TỰ DO, DÂN CHỦ BÊN NÀO NẶNG HƠN

Lý Nguyên Diệu

Điểm sách “THE FUTURE OF FREEDOM -
Illiberal Democracy at Home and Abroad”

Tác giả Fareed Zakaria

NXB: W.W. Norton, New York, 2007.

21 tháng 12, 2010

Thay lời tựa: ...Nhắc lại những bi hài kịch Dân chủ giả hiệu một cách thê thảm đó để đi đến một câu hỏi phi-toàn-cầu-hoá và rất Samuel - “The Clash of Civilizations” - Huntington: Có thật là người Việt chúng ta cần những nguyên tắc Dân chủ và Tự do nhập cảng từ Tây phương nầy? Câu trả lời đã đến hiển hiện từ một ông Vua và một ông dân...(LND)


Mối liên hệ giữa Tự Do và Dân Chủ tuy không khó định nghĩa như tình yêu nhưng cũng đủ phức tạp một cách hấp dẫn để trở thành một đề tài bàn cãi thường xuyên từ thời của Mạnh Tử bên Tầu cho đến Bill Clinton bên Mỹ. Đối với người Việt Nam ngày nay, Tự Do và Dân Chủ đã trở thành những khát vọng khẩn thiết hơn cả tình yêu, và nhiều khi còn hơn cả mạng sống của chính mình như Hoàng Cơ Minh, Trần Văn Bá đã chứng tỏ. Vì vậy mà tác phẩm “The Future of Freedom – Illiberal Democracy at Home and Abroad” (“Tương Lai của Tự Do – Nền Dân chủ phi tự do trong và ngoài nước Mỹ”) tuy được viết từ năm 2003 và tái bản năm 2007, vẫn phải làm cho người Việt Nam giật mình và đặt lại vấn đề với cặp giá trị song sinh tuy gần mà xa nầy.

Tác giả cuốn sách là Fareed Zakaria, một nhà báo Mỹ gốc Ấn Độ, tốt nghiệp môn Chính trị học từ Yale và Harvard (học trò cưng của Samuel Huntington), rồi làm việc cho nhiều cơ quan truyền thông nổi tiếng (Foreign Affairs, Newsweek International, Time; các đài truyền hình ABC, MSNBC) và cũng là tác giả của hai cuốn sách phân tích chính trị: “From Wealth to Power”, “The Post American World” thuộc loại bán chạy như tôm tươi.

Bằng một thứ tiếng Anh trong sáng, Zakaria phân giải những vấn đề chính trị, lịch sử quốc tế một cách nhuần nhuyễn như Vô Kỵ khoe tài múa Đồ Long Đao với người yêu Châu Chí Nhược. Gói gọn trong 270 trang của cuốn sách là câu hỏi: Dân chủ càng nhiều thì càng tốt cho Tự do? Và tác giả trả lời như một cô gái Huế: Chưa chắc. Lý do của câu trả lời ỡm ờ nầy là một nhắc nhở: Dân chủ chỉ là phương tiện để đạt đến cứu cánh là tự do. Và dĩ nhiên, nếu là cứu cánh thì chỉ có một, nhưng phương tiện thì có nhiều cách. Những cách đúng, những cách gần đúng và những cách sai. Dưới cái nhìn sắc bén của tác giả, thế giới hiện nay đang có rất nhiều cách sai hơn cách đúng. Kể cả “cách sai” của nước Mỹ với một hiến pháp không thay đổi từ hơn 200 năm qua. Kể cả “cách sai” của quê hương Ấn Độ của Zakaria với nền dân chủ vĩ đại nhất bao gồm hơn một tỉ người dân làm chủ.

Tiếp cận chủ đề “Dân chủ chưa chắc tạo Tự do” nầy như một bác sĩ giải phẩu, Fareed Zakaria chia sách của ông ra làm hai phần: một phần chẩn bệnh thấu đáo và một phần chữa bệnh độc đáo.

