Vài Điểm Sai Lầm Trong Bài Viết:

“CSVN Có Phải Là Một Chinh Quyền Chính Thức, Có Chính Danh Hay Không?” của LS Lưu Nguyễn Đạt

Nguyễn Mạnh Quang

http://sachhiem.net/NMQ/NMQ54_VTh.php

31-May-2015

Một số luận cứ trong bài này đã được vài tác giả viết ra cách đây không lâu, và đã được chúng tôi phản biện ở những trường hợp sau:

- Bài “Hải Ngoại Tâm Thư Gửi Đồng Bào” của ông Lê Quế Lâm đã cho phổ biến (ngày 11/10/2010) với nội dung có ý kiến chủ quan, tôn vinh những cá nhân và thế lực đã từng có liên hệ chặt chẽ vớicác liên minh xâm lược như Pháp – Vatican, Nhật và Mỹ, và triệt hạ uy tín chính quyền Việt Nam hiện nay. Chúng tôi đã biên soạn bài phản biện với nhan đề là “Vài Nhận Xét Về “Hải Ngoại Tâm Thư Gửi Đồng Bào” của ông Mai Quế Lâm" trong đó có nêu lên 20 điều sai trái của tác giả. . Cho đến nay, chưa thấy ông Mai Quế Lâm và những người đồng quan niệm với ông lên tiếng phản hồi.

- Mấy năm sau (27/1/2015), lại thấy ông Giáo-sư sử học TS Phạm Cao Dương cho phổ biến trên trang nhà Việt Thức và các diễn đàn khác bài viết có tựa đề là “Nhân dịp đầu năm Ất Mùi - 2015, một chút lịch sử gửi tuổi trẻ Việt Nam: Lẽ Ra Ngay Từ Năm 1945 Dân Tộc Ta Đã Có Dân Chủ - Tự Do Rồi.Bài viết này có nội dung (1) đề cao Vua Bảo và Nội Các Trần Trọng Kím bằng luận điệu cho rằng Vua Bảo Đại và nội các Trần Trọng Kim có chính thống và tài giỏi, xứng đáng được tôn vinh, có thể mang lại tự do và dân chủ cho dân ta, và (2) lên án chính quyền Việt Minh là không có chính nghĩa. Vấn đề này cũng đã được chúng tôi phản biện bằng bài viết "Việt Nam Có Độc Lập Tự Do Từ Chính Quyền Trần Trọng Kim  Hay Không? và được phổ biến trên sachhiem.net vào ngày 18/3/2015.

Mặc dù chưa có một phản hồi nào đối với những luận cứ của chúng tôi đã trình bày, ông TS LS Lưu Nguyễn Đạt lại vẫn dùng luận điệu tương tợ như các tác giả nói trên và viết thêm bài, “CSVN Có Phải Là Một “Chính Quyền Chính Thức”, Có Chính Nghĩa Hay Không?” và cho phổ biến trên trang nhà Việt Thức của ông ngày 14/4/2015:.

Trong bài phản biện này, tôi không bàn đến những thuật ngữ chống cộng rất nhàm tai của một số cây viết xung kích ở hải ngoại, mà chỉ đề cập đến một vài điều liên hệ đến lịch sử Việt Nam thời cận và hiện đại mà chúng tôi cho là ”sai lầm” hay không hợp lý (đúng hơn là phi lý) trong bài viết trên đây của ông TS Lưu Nguyên Đạt mà thôi.

 

Điểm 1

Ông Lưu Nguyễn Đạt  viết:

Trước hết, xin định nghĩa rõ rệt lại: một chính quyền chính thức [governement légal], có chính danh [légalité] là một chính quyền hợp lệ, hợp pháp, xuất xứ từ một truyền thống hay một trạng thái chuyển nhượng pháp định.”

NHẬN XÉT:

Truớc đây, tác giả Phạm Cao Dương cũng viết 1 đoạn văn có ý chính gần giống như nội dung câu văn trên đây:

 “Riêng ở xứ Nam Kỳ, mặc dầu cho tới thời điểm này vẫn còn là thuộc địa của người Pháp và đương nhiên là vẫn do người Pháp quản trị và chịu trách nhiệm, sự vi phạm cũng xảy ra một cách trầm trọng.” (trong bài viết “Một Vài Câu Hỏi Về Tướng Giáp” đăng trên Diến Đàn Đài Á Châu Tự Do.

