|
07-Apr-2012 |
toàn tập:
1
2
3
4
5
6
Phần III : Mary & Fatima
Vài Lời Nói Đầu Về Nền Thần Học Mary (Mariology).-
Trong Phần II của loạt bài này, Mary & Lourdes, đăng trên trang nhà Giao
Điểm, tháng 12, 2005, tôi đã chứng minh rằng, chuyện bà Mary hiện ra ở Lourdes
18 lần trong năm 1858 và tự nhận là “Vô Nhiễm Nguyên Tội” trong khi không
có cái gì có thể gọi là “nguyên tội”, để chứng thực tín điều (dogma) “Vô Nhiễm
Nguyên Tội” mà Giáo Hoàng Pius IX đã bắt tín đồ phải tin trước đó 4 năm, thật
ra chỉ là một màn dàn dựng của giáo hội để kéo tín đồ vào trong vòng mê tín
và sùng bái (cult) nhân vật Mary trong Tân Ước. Sự thờ, sùng bái hình tượng
Mary (Mariolatry) ngày nay đã được phổ biến rộng rãi trong đám tín đồ thấp
kém, trong khi Giáo hội Ca-Tô vẫn dạy tín đồ là mọi hình thức thờ hình tượng
đều trái với giáo lý của Giáo hội, dựa trên một điều dạy tromg Cựu Ước.
Trước khi đi vào màn dàn dựng “hiện ra” của bà Mary ở Fatima, tôi thiết nghĩ
có lẽ chúng ta cũng nên biết qua về nền thần học Mary (Mariology) của Ca Tô
Giáo La Mã nhằm mục đích dẫn dắt tín đồ vào vòng sùng bái, thờ hình tượng
Mary (Mariolatry) mà ngày nay đã ăn sâu vào não trạng của đám tín đồ thấp
kém. Sự thành công của Ca Tô Giáo trong vấn đề này, từ đó kiếm được những
nguồn lợi khổng lồ về vật chất, đã khiến cho Tin Lành Ki-Tô đang có khuynh
hướng bắt chước Ca-Tô, đẩy mạnh lòng sùng tín Mary, tuy rằng căn bản, Tin
Lành không tin những gì mà nền thần học Mary của Ca Tô Giáo dựng lên về Mary.
Muốn hiểu rõ thủ đoạn lợi dụng và khai thác đầu óc các tín đồ của Ca-Tô
Giáo La-Mã qua nền thần học Mary, trước hết chúng ta cần phải biết trong Tân
Ước đã nói những gì về Mary, và từ đó mới có thể đánh giá đúng mức nền thần
học Mary của Giáo hội Ca-Tô La Mã từ đâu mà ra, có những căn cứ nào trong
Tân Ước, và thực chất là như thế nào.
Tổng hợp tất cả những điều viết về Mary trong Tân Ước, chúng ta thấy Mary
chỉ xuất hiện trong 5 sách đầu của cuốn Tân ước: Matthew, Mark, Luke, John
và Acts of the Apostles. Phần còn lại của Tân ước gồm 22 sách, tuyệt đối
không nhắc gì tới Mary nữa. Mary được nói đến trong những trường hợp như
sau:
Trong câu chuyện về sự sinh ra của Giê-su qua huyền thoại Thánh Ma (The Holy
Ghost) làm cho bà Mary mang thai rồi sinh ra Giê-su (Matthew 1& 2 và Luke
1 & 2).
Trong một bữa tiệc cưới ở Cana, khi bà Mary nói với Giê-su là "Họ
đã hết rượu rồi" thì Giê-su trả lời bà như sau: "Người
đàn bà kia! Sự quan tâm của bà thì có mắc mớ gì tới Ta? Giờ của Ta còn chưa
tới" (Woman, what does your concern have to do with Me? My hour
has not yet come). Kinh Thánh tiếng Việt của American Bible Societies xuất
bản năm 1998 dịch đoạn trên như sau: "Hỡi đàn bà kia, Ta với ngươi
có sự gì chăng? Giờ Ta chưa đến". Giờ chưa đến là giờ gì? Đọc
tiếp Thánh Kinh chúng ta mới thấy rằng đó là giờ Giê-su trổ tài làm phép lạ,
biến 6 vại nước thành rượu (John 2: 1-11).
Trong khi Giê-su đang đứng giữa đám đông, Bà Mary và các em trai của Giê-su
đến và nhờ người nhắn với Giê-su là Mẹ và các em đang ở phía ngoài muốn gặp
Giê-su thì Giê-su sẵng giọng nói: "Ai là mẹ Ta? Ai là các em Ta?"
(Who is my mother? and who are my brothers?). [Matthew 12:46-50; Mark 3:32-35]
Khi Giê-su đã bị đóng đinh trên thập giá, đang hấp hối sắp chết và “Giê-su
thấy mẹ mình, và một môn đồ Ngài yêu [John] đứng gần người, thì nói cùng mẹ
rằng: "Người đàn bà kia, đó là con của ngươi.." (When
Jesus therefore saw His mother, and the disciple whom he loved standing by,
He said to His mother: "Woman, behold your son!") [John 19:25-27]
Mary cầu nguyện cùng một số môn đồ của Giê-su và phụ nữ khác ở Jerusalem [Acts
1:14]
Đó là tất cả những gì chúng ta biết về Mary trong Tân Ước. Trong 22 sách
tiếp theo sách Công Vụ Các Sứ Đồ (Acts of the apostles) trong Tân Ước, Mary
không được nhắc tới, nhất là trong 3 sách 1, 2, 3 John, viết bởi John, người
đệ tử mà Giê-su giao phó mẹ cho ông ta để săn sóc sau khi Giê-su chết, và
cả trong sách Khải Huyền mà người ta cho tác giả là John. Mặt khác, trong
Tân ước, không có chỗ nào nói đến những vị thế hay danh hiệu cao cả đặc biệt
của Mary, cũng không có chỗ nào nói đến những bài kinh cầu Mary như chúng
ta thấy trong nền thần học về Mary (Mariology). Vậy thì tất cả những gì nói
về Mary qua nền thần học Mary của Ca-Tô Giáo La Mã từ đâu mà ra? Chẳng cần
phải là người thông minh cho lắm chúng ta cũng có thể hiểu rằng tất cả đều
do Giáo hội Ca-Tô La Mã bày đặt ra để mê hoặc tín đồ và kéo tín đồ vào vòng
sùng bái, thờ hình tượng Mary (Mariolatry) như chúng ta thấy ngày nay, và
lẽ dĩ nhiên, mang lại cho Giáo hội những nguồn lợi kinh tế đáng kể. Nói tóm
lại, Mary của Ca-Tô Giáo La Mã không phải là Mary trong Tân ước, người
đàn bà sinh ra Giê-su.
Chúng ta có thể đọc một đoạn sơ lược về xuất xứ của nền thần học về Mary
của Giáo hội Ca-Tô La Mã trong cuốn "Catholicism Examined," Edited
by Greg Litmer and David Riggs, p. 112-114:
Có thể nói chắc không sợ sai là giáo hội Ki-Tô lúc đầu không biết gì về cái
mà về sau gọi là nền thần học về Mary. Đối ngược hẳn với những chuyện kể
trong Kinh Thánh, có vẻ như một vài tài liệu không được giáo hội công nhận,
viết vào cuối thế kỷ 2, đã phóng đại quá mức vai trò của Mary như kiểu viết
truyền thuyết. Tài liệu nổi bật nhất là cuốn “Phúc Âm của James”. Trong
tác phẩm này mọi điều về Mary được đặt ra, thí dụ như tên cha mẹ, Mary khi
còn nhỏ đã ở trong đền thờ trong một thời gian, một chuyện có vẻ tưởng tượng
về sự sinh ra của Mary, và Mary suốt đời đồng trinh. Những giới chức Ca-Tô
La Mã đã bác bỏ tác phẩm này như không đáng tin, nhưng đã lấy nhiều truyền
thuyết trong đó vào hệ thống thần học về Mary của giáo hội.
Thời gian qua, nhiều tác giả khác đã thêm thắt những điều khác vào câu
chuyện.. Điều kết luận cần thiết là trong 150 năm sau khi giáo hội được
thành lập, không có sự quan tâm nào đặc biệt về Mary cả. Mãi cho đến giữa
thế kỷ 2, những truyền thuyết về Mary mới bắt đầu xuất hiện.
Trong những thế kỷ tiếp theo, nhiều nhóm khác nhau đã nổi giậy và bác
bỏ là tư cách thần thánh của Giê-su là từ sự sinh ra bởi Mary. Những nhóm
này cho rằng đứa bé mà Mary mang thai chỉ là người chứ không phải là Thiên
Chúa. Để đối phó với những dư luận này, Công đồng Ephesus tuyên bố Mary
là “Mẹ Thiên Chúa” năm 431. Từ đó những nhà thần học lao đầu vào mọi sự
suy đoán [Ngô Triệu Lịch đã đưa ra một nhận định rất chính xác: Nền thần
học Ki-Tô Giáo là nền thần học đoán mò vì tất cả chỉ là đoán mò.] Tới
năm 449, chúng ta thấy Mary được coi là đồng trinh vĩnh viễn. .. Rồi từ
đó là quá trình được tiếp tục hoàn chỉnh bởi những điều như Mary vô nhiễm
nguyên tội, Mary hồn và xác bay lên trời. Quá trình này chưa chấm dứt.
Ngày nay người ta tuyên bố là Mary cùng đóng vai trò cứu chuộc với Giê-su
(đồng công cứu chuộc). Qua thời gian, Giáo hội đã đặt cho Mary danh hiệu:
Trinh nữ của các trinh nữ, Cổng ngõ vào thiên đường, Bà hoàng trên thiên
đường, Đồng công cứu chuộc, Trinh nữ tối nhân từ và rất nhiếu, rất nhiều
danh hiệu khác. Toàn thể hệ thống đặt tên đó không hề căn cứ trên Kinh
Thánh.
(It is safe and correct to say that the early church knew nothing of what
has come to be called Mariology. Standing in sharp contrast to the Biblical
account, there appeared certain apocryphal writings in the latter part of
the second century that greatly expanded upon Mary's role and did so in legendary
fashion. The most prominent of these was called "The Protoevangelium
of James." In this work all sorts of things about Mary are stated,
such as the names of her parents, that she stayed for a time in the temple
as a little girl, a rather imaginative story about her birth, and it also
states that she remained a virgin throughout her life. Roman Catholic authorities
have rejected this work as spurious, and yet have absorbed many of its legends
into their system of Mariology.
As time went on, many other writers added other elements to the story… The
necessary conclusion is that for a least 150 years after the establishment
of the church, there was no special attention paid to Mary. It was not until
the middle of the second century that legends concerning her began to appear.