Trong phần chẩn bệnh, tuy tác giả không nhắc đến lời dạy khúc chiết “Dân vi qúy, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” của Mạnh Tử, nhưng ông cũng cẩn thận kéo Herodotus từ thời hoàng kim của Hy Lạp để đào ra được định nghĩa “dân chủ nghiã là . . . dân làm chủ” (“the rule of the people”). Từ đó tác giả nhắc lại dân chủ chỉ là một phương tiện mà bầu cử là thể hiện đích thực và trực tiếp. Như đinh đóng cột: Không có bầu cử thì không có dân chủ! Mỗi người một phiếu, ai được 51% phiếu thì thắng.

Ngay tại đây tác giả đã nêu ra điểm yếu của phương tiện nầy: Adolf Hitler đã dùng những mánh khóe bầu cử để nắm được chức Thủ tướng nước Đức. Và gần đây hơn, cuộc trưng cầu dân ý năm 1989 ở Kosovo đã đẻ ra một hiến pháp rất đẹp nhưng từ đó lại mọc ra một chính quyền gay gắt kỳ thị chủng tộc. Trong một chương sách dành cho lịch sử của khái niệm Tự do, tác giả chứng minh không chỉ có yếu tố Dân chủ mà còn có các yếu tố khác liên hệ đến văn hoá, luật pháp, chính trị cũng cần thiết cho sự tăng trưởng của Tự do. Ngoài ra còn có một mối tương quan chặt chẽ giữa tự do kinh tế và tự do chính trị.

Sau khi xác định “bản lai diện mục” của Tự do và Dân chủ, tác giả dành một chương để đặc biệt nói về mối liên hệ rắc rối tơ vò trong tiến trình chung sống của hai khái niệm nầy tại các quốc gia Hồi giáo (Muslim). Trong vũng lầy đó, người ta chỉ có hai chọn lựa: dân chủ độc tài (như Ai Cập, Indonesia) hay dân chủ phi tự do (như Syria, Iraq, Libya).

Trong những chương sách còn lại, tác giả phân tích những triệu chứng và hậu qủa tiêu cực khi dân chủ được ưu tiên làm cho tự do bị thương tổn. Dùng thống kê, Zakaria chứng minh với đầy tính thuyết phục: Trong số 119 quốc gia có chính phủ đưọc dân bầu – nghĩa là có dân chủ- một thiểu số ở Âu Châu, Úc Châu và Nhật bản, Mỹ và Canada có tự do được tương đối tôn trọng. Còn lại đa số quốc gia ở Phi châu, Á Châu (kể cả Singapore), Nam Mỹ (kể cả Argentina), nền tự do bị xâm phạm bằng đủ mọi mặt, từ hạn chế kinh tế đến kiểm soát pháp đình. Ngay trong nước Mỹ, người dân có ý thức cũng cảm nhận sự lạm dụng nguyên tắc tự do của chánh quyền qua những tiết lộ về nhà tù Guantánamo Bay, Abu Ghraib, Halliburton, CIA bắt nhốt người tình nghi khủng bố tại ngoại quốc, những cách thức tra khảo tàn nhẫn, … Ngay trong tiểu bang California, chính trị và kinh tế cũng trở nên hỗn loạn vì những “dự luật” (Propositions) được bầu tới bầu lui ra ngoài vòng trách nhiệm của Quốc hội, là cơ quan được Hiến pháp chỉ định nhiệm vụ làm luật. Độc tài của đa số đã giới hạn tự do của thiểu số (như tự do hút cần sa, tự do làm đám cưới, tự do giảm thuế …)

Kết luận sau khi chẩn bệnh, là dân chủ có quá nhiều nhược điểm nên rất dễ bị lạm dụng bởi nhiều cơ chế: các cuộc bầu cử, chính quyền, các nhóm áp lực, các đại gia kinh tế, các cơ quan truyền thông, ý thức chính trị của người dân (nghĩa là người chủ). Và khi dân chủ bị lạm dụng thì tự do bị ảnh hưởng từ trái qua phải, từ dưới lên trên, từ bây giờ đến mai sau. Do đó mà có nhiều Dân chủ chưa chắc sẽ đưa đến nhiều Tự do.