Chúng ta thấy, hai tác giả có cùng một ý: dựa vào luật pháp của quân cướp xâm lăng để kết luận rằng, lực lượng khởi nghĩa dưới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Mặt Trận Việt Minh (1) giành lại chính quyền tư trong tay người Nhật,  và (2) đánh đuổi quân Pháp ở Việt Nam vào tháng 9/1945 là “bất hợp Pháp” (Phạm Cao Dương) , là “không phải là một trạng thái chuyển nhượng pháp định” (Lê Nguyễn Đạt).

Nếu lý luận như hai ông tác giả tiến sĩ Lưu và Phạm, thì các chính quyền trong những trường hợp sau đây là thế nào? Họ vẫn truyền thừa cho đến nay:


Bộ binh Hoa Kỳ trong cuộc chiến với Anh để giành độc lập 1776-1783

1.- Cách Mạng Pháp 1789 lật đổ chính quyền đạo phiệt Ca-tô của Vua Louis XVI và cuộc chiến Cách Mạng Hoa Kỳ 1776-1783, đánh đuổi quân xâm lước Anh để giành lại chủ quyền độc là cho nhân dân 13 thuộc đia Anh ở Bắc Mỹ  đều không ở vào “trạng thái chuyển nhượng pháp định”. Như vậy là các chính quyền cách mạng này đều “không có chính danh, không hợp pháp” và  “vị phạm luật pháp một cách trầm trọng”   hay sao?

 


Giuseppe Garibaldi

2.- Ngày 19/9/1870, quân đội  cách mạng của nhân dân Ý Đại Lợi dưới quyền lãnh đạo của nhà  ái quốc Giuseppe Garibaldi (1807-1882) tiến vào kinh thành Roma, rồi ngay hôm sau (20/9) nã đại bác vào Tòa Thánh Vatican liên tiếp trong ba tiếng đồng hồ, buộc Giáo Hoàng Pius XI (1846-1778) phải kéo cờ trắng đầu hàng vô điều kiện. Chính quyền Cách Mạng Ý chiếm hết toàn bộ các tiểu quốc trực thuộc giáo triều Vatican (papal states), tịch thu toàn bộ bất động sản của Vatican, thu gọn diện tích lãnh thổ của Vatican từ 16 ngàn dặm vuông xuống còn có 480 ngàn mét vuông, khiến cho mất hết quyền lực bao trùm lên chính quyền Ý. Mãi cho đến khi nhà độc tài phát xít Benito Mussolini (1883-1945) ký Thỏa Hiệp Lateran 1929 nhằm tái lập lại một số quyền lợi về tài chánh cho Vatican trên lãnh thổ Ý, nhưng tất cả các tiểu quốc thuộc Tòa Thánh Vatican trước kia vẫn bị sáp nhập vào lãnh thổ Ý. Sự kiện này cho thấy chính quyền Cách Mạng Ý dù đã đem lại thống nhất đất nước cho dân tộc Ý cũng không ở vào “trạng thái chuyển nhượng pháp định”. Như  vậy, chính quyền cách mạng này của nhân dân Ý cũng “không có chính danh, không hợp pháp” và “vi phạm pháp luật một cách trầm trọng” hay sao? Xin đọc Mục 1 “Dân Tộc Ý Chiến Đấu Chống Nhà Thờ Vatican”, Chương 18, sách Tâm  Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam, sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=164.


Tượng đài Lê Lợi ở Thanh Hóa

3.- Việc Vua Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc vào năm 939, việc Vua Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa theo đuổi cuộc chiến kéo dài cả gần mười năm mới đánh đuổi được giặc Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc vào năm 1427, và việc Nguyễn Huệ lên Ngôi Hoàng Đế rồi đem quân ra Bắc đánh tan 280 ngàn quân xâm lăng của nhà  Thanh để giữ vững nền độc lập cho đất nước vào đầu năm Kỷ Dậu 1789,... Rõ ràng là các chính quyền của Vua Ngô Quyền, của  Vua Lê Lợi và của Vua Quang Trung đều  “không ở vào “trạng thái chuyển nhượng pháp định”. Như vậy họ  “không có chính danh, không hợp pháp”, và  vi phạm luật pháp luật một cách trầm trọng”  hay sao?

