, không một mãnh đất cắm dùi,
không có một người dân để sai bảo, chỉ trừ đám dân chúa trong nhà thờ cứ
mãi sống trong ão vọng, giương cao ngọn cờ vàng (màu của Vatican) với ba
sọc đỏ tượng trưng cho ‘Chúa Ba Ngôi’.
Điều khôi hài đen của các thành phần di tản cuồng
tín này là khi họ đến đây chỉ là dân mất gốc từ một xứ nhược tiểu khố
rách áo ôm, sống nhờ trợ cấp của nhà nước sở tại, sinh họat đàng đúm với
nhau trong các cộng đồng hạn chế hay các họ đạo, giáo xứ. Sự chống cộng
hung hăng con bọ xít theo kiểu mafia thô bạo với đồng hương nào có ảnh
hưởng gì đến các cộng đồng dân da trắng. Cứ thế sau vài năm được hưởng
những tiện nghi sẳn có, bỗng chốc thấy mình văn minh hơn, cứ như được
truyền lại từ tổ tiên; xu hào rủng rỉnh hơn, lên mặt khinh chê sự nghèo
khó của đồng bào trong nước; rồi lại được lệnh bề trên cũng ra điều kêu
gào dân chủ, nhân quyền ở Việt nam cốt lôi kéo đám giáo gian đạo quân
thứ 5 trong nước gây bất ổn, mà bản thân mình cũng chẳng hiểu ý nghĩa ra
sao. Mọi sự đều có lợi cho Vatican trong việc điều đình và làm áp lực
với nhà nước Việt nam. Cái dân chủ và tự do họ được hưởng ở đây tựa như
cái chuồng gà, có nghĩa là chủ cho ăn cho uống để sống trong cái phạm vi
cho phép ấy mà thôi; chứ chúng mày mà gây phiền tóai ở các nơi làm ăn
của chủ da trắng là ông ... thịt chúng mày ngay. Họ nào có chịu hiểu
điều đó, vẫn thấy mình được tự do... đi nhà thờ nghe mấy ông chăn chiên
xách động. Đáng tội nghiệp cho bầy chiên, chủ chăn bảo sao nghe vậy một
cách điên cuồng.
Nghĩ cũng thương cho cái khối “thành phần thứ ba”,
nghĩa là đại đa số dân chúng Việt phi Ca-tô và phi Cộng sản ở trong và
ngòai nước cứ luôn bị chèn ép dập vùi một cách khốn nạn bới hai thế lực
hung hãn này mà không ai đủ mạnh để lên tiếng bênh vực hoặc tự bảo vệ.
Còn nhớ trong lịch sử Phật giáo, khi nào mà hàng tăng già được nhà nước
tôn sùng kính trọng; tiếng nói của tăng già có trọng lượng trong chính
sách quốc dân bởi sự hổ trợ qua sức mạnh của Phật giáo đồ thì đất nước
được thái hòa cường thịnh. Còn ngày nay tăng già thì chỉ như ‘hàng giấy’
ngày Vu Lan; mẫu mã hình thức bên ngòai thì lòe lọet mà thực chất thì
rỗng tuếch. Một đạo Phật Việt bị đập tan nát qua bao chế độ từ thực dân
Pháp cho đến Ca-tô rồi Cộng sản sau mấy ngàn năm tồn tại, chưa bị tiêu
diệt hẵn đã là may. Đó cũng là lý do mà nhiều người dân cô thế đành phải
chọn lựa một thế lực có tổ chức trên thế gian khả dĩ có thể bảo vệ được
họ và quyền lợi của họ để có chỗ đứng dưới ánh mặt trời. Hoặc theo Ca-tô
để làm tay sai cho ngọai bang mà hưỡng mọi nguồn lợi vật chất; hoặc vào
đảng Cộng sản để được ăn trên ngồi trước quyền cao chức trọng để vơ vét
cho đầy túi tham. Khi tàn cuộc ai thắng ai thua sẽ hạ hồi phân giải chứ
lừng khừng đứng giữa, như mấy ông bà Phật tử (làm sao mà nhận diện được
ai là Phật tử nhỉ?) thì nắm phần thua là cái chắc.