Chương cuối của cuốn sách mang tựa là “Lối Thoát” (“The Way Out”). Đây là đề nghị chữa bệnh Dân chủ để khỏi lây qua Tự do. Theo tác giả, trước hết, phải có một Hiến pháp thật sự tự do với phân quyền Hành pháp, Lập pháp, Tư pháp rất rõ rệt để có thể ngăn chặn tối đa (ít nhất là trên lý thuyết) những toan tính lạm dụng Dân chủ. Sau đó là nguyên tắc phân quyền càng sâu đậm càng tốt vì như vậy quyền lực sẽ bị chia năm xẻ bảy ra những mãnh nhỏ để không cơ chế nào có qúa nhiều quyền đến mức có thể đàn áp tự do của cơ chế khác. Sự phân quyền nầy cũng là một thể hiện hợp thời trong tiến trình kinh tế toàn cầu (globalization) hiện nay, vì tiến bộ của kinh tế và khoa học đã đưa chúng ta vào tình trạng chuyên viên hoá (specialization) và khi những nhóm chuyên viên trong xã hội, dựa trên Hiến pháp, ủy nhiệm quyền lợi cho nhau và lẫn nhau thì thế quân bình Dân chủ và Tự do sẽ được thiết lập. Chính thế quân bình nầy sẽ tạo cường thịnh và độc lập (như Mỹ sau đệ Nhị Thế chiến và Nhật cách đây 20 năm).

Cách định bệnh và trị bệnh Dân chủ/Tự do của Fareed Zakaria đã tạo sôi nổi trong giới nghiên cứu chính trị Mỹ. Nói chung thì khen ngợi rất nhiều, nhất là trong phần định bệnh. Nhưng phần chữa bệnh vẫn còn nhiều khuyết điểm vì một lý do hiển nhiên: Mỗi bệnh nhân – như một quốc gia - có một cơ thể khác nhau từ đầu mình cho đến chân tay, không thể có một thuốc chữa hữu hiệu được cho tất cả mọi người. (Đó cũng là lý do căn bản vì sao thuyết Domino của TT Eisenhower đã sai lầm khi coi mỗi nước ở Đông Nam Á đều giống nhau như những con cờ)

Đọc xong một cuốn sách với hai chủ đề nhiêu khê như vậy, tất nhiên sẽ có nhiều ý kiến. Từ cương vị một độc giả người Việt, chỉ xin mạn phép trình bầy một đồng thuận và một dị biệt.

Điểm dị biệt, giới hạn trong phạm vi chính trị học của tác phẩm, là sự không chính xác trong nhắc nhở làm nền móng cho những lý luận của Zakaria: “Dân chủ là phương tiện và tự do mới là cứu cánh”. Trong thực tế, chính tự do cũng chỉ là một phương tiện. Như khi người ta nói “Tôi sẽ sử dụng Dân chủ để làm chuyện A”, thì người ta cũng có thể nói “Tôi sẽ sử dụng Tự do để làm chuyện B.” Và trong tình thần đó, chức Tổng thống Mỹ quyền uy tột bực cũng không phải là một cứu cánh vì nhà hùng biện Barrack Obama đã nói nhiều lần (trong khi tranh cử) “Tôi sẽ sử dụng toà Bạch Cung để làm chuyện C.” Đẩy sâu vào tận cùng của lý luận, nhân vật Siddhartha của nhà văn Herman Hesse nghĩ là mình đã đạt được cứu cánh là “ngộ đạo” nhưng vẫn không leo lên bờ sông bên kia mà vừa quay trở lại cõi Ta Bà vừa lẩm bẩm: “Ta sẽ sử dụng cái “Ngộ” nầy để làm cho thiên hạ tiết dục, bớt khổ”.

Từ quan điểm khác biệt rất căn bản nầy với tác giả, dĩ nhiên người đọc cũng sẽ nhìn mối liên hệ giữa Tự do và Dân chủ (giữa hai phương tiện chứ không phải giữa một phương tiện và một cứu cánh) một cách không giống với tác giả.