In the centuries that followed, various groups arose that denied that divinity
of Jesus as born from Mary. They taught that the child conceived in Mary's
womb was solely man and not divine. In response to this, the Council of Ephesus
declared Mary the "mother of God" in 431 A.D. From this decree the
theologians engaged in all sorts of speculations. By 449 A.D., we find Mary
being referred to as a perpetual virgin. ..From there the process of elaboration
continues with Mary being declared personally sinless and the teaching that
she ascended bodily into heaven. This process has not stopped. Currently,
strides are being taken to have Mary declared co-mediatrix with Jesus. Over
the years, the Roman Catholic church has given her the title of Virgin of
Virgins, Gate of Heaven, Queen of Heaven, Co-Redemptrix, Virgin Most Merciful,
and many, many others. The whole system has no scriptural basis.)
Huyền Thoại Fatima.
Chúng ta có thể đọc huyền thoại Fatima trong nhiều cuốn sách đã xuất bản.
Sau đây là một đoạn trong cuốn Vietnam: Why Did We Go của Avro Manhattan,
trg. 26-27:
" Năm 1917, cũng là năm của cuộc cách mạng Nga sô, Đức Mẹ hiện ra ở
Fatima, Bồ Đào Nha, trước 3 em nhỏ chăn cừu mù chữ, (lên 10, 9, và 7 tuổi.
TCN).
Đức Mẹ hiện ra kèm theo một hiện tượng lạ lùng: Mặt trời quay tít ba lượt,
rồi nhảy ra khỏi quỹ đạo, tiến gần đến trái đất theo một đường gẫy khúc, ngưng
lại, rồi trở về vị trí cũ.
Hiện tượng này được nhiều người đứng gần các em nhỏ trông thấy và kéo dài
trong 12 phút. Thông điệp của Đức Mẹ trao cho mấy em nhỏ là: "Giáo
hoàng phải hiến dâng thế giới cho trái tim vô nhiễm của mẹ," và rồi "phải
hiến dâng Nga Sô cho Mẹ." Mẹ tiên đoán, "Nga Sô sẽ cải đạo theo
Gia Tô La Mã Giáo," và Đức Thánh Cha sẽ "hiến dâng Nga sô cho Mẹ."
Mẹ cảnh cáo, nếu những điều Mẹ rao truyền không thực hiện được thì "những
sai lầm của Nga Sô sẽ lan ra khắp hoàn cầu, gây nên chiến tranh và bách hại
giáo dân, và nhiều quốc gia sẽ bị tàn phá." Cuối cùng Mẹ an ủi rằng "Giáo
hội Gia Tô sẽ thắng, sau đó Giáo hoàng sẽ hiến dâng Nga Sô cho Mẹ, Nga Sô
sẽ cải đạo, và thế giới sẽ được hưởng một thời kỳ hòa bình."
Những lời trên đây là những thông điệp chân thực của Maria đồng trinh, như
một em nhỏ kể lại và được giáo hội Gia Tô hoàn toàn chấp nhận như là điều
mặc khải xác thực của "Mẹ Chúa"."
(Our Lady of Fatima had first appeared to three illiterate children in Fatima,
a desolate locality in Portugal, during the fateful year of 1917, which was
also the year of the Russian Revolution.
Her apparition had been accompanied by a somewhat strange miracle: "The
sun turned speedily on itself three times..At the end of these convulsive
revolutions it seemed to jump out of its orbit and come forward towards the
people on a zig-zag course, stopped, and returned again to its normal position.
This was seen by a large crowd near the children and lasted twelve minutes.
The Virgin's messages had been to induce the pope to bring about "the
consecration of the World to her Immaculate Heart," to be followed
by "the consecration of Russia". "Russia will be converted," she
foretold. "The Holy Father will consecrate Russia to me." But,
she warned, should this not be accomplisshed, "her (Russia's) errors
will spread throughout the world, causing wars, and persecutions...different
nations will be destroyed..." In the end however, the Virgin promised
by way of consolation, that the Catholic Church would triumph, after which "the
Holy Father will consecrate Russia to me. Thereupon she (Russia) shall be
converted and a period of peace will be granted to the world."
These quotations are from the authenticated messages of the Virgin Mary herself,
as related to one of the children and fully accepted by the Catholic Church
as a genuine revelation by the "Mother of God".)
Nghiên cứu về hiện tượng Fatima ở trên, các học giả đã kiếm ra nhiều điều
vô lý, không hợp với ngay cả một sự hiểu biết thông thường.
Thứ nhất, Đức Mẹ là mẹ của Chúa, mà Chúa thì "toàn năng", "sáng
tạo" ra vũ trụ bao la và muôn loài, vậy thì tại sao Đức Mẹ lại cần đến
một ông Giáo hoàng rất thế tục để dâng hiến thế giới vô cùng nhỏ nhoi của
con người cho Mẹ? Mẹ có lẩm cẩm không?
Thứ nhì, Mẹ tự khoe là mình có trái tim vô nhiễm, như vậy là Mẹ đã cùng với
những tín đồ vô học chỉ nhắc lại một tín lý của Giáo Hoàng Pius IX mới đưa
ra năm 1854 và bắt mọi tín đồ phải tin. Vậy trước năm 1854, nghĩa là trước
khi Giáo Hoàng Pius IX đưa ra tín lý "vô nhiễm" thì Mẹ có vô nhiễm
không?
Thứ ba, những từ như "Giáo hoàng" hay "Đức Thánh Cha" là
những từ Giáo hội đặt ra về sau để thần thánh hóa vai trò của Giáo chủ Gia
Tô, chứ thời của Mẹ cách đây 2000 năm không làm gì có những từ này. Bảo rằng
Mẹ có quyền phép vô biên, cái gì cũng biết, thì lại đưa đến một mâu thuẫn.
Nếu đã quyền phép vô biên thì tại sao phải nhờ đến một ông Giáo hoàng chống
Cộng cho Mẹ? Mẹ chỉ cần phù phép một cái là cả nước Nga bỏ Chính Thống Giáo
đi theo Gia Tô Giáo, hay là giáng họa cho dân Nga chết hết là hết Cộng. Sau
khi Mẹ đã khẳng định là "Đức Thánh Cha" sẽ dâng hiến Nga sô cho
Mẹ và Nga sô sẽ cải đạo theo Gia Tô Giáo, Mẹ lại phải cảnh cáo: "Nếu
không thực hiện những thông điệp của Mẹ thì....". Tại sao lại có vụ
dọa dẫm này? Mẹ không tin ở quyền phép của Mẹ, hay là không tin ở khả năng
của Giáo hoàng, cho nên Mẹ phải dọa như vậy để giáo dân sợ mà hồ hởi chống
Cộng? Nói tóm lại, nội dung những "thông điệp siêu nhiên" của Mẹ
chẳng qua chỉ là những lời bịa đặt của những người trong hàng Giáo phẩm không
được thông minh cho lắm vì nghe rất rẻ tiền, vô lý và mâu thuẫn, nhưng lại
có tác dụng khích động đám tín đồ đầu óc chắc chắn là kém thông minh hơn các
vị trong hàng Giáo phẩm nhiều.
Thứ tư, thông điệp của Đức Mẹ rao truyền cho mấy em nhỏ thất học là một
thông điệp, như đã nói ở trên, sặc mùi...chống Cộng. Trí tuệ của mấy em
nhỏ mù chữ lên 10, 9, và 7 tuổi đã phát triển chưa, và các em đã hiểu gì về
Cộng Sản? Trí nhớ của các em như thế nào? Phải chăng các thông điệp của
Đức Mẹ thật ra là của Giáo hội đưa ra? Tại sao Đức Mẹ lại phải chống Cộng
vì Cộng cũng là do con Mẹ sinh ra? Bảo rằng Mẹ chống vì CS tàn ác thì tại
sao trước những hành động tàn bạo của Giáo hội Gia Tô đối với nhân loại như
tiêu diệt các nền văn hóa khác, gây ra những cuộc Thánh Chiến, các tòa hình
án xử dị giáo, làm chết hại bao nhiêu triệu người v...v.., Mẹ không hiện
ra mà chống? Hay là Mẹ về phe Giáo hội đã vinh danh Mẹ qua những hành động
tàn ác kể trên?
Thứ năm, những lời tiên đoán của Mẹ sai bét. Hai cuộc Thế Chiến không do
Nga Sô gây ra mà do các con Mẹ ở Tây phương gây ra tàn sát lẫn nhau. Và ngày
nay, tuy chế độ Cộng sản ở Nga đã sụp đổ, Nga sô cũng không cải đạo theo Ca
Tô Giáo. Trái lại, cơ quan lập Pháp của Nga sô còn đưa ra nghị viện điều
luật "đặt Ca Tô La Mã Giáo" ra ngoài vòng pháp luật (nhưng lại
công nhận Phật Giáo là một trong những tôn giáo chính thức ở Nga) khiến cho
John Paul II hoảng sợ, phải cầu cứu với Tổng Thống Nga là Yetsin để hoãn thông
qua đạo luật này.
Thứ sáu, hiện tượng lạ lùng về mặt trời kể trên hoàn toàn phản khoa học.
Mặt trời không thể nào nhảy ra ngoài quỹ đạo như vậy mà không làm nhiễu
loạn cả Thái Dương Hệ, và không ai có thể nhìn thẳng vào mặt trời trong 12
phút mà không bị hư hẳn đôi mắt, trường họp này đã xảy ra ở vài nơi trên thế
giới khi tín đồ tin vào lời tiên đoán "Đức Mẹ hiện ra" tương tự
như ở Fatima và nhìn thẳng lên mặt trời, của vài tên lái buôn tôn giáo, chưa
kể là hơn hai tỷ người trên thế giới khi đó không hề nhìn thấy hiện tượng
mà Giáo hội cho rằng đã xẩy ra. Chỉ có những người không biết gì về khoa học,
nhất là về môn Cơ học các thiên thể (Celestial mechanics) mới dám bịa ra cái
hiện tượng không thể nào xẩy ra này.
Nhưng những điểm vô lý kể trên cũng chẳng làm cho Giáo hội bận tâm, Giáo
hội chỉ cần tín đồ tin là được rồi, như Monsignor Sheen đã tuyên bố năm
1947, sau một diễn văn chống Cộng (Blanshard, Ibid., trg. 228):
"Chúng tôi không quan tâm đến việc chứng minh tính cách xác thực của
những hiện tượng xẩy ra ở Fatima, vì những ai tin ở cảnh giới tâm linh và
Mẹ của Chúa thì không cần đến chứng minh, còn những ai bác bỏ Thánh Linh thì
đằng nào cũng không chấp nhận rồi."
(We are not concerned about proving the authenticity of these phenomena at
Fatima, for those who believe in the realm of the spirit and the Mother of
God need no proof, and those who reject the Spirit would not accept it anyway.)