TCD nhận phong soái
Trương Công Định nhận phong soái. Tranh nguồn: http://diepdoan.violet.vn/

4.- Việc các nhà ái quốc Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thiên Hộ Dương, Thủ Khoa Huân, Mai Xuân Thưởng, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Định Công Tráng, Hoàng Hoa Thám, Trịnh Văn Cấn + Lương Ngọc Quyến, Nguyễn Thái Học chiêu binh mãi mã lập chiến khu, khởi binh kháng chiến với chủ đích đánh đuổi quân xâm lược Pháp – Vatican ra khỏi nước để đòi lại chủ quyền độc lập cho dân tộc, NẾU thành công, THÌ các lực lượng này cũng đều không ở vào “trạng thái chuyển nhượng pháp định”. Như vậy thì họ cũng đều “không có chính danh, không hợp pháp”, và  vi phạm luật pháp luật một cách trầm trọng”  hay sao?

Những điều được nêu lên trên đây là sự thực 100% đã từng xẩy ra trong lịch sử Việt Nam cũng như trong lịch sử thế giới. Một người bình thường chỉ mới học  qua bậc tiểu học với những bài học tóm lược lịch sử Việt Nam  cũng biết rằng: “Tất cả các lực lượng nghĩa quân kháng chiến xuất phát từ nhân dân vùng lên đánh đuổi (1) quân cướp ngoại thù để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc, (2) lật đổ các chính quyền do quân cướp ngoại thù dựng nên để làm tay sai cho chúng, (trường hợp chính quyền Bảo Đai trong những năm 1948-1955) và các chính quyền Ngô Đình Diệm và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ở miền Nam trong những năm 1954-1975),   (3)  chính quyền độc tài tôn giáo, và (4) tất cả bạo quyền khác đều không hề có trạng thái "chuyển nhượng pháp định.” Mà phải là sức mạnh quân sự được toàn dân nhiệt tình ủng hộ và tính cực tham gia thì mới thành công được.

Phần trình bày trên đây cho thấy,pháp luật do các đế quốc thực dân xâm cũng như các chính quyền độc tài tôn giáo làm ra là để bảo vệ quyền lực của họ, trong đó các thuật ngữ “trạng thái chuyển nhượng pháp định”, “phải có chính danh và hợp pháp” được áp đặt nhồi sọ để bảo vệ vị trí của các thế lực ngoại xâm. Dưới đây là một vài thí dụ.

A. Trong một bản văn dạy dỗ con chiên người Việt trong năm 1945, vị chức sắc của Giáo Hội La Mã viết như sau:

Chính sách thực dân, dưới mắt các nhà luật học và luân lý học vẫn là một việc hợp lý, vừa giúp ích nhân loại vừa là hành vi nhân đạo. Chính sách thực dân giúp ích chung nhân loại mỗi khi : Một dân tộc không đủ tài lực để khai khẩn những ruộng đất, hầm mỏ, rừng rú mà giời (trời) đã ban cho. Một dân tộc không thể tự trị nổi cần phải nhờ sức bảo hộ của nước ngoài... Hơn nữa chính sách thực dân có tính cách nhân đạo ở chỗ: một cường quốc khai hóa cho một nước mà nền văn minh còn thô sơ.”(1)

B. Sau khi công bố đề nghị đưa Bảo Đại thành lập chính quyền được mấy tháng, Giáo Hội La Mã lại ra lệnh cho Khâm Mạng Toà Thánh ở Đông Dương là Frater Antoninus Drapier công bố lá thư luân lưu mang số 827/61 đề ngày 15/5/1946 với mục đích lên án và răn đe giáo dân Việt Nam không được ủng hộ hay tham gia hoạt động trong các đoàn thể hoặc chính quyền hay quân đội kháng chiến Việt Nam. Dưới đây là một đoạn trong lá thư luân lưu này:

“Mọi người đã hẳn đều có nguyện vọng được người đồng chủng cai trị mình. Con nhà Công Giáo ao ước có những đấng chăn chiên bản quốc. . . . Nhưng chỉ có một mình Giáo Hội mới minh xét cho biết đã đến thời phải thực hiện nguyện vọng đó hay chưa. Vậy ai dùng lời nói hay báo chí để đưa dư luận đi quá cấp tốc kẻ ấy tự thị muốn đi trước Tòa Thánh Roma và tỏ thái độ xấc ngạo và bất tuân với đức giáo hoàng. . . . . Nhận thấy ít nhiều giáo hữu Việt Nam, trong thời buổi ấy đã ăn ở phạm đến quyền của Tòa Thánh, nên chỉ định mấy điều sau đây:

1.- Chiếu khoản 2.334 luật giáo hội: kẻ nào nhờ đến thế lực phần đời mà làm ngăn trở quyền cai trị của đấng bề trên phần đạo hoặc trực tiếp hay gián tiếp thì phải vạ tuyệt thông.