Ngược với điều dị biệt đó, người đọc lại rất đồng thuận về vai trò nền móng của một Hiến pháp tự do trong cách chữa bệnh của tác giả Zakaria khi phân tích chính trạng Việt Nam hiện đại. Sau khi chế độ quân chủ chấm dứt qua chiếu thoái vị của Vua Bảo Đại công bố vào tháng 8 năm 1945, Việt Nam mới chính thức nếm mùi Dân chủ qua những cuộc bầu cử và sự ra đời của những Hiến pháp. Hãy xem các Hiến pháp được bầu ra đó, theo thứ tự thời gian, có vừa đủ Dân chủ một cách thích hợp để đem lại Tự do?

HIẾN PHÁP 1946: Đây là Hiến pháp đầu tiên chính thức ra đời tại Hà Nội cuối năm 1946 của một quốc gia được đặt tên là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, thông qua bởi một Quốc hội Lập hiến không đại diện toàn dân Việt (thực dân Pháp vẫn kiểm soát phần lớn miền Nam). Hiến pháp nầy tuy chỉ có 70 điều nhưng vẫn theo nguyên tắc phân quyền. Có thể gọi đây là “Hiến pháp chạy làng”, vì sau khi được thông qua cuối năm 1946 thì toàn quốc kháng chiến bắt đầu cho cuộc chiến tranh Việt-Pháp kéo dài đến 1954. Hai điểm đặc biệt đáng ghi nhớ là (1) ông Hồ Chí Minh, Đại biểu Quốc hội thông qua Hiến pháp nầy, đã đắc cử với 98.4% số phiếu trong đơn vị (?) của ông và (2) sự vắng mặt tuyệt đối của đảng Cộng sản trên văn bản của Hiến pháp (vì “trên nguyên tắc” đảng nầy đã được giải tán năm 1945).

HIẾN PHÁP 1956: Trong 20 năm hiện hữu, miền Nam Việt Nam có hai nền Cộng hòa với hai Hiến pháp (1956 và 1967). Ngoài một cuộc trưng cầu dân ý năm 1955 (ông Ngô Đình Diệm, người tổ chức bầu cử, được 98.2% phiếu; ông Bảo Đại, vắng mặt, được 1.1% phiếu) còn có 3 cuộc bầu Tổng thống (gồm một cuộc “độc diễn” của ông Nguyễn Văn Thiệu).

Hiến pháp nầy của Đệ Nhất Cộng Hoà, gồm 98 điều, đã được hai chuyên gia pháp lý phê bình như sau.

1. Về tính chuyên chế, Giáo sư Nguyễn Văn Bông, Thạc sĩ Công Pháp Quốc Tế, Viện trưởng Học Viện Quốc gia Hành chánh đã phân tích:

Thật vậy, ngay ở điều khoản thứ ba, chúng ta nhận thấy “Tổng thống Lãnh đạo Quốc dân”. . . Trái với nguyên tắc phân nhiệm mà điều 3 ghi rõ là “nguyên tắc phân nhiệm giữa hành pháp và lập pháp phải rõ rệt”. . . Một sự tập trung quá mức quyền hành cùng sự thủ tiêu đối lập và sự hiện diện của một chính đảng duy nhất đã đưa chế độ Ngô Đình Diệm lần lần đi đến một chế độ quyền hành cá nhân áp dụng những phương tiện chuyên chế mà tiếng súng ngày 1-11-1963 đã đưa vào dĩ vãng. ” (Giáo trình năm thứ nhất Cử nhân Luật về môn “Luật Hiến pháp và Chính trị học” của Đại học Luật khoa Sài Gòn, 1966.)