Tại sao con người lại có thể tin vào những chuyện vừa hoang đường, vừa phi
lý, vừa phản khoa học một cách ấu trĩ như vậy? Chúng ta nên nhớ rằng,
ở Việt Nam, sau hiệp định Geneva, 1954, thì khoảng 6, 7 trăm ngàn giáo dân
Bùi Chu, Phát Diệm v..v.., đã cho chúng ta thấy cảnh: "giám mục, linh
mục chạy trước, con chiên chạy sau." Chạy đi đâu? Chạy vào Nam theo
Đức Mẹ và Chúa Giê su, vì theo kế hoạch tuyên truyền của Lansdale, tin Đức
Mẹ và Chúa Giê su đã di cư vào Nam trước rồi, được tung ra một cách rất ngoạn
mục và thành công. Vậy thì đầu óc của những tín đồ Gia Tô, nhất là những
tín đồ Gia Tô ở Việt Nam, thuộc loại có thể tin vào bất cứ điều nào mà Giáo
hội nói, bất kể những điều này phi lý đến đâu. Giáo hội biết rõ như vậy cho
nên mới có thể khai thác triệt để những đầu óc thuộc loại này. Về sự việc
này, Linh mục Trần Tam Tĩnh có viết trong cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm, về cuộc
di cư vào Nam của người Gia Tô miền Bắc như sau, trg. 103-104:
"Trước tiên, họ sử dụng Đức Mẹ Fatima, mà việc tôn sùng mấy năm gần
đây đã được tăng cường, qua việc thành lập Đạo Binh Đức mẹ, Đạo Binh Xanh,
Hiệp Hội Chiến Sĩ Đức Mẹ. Tất nhiên Đức Mẹ được giao cho chức năng chính
trị để giải thoát những kẻ tôn sùng Người. Người ta đồn rằng Đức Mẹ hiện
ra ở Ba Làng, Thanh Hóa, để ra lệnh cho giáo dân đi vào Nam, bởi vì Mẹ cũng
bỏ miền Bắc Việt Nam. "Việc hiện ra" hình như đã được dàn dựng
tài tình bởi một linh mục, ông đã mặc áo Đức Mẹ cho một thiếu niên và đã
cho em đứng vào sau bàn thờ Đức Mẹ Fatima. Trước mấy cây nến tung ánh lung
linh, một vài nhà "đạo đức" coi đó là Đức Mẹ hiện ra, nói với họ
một giọng dịu dàng nhưng minh bạch rằng (trước khi hiện ra ở La Vang rồi Ba
Làng, Đức Mẹ người Do Thái đã đi học một cua tiếng Việt VSL (Vietnamese as
a Second Language) ở trường thuộc địa Pháp tại Hà Nội; TCN), phải từ bỏ đất
Cộng Sản bất cứ với giá nào, mà tìm lánh sang vùng đất tự do. Đức Mẹ sắp
sửa bỏ miền Bắc. Từ miệng qua tai, tin đồn được loan ra như một vết dầu loang
được thêm thắt những nét chấm phá mới, kèm theo những lời tiên tri mới, hoặc
những điềm gở tiên báo tai ương sắp đổ tới..
"Chạy trốn để cứu lấy mạng sống và cứu lấy đức tin", "Chúa
Ki Tô đã đi vào Nam", "Đức Mẹ đã rời bỏ Bắc Việt", những khẩu
hiệu phi lý dó làm cho người Ki Tô hữu phương Tây phải cười, nhưng lại có
tác dụng rất lớn nơi một cộng đồng Ki Tô hữu đã từng bị giam nhốt xưa nay
trong sự ngu dốt và trong một niềm tin đạo nói được là thới Trung cổ. Trong
cái ốc đảo khép kín đó của giáo dân, những gì gọi là "Bí Mật của Đức
Mẹ Fatima" đều được coi như là tín điều bắt buộc, đang khi nó chỉ dựa
vào một mớ tài liệu tuyên truyền nhảm nhí."
Nhảm nhí như thế nào? Nghiên cứu về sách lược của Giáo hội Gia Tô và những
sự kiện xảy ra sau hiện tượng Fatima, các học giả đã tìm ra nhiều điều thậm
phi lý, phản khoa học, không thể giải thích nổi, và hiện tượng Fatima đã
được Giáo hội đưa ra, ngoài mục đích tôn giáo còn có những mục đích
chính trị và kinh tế, . Thật vậy, trong cuốn Vietnam: Why Did We Go, Avro
Manhattan viết như sau, trg. 28...:
"Sự sùng bái ở Fatima, đặt nặng trên lời hứa của Maria đồng trinh
là Nga Sô sẽ cải đạo theo Gia Tô La Mã Giáo, đã được Vatican thổi phồng đến
tột đỉnh. Năm 1938, Giáo hoàng phái một sứ giả tới Fatima để loan báo cho
gần một triệu tín đồ đang hành hương nơi đó là Maria đồng trinh đã phó thác cho ba đứa trẻ ở Fatima ba bí mật lớn.
Và rồi, tháng 6 năm đó, đứa trẻ duy nhất còn sống, được ông linh mục nghe
xưng tội cố vấn, linh mục này luôn luôn tiếp xúc với hệ thống quyền lực Gia
Tô và do đó với Vatican, nên tiết lộ nội dung của hai trong ba điều bí mật
trên.
Điều bí mật thứ nhất là cảnh tượng của hỏa ngục (cái mà thế giới hiện đại
đã biết rõ)
Điều bí mật thứ hai đi thẳng vào trọng điểm: nhắc lại là Nga Sô sẽ cải đạo
theo Gia Tô La Mã Giáo.
Điều bí mật thứ ba để trong một bao thư niêm kín và đặt dưới quyền xử dụng
của hàng Giáo phẩm Gia Tô, không được tiết lộ cho tới năm 1960.
Sự lập lại điều bí mật mặc khải thứ hai về sự cải đạo của Nga Sô có một ý
nghĩa chấn động tôn giáo và chính trị. Giáo hội đã chọn một thời điểm rất
đúng lúc để tiết lộ bí mật này. Những lực lượng độc tài Phát xít cũng đang
chủ trương tiêu diệt Nga Sô.
Năm sau, 1939, Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ. Năm 1940, Pháp bại trận. Toàn
thể Âu Châu rơi vào quyền thống trị của Phát xít. Năm 1941, Hitler xâm lăng
Nga Sô. Sau cùng, lời hứa của Maria đồng trinh hầu như sắp sửa thành tựu.
Tại Vatican, mọi người đều hồ hởi, Pacelli đã trỏ thành Giáo hoàng Pius XII
(1939)..
Pius XII khuyến khích tín đồ Gia Tô tình nguyện đi chiến đấu ở mặt trận Nga
Sô. Tín đồ Gia Tô - hầu hết là những người sùng tín Maria đồng trinh - từ
Ý, Pháp, Ái Nhĩ Lan, Bỉ, Hòa Lan, Châu Mỹ La Tinh, Hoa Kỳ và Bồ Đào Nha,
đầu quân vào những đoàn quân của Đức
Quốc xã. Tây Ban Nha tham gia một sư đoàn có tên là Sư Đoàn Gia Tô Xanh
Lơ .
Tháng 10, 1941, trong khi những đoàn quân Đức quốc xã tiến gần tới Moscow
(thủ đô Nga Sô), Pius XII, trong một huấn thị ở Bồ Đào Nha, thúc đẩy tín đồ
Gia Tô hãy cầu nguyện dể cho lời hứa của Maria ở Fatima mau thực hiện.
Năm sau, 1942, sau khi Hitler tuyên bố rằng Cộng Sản Nga Sô đã "dứt khoát" bị
đánh bại, Pius XII, trong một thông điệp hồ hởi, theo huấn thị thứ nhất của
Maria đồng trinh, "dâng hiến cả thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm của Maria"
...Đế quốc Phát xít tan biến với sự sụp đổ của Hitler. Năm 1945 Đệ Nhị Thế
Chiến chấm dứt. Trước sự kinh ngạc và đau buồn của Pius XII, Nga Sô đã trở
thành cường quốc thứ nhì trên trái đất."
(The cult of Fatima, with emphasis on the Virgin's promise to Russia's conversion,
had been given immense prominence by the Vatican. In 1938, a papal nuncio
was sent to Fatima, and almost half a million pilgrims were told that
the Virgin had confided three great secrets to the children. Thereupon, in
June of that year, the only surviving cvhild - advised by her confessor, always
in touch with the hierarchy and hence with the Vatican - revealed the contents
of two of the three great secrets.
The first was the vision of Hell (something well known to the modern world).
The second was more to the point: a reiteration that Soviet Russia would
be converted to the Catholic Church. The third was sealed in an evelope and
put in custody of the ecclesiastical authority not to be revealed until 1960.
The dramatic reiteration of the revelation of the second secret about Soviet
Russia immediately assumed a tremendous religious and political significance.
The timing of the "disclosure" could not have been better chosen.
The fascist dictatorship were talking the same language: the annihilation
of Soviet Russia.
The following year, 1939, the Second World War broke out. In 1940, France
was defeated. The whole Europe had become fascist. In 1941, Hitler invaded
Russia. The Virgin's prophecy at long last was about to be fulfilled. At
the Vatican there was rejoicing, since by now Pacelli had become pope under
the name of Pius XII (1939).
Pius XII encouraged Catholics to volunteer for the Russian front. Catholics
- most of them devotees of the Virgin of Fatima - joined the nazi armies,
from Italy, France, Ireland, Belgium, Holland, Latin America, the US and Portugal.
Spain sent a Catholic Blue Division.
In October 1941, while the nazi armies rolled near Moscow, Pius XII, addressing
Portugal, urged Catholics to pray for a speedy realization of the Lady od
Fatima's promise.
The following year, 1942, after Hitler had declared that communist Russia
had been "definitely" defeated, Pius XII, in a Jubilee Message,
fulfilled the first of the Virgin's injunction and "consecrated the whole
world to her Immaculate Heart."
...The fascist empire vanished with the collapse of Hitler. In 1945, World
War II ended. And Soviet Russia, to the chagrined surprise of Pope Pius XII,
emerged the second greatest power on earth.)
Đó là thực chất hiện tượng Fatima, một "phép lạ" mà đại đa số tín
đồ Gia Tô ít học trên toàn thế giới rất tin. Họ không hề để tâm suy nghĩ
là lời hứa của Maria đồng trinh (thực ra là của Giáo hội) giao phó cho những
em bé thất học, rút cục chỉ là những điều mơ ước không thành của Giáo hội.
Nhưng đa số tín đồ Gia Tô hoàn toàn không biết gì về những mưu đồ chính trị
đằng sau hiện tượng Fatima, cho nên họ vẫn tin rằng Đức Mẹ đã thực sự hiện
ra ở Fatima, và tâm cảnh sùng tín Đức Mẹ ngày càng gia tăng. Khai thác sự "ngu
dốt trong những ốc đảo khép kín đó của giáo dân", Giáo hoàng Pius XII
bèn đi thêm một bước ngoạn mục khác.