2.- Chiếu khoản 2.331 luật giáo hội: kẻ xúc phạm đến đức giáo hòang, đức khâm mạng, hay bề trên địa phận chính thức thì tức khắc phải vạ tuyệt thông.

3.- Các hội đòan Công Giáo bất kỳ lấy tên nào làm danh hiệu đều buộc phải nhận quyền bề trên trong đạo. Nếu mà chối thì phải kể là người ngọai đạo, tội nhân và phải vạ tuyệt thông nữa”.

 “Bộ Thánh Vụ Vatican ra thông cáo cho cha mẹ những vị thành niên có chân trong tổ chức cộng sản đều bị vạ tuyệt thông. Thông cáo này cũng tố cáo những ai dự vào các tổ chức có mục đích đưa thanh niên vào thuyết duy vật lôi cuốn”. (2)

Những lời nói ngược ngạo trên đây của các ông chức sắc mặc áo chùng đen cho chúng ta thấy rõ luật pháp của các thế lực xâm lược và của giai cấp thống trị được làm ra là để phục vụ cho quyền lực và quyền lợi bất chính và phi nhân của chúng.

Trong khi đó, Nho giáo dạy rằng, nếu thấy rằng “vua không ra vua, quan không ra quan” (quân phi quân, thần phi thần), (trường hợp Bảo Đại, Ngô Đình Diệm), thì người dân bị trị có quyền dấy binh vùng lên truất bỏ hạng người tàn tặc hại dân hại nước đó để thay thế vào đó bằng những người xứng đáng vì dân vỉ nước. Sách Nho Giáo Tập I nói rõ vấn đề này với nguyên văn như sau:

Người làm vua mà tàn ngược như vua Kiệt, vua Trụ, thì người có nhân có đức, như vua Thang, vua Vũ, được quyền trừ bỏ đi. Người nhân đức mà cứu dân thì không phải là người có tội.” Bởi vậy Mạnh Tử mới nói: Tặc nhân giả, vị chi tặc, tặc nghĩa giả, vị chi tàn. Tàn tặc chi nhân vị chi nhất phu. Văn tru nhất phu Trụ hỷ, vị văn thí quân dã.” (Người làm hại nhân gọi là tặc, người làm hại nghĩa gọi là tàn. Người tàn tặc gọi là đứa không ra gì. Ta nghe nói: giết một đứa Trụ, chưa nghe nói giết vua vậy”. Lương Huệ Vương, hạ.” (3)

Sách The Two Vietnams cũng viết:

Nếu người làm vua áp bức nhân dân thì người đó không còn xứng đáng được đối xử như là vua nữa. Cá nhân ông vua đó không còn thiêng liêng nữa, và trừ khử ông vua đó không còn là một tội ác. Nổi loạn giết một tên bạo chúa như vậy không những là một việc làm hợp lý mà còn là một việc làm đáng được ca tụng, và người đứng ra trừ diệt tên bạo chúa đó xứng đáng được đưa lên nắm quyền lãnh đạo đất nước, cai trị muôn dân(4)

 

Điểm 2

Ông Lưu Nguyễn Đạt viết:

Người viết căn cứ vào lịch sử hiện đại chứ không chỉ nghe ngóng lập trường của “những người chống cộng” [4] mà cho rằng những sự kiện táo bạo của hai thời điểm 1945 và 1975 đã chứng tỏ CSVN không phải là một “chính quyền chính thức”, theo nghĩa “governement légal” hay có “chính danh”, theo nghĩa “légalité” như GS Vũ Quốc Thúc xác nhận, mà chỉ đáng được gọi là một ngụy quyền tại vị [un pouvoir illégal en place], hay một hiện tượng tiếm quyền [un état d’usurpation de pouvoir] không hơn không kém, và tất cả những trạng thái áp đặt đó đều bất chính, bất hợp pháp… Cách Mạng Mùa Thu 1945? Vậy khi căn cứ vào định nghĩa trên, chỉ chính quyền quốc gia của Chính phủ Trần Trọng Kim mới là chính quyền chính thức, hợp pháp hợp lệ, có chính danh, sau khi vua Bảo Đại của Triều Nhà Nguyễn đã công bố bản Tuyên Ngôn Độc Lập vào ngày 11.3.1945 và giao cho Trần Trọng Kim thành lập nội các vào ngày 17.4.1945.”