Đang lúc nãn lòng vì những trăn trở trên, như đã
nói tôi tình cờ xem được bộ phim “Chàng Tỉ Phú Mù” của Thái làm tui thơ
thới tấm lòng được vài ngày. Khi có thì giờ bà con cứ bấm vào đây mà
xem:
Tài tử son trẻ đẹp đẻ, phục sức thời trang nhưng
luôn kín đáo nề nếp, cảnh sắc tươi mát, lâu đài bề thế ở Bangkok và ở
Paris, cốt chuyện nhẹ nhàng nhân hậu, không hề có những cảnh suy đồi đạo
đức hay bạo lực như trong các phim ảnh tây phương. Điều tui cảm phục là
nó chuyển tãi được bản sắc dân tộc Thái tôn sùng đạo Phật một cách sâu
sắc. Khi gặp nhau họ luôn chấp tay cúi đầu vái nhau, buông tiếng ‘Baidi
Khap!’ (Chúc sức khỏe) rất dễ thương. Tui nghĩ tục lệ này dân mình cũng
đã có từ xưa nhưng dần bị các thế lực ngọai đạo xóa nhòa.
Nội dung câu chuyện thì chẳng có gì gay cấn cả, chỉ
là một chuyện tình đẹp của một Cinderella hiện đại Thái hay cô Tấm Việt
ngày nay. Phim nói tiếng Thái nhưng nhờ có phụ đề Anh ngữ nên ta có thể
theo dõi câu chuyện một cách dễ dàng. Có cô giáo âm nhạc ở nhà trẻ tên
Nathlada (gọi tắt là Lada) ở Bangkok, buồn vì bị gạt tình bởi Pithep,
một nhân viên bộ ngọai giao đẹp mã và đã có vợ; và bị bà vợ giàu có thế
lực Pruk đánh ghen ngay trước mặt các cháu bé nên xấu hổ tìm đến một
làng đánh cá ven biển là Hua Hin, rồi leo lên thành cầu của một con sông
định gieo mình tự vận. Đang lúc còn đang lưỡng lự thì có một anh chàng
mù quê mùa Khun Nu lần mò qua cầu vấp phải túi xách của cô ta, vô tình
va phải Nathlada làm cô rơi khỏi thành cầu. Nhưng may mắn cô nắm được
thành cầu và chàng mù rốt lại cứu được cô khỏi chết.
Thấy chàng mù mất gậy lần mò về nhà làm cô mũi lòng
nên dẫn đường hộ đến nữa đường và chàng chỉ cho cô thấy căn nhà lá tồi
tàn trông ra biển là nhà của chàng. Dù yên chí Khun Nu chỉ là một anh
chàng hàng cá mù nghèo nhưng Lada cảm ơn cứu mạng đã hứa giúp đở chăm
sóc cho Nu trong nổi tàn tật, và từ đó hai người có thiện cảm với nhau.
Nhưng Nu thực ra là một nhà tỉ phú trẻ từ Bangkok về Hua Hin nghỉ hè chờ
ngày đi Paris mổ mắt. Nu âm thầm giúp Lada tìm được việc ở nhà trẻ địa
phương do Nu đở đầu, nhưng Lada không hề biết. Để cảm tạ sự may mắn Lada
đem lễ vật đến chùa cúng chư tăng, và Nu cũng âm thầm đi theo dự lễ.
Không may là Pithep dò biết nơi ở mới của Lada nên
tìm đến Hua Hin, và bà vợ Họan thư chằng ăn trăn quấn đuổi theo bén gót;
rồi thêm một trận đòn ghen nữa làm Lada đành thôi việc và quyết ra đi.
Nu thất vọng khi hay tin, nhưng niềm vui vở òa khi Lada tìm đến tạ từ.
Bấy giờ Nu mong Lada theo giúp đở chàng ở Paris trong thời gian chữa
trị. Muốn làm việc đó thì hai người phải chính thức đăng ký kết hôn; rồi
Nu đưa Lada về tòa lâu đài tư gia của mình ở Bangkok giới thiệu với
người luật sư gia đình tên Vit và tòan nhóm gia nhân. Vợ chồng Vit có
hai đứa con, một trai nhỏ tên Amaj, một gái tuổi trăng tròn tên Mit. Bấy
giờ Nu mới tiết lộ với Lada mình là Chisanu Naresuan, con một của ông bà
Bá tước Ronnachai, và thừa hưởng một gia tài kết xù.