2. Về tự do tín ngưỡng, Giáo sư Vũ Văn Mẫu, Thạc sĩ Luật khoa, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao, đã chứng minh ý đồ kỳ thị tôn giáo trong Hiến pháp nầy:

Tuy nhiên trong phần “Mở đầu” của Hiến pháp, đã có một đoạn phản chiếu của một sự thiên vị Thiên Chúa giáo khá rõ rệt như sau:

“Ý thức rằng nước ta ở trên con đường giao thông và di dân quốc tế, dân tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưỡng tiến bộ để hoàn thành sứ mệnh trước Đấng Tạo Hóa và trước nhân loại là xây dựng một nền văn minh nhân bản và phát triễn con người toàn diện....”

Trong đoạn văn trích dẫn này, phần mở đầu của Hiến pháp 1956 đã đề cập đến sứ mạng trước Đấng Tạo Hóa, tức là trước Đức Chúa trời trong Thiên Chúa giáo, mà không đề cập tới các tôn giáo khác. (Vũ Văn Mẫu, “Sáu Tháng Pháp Nạn”, Nxb Giao Điểm, 2003, trang 31).

Bên cạnh đó, trong 9 năm của Đệ Nhất Cộng Hoà, bài ca “Suy tôn Ngô Tổng thống” với câu “Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm” sau những lễ chào cờ, đã nói lên tất cả tính “Dân chủ khôi hài ở tầm vóc quốc gia” khi chữ “Tổng thống” bị đặt nằm ngay trước chữ “muôn năm”. Như vậy thì bầu cử làm chi nữa cho tốn công quỹ và mất thì giờ, chỉ cần đổi ra “Ngô Hoàng đế, Ngô Hoàng đế muôn năm” có phải là thông minh hơn? (Chuyện khó tin mà có thật, cho đến năm 2010, trong những buổi lễ tưởng niệm “tinh thần Ngô Đình Diệm” ở các nhà thờ Ki-tô giáo, và những đài truyền thanh của người Ki-tô-giáo, người ta vẫn rêu rao bài hát vô nghĩa một cách phản Dân chủ nầy!)

HIẾN PHÁP 1959: Trong những năm đất nước bị chia đôi, Quốc hội miền Bắc dưới chế độ Cộng sản, đã thông qua một Hiến pháp với 112 điều năm 1959. Hiến pháp nầy cũng đặt căn bản trên nguyên tắc phân quyền và không nói gì đến đảng Cộng sản ngoại trừ “Lời nói đầu” ghi nhận thêm vai trò chủ lực cứu nước của đảng CS Đông Dương và đảng Lao Động. Có thể hiểu Hiến pháp nầy là phản ứng thất vọng về cuộc Tổng Tuyển cử đã hứa trong Hiệp định Genève năm 1954 nhưng đã không được thực hiện và từ đó chuẩn bị cho sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam năm 1960 để khởi đầu cuộc chiến tranh tái thống nhất đất nước của chính quyền Hà Nội.

HIẾN PHÁP 1967: Giữa khói lữa mịt mù của chiến tranh, Quốc hội miền Nam thông qua một Hiến pháp gồm 117 điều ghi rõ “chánh thể Cộng hoà” và “bảo đảm Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ”, có xác định nguyên tắc phân quyền Lập pháp, Hành pháp và Tối Cao Pháp viện cùng các Toà án.

Đây cũng có thể được coi là một loại “Hiến pháp chạy làng” vì mức độ khốc liệt quá mức của chiến tranh khiến cho Hiến pháp khó thể được áp dụng tốt đẹp. Điều tiêu biểu nhất về nền Đệ Nhị Cộng Hoà của ông Tổng thống sống chết vì Mỹ ấy là đã thông qua một bản Hiến pháp rất giống Hiến pháp của “đồng minh chưa tháo chạy” (cũng phân quyền với Quốc Hội có lưỡng viện, cũng Tối cao Pháp viện), chỉ khác một điều hiếm có là trong hơn 200 năm lịch sử của đồng minh ấy không có một cuộc bầu cử “độc diễn” nào như ông Nguyễn Văn Thiệu đã tổ chức.