NHẬN XÉT: 

Người Nhật lật đổ chính quyền Bảo Hộ của Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican để thay thế Liên Minh giặc này làm chủ nhân ông Việt Nam, rồi ra lệnh cho Bảo Đại tuyên bố Việt Nam Độc Lập. Bảo Đại làm đúng như người Nhật ra lệnh, vậy sự kiện này có "chính danh" và "chính thức" hay không? Sau đó người Nhật ra lệnh cho Bảo Đại chỉ định Trần Trọng Kim thành lập nội các, trong khi đó thì Bảo Đại chỉ muốn con chiên Ngô Đình Diệm làm thủ tướng, nhưng người Nhật không chịu. Bảo Đại bắt buộc phải tuân lời người Nhật bổ nhậm Trần Trọng Kim làm thủ tướng.

Chính quyền Bảo Đại hay nội các Trần Trong Kim không có bộ quốc phòng, và cũng không có bộ công an, dù muốn có, cũng không thể có và cũng không dám có. Vậy xin hỏi ông LS Lưu Nguyên Đạt, có phải chăng, một chính quyền như thế mới được gọi là chính thức, là hợp pháp, là "governement légal" hay sao?

Cá nhân ông Trần Trọng Kim tự biết mình là người của Nhật, được Nhật đưa lên làm thủ tướng, nên chỉ có thể chìm nổi với quyền lực của người Nhật ở Việt Nam mà thôi. Chính vì thế mà khi người Nhật thắng thế thì họ (Bảo Đại và nội các Trần Trọng Kim) hồ hởi hò reo đi theo người Nhật, và khi người Nhật bị thảm bại, thì họ cũng bùi ngùi đau xót và phải tính bài “tẩu vi thượng sách”. Cũng vì thế mà vào đầu tháng 8/1945, khi nhận thấy rằng quân đội Đồng Minh đã tấn công vào Nội Khu Phòng Thủ, tấn công thẳng vào chính quốc Nhật Bản, và thấy rẳng ông chủ người Nhật không còn cách nào tồn tại ở Việt Nam được nữa, thì ngày 5/8/1945, Thủ Tướng Trần Trọng Kim liền đệ đơn từ chức và ngay sau đó được vua Bảo Đại chấp nhận vào ngày 6/8/1945.

Tính ra nội các Trần Trọng Kim chỉ tồn tại được có 3 tháng 18 ngày. (17/4/1945-6/8/1945). Sách Nội Các Trần Trọng Kim viết:

Nội Các Trần Trọng Kim chỉ có thể coi là đã đóng trọn vai trò của một chính phủ bù nhìn thụ động, không có công tích cũng không có tội trạng gì đặc biệt với quan thày Nhật. Đây là điều khác biệt căn bản giữa Nội Các Trần Trọng Kim với một số chính phù bù nhìn, tay sai đắc lực của Nhật như Chính Phủ Ba Maw ở Myanmar, Chính Phủ Laurel ở Philippines hay Chính Phủ Uông Tinh Vệ ở Trung Quốc.” (5)

Trước thực trạng nước nhà như thế, với chính quyền “bù nhìn thụ động” như thế, rõ ràng là cuộc tổng khởi nghĩa do Mặt Trận Việt Minh phát động cướp chính quyền vào ngày 19/8/1945 từ trong tay người Nhật là chính đáng và cần thiết, vì nó đáp ứng được nhu cầu của lịch sử. Lúc đó, chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim không còn có liên hê gì với thời cuộc và  Mặt Trận Việt Minh vì ông Trần Trọng Kịm đã chính thức từ chức từ ngày 6/8/1945. Nói rằng Mặt Trận Việt Minh lật đổ chính phủ Trần Trọng Kim để giành chính quyền là bóp méo sự thật lịch sử. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày khá đầy đủ trong bài viết “Việt Nam Có Độc Lập Tự Do Từ Chính Quyền Trần Trọng Kim Hay Không?”, http://sachhiem.net/NMQ/PCD/NMQ053.php.