Sau khi Nu và Lada sang Pháp mang theo Amaj để tìm
trường học trong tương lai. Họ được Khatathep, bạn thân của Nu đang du
học tại Pháp đón về ở lâu đài riêng của Nu ở ngọai ô. Pruk vốn là em của
bà Vit, tên Nuan, lồng lộn lên quyết tìm theo phá đám. Nuan cũng muốn
cho con gái Mit của mình trở thành vợ của Nu, nên mọi người liền lập mưu
chia rẽ đôi nhân tình. Mit lại báo cho Lizzy vốn là bạn gái cũ của Nu;
chỉ vì ham danh lợi nên Lizzy đã lấy người chồng giàu có tên Khamlap
Lerkhami, một tên phóng đảng nên gia sản đang hồi khánh kiệt. Chính sự
chia tay giữa Lizzy và Nu đã làm cho Nu gây ra tai nạn xe hơi làm mù mắt
mình. Bây giờ Lizzy, đang muốn li dị chồng, nghĩ rằng đây đúng là cơ hội
cần chạy theo sang Pháp để lôi kéo Nu mà kiếm chát.
Cha của Pruk lại là giới chức cao cấp trong ngành
ngọai giao nên sau khi nghe con gái mình gọi điện thọai cầu xin liền ký
quyết định chuyển Pithep sang phục vụ trong tòa đại sứ Thái ở Paris.
Pruk và cháu gái Mit cũng theo tháp tùng. Vì thế cả vợ chồng Pithep,
Mit, Lizzy, về sau có cả chồng là Khamlap đều đến Paris.
Và thế là bao mưu mô xảy ra, gây bao hiểu lầm ghen
tương giữa Nu và Lada tưởng chừng đưa đến tan vở; nhưng đạo lý nhà Phật
không ngừng lưu chuyển nhẹ nhàng trong suốt cuộn phim như ‘ở hiền gặp
lành’, ‘làm lành tránh dữ’, ‘ác giả ác báo’, ‘luôn thể hiện hạnh nhẫn
nhục’, ‘không tham, sân, si’ để vạn pháp vận hành tự nhiên theo nhân quả
đã đưa đến hồi kết cục đẹp đẻ.
Có những đọan đối thọai dựa theo nhân sinh quan
thấm nhuần Phật pháp ấy rất sâu sắc. Phong tục Thái còn rất đẹp ở chỗ là
các nhân vật trong phim đều thuộc giai cấp quyền quí giàu sang trong xã
hội, sống trong những cung điện to lớn huy hòang; vậy mà đến ngày sinh
nhật của Lada, cô ta đã đến một ngôi chùa Thái ở ngọai ô Paris cúng
dường chư tăng, chứ không tổ chức tiệc tùng linh đình phung phí. Ta vẫn
thường nghĩ những phong tục Phật giáo cao quí chỉ được thực hành ở những
giai cấp bình dân nghèo khó của xã hội Thái. Ta nên xét lại cách nhìn
của mình.
Nét đẹp của phim Thái này khác với các cuốn phim
mang hơi hướng Phật giáo như ‘Xuân Hạ Thu Đông, rồi Xuân’ của Hàn quốc,
hay ‘Kundun’ của Tây tạng là không hề có các cảnh dâm dục trần truồng
nham nhỡ, không hề triết thuyết Bát nhã xa xôi. Nó nhẹ nhàng như một áng
mây lướt qua trên nóc chùa vàng, nhưng tác động quả là khá sâu đậm cho
người xem.
Qua suốt cuộn phim, điều cứ làm tui miên man suy
nghĩ là cái gì đã tạo cho xã hội Thái vừa tiến bộ, đẹp đẽ lại vứa có một
nền đạo đức Phật giáo thấm nhuần như thế? Dù Thái đã tiếp xúc với các
nền văn minh tây phương rất lâu nhưng Phật giáo ở Thái, vốn là thượng
tọa bộ, cũng như ở Myanma, Cambodia và Lào, vẫn là quốc giáo. Dân Thái
rất kính trọng tăng già, và chư tăng đạo hạnh rất cao, phong thái nghiêm
trang.