Năm 1950, Giáo hoàng Pius XII tiết lộ rằng chính đức Mẹ đã đích thân đến
thăm viếng ông tại Vatican. Năm sau, 1951, Ông tổ chức một cuộc hành hương
vĩ đại tại Fatima gồm hơn 1 triệu tín đồ. Rồi ông phái một vị Hồng y thân
cận nhất, Tedeschini, đến Fatima với nhiệm vụ loan báo cùng các tín đồ đi
hành hương ở Fatima là đức Mẹ đã đến thăm ông. Avro Manhattan mô tả sự việc
trên như sau (Ibid., trg. 39):
"Thế rồi một ngày trong tháng 10, 1951, Hồng Y Tedeschili, đứng
trước đám đông tín đồ, với một giọng nói đầy xúc cảm, long trọng tiết lộ với
những tín đồ đi hành hương Fatima rằng: "Một người khác đã chứng kiến
cùng một phép lạ" (nghĩa là phép lạ khi Maria đồng trinh hiện thân trước
ba đứa trẻ năm 1917, mặt trời đi theo đường gẫy khúc ở trên trời). Hồng Y
nói tiếp: "Ông ta (Giáo hoàng Pius XII) đã nhìn thấy hiện tượng đó,
không phải ở Fatima. Thật vậy, ông ta đã nhìn thấy hiện tượng đó nhiều năm
sau, ở La Mã. Giáo hoàng, chính Pius XII, đã nhìn thấy thế." Rồi Hồng
Y kể thêm vài chi tiết liên hệ đến phép lạ trên: "Một buổi chiều ngày
30 tháng 10, 1950, hồi 4 giờ, Đức Thánh Cha từ khu vườn trong Vatican nhìn
lên mặt trời (chỉ có người không biết gì về mặt trời mới nhìn thẳng lên mặt
trời; TCN) và thấy hiện tượng kỳ lạ ở thung lũng Fatima tái diễn. Hiện tượng
kỳ lạ nào? Sau đây là nguyên văn lời của vị Hồng Y, người được Giáo hoàng
Pius XII đặc phái tới Fatima để tiết lộ cho thế giới biết như sau:
"Giáo Hoàng Pius XII đã đích thân nhìn thấy đời sống của mặt trời (Tác
giả xin nhắc độc giả rằng: Mặt trời là một khối cầu lửa vĩ đại, đường kính
vào khoảng 1 triệu 3 trăm 85 ngàn cây số (866.000 miles)) trong tay của Maria.
Mặt trời dao động, rối loạn và biến đổi thành một hình ảnh sống trong một
chuyển động ngoạn mục trên trời.. trao truyền cho vị đại diện của Chúa những
thông điệp thầm lặng nhưng hùng hồn.
Hiện tượng này không chỉ xảy ra một lần, mà trong ba ngày liên tiếp, ngày
30, 31 tháng 10, và 1 tháng 11, 1950."
(And so it came to pass that one October day, Cardinal Tedeschili faced the
massive crowd, and in a voice filled with emotion, solemnly disclosed to the
astonished pilgrims that "another person has seen this same miracle..." (namely
the miracle of the Virgin Mary appearing to the three children in 1917, when
the sun zig-zagged in the sky). "He saw it outside Fatima," the
Cardinal went on to say. "Yes, he saw it years later. He saw it at
Rome. The pope, the same our pontiff, Pius XII...yet he saw it." The
cardinal then gave a few relevant details concerning when and how the miracle
occurred. "On the afternoon of October 30th, 1950, at 4 p.m.," said
the cardinal, (that is three months after Catholic Mathews delivered this
preventive atomic war speech), "the Holy father turned his gaze from
the Vatican gardens to the sun, and there...was renewed for his eyes the prodigy
of the Valley of Fatima." And what was the prodigy?
Here are the exact words of the cardinal, sent there specifically by
Pope Pius XII himself to disclose the story to the world:
"Pope Pius XII was able to witness the life of the sun (author's reminder:
a huge burning sphere 866,000 miles in diameter)..under the hand of Mary.
The sun was agitated, all convulsed, transformed into a picture of life...in
a spectacle of celestial movements...in transmission of mute but eloquent
messages to the Vicar of Christ."
This did not occur once, but on three successive days: October 30 and 31 and
November 1, 1950.)
Khi nghe tin trên, hầu như cả thế giới, trong đó có một số trí thức Gia
Tô, mỉm cười lắc đầu, vì chuyện này cũng tương tự như chuyện trong Thánh Kinh:
trăng sao là những ngọn đèn mà tối tối Chúa sai thiên thần mang ra treo trên
vòm trời. Nhưng đám tín đồ "tin ở một vị Giáo hoàng, người tự nhận là
không thể sai lầm, là nhất hạng, là tối cao", thì lại cảm thấy rất hồ
hởi khi nghe tin trên, vì đó là dấu hiệu nhắc lại lời hứa của bà Maria khi
xưa ở Fatima về Nga sô cải đạo thành Gia Tô La Mã,ỵ đã sắp sửa thành tựu.
Tôi thì tôi cho rằng mấy ngày đó Đức Thánh Cha uống rượu lễ hơi nhiều, nếu
thực sự ông nhìn thấy hiện tượng kỳ lạ trên, trong khi mấy tỷ người trên thế
giới không ai nhìn thấy. Thật ra, chuyện Giáo hoàng bày đặt ra chuyện hoang
đường để dụ dỗ đám tín đồ đầu óc vốn mù mịt, và chuyện các tín đồ tin vào
những chuyện phi lý như trên, là những chuyện thuộc về tín ngưỡng trong Gia
Tô giáo. Đối với tôi, những tín đồ thuộc loại trên đáng thương chứ không
đáng trách. Chúng ta không thể trách họ vì sự thiếu hiểu biết của họ. Đáng
trách chăng là những thủ đoạn khai thác sự thiếu hiểu biết của quần chúng
tín đồ mà Giáo hội dùng trong những mục đích chính trị nhơ bẩn, và trong những
mục đích kinh tế để làm giầu cho Giáo hội trong khi quần chúng tín đồ vẫn
nghèo khổ mà lại tiêu phí vào những việc không đâu, vì tin vào những lời tuyên
truyền giả dối của Giáo hội. Thật vậy, chúng ta hãy đọc vài đoạn sau đây
của học giả Paul Blanshard (Ibid., trg. 225-226):
Đức Ông John L. Belford, một trong những vị lãnh đạo Gia Tô nổi tiếng
ở Brooklyn, phàn nàn về sự kiện là một vài đền thờ (ở những chỗ Giáo hội cho
rằng Maria đã hiện ra) đã "gợi lòng tham, một trong những đặc tính điên
rồ của con người" và lên án "tính cách thương mại xung quanh những
đền thờ." Ông nói: "Thật là khó phân biệt giữa sùng đạo và mê tín,
nhưng có những nơi trong quốc nội cũng như ở ngoại quốc mà sự sùng đạo được
thực hành và quảng cáo như là một cách làm tiền... Những tín đồ Gia Tô lấy
làm xấu hổ, và những người phi-GiaTô cảm thấy kinh tởm...Sự dùng những Thánh
tích, lẽ dĩ nhiên, được giáo hội chấp thuận. Trong việc xử dụng những Thánh
tích, chúng ta dạy về một đức tin hoàn toàn, nhưng chúng ta cũng ghê tởm,
khinh miệt và lên án cách hành nghề kiểu một tay đưa ra Thánh tích, còn tay
kia thì vơ tiền.."
Trong những năm gần đây, giáo hội đã đem mục dích chính trị thêm vào những
sắc thái khác mà giáo hội quảng cáo về những đền thờ Maria. Trong hai đền
thờ Maria lớn nhất trên thế giới ngày nay, đền thờ ở Lourdes trên nước Pháp
và ở Fatima, Bồ Đào Nha, được dựng lên như là các nơi thiêng liêng vì Maria
đồng trinh đã viếng thăm trái đất tại các nơi này, đền thờ nổi tiếng hơn,
Fatima, ngày nay được giáo hội xử dụng chính yếu như là một biểu tượng xúc
cảm trong cuộc chiến chống Cộng. Đền thờ nổi tiếng nhất ở Tây Bán Cầu, ở
Guadalupe, nay được dùng như là một vũ khí chống các trường học công cộng
ở Mễ Tây Cơ (Giáo hội phản đối các trường công, muốn rằng nền giáo dục Mễ
Tây Cơ phải do các trường Ca Tô chỉ đạo; TCN)
... Gần đây, những pho tượng "Đức Mẹ ở Fatima" đã được mang đi diễn
hành ở Âu Châu và Mỹ châu, phô trương rầm rộ và được các báo Gia Tô tường
thuật chi tiết. Mỗi pho tượng đi tới đâu đều có những "phép lạ" hiện
ra tới đó.
Hầu như mọi thông tin quảng cáo về những pho tượng này đều kết hợp phép lạ
ở Fatima với chiến dịch chống Cộng của Giáo hội. Giới trí thức Gia Tô cảm
thấy hổ nhục vì sự khai thác chính trị này. Trí thức Gia Tô không bắt buộc
phải tin những chuyện Maria hiện thân mà giáo hội đưa ra chừng nào mà họ không
công khai bác bỏ những truyền thuyết có tính cách linh cảm này."
(Monsignor John L. Belford, one of Brooklyn's most noted Catholic leaders,
deplored the fact that some shrines "have appealed to the greed which
is one of the foul characteristics of human nature," and condemned the "commercialism
which surrounds shrines." He said: "It is not easy to draw the
line between devotion and superstition, but there are places at home and abroad
where devotion are practiced and promoted as a mean to gather money...Catholics
are ashamed and non-Catholics are horrified...The use of relics is, of course,
approved by the Church. In that use we profess unqualified faith, but we
do loathe, despise and comdemn the contemptible practice of applying the relic
with one hand and collecting money with the other."
...In recent years the hierarchy has added political purpose to other features
of its shrine promotion. Of the two greatest shrines in the world today,
the French Lourdes and the Potuguese Fatima, made sacred by visits of the
Virgin Mary to the earth, the more fmous one, Fatima, is now used by the Church
chiefly as an emotional symbol in the war against communism. The most famous
shrine in the Western hemisphere, Guadalope, is being used as a weapon against
Mexican public schools.
...Recently "Fatima statues" have been circulated in Europe and
America with enormous public fanfare and detailed report in the Catholic press.
Each statue during its journey has had many "miracles reported along
its path."
...Virtually all publicity about the statue has coupled the miracle of Fatima
with the Church's drive against communism... Many Catholic intellectuals
are shame-faced about this political exploitation of apparition...Catholic
intellectuals are not bound by the rules of their Church to take the apparition
stories seriously as long as they do not repudiate the inspiring legends publicity.)