Điểm 3

Ông Lưu Nguyễn Đạt viết:

"Như vậy, trên căn bản pháp lý, thuật ngữ “cách mạng mùa thu” [1945] cũng đủ chứng tỏ hành vi cướp chính quyền của lực lượng Việt Minh dẫn tới hiện tượng chấp chính bất hợp pháp, ngược lại với thế hợp pháp, có chính danh của Chính phủ Trần Trọng Kim.”

NHẬN XÉT:

Rõ ràng là ông "dị ứng" với từ "Cách Mạng". Đối với quan niệm "Cách mạng" là bất hợp pháp, chỉ có những người bị "Cách Mạng lật đổ" mới có nhận xét như thế. Các luận cứ phản bác phủ định quan niệm này đã được trình bày trong nhận xét của Điểm 2 ở trên. Xin nhắc lại là Nhà Nguyễn không còn chính nghĩa để cầm quyền cai trị nhân dân vì đã ký:

1.- Hòa Ước Nhâm Tuất 1862 nhường 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho liên minh giặc.

2.- Hòa Ước Giáp Tuất 1874 nhường toàn bộ 6 tỉnh Nam Kỳ cho liên minh giặc

3.- Hòa Ước Quý Mùi 1883) gồm:

27 khoản,khoản thứ nhất nói rằng: “Nước Nam chịu nhận nước Pháp bảo hộ, có việc gì giao thiệp với ngoại quốc, thì phải do nước Pháp chủ trương. Khoản thứ hai: Tỉnh Bình Thuận thuộc về Nam Kỳ. Khoản thứ ba: Quân Pháp đóng giữ ở Đèo Ngang và ở Thuận An. Khoản thứ sáu:Từ Khánh Hòa ra đến Đèo Ngang thì quyền cai trị thuộc về triều đình Huế. Những khoản sau nói rằng viên Khâm Sứ ở Huế được quyền tự do ra vào yết kiến nhà vua. Còn đất Bắc Kỳ kể từ Đèo Ngang trở ra thì nước Pháp đặt Công Sứ ở các tỉnh để kiểm soát công việc của quan việt Nam…” (6)

4.- Hòa Ước Hòa Ước Patenotre Giáp Thân 1884: Hòa Ước này  “chỉ đổi có mấy khoản nói về tỉnh Bình Thuận và 3 tỉnh ở ngoài Đèo Ngang là Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa vẫn thuộc về Trung Kỳ.(7)

Như đã trình bày trong các bài phản biện trước đây, Bảo Đại làm bung xung cho Pháp và Vatican trong thời gian 1/1926 - 3/1945, làm tay sai cho Nhật với Nội Các Trần Trọng Kim  (17/4/1945 – 6/8/1945), và làm bù nhìn cho Pháp và Vatican trong thời gian 2/6/1948 – 23/10/1955, còn các chính quyền Sàigòn và nhóm người Việt Nam xu thời vong bản, cam tâm làm tay sai cho Pháp, Mỹ và Vatican trong suốt thời gian 1858-1975.

Đât nước là của dân tộc Việt Nam, chứ không phải của riêng nhà Nguyễn. Những hành động ký nhận các hòa ước trên đây nhường  đất nước cho Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican cho thấy rõ là nhà Nguyễn không còn chính nghĩa để nắm chính quyền cai trị đất nước Việt Nam nữa. Vấn đề chính nghĩa và chính thống của một cá nhân hay một thế lực nắm quyền cai trị nhân dân đã được chúng tôi trình bày khá rõ ràng trong Chương 1 với nhan đề là “Quan Niệm Cổ Truyền Về Chính Thống Hay Chính Nghĩa Của Người Lên Cầm Quyền” trong sách Chân Dung Người Việt Quốc Gia Và Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ (http://sachhiem.net/NMQ/ChanDungVNCH/QMN03c.php)

Kết Luận:

Mục đích tối hậu của TS Lưu Nguyễn Đạt và các nhà trí thức  đồng nhóm có cùng quan điểm với ông dựa theo luật pháp của các đế quốc thực dân xâm lược để đưa ra những luận điệu ngược ngạo nói trên là muốn bào chữa, xí xóa tội ác mà các đế quốc thực dân xâm lược  đã nối tiếp chống lại nhân dân ta cả hơn một thế kỷ (1858-1975), và bào chữa cho các chính quyền con rối như Bảo Đại, và các chính quyền Sài gòn trong những năm 1954-1975.