Sau khi Việt Nam thống nhất, có thêm 3 Hiến pháp (1980, 1992 và 2002) ra đời. Một điều mâu thuẫn vĩ đại giữa hai Hiến pháp 1980 và 1992 có lẻ phải làm cho 2 ông Marx và Engels gãi đến trọc cả tóc, râu trên cái đầu xồm xoàm của họ. Trong khí thế “thừa thắng xông lên”của tháng 4/1975, Hiến pháp 1980 bị quàng thêm điều 4: “Đảng cộng sản Việt Nam, . . . là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội;” Để rồi sau 12 năm tiến nhanh, tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp 1992 sờ sờ một Điều 15 đại phản động: “Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.”

HIẾN PHÁP 2002 (mới nhất): Gồm 147 điều có tên nước là Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt nam. (Không còn chữ “dân chủ” nữa.) Hiến pháp nầy cũng theo nguyên tắc phân quyền. Tinh thần “dân chủ” được quy định rõ rệt qua hai điều (Số 2: “Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân …” và số 83: “Quốc hội là … cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”). Nhưng tinh thần nầy bị bóp cổ chết tức khắc và công khai ngay trong Hiến pháp qua điều số 4: “Đảng Cộng sản Việt Nam … là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Ngay chữ “duy nhất” trong Hiến pháp 1980 cũng bị cắt bỏ coi như không cần phải nhấn mạnh. Nghĩa là cách chữa bệnh “ủy nhiệm quyền lực” của Zakaria sẽ không bao giờ được áp dụng với điều số 4 của Hiến pháp thuộc thế kỷ 21 nầy.

Đi từ Hiến pháp 1956 với một ông “Tổng thống lãnh đạo quốc dân” cho đến Hiến pháp 2002 với một “Đảng Cộng sản lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, ta đã thấy Dân chủ bị xâm phạm trắng trợn ngay từ trên giấy mực, thì hơn một nửa thế kỷ Tự do rã rời cho dân tộc Việt là một hệ qủa theo đúng với nguyên tắc chẩn bệnh của Fareed Zakaria. Từ đó, chúng ta có thể dựa trên phương cách trị bệnh của tác giả để đặt câu hỏi: Một hiến pháp phân quyền tối đa có đem lại được một nền Dân chủ chính đáng và một chế độ Tự do thực sự tại Việt Nam?

Xin hãy khoan trả lời vì xa tít đàng sau câu hỏi nầy là một vùng sương khói có hai con số đắc cử của ông Hồ (98.4%) và ông Ngô (98.2%), có những cuộc bầu cử đẫm máu ở Haiti, Pakistan, có hình ảnh dị hợm của những quan chánh án Nigeria, Phi Châu, lụng thụng áo dài đen, cổ cồn, đầu đội tóc giả trắng xoá từng lọn như đang ngồi ở Royal Courts of Justice ở Luân Đôn.

Nhắc lại những bi hài kịch Dân chủ giả hiệu một cách thê thảm đó để đi đến một câu hỏi phi-toàn-cầu-hoá và rất Samuel - “The Clash of Civilizations” - Huntington: Có thật là người Việt chúng ta cần những nguyên tắc Dân chủ và Tự do nhập cảng từ Tây phương nầy? Câu trả lời đã đến hiển hiện từ một ông Vua và một ông dân. Ông Vua tên là Trần Nhân Tông của thế kỷ 13 đã triệu tập hội nghị Diên Hồng dựa trên một hệ thống làng xã dân chủ ủy quyền hữu hiệu để sử dụng được tối đa sức mạnh toàn dân mà đánh tan quân Mông cổ một lần, hai lần, ba lần. Ông dân là một ngư phủ tôi đã gặp năm 1974 trên bờ biển Đại Lãnh phía Bắc thành phố NhaTrang: “Chính phủ nào cũng được, miễn là mỗi ngày tôi được yên ổn chèo thuyền đi đánh cá nuôi gia đình.”

 

LÝ NGUYÊN DIỆU

 

Cùng tác giả:


A-Phú-Hãn và Bài học Việt Nam (Lý Nguyên Diệu dịch)
Tự Do & Dân Chủ, Bên Nào Nặng Hơn (Fareed Zakaria/Lý Nguyên Diệu)

 

Trang Thời Sự