Ngày 13-5-1917, Đức Mẹ hiện ra cho ba trẻ chăn chiên Lucia 10 tuổi, Phanxicô
8 tuổi và Gianxita 7 tuổi ở làng Fatima Bồ Đào Nha. Dân cư làng quê Fatima
rất nghèo, nông dân làm ruộng chăn nuôi súc vật. Trẻ em chăn chiên. Chúng
lớn lên trong bầu khí gia đình đạo đức, thường tụ họp nhau trên bãi đất trống
để lần hạt Mân Côi với nhau.
Gần trưa ngày Chúa nhật 13-5-1917, một luồng chớp làm các em chú ý. Nhìn thấy
một vị sáng láng hiện ra trên những ngọn cây ngọn đồi Cova da Iria, các em
sững sờ kinh ngạc. Đức Mẹ xin các em cầu nguyện cho các tội nhân trở lại,
chiến tranh sớm kết thúc và dặn các em trở lại vào ngày 13 mỗi tháng.
Sau đó vào các ngày 13 tháng 6,7,8,9,10, Đức Mẹ hiện ra và có những phép lạ
kèm theo mà những người tham dự xem thấy tận mắt. Đặc biệt ngày 13/10, Đức
Mẹ làm một phép lạ cả thể trước gần 100.000 người xem thấy hiện tượng lạ lùng:
mặt trời quay tròn nhảy múa tung ra muôn vàn ánh sáng màu sắc huy hoàng. Sau
một thời gian dài điều tra kỹ lưỡng, ngày 13-10-1930, Đức Giám Mục Giáo phận
Lêbia đã chính thức công nhận sự kiện Đức Mẹ Fatima và tổ chức việc tôn kính
Đức Mẹ Mân côi tại đây. Fatima đã thu hút vô số tín hữu hành hương. Những
đoàn hành hương từ mùa hè năm 1917 ngày càng đông đảo, không chỉ ở Bổ Đào
Nha mà còn từ khắp mọi nước trên thế giới.
Kể từ đó, ngày 13 mỗi tháng, người Kitô hữu khắp mọi nơi thể hiện lòng yêu
mến Đức Mẹ một cách đặc biệt.
Đức thánh Cha Piô XII, Phaolô VI, Gioan Phaolô II đã quan tâm nhiều đến Fatima.
Tại đây có vương cung thánh đường kính Đức Mẹ. Đức Thánh Cha Piô XII đã dâng
hiến thế giới cho trái tim Vô Nhiễm Đức Mẹ nhân ngày kỷ niệm 25 năm Mẹ Fatima
(1942). Đức Thánh Cha Phaolô VI đã trao phó gia đình nhân loại cho Đức Mẹ
sau ngày bế mạc Công đồng Vaticanô II (1964) và một lần nữa ngài dâng thế
giới cho trái tim Vô Nhiễm Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến
Fatima ngày 13-5-1982 nhân kỷ niệm 65 năm Đức Mẹ hiện ra để tạ ơn Mẹ đã cứu
thoát ngài một năm trước đó và ngài đã tận hiện nhân loại cho trái tim vô
Nhiễm Mẹ một lần nữa.
BI MẬT FATIMA
BI MẬT THỨ NHẤT:
Ðức Bà cho chúng con thấy một biển cả lửa hồng dường như ở dưới mặt đất. Chìm
ngập trong lửa này là quỷ dữ và các linh hồn dưới hình thể con người, giống
như những cục than hồng trong suốt, đen đủi hoặc xám xịt. Họ nổi lên trong
đám cháy, bị các ngọn lửa nâng lên cao, những ngọn lửa này phát ra từ thân
mình họ cùng với một đám khói lớn. Họ lại rớt xuống mọi phía, giống như những
tia lửa trong một đám cháy lớn, vô trọng lượng hoặc mất thăng bằng, và giữa
những tiếng la hét và rên rỉ vì đau đớn và tuyệt vọng, làm kinh khiếp chúng
con và làm chúng con run lên vì sợ hãi. Các quỷ dữ có thể được phân biệt do
các hình thù gây kinh hãi và ghê tởm, giống như những con vật khủng khiếp
và chưa bao giờ thấy, tất cả đều đen đủi và trong suốt. Thị kiến này kéo dài
một lúc. Làm sao chúng con có thể bày tỏ lòng biết ơn cho xứng với Mẹ yêu
dấu trên trời của chúng con, Ðấng đã báo trước cho chúng con trong lần Hiện
ra thứ nhất khi hứa rằng Ngài đem chúng con về trời. Bằng không, con nghĩ
rằng chúng con sẽ chết điếng vì sợ hãi và kinh khiếp.
BÍ MẬT THỨ HAI:
Sau đó mắt chúng con hướng về Ðức Bà. Ngài hết sức âu yếm và buồn bã nói với
chúng con:
“Chúng con đã thấy hoả ngục, nơi mà các linh hồn tội lỗi đáng thương đi vào.
Ðể cứu vớt họ, Thiên Chúa muốn thiết lập trên thế giới việc sùng kính Trái
Tim Vô Nhiễm. Nếu điều Mẹ nói với các con được thực hiện, nhiều linh hồn sẽ
được cứu và sẽ có hoà bình. Chiến tranh sẽ kết thúc: nhưng nếu dân chúng không
ngừng xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến tranh tồi tệ sẽ xảy ra trong
triều Giáo hoàng của đức Piô XI. Khi chúng con thấy một đêm tối được chiếu
sáng bởi một ánh sáng chưa từng biếât, chúng con hãy biết rằng đó là dấu chỉ
lớn lao mà Thiên Chúa ban cho các con để biết rằng Người sắp trừng phạt thế
gian vì những tội ác của nó, bằng chiến tranh, đói kém, và những bách hại
đối với Hội Thánh và Ðức Thánh Cha. Ðể tránh điều này, Mẹ sẽ xin hiến dâng
Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ, và Hiệp thông đền tạ vào ngày Thứ Bảy
đầu tháng. Nếu lời cầu xin của Mẹ được chấp nhận, Nước Nga sẽ hoán cải, và
sẽ có hoà bình; nếu không, nó sẽ phổ biến những lầm lạc trên khắp thế giới,
gây nên những chiến tranh và bách hại cho Hội Thánh. Những kẻ lành sẽ bị giết
hại; Ðức Thánh Cha sẽ đau khổ nhiều; nhiều quốc gia sẽ bị tiêu diệt. Cuối
cùng, Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ sẽ toàn thắng. Ðức Thánh Cha sẽ hiến dâng Nước
Nga cho Mẹ, và nó sẽ được hoán cải, và một giai đoạn hoà bình sẽ được ban
cho thế giới”.
BI MẬT THỨ BA:
Sau hai phần mà con đã giải thích, phía bên trái của Ðức Bà và cao hơn một
ít, chúng con đã thấy một Thiên thần cầm một thanh gươm bằng lửa nơi tay trái;
nó lấp lánh và phát ra những tia lửa dường như sẽ đốt cháy thế gian; nhưng
chúng tắt ngúm khi chạm đến ánh quang chiếu toả từ tay phải của Ðức Bà hướng
về trần gian: chỉ về trái đất bằng tay phải, Thiên thần lớn tiếng thốt lên:
‘Ðền tội, Ðền tội, Ðền tội!'. Và chúng con thấy trong một luồng sáng lớn là
Thiên Chúa: ‘một cái gì tương tự như cách người ta xuất hiện trong một tấm
gương khi người ta đi ngang qua’ một Giám mục bận đồ trắng ‘chúng con có cảm
nhận đó chính là Ðức Thánh Cha’. Các Giám mục, các Linh mục, các tu sĩ nam
nữ khác leo lên một ngọn núi dốc thẳng, trên đỉnh núi có một Thánh giá lớn
làm bằng thân cây thô nhám như thể của một cây bần với vỏ cây; trước khi đến
đó, Ðức Thánh Cha đi qua một thành phố lớn, một nửa bị tàn phá và một nửa
rung chuyển, với bước chân nghiêng ngả, buồn khổ vì đau đớn và ưu phiền, ngài
cầu nguyện cho các linh hồn của những thân xác ngài gặp trên đường; khi đã
lên đỉnh núi, quỳ dưới chân Thánh giá lớn, ngài đã bị một nhóm lính giết hại
bằng đạn và mũi tên, và cùng một cách thức như thế các Giám mục, Linh mục,
tu sĩ nam nữ khác, và các người giáo dân thuộc mọi giai cấp và địa vị xã hội
khác nhau lần lượt bị giết hại. Bên dưới hai cánh tay của Thánh giá có hai
Thiên thần, mỗi vị cầm trong tay một chiếc bình bằng pha lê, trong đó các
ngài hứng máu của các vị Tử đạo và với máu đó các ngài rảy trên các linh hồn
đang tiến về Thiên Chúa.
Mệnh Lệnh Ðức Mẹ Fatima:
Năm 1917, khi hiện ra với ba trẻ nhỏ ở Fatima, Ðức Mẹ đã truyền dạy phải thực
hiện 3 mệnh lệnh Fatiam để cứu nhân loại và cức các linh hồn khỏi lửa luyện
ngục. Ba Mệnh lệnh đó là:
1. Ăn năn đền tội, cải thiện đời sống
2. Tôn sùng Trái Tim vẹn sạch Ðức Mẹ
3. Lần Chuỗi Mân côi
CHỊ LUCIA, BÍ MẬT FATIMA VÀ TIÊN TRI
Đức Mẹ Hiện Ra Tại Fatima 1917
Ba Trẻ Lucia, Jacinta và Phanxicô là ba em bé chăn chiên thuộc gia đình nghèo
làng quê Fatima, nước Bồ Đào Nha. Các trẻ em này thuộc giáo phận Leiria. Hàng
ngày các em được gia đình, cha mẹ trao phó việc dẫn đoàn súc vật: chiên, cừu
đi ăn cỏ ở các vùng đồi núi quanh đó. Các em thường có thói quen sau khi để
bầy súc vật ăn cỏ, liền qùi gối trên bãi đất trống đọc kinh, lần chuỗi mân
côi chung với nhau. Mùa Xuân năm 1916, một thiên thần đã hiện đến ba lần và
báo trước về các lần hiện ra của Đức Mẹ.
Vào mùa hè năm 1917 lúc đó thế chiến thứ nhất đang tiếp diễn, ngày 13 tháng
5 năm 1917, khi các em chăn dẫn đàn vật tại thung lũng Cova da Iria, một nơi
có nhiều cây sồi và cây ôliu và lúc các em đang sốt sắng đọc kinh, lần chuỗi
mân côi lúc gần giữa trưa, một luồng chớp chói lòa làm các em bỡ ngỡ, kéo
hoàn toàn sự chú ý của các em về những ngọn cây trên đồi Cova da Iria, một
Vị sáng láng hiện ra, Thiếu Nữ ấy xin các em cầu nguyện cho những người tội
lỗi ăn năn trở lại, chiến tranh sớm kết thúc.