Xét cho cùng, nguyên nhân là vì các tác giả này, tuy liệt kê nhiều bằng cấp hay chức vị nhưng căn bản đã không thấm nhuần lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới. Ở bậc trung học, các ông không được học lịch sử cho đến nơi đến chốn, mà chỉ học qua cái sàng lọc của Vatican. [Xin đọc các trang 99-101 trong cuốn Đời Viết Văn của Tôi (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1987) của tác giả Nguyễn Hiến Lê]  

Cho nên, nếu cứ như luận điệu trong bài viết này, ông TS  Lưu Nguyễn Đạt không những chỉ phủ nhận công nghiệp hoàn thành lịch sử của Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng như của Mặt Trận Việt Minh mà toàn dân ta đã tham gia vào hai cuộc chiến (1945-1954  và 1954-1975) để đòi lại chủ quyền độc lập cho dân tộc và đòi lại miền Nam từ trong tay ngoại xâm,  mà còn phủ nhận, chê bai và phỉ báng cả công nghiệp hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của Vua Ngô Quyền vào năm 1939, của Vua Lê Lợi vào năm 1427 và của Vua Quang Trung vào đầu năm 1789,.... Không biết các vị có cùng quan điểm với tác giả Lưu Nguyễn Đạt về vấn đề này nghĩ sao?

Các luận điểm trong bài viết này đã được trình bày trong nhiều bài viết khác trong các cơ hội trước đây như đã đề cập. Để rộng đường dư luận, xin các tác giả phản hồi nếu thấy có điều gì sai lầm, chúng tôi sẽ sẵn sàng tiếp nhận để tìm hiểu thêm. Mong được như vậy.

Nguyễn Mạnh Quang

 

CHÚ THÍCH:

(1) Quang Toàn & Nguyễn Hoài, Những Hoạt Động Của Bọn Phản Động Đội Lốt Thiên Chúa Giáo Trong Thời Kháng Chiến 1945-1954 (Hà Nôi: Nhà Xuất Bản Khoa Học, 1965), tr. 21. (Ðoạn văn trên đây trích ra từ cuốn sách có tựa đề là "Người Công Giáo Trước Thời Cuộc của tác gỉa Phao-lô Trung Chính viết ngày 28/3/1948, nhà in Lê Bảo Tịnh xuất bẩn tại Phát Diệm, 1950, trang 161.)

(2) Quang Toàn & Nguyễn Hoài, Sđd., trang 17 & 18.

(3) Trần Trọng Kim, Nho Gíao - Tập I (Sàigòn: Tân Việt, 1953 ?), tr. 248.

(4) Bernard B. Fall, The Two Vietnams (New York: Frederick A. Praeger, 1964), tr. 18. Nguyên văn: “If the sovereign oppressed the people, he no longer deserved to be treated as the sovereign. His person was no longer sacred, and to kill him was no longer a crime. Revolt against such tyranny not only was reasonable but was a meritorious act and conferred upon its author the right to take over the powers of the sovereign.”

(5) Phạm Hồng Tung, Nội Các Trần Trọng Kim– Bản Chất, Vai Trò và Vị Trí Lịch Sử (Hà Nôi: Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, 2009), tr. 354.

(6) Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin, 2006), tr. 571-572

(7) Trần Trọng Kim, Sđd., tr  577


Phụ Đính:

Cộng Sản Việt Nam: Có Chính Danh, Chính Nghĩa,

Có Dân Chủ và Pháp Trị Hay Không?

Lưu Nguyễn Đạt, PhD, LLB/JD, LLM

-April 14, 2015

http://www.vietthuc.org/...-hay-khong/

Trong dịp “Bàn thêm về “Thư Ngỏ” của 36 trí thức hải ngoại, GS Thạc sĩ Vũ Quốc Thúc xác định CSVN là một “chính quyền chính thức [governement légal], có “chính danh”[légalité], nhưng lại phân biệt: “Đối với những người chống cộng, thì nhóm C.S đang nắm quyền ở Việt Nam không có chính nghĩa [légitimité] vì đã chiếm quyền dưới vĩ tuyến 17 bằng bạo lực, trái với các hiệp định đã ký kết ở Paris năm 1973…”[1]