Tui cho đó là sức mạnh của Phật giáo nam truyền. Nó
vốn đi sát với lời dạy nguyên thủy của Đức Phật, gắn bó chặt chẻ và thực
tế hơn với xã hội nó du nhập, thiết lập được vai trò tương hợp đan bện
giữa giới tăng già và quần chúng. Vị trí của tăng giới rất cao trọng
trong các xã hội này. Vì sao vậy? Vì các ngài luôn theo đúng lời dạy của
Bổn Sư, dụng pháp nâng đức, giới hạnh viên mãn, đáng làm gương cho quần
chúng cúng dường. Nó đã giúp tạo nên một sức mạnh cộng đồng Phật tử rất
cao mà không cần đến bạo lực tranh quyền. Như thế Phật giáo nam truyền
thủ đắc một sinh lực tiềm tàng năng động.
Trong khi Phật giáo Đại thừa bắc truyền lại hay
chuộng hí luận văn chương, bàn chuyện viễn vông, hư tưởng, đi quá xa ra
ngoài đời sống thực tế của quần chúng. Giới tăng già đại thừa nhiều khi
vì sở học chưa cao đã giải thích sai lạc những luận giải của các đại
luận sư mà dẫn đến một nhân sinh quan hòai nghi yếm thế, pha trộn mê tín
dị đoan; rồi tìm cách xa rời quần chúng, kiến tạo chùa chiền ở những nơi
u tịch. Gương tu học, đạo hạnh và tri hành bất nhất của của các sư làm
cho quần chúng nghi ngờ chân giả. Giảng một đằng, nhưng hành lại một
nẽo. Miệng lúc nào cũng thuyết “mọi pháp đều hư huyển; mọi sự đều không”
nhưng vẫn còn thích danh vọng, chức tước, thích xài đồ xịn tốt, thích
ngồi xe êm nệm ấm, thích mở tài khỏan ngân hàng, thích đua nhau phát
hành băng giảng, video, ... thậm chí theo thời thượng thích kèm học vị
vào với pháp danh, dù miệng vẫn tụng “...nãi chí vô lão tử, diệc vô lão
tử tận, vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc”. Ngay cả Phật quả
còn vô đắc huống là những học vị thế gian? Không hiểu các thầy tổ ngày
xưa có làm thế không? Không hiểu những lời các ngài giảng về “Tứ diệu
đế”, về “Thập nhị nhân duyên”, về “Bát chánh đạo” ... có đi đôi với cuộc
sống của các ngài chăng? Chiếc áo đâu làm nổi thầy tu? Hàng Phật tử chỉ
mong các ngài luôn nêu cao nếp sống đạo hạnh như lời Phật dạy, để làm
gương tu tập cho giáo chúng; và nên xã thân bồ tát lăn vào xã hội để cứu
nhân độ thế hơn là ngồi mát ăn bát vàng.
Điều lý giải cho sự tương phản giữa hai hệ nam và
bắc truyền có thể là trong khi Phật giáo được chuyển từ Ấn độ sang đông
phương - thường là do những biến động khủng hỏang chính trị bi đát - nên
các luận gia thường kiến giải giáo pháp của Đức Phật theo lối hư vô
huyền hoặc, đưa đến thóat trần tìm quên. Cộng thêm khi Phật giáo tràn
vào Trung quốc đã pha trộn với Đạo gia, Lão giáo vào những thời lọan ly
Xuân thu chiến quốc; rồi bị các vương triều cai trị lợi dụng để ru ngủ
quần chúng mà đưa đến nhiều tông phái vô vi, cứ muốn lui vào chốn bồng
lai tiên cảnh.
Phật giáo đại thừa vì thế mà không tạo được một gốc
rễ chặt chẻ bám chắc vào cộng đồng xã hội Phật tử; tăng già và quần
chúng không giao thoa với nhau nên ít tạo được những nề nếp đạo đức Phật
giáo sâu săc cho xã hội. Chính vì thiếu thế quần chúng nên thành phần
lãnh đạo tăng già của các nước bắc truyền dễ bị các thế lực chính trị và
ngọai đạo khuynh lóat dễ dàng; và đất nước của Phật giáo đại thừa cũng
dễ bị xâm lăng bởi ngọai bang. Âu đó cũng là một bài học để bà con Phật
tử Việt xem xét lại mà tìm ra con đường chọn lựa tốt đẹp hơn cho sự
trường tồn của Phật giáo và dân tộc.
Thôi xin bà con cứ tạm xem cuộn phim để hòa mình
với vẻ đẹp của xã hội thấm nhuần đạo Phật trong một đất nước Thái Lan êm
ả.