Đức Trinh Nữ Maria xin các em hãy trở lại vào các ngày 13 trong những tháng
sau đó. Sứ điệp của Đức Mẹ kêu gọi sám hối, lần hạt Mân Côi, và dâng hiến
thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ. Lần nào hiện ra, Đức Mẹ cũng yêu cầu các
em hãy lần chuỗi hằng ngày. Mẹ còn dạy các trẻ một lời nguyện để thường xuyên
dâng lên Thiên Chúa các biến cố đời sống, nhất là các hành vi khổ chế và hy
sinh của các em:
Lạy Chúa Giêsu, việc này xin vì lòng mến Chúa, xin cho các tội nhân trở lại,
và đền tạ những xúc phạm người ta đã gây ra cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria.
Thiếu Nữ dặn các em hãy trở lại nơi này vào ngày 13 mỗi tháng. Theo lời Thiếu
Nữ căn dặn, các em tới đó và được nhìn thấy Thiếu Nữ hai lần sau đó vào ngày
13 tháng 6 và ngày 13 tháng 7. Ngày 13 tháng 8, nhà cầm quyền địa phương ngăn
cản các em không cho tới Cova da Iria, nhưng Thiếu Nữ đã hiện ra với các em
vào ngày 19. Ngày 13 tháng 9, Thiếu Nữ xin các em lần hạt Mân Côi để cầu cho
chiến tranh sớm kết thúc. Ngày 13 tháng 10, Thiếu Nữ hiện ra và xưng mình
là Mẹ Rất Thánh Mân Côi.
Mẹ mời gọi các em cầu nguyện và làm việc đền tạ. Lần này, một hiện tượng rất
lạ đã xẩy ra làm rúng động mọi người: Chính quyền, dân chúng và các nhà báo
chứng kiến hiện tượng gọi là Mặt Trời múa hay thái dương như rơi khỏi bầu
trời và lao xuống đất. Ngày 13 tháng 10 năm 1930, sau nhiều năm điều tra,
xác minh và cầu nguyện, tìm hiểu, Đức Giám Mục Leira đã công nhận chính thức
việc Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ tại đồi Cova da Iria, Fatima, Bồ Đào Nha và
cho phép tổ chức các việc đạo đức để cung kính Đức Maria Mân Côi nơi Mẹ đã
hiện ra vào năm 1917.
Sứ Điệp và Mệnh Lệnh Fatima
Đức Mẹ đã hiện ra đúng như lời Mẹ loan báo trước và sự kiện thái dương như
muốn rơi xuống đất, làm khiếp kinh hồn vía mọi người, đã minh chứng quyền
năng của Thiên Chúa. Qua biến cố lạ lùng như thế, Mẹ Maria Rất Thánh Mân Côi
kêu mời nhân loại hãy ăn năn sám hối. Sứ điệp của Fatima là hãy cầu nguyện
cho các tội nhân, lần chuỗi Mân Côi và sám hối. Ngày 13 tháng 10 năm 1917,
Đức Mẹ dậy:
”Mẹ đến kêu nài các tín hữu hãy lần hạt Mân Côi. Mẹ mong ước nơi đây có một
nguyện đường tôn kính Mẹ. Nếu người ta cải thiện đời sống thì chiến tranh
sớm kết thúc“.
Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ để qua các em, Mẹ nhắn nhủ nhân loại siêng năng
cầu nguyện, năng lần chuỗi Mân Côi và thống hối ăn năn. Mẹ đã trao cho ba
trẻ nhiều bí mật và căn dặn các em sống thánh để cầu nguyện cho những kẻ có
tội và cứu vãn thế giới.
Được chiêm ngưỡng Đức Mẹ hiện ra, ba trẻ Lucia, Jacinta, Phanxicô đã sống
theo ý Chúa, tuân lời Đức Mẹ. Chúa có con đường của Ngài và Ngài dọn chỗ cho
con người tùy lòng xót thương của Ngài. Phanxicô được nhìn thấy Đức Mẹ, nhưng
không được nghe lời Đức Mẹ nói, đã qua đời ngày 04 tháng 4 năm 1919, Giacinta
qua đời ngày 20 tháng 2 năm 1920. Chúa để Lucia sống trong tu viện kín nhiều
năm sau trước và sau khi bí mật được công bố. Ba trẻ đã được hạnh phúc chiêm
ngưỡng và nghe lời Đức Mẹ chỉ bảo, dậy dỗ. Với sứ điệp Fatima, Mẹ Maria Rất
Thánh Mân Côi muốn nói lên một sự thật tuyệt vời: con người đang hư đi, thế
giới đang dần xa Thiên Chúa, họ chỉ có thể được cứu vãn bằng những phương
thế mà Mẹ dậy. Ðức Mẹ đã truyền phải thực hiện 3 mệnh lệnh Fatima để cứu nhân
loại và cứu các linh hồn khỏi lửa luyện ngục. Ba Mệnh lệnh đó là:
1. Ăn năn đền tội, cải thiện đời sống
2. Tôn sùng Trái Tim vẹn sạch Ðức Mẹ
3. Lần Chuỗi Mân côi
Các Bí Mật Fatima
Bí Mật Fatima là những gì Đức Mẹ tỏ ra cho hai mục đồng là Lucia (bấy giờ
10 tuổi) và Giaxinta (bấy giờ 7 tuổi) biết vào lần hiện ra thứ ba, ngày 13/7/1917,
và bảo các em không được tiết lộ với bất cứ một ai, ngoại trừ một mình Phanxicô
là em cũng được thấy Đức Mẹ hiện ra như các em song không nghe thấy Mẹ nói
gì hết.
Thật ra không phải là có 3 Bí Mật Fatima khác nhau như người ta vẫn quen nói
mà là Bí Mật Fatima có ba phần khác nhau, như chính chị Lucia đã xác nhận
trong phần mở đầu cuốn Hồi Ký Thứ Ba của chị.
Phần thứ ba của Bí Mật Fatima được chị Lucia viết ra vào ngày 3/1/1944. Thế
nhưng, để viết phần bí mật này, một trong ba phần bí mật quan trọng nhất đã
được Mẹ Maria căn dặn chung là “không được nói với ai”, song chính vì hai
phần kia đã được tiết lộ mà ai cũng muốn biết thêm về phần bí mật còn lại
này, kể cả giáo quyền địa phương bấy giờ, đến nỗi đã ngỏ ý muốn chị viết ra,
nên để giải tỏa bối rối cho Lucia, Mẹ Maria đã phải hiện ra với chị ngày 2/1/1944,
bảo chị biết rằng đã đến lúc chị nên viết ra phần bí mật còn lại này để trình
lên giáo quyền.
Đức giám mục sở tại nhận được phần bí mật thành văn này ngày 17/6 cùng năm,
song mãi tới năm 1957 Tòa Thánh mới để ý tới nó và lưu giữ nó từ ngày 4/4/1957.
Như chị Lucia cho biết, thì phần bí mật này chỉ có một mình Đức Thánh Cha
mới được phép tiết lộ, nhưng hoàn toàn tùy ý ngài. Các Đức Thánh Cha Gioan
XXIII và Phaolô VI cũng đã đọc phần bí mật này song không công bố gì cả. Theo
ý của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh tòa thánh là
Angelo Sodano đã công bố phần bí mật này.
Trước khi tuyên bố "Phần thứ ba của bí mật Fatima", Ðức TGM Tarcisio
Bertone, Tổng Thư ký Bộ Giáo lý Ðức tin, đã nhiều lần đến Tu viện Coimbra
để tiếp xúc với Nử Tu Lucia. Và nữ tu Lucia đã xác nhận bản tuyên bố là đúng
với những điều Ðức Mẹ đã tiết lộ cho ba em.
Sau đây là cuộc phỏng vấn Ðức Cha Bertone dành cho nhật báo "Tương Lai":
Hỏi - Ðức Cha có thể cho biết Chị Lucia đã viết gì trong cuốn sách được Ðức
Cha nói đến?
Ðáp - Ðây là cuốn lược tóm tất cả những bút tích thiêng liêng, từ các sứ điệp
Fatima, Chị Lucia viết lại cách đơn sơ và cụ thể hóa bằng những gợi ý, những
lời khuyên. Bị tràn ngập bởi những câu hỏi về những lần hiện ra và những lời
Ðức Trinh Nữ, cần được giải thích, và vì không thể trả lời cho từng người
được, Chị Lucia xin và được phép Tòa Thánh để viết một cuốn sách "Os
apelos da Mensagem de Fatima" (Những lời kêu gọi của sứ điệp Fatima).
Ðây là đầu đề cuốn sách được viết ra, để trả lời chung các câu hỏi đã nhận
được. Ðiểm tham khảo liên lỉ và như là cơ cấu của cuốn sách tức là lời kêu
gọi của Ðức Trinh Nữ: "Ðừng xúc phạm Thiên Chúa nữa. Người đã bị xúc
phạm quá nhiều rồi" (lần hiện ra ngày 13.10.1917).
Xét chính nội dung, cuốn sách không thêm bớt gì sứ điệp Fatima, nhưng giải
thích, phổ biến với những áp dụng thực hành của đời sống Kitô. Vì thế có thể
sẽ làm ích nhiều cho những ai cảm thấy nơi bản thân sự lo lắng, sự không chắc
chắn và hồ nghi về số phận đời đời của mình.
Hỏi - Khi nào sẽ xuất bản?
Ðáp - Cuốn sách gồm 334 trang đánh máy. Tôi nghĩ rằng: có thể xuất bản tại
Bồ đào nha trong thời gian tương đối ngắn, nếu không trong năm nay, thì vào
đầu năm 2001.
Hỏi - Trong cuộc gặp gỡ, Chị Lucia có kể cho Ðức Cha về các lần hiện ra khác
nữa không?
Ðáp - Trong cuộc nói chuyện, chúng tôi không nói đến các lần hiện ra khác,
bởi vì cuộc nói chuyện chỉ xoay chung quanh những lần hiện ra năm 1917 mà
thôi và cách riêng lần hiện ra ngày 13 tháng 7. Nhưng do các bức thư của chị
Lucia, tôi biết Chị còn có những lần hiện ra hoặc những thông truyền khác
do "Ðức Bà", lúc chị ở Pontevedra và ở Tuy, bên Tây ban nha (nơi
Chị Lucia tu trước khi trở về Ðan viện Coimbra, bên Bồ đào nha), từ năm 1925
trở đi và sau năm 1952 tại Bồ đào nha, ở Coimbra; có thể cho đến năm 1984.
Như vậy cuộc đàm thoại với Ðức Trinh Nữ đã được tiếp tục và kéo dài, như để
minh chứng sự giúp đỡ ân cần của một Người Mẹ và Người Thầy cho công việc
giải thích đúng nghĩa và thông truyền trung thành sứ điệp của Người.