Sau đó GS Vũ Quốc Thúc còn nhấn mạnh: “Chúng ta – những người sông yên ổn ở hải ngoại – có bổn phận ủng hộ họ: thư ngỏ là một hành động yêu nước, phục vụ dân chủ, phục vụ RULE OF LAW .[2]

Với tất cả sự kính trọng dành cho một vị trưởng thượng đại trí thức như GS Vũ Quốc Thúc, người viết cùng độc giả chân chính vẫn thấy có bổn phận xét kỹ lại những thuật ngữ trên để xem:

  • Chế độ Cộng Sản tại Việt Nam [CSVN] có phải là một “chính quyền chính thức”, có “chính danh” hay không?
  • Lý do nào chính thể này còn bị coi là không có “chính nghĩa”?
  • Và phải chăng những người đồng ký tên trong “Thư Ngỏ” trên đều có bổn phận ủng hộ “họ”[CSVN], với kỳ vọng chuyển hoá CSVN, hay với ước mong họ trở thành chính quyền có “chính nghĩa”, …có “dân chủ đích thực”, có “pháp trị đích thực”?

I. CSVN CÓ PHẢI LÀ MỘT “CHÍNH QUYỀN CHÍNH THỨC”, CÓ CHÍNH DANH HAY KHÔNG?

Trước hết, xin định nghĩa rõ rệt lại: một chính quyền chính thức [governement légal], có chính danh [légalité] là một chính quyền hợp lệ, hợp pháp, xuất xứ từ một truyền thống hay một trạng thái chuyển nhượng pháp định.[3]

Người viết căn cứ vào lịch sử hiện đại chứ không chỉ nghe ngóng lập trường của “những người chống cộng” [4] mà cho rằng những sự kiện táo bạo của hai thời điểm 1945 và 1975 đã chứng tỏ CSVN không phải là một “chính quyền chính thức”, theo nghĩa “governement légal” hay có “chính danh”, theo nghĩa “légalité” như GS Vũ Quốc Thức xác nhận, mà chỉ đáng được gọi là một ngụy quyền tại vị [un pouvoir illégal en place], hay một hiện tượng tiếm quyền [un état d’usurpation de pouvoir] không hơn không kém, và tất cả những trạng thái áp đặt đó đều bất chính, bất hợp pháp.

alt

1. Cách Mạng Mùa Thu 1945?

Vậy khi căn cứ vào định nghĩa trên, chỉ chính quyền quốc gia của Chính phủ Trần Trọng Kim mới là chính quyền chính thức, hợp pháp hợp lệ, có chính danh, sau khi vua Bảo Đại của Triều Nhà Nguyễn đã công bố bản Tuyên Ngôn Độc Lập vào ngày 11.3.1945 và giao cho Trần Trọng Kim thành lập nội các vào ngày 17.4.1945.

Còn cái nguồn gốc chấp chính của CSVN, cái gọi là Cách Mạng Mùa Thu [sic] thực chất chỉ là một cuộc cướp chính quyền của Chính phủ Trần Trọng Kim. Thật vậy, ngày 17.8.45, từ một buổi Mít-tinh của Tổng Đoàn Công Chức để chào mừng chính phủ Trần Trọng Kim bổng chốc trở thành biểu tình của Mặt Trận Việt Minh: “Quả lừa lịch sử” bắt đầu chính là từ đây.[5]

Như vậy, trên căn bản pháp lý, thuật ngữ “cách mạng mùa thu” [1945] cũng đủ chứng tỏ hành vi cướp chính quyền của lực lượng Việt Minh dẫn tới hiện tượng chấp chính bất hợp pháp, ngược lại với thế hợp pháp, có chính danh của Chính phủ Trần Trọng Kim.

2. Hànội Vi Phạm Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 Khi Xua quân Chiếm Sàigòn, Mùa Xuân 1975

Hiệp Định Paris là hiệp định chấm dứt Chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, do 4 bên tham chiến — Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa — ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973, với những khoản chính như sau:

  • Một cuộc ngừng bắn sẽ được thực hiện trên khắp miền Nam Việt Nam kể từ ngày 27 tháng giêng năm 1973;
  • Các lực lượng của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đồng minh của Hoa Kỳ và của Việt Nam Cộng Hòa sẽ ở nguyên vị trí của mình trong lúc chờ đợi thực hiện kế hoạch rút quân.
  • Các lực lượng vũ trang của hai bên miền Nam Việt Nam sẽ ở nguyên vị trí của mình.
  • Các lực lượng chính