Hỏi - Có phải với việc giúp đỡ này chúng ta có thể chắc chắn rằng "thị
kiến trong phần thứ ba của Bí mật Fatima" hướng về quá khứ không?
Ðáp - Ðây là một việc tiếp theo của các sự kiện lịch sử: các sự kiện này xem
ra được thực hiện đúng như những dự tính trước của thị kiến. Trước hết, đây
là một con đường Thánh giá về các đau khổ của Giáo hội, do những cuộc bách
hại mà Giáo hội phải chịu trong suốt thế kỷ XX. Rồi đến vụ mưu sát "bằng
vũ khí" vào chính ngày kỷ niệm việc hiện ra lần thứ nhất của Ðức Trinh
Nữ Maria tại Fatima. Ðây là sự kiện độc nhất trong thế kỷ này: một vị Giáo
Hoàng bị tử thương và thực sự xém chết. Thị Kiến "nói lên sự thật",
như ÐTC và ÐHY Ratzinger đã nhận xét; thị kiến cho phép nhận ra một sự phù
hợp, sự phù hợp này hơn nữa đã được Chị Lucia xác nhận.
Hỏi - Cái gì đã làm cho Chị Lucia nghĩ rằng thời gian tốt nhất để tiết lộ
Bí Mật Thứ Ba là sau năm 1960?
Ðáp - Ðây là một câu hỏi không tìm ra câu trả lời dễ dàng. Như tôi đã tả lại
trong cuộc nói chuyện với Chị Lucia: những lời của Chị mang đến cho ta một
giải thích có thể chấp nhận được, nhưng việc giải thích này thực sự chưa thỏa
mãn. Chúng ta cần nhớ điều này là Chị Lucia đã viết lại các chuyện xẩy ra
năm 1944, và có thể năm 1960 đối với Chị, đánh dấu một chân trời đủ xa cách,
để việc tiên tri kia thành sự thật.
Hỏi - Chị Lucia có nói lên những tâm tình của mình khi biết tin về vụ mưu
sát Ðức Gioan Phaolô II không?
Ðáp - Chị Lucia đã bị xúc động sâu xa, bởi những tin tức về vụ mưu sát Ðức
Phaolô VI tại Manila xẩy ra ngày 27 tháng 11 năm 1970. Chúng ta còn nhớ Ðức
Phaolô VI là Vị Giáo Hoàng đầu tiên đến Fatima trong năm 1967 (kỷ niệm 50
năm Ðức Trinh Nữ hiện ra tại đây) và ngài đã gặp người được thấy Ðức Mẹ hiện
ra (Chị Lucia). Năm 1981, chiến thuật và sự trầm trọng của vụ mưu sát Ðức
Gioan Phaolô II thể hiện sự thật kinh khủng của phần thứ ba của Bí Mật Fatima.
Chị Lucia một lần nữa đã sống chiều ngày 13 tháng 5 năm 1981 sự đau khổ kinh
khửng mà ba trẻ em mục đồng đã cảm thấy trong lúc nhận được thị kiến; Chị
Lucia không thể quên được lời nói đầy âu yếm của Giaxinta trong lúc đó: "Thật
tội nghiệp Ðức Thánh Cha; tôi phải ăn năn đền tội nhiều cho các người tội
lỗi".
Hỏi - Ngày nay Chị Lucia nghĩ gì?
Ðáp - Chị Lucia không phải là một người gây thảm hại quá mức độ. Chị rất bình
thản và vui mừng, bởi vì lịch sử đã theo một con đường khác với những dự kiến
buồn thảm được nghe nói trong năm 1917. Xem ra có người không đồng ý, vì lời
tiên tri không hoàn tất đúng như bản văn đã nói: "cái chết tức khắc (của
ÐTC) và về đệ tam thế chiến, chiến tranh nguyên tử, gây nên chết chóc và tàn
phá kinh khủng". Nhưng thái độ "bi quan" này, như Ðức Hồng
Y Ratzinger đã nói, thì phù hợp với Thuyết định mệnh không thể tránh được,
hơn là phù hợp vói sự tín nhiệm dựa trên niềm hy vọng Kitô. "Không có
một số phận nào lại không thể thay đổi được.Ðức Tin và lời cầu nguyện là những
sức mạnh có thể ảnh hưởng trong lịch sử và sau cùng lời cầu nguyện trở nên
hiệu lực hơn các viên đạn bắn ra, đức tin hùng mạnh hơn hơn những chia rẽ".
Hỏi - Câu hỏi sau cùng. Thưa Ðức Cha, có thể có nguy hiểm này hay không: là
khi bí mật được tiết lộ rồi, thì cả sứ điệp Fatima sẽ đi vào trong lãng quên
của một thế giới, hiện vẫn còn bị chiến tranh, bạo động, bất công và sai lạc
luân lý?
Ðáp - Thực ra có nguy hiểm. Nhưng tôi hy vọng rằng: sứ điệp Fatima không ngừng
nói với các tín hữu. Chính vì thế giới còn chiến tranh, chia rẽ, bạo động,
bất công và những sai lạc luân lý, nên cần phải khởi sự lại từ trung tâm điểm
Phúc Âm. Ðàng khác, những tấn công chống lại Giáo hội và các tín hữu, với
sức đè nặng của đau khổ mà Giáo hội và các tín hữu mang trên mình, từ năm
1981, vẫn không hết, trái lại vẫn còn tiếp tục. Cho dù lời kêu gọi trở lại
và ăn năn xám hối, được rao giảng từ đầu thế kỷ XX và cách riêng cho thế kỷ
này, lời kêu gọi vẫn giữ trọn tính cách thời điểm của nó. Như ÐTC đã viết
trong một sứ điệp năm 1996: "Lời mời gọi liên lỉ của Ðức Maria rất thánh
về ăn năn sám hối không là gì khác, mà chỉ là việc biểu lộ sự lo lắng của
Người Mẹ đối với số phận của gia đình nhân loại: cần phải trở lại và xin ơn
tha thứ".
Ngày 13/05/2000, Chị Lucia đã hiện diện tại Fatima, trong lúc đại diện Giáo
hội tiết lộ các Bí mật, sau thánh lễ Phong Chân phước cho Phanxicô và Giaxinta.
BI MẬT PHẦN THỨ NHẤT:
Ðức Bà cho chúng con thấy một biển cả lửa hồng dường như ở dưới mặt đất. Chìm
ngập trong lửa này là quỷ dữ và các linh hồn dưới hình thể con người, giống
như những cục than hồng trong suốt, đen đủi hoặc xám xịt. Họ nổi lên trong
đám cháy, bị các ngọn lửa nâng lên cao, những ngọn lửa này phát ra từ thân
mình họ cùng với một đám khói lớn. Họ lại rớt xuống mọi phía, giống như những
tia lửa trong một đám cháy lớn, vô trọng lượng hoặc mất thăng bằng, và giữa
những tiếng la hét và rên rỉ vì đau đớn và tuyệt vọng, làm kinh khiếp chúng
con và làm chúng con run lên vì sợ hãi. Các quỷ dữ có thể được phân biệt do
các hình thù gây kinh hãi và ghê tởm, giống như những con vật khủng khiếp
và chưa bao giờ thấy, tất cả đều đen đủi và trong suốt. Thị kiến này kéo dài
một lúc. Làm sao chúng con có thể bày tỏ lòng biết ơn cho xứng với Mẹ yêu
dấu trên trời của chúng con, Ðấng đã báo trước cho chúng con trong lần Hiện
ra thứ nhất khi hứa rằng Ngài đem chúng con về trời. Bằng không, con nghĩ
rằng chúng con sẽ chết điếng vì sợ hãi và kinh khiếp.
BI MẬT PHẦN THỨ HAI:
Sau đó mắt chúng con hướng về Ðức Bà. Ngài hết sức âu yếm và buồn bã nói với
chúng con:
“Chúng con đã thấy hoả ngục, nơi mà các linh hồn tội lỗi đáng thương đi vào.
Ðể cứu vớt họ, Thiên Chúa muốn thiết lập trên thế giới việc sùng kính Trái
Tim Vô Nhiễm. Nếu điều Mẹ nói với các con được thực hiện, nhiều linh hồn sẽ
được cứu và sẽ có hoà bình. Chiến tranh sẽ kết thúc: nhưng nếu dân chúng không
ngừng xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến tranh tồi tệ sẽ xảy ra trong
triều Giáo hoàng của đức Piô XI. Khi chúng con thấy một đêm tối được chiếu
sáng bởi một ánh sáng chưa từng biếât, chúng con hãy biết rằng đó là dấu chỉ
lớn lao mà Thiên Chúa ban cho các con để biết rằng Người sắp trừng phạt thế
gian vì những tội ác của nó, bằng chiến tranh, đói kém, và những bách hại
đối với Hội Thánh và Ðức Thánh Cha. Ðể tránh điều này, Mẹ sẽ xin hiến dâng
Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ, và Hiệp thông đền tạ vào ngày Thứ Bảy
đầu tháng. Nếu lời cầu xin của Mẹ được chấp nhận, Nước Nga sẽ hoán cải, và
sẽ có hoà bình; nếu không, nó sẽ phổ biến những lầm lạc trên khắp thế giới,
gây nên những chiến tranh và bách hại cho Hội Thánh. Những kẻ lành sẽ bị giết
hại; Ðức Thánh Cha sẽ đau khổ nhiều; nhiều quốc gia sẽ bị tiêu diệt. Cuối
cùng, Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ sẽ toàn thắng. Ðức Thánh Cha sẽ hiến dâng Nước
Nga cho Mẹ, và nó sẽ được hoán cải, và một giai đoạn hoà bình sẽ được ban
cho thế giới”.
BI MẬT PHẦN THỨ BA:
Sau hai phần mà con đã giải thích, phía bên trái của Ðức Bà và cao hơn một
ít, chúng con đã thấy một Thiên thần cầm một thanh gươm bằng lửa nơi tay trái;
nó lấp lánh và phát ra những tia lửa dường như sẽ đốt cháy thế gian; nhưng
chúng tắt ngúm khi chạm đến ánh quang chiếu toả từ tay phải của Ðức Bà hướng
về trần gian: chỉ về trái đất bằng tay phải, Thiên thần lớn tiếng thốt lên:
‘Ðền tội, Ðền tội, Ðền tội!'. Và chúng con thấy trong một luồng sáng lớn là
Thiên Chúa: ‘một cái gì tương tự như cách người ta xuất hiện trong một tấm
gương khi người ta đi ngang qua’ một Giám mục bận đồ trắng ‘chúng con có cảm
nhận đó chính là Ðức Thánh Cha’. Các Giám mục, các Linh mục, các tu sĩ nam
nữ khác leo lên một ngọn núi dốc thẳng, trên đỉnh núi có một Thánh giá lớn
làm bằng thân cây thô nhám như thể của một cây bần với vỏ cây; trước khi đến
đó, Ðức Thánh Cha đi qua một thành phố lớn, một nửa bị tàn phá và một nửa
rung chuyển, với bước chân nghiêng ngả, buồn khổ vì đau đớn và ưu phiền, ngài
cầu nguyện cho các linh hồn của những thân xác ngài gặp trên đường; khi đã
lên đỉnh núi, quỳ dưới chân Thánh giá lớn, ngài đã bị một nhóm lính giết hại
bằng đạn và mũi tên, và cùng một cách thức như thế các Giám mục, Linh mục,
tu sĩ nam nữ khác, và các người giáo dân thuộc mọi giai cấp và địa vị xã hội
khác nhau lần lượt bị giết hại. Bên dưới hai cánh tay của Thánh giá có hai
Thiên thần, mỗi vị cầm trong tay một chiếc bình bằng pha lê, trong đó các
ngài hứng máu của các vị Tử đạo và với máu đó các ngài rảy trên các linh hồn
đang tiến về Thiên Chúa.
Những Điểm Đáng Chú Ý Của Các Lần Hiện Ra Ở Fatima
1. Ngày Chúa Nhật 13/5/1917, Đức Mẹ đã hiện ra với 3 trẻ tại Cova Da Iria,
làng Fatima và nói: "Ta từ trời xuống. Ta muốn các con đến đây củng vào
giờ này ngày 13 mỗi tháng cho đến tháng 10. Ta sẽ cho biết Ta là ai? Và muốn
gì?". Hãy đọc Kinh Mân Côi hàng ngày để xin ơn hoà bình cho thế giới
và chấm dứt chiến tranh.
2. Ngày thứ Tư 13/6/1917, Đức Mẹ hiện ra lần 2, và nói với Luxia: "Chúa
muốn cho con ở lại trần gian lâu hơn để làm cho người ta biết Ta và yêu mến
Ta. Mẹ mong muốn các con cầu Kinh Mân Côi hằng ngày.
3. Ngày thứ Sáu 13/7/1917, Đức Mẹ hiện ra lần thứ 3, ban cho các em điều Bí
Mật, cho các em thấy Hỏa Ngục, và khuyên dạy các em cầu nguyện: "Lạy
Chúa Jesu, con xin dâng các việc này cho Chúa để cải hóa các kẻ có tội, và
đền tạ những sự xúc phạm đến Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ. Mẹ mong muốn các con
tiếp tục đọc Kinh Mân Côi hằng ngày để tôn vinh Ðức Mẹ Mân Côi, để xin ơn
hoà bình thế giới và chấm dứt chiến tranh, vì chỉ Người người mới có thể cừu
giúp các con ... Mỗi khi các con đọc Kinh Mân Côi, sau mỗi mầu nhiệm hãy đọc: "Ôi
Chúa Giêsu của chúng con, xin tha thứ cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi
lửa hỏa ngục. Xin dẩn đưa các linh hồn lên Thiên Ðàng, nhất là những linh
hồn cần Chúa thương xót hơn hết.
4. Ngày Chủ Nhật 19/8/1917, Đức Mẹ hiện ra lần thứ 4 (vì ngày 13/8 các em
đang bị bắt giữ để điều tra), khuyên bảo các em tiếp tục cầu nguyện bằng chuỗi
Mân Côi, và phán bảo Luxia hãy dùng các phẩm vật người ta dâng cúng, để xây
1 nhà nguyện tại đây. Mẹ muốn các con tiếp tục đọc Kinh Mân Côi hằng ngày.
5. Ngày thứ năm 13/9/1917, Đức Mẹ hiện ra lần thứ 5, và cũng khuyên bảo các
em tiếp tục cầu nguyện chuỗi Mân Côi để được hòa bình. Hãy tiếp tục đọc Kinh
Mân Côi để xin chấm dứt chiến tranh.
6. Ngày thứ bảy 13/10/1917, Đức Mẹ hiện ra lần thứ 6, và cũng là lần cuối
cùng, và phán bảo: "Ta là Nữ Vương Mân Côi. Các con hãy tiếp tục lần
chuỗi Mân Côi. Các kẻ có tội cần phải tự cải hóa và ăn năn xám hối. Chúa bị
xúc phạm quá nhiều rồi. Chớ chi người ta đừng làm mất lòng Chúa nữa. Cũng
trong ngày hôm nay, Đức Mẹ đã làm một phép lạ cả thể, cho mặt trời nhảy múa
trên không trung, phát ra nhiều ánh sáng kỳ dị, làm cho mọi người ăn năn thống
hối và tin.
BIẾN CỐ FATIMA VÀ ĐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAOLÔ II
Ngày 13/5/1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bị một thanh niên người Thổ
Nhĩ Kỳ tên là Mehmet Ali Agca 23 tuổi ám sát hụt tại Quảng Trường Thánh Phêrô.
Mehmet Ali Agca đã bắn 4 phát súng 9mm về phía Đức Thánh Cha lúc đó đang đứng
chào dân chúng và Ngài đã ngã ra phía sau. Viên đạn thứ nhất trúng bụng, viên
thứ 2 trúng tay trái, viên thứ 3 trúng ngực một bà Mỹ 60 tuổi, và viên thứ
4 trúng tay người phụ nữ Jamaica 21 tuổi. Lý do tại sao Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II bị ám sát vẫn còn nằm trong vòng bí mật. Mehmet Ali Agca, sinh ngày
9 tháng 1 năm 1958, đã bị kết án tù chung thân về tội mưu sát ÐTC Gioan Phaolô
II.
Trong Đại Năm Thánh 2000, ĐTC đã xin tổng thống Ý tha cho người sát hại Ngài,
và Ali Agca sau 20 năm trong tù đã được Ý trao trả cho Thổ Nhĩ Kỳ vào năm
2001, và tiếp tục ở tù ở quốc gia của mình vì tội sát hại một vị giám đốc
nhật báo vào năm 1979. Ngài đã vào tù thăm người đã bắn Ngài và đã tha thứ
cho anh. Ali Agca có lẽ đã cảm kích cử chỉ của Đức Thánh Cha nên đã quỳ xuống
hôn tay Ngài cách trân trọng.
Chính anh Ali Agca người đã bắn những cú chí tử vào Ðức Gioan Phaolô II, đã
hết sức ngạc nhiên, tại sao bị thương như vậy, mà ÐTC đã không chết. Việc
ÐTC không chết, là vì có bàn tay Ðức Mẹ Fatima. Chính ÐTC đã công nhận như
vậy và ngày 12-13/05/1982, ngài đã đến Fatima hành hương, để tạ ơn Ðức Mẹ
và tuyên bố rõ ràng: "Ðức Mẹ Maria đã cứu sống tôi".
Ðể ghi nhớ muôn đời, một trong các viên đạn được lấy ra lúc giải phẫu cho
ÐTC, tại Bệnh viện Bách Khoa Gemelli ở Roma, đã được ghép vào triều thiên
của Ðức Mẹ tại Ðền Thánh Fatima trong dịp ÐTC đến hành hương tạ ơn 13/05/1982.
Trong cuộc hành hương Năm Thánh 2000, ÐTC còn để lại một kỷ niệm khác nữa:
đặt dưới chân Mẹ chiếc nhẫn Giám mục quí giá, do Ðức Cố Hồng Y Stefan Wyszynski,
Giáo chủ Ba lan và TGM Varsovie, tặng cho ngài khi được bầu làm Giáo Hoàng
(16/10/1978). Còn chiếc giây lưng trắng bị đẩm máu trong vụ mưu sát tại Quảng
trường Thánh Phêrô lúc 17giờ 10 phút ngày 13/05/1981, đã được để lại làm kỷ
niệm tại Czestochowa, Ðền Thánh quốc gia Ba lan, nơi ÐTC đã đến hành hương
nhiều lần trong những năm sinh sống tại Ba lan và cả sau khi đã làm Giáo Hoàng.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã cho phổ biến chuỗi Mân Côi thứ 4, tức
Chuỗi Sự Sáng thêm vào 3 chuỗi Mân Côi đã có từ lâu, có lẽ cũng xuất phát
từ lòng tri ân Mẹ.
THẾ GIỚI SAU CÁI CHẾT CỦA CHỊ LUCIA
Chị Lucia là một sơ nổi tiếng được nhiều người biết đến nhất của thế giới
hôm nay cũng như Mẹ Têrêsa Calcutta. Thế nhưng, Chị Lucia vẫn sống trong vâng
lời và yên lặng, chu toàn công việc tầm thường hằng ngày trong Tu viện Camêlô
ở Coimbra, Bồ Đào Nha, chị không tìm cho mình được nổi tiếng ngoài công cộng,
không bao giờ nói gì hơn những gì Mẹ Maria nói với chị.
Sự qua đời của chị là một dấu chỉ thời gian, nhất là chị qua đời vào ngày
13, ngày mà Đức Mẹ chọn để hiện ra mỗi tháng tại Fatima, có lẽ cũng là một
dấu chỉ từ thiên đàng. Thế giới hôm nay đã xảy ra và đang đứng trước những
biến cố lớn lao của chiến tranh, khủng bố, bệnh dịch, AIDS, thiên tai, bom
nguyên tử, vi trùng, đặt bom nhà thờ và những giáo phái phản Kitô. Những gì
sẽ xảy ra trên thế giới sau cái chết của chị Lucia vẫn tuỳ thuộc vào việc
nhân loại thi hành các mệnh lệnh của Mẹ ra sao. Người Kitô hữu bước vào Mùa
Chay, chuẩn bị cho cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta cần ăn chay, cầu
nguyện nhiều hơn nữa cho sự ăn năn, trở về với Thiên Chúa của nhân loại.
Bước vào ngàn năm thứ ba, thế giới chứng kiến sự ra đi của hai người phụ nữ
nổi bật về nhân phẩm, một là Mẹ Têrêsa Calcutta, một phản ảnh của tình yêu
Thiên Chúa giữa những người cùng khổ; người kia là chị Lucia phản ảnh sự vâng
lời, khiêm nhường, đơn sơ của Mẹ Maria. Và một nhân vật có liên quan tới biến
cố Fatima và sự sụp đổ của thế giới cộng sản là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II cũng đang cần được mọi người cầu nguyện cho.
Thủ tướng Bồ Đào Nha Pedro Santana Lopes đã tuyến bố ngày thứ Ba là ngày quốc
gia truy niệm tưởng nhớ sự qua đời của chị Lucia. Chị Lucia được nhiều người
mến mộ, đặc biệt người Bồ Đào Nha và đã qua nhiều năm con mắt tâm linh luôn
để ý tới những gì xảy ra với chị. Chi sẽ được chôn cất tại nhà dòng và một
thời gian sau sẽ được di chuyển sau về gần Fatima, là trung tâm hành hương
thu hút nhiều.
toàn tập:
1
2
3
4
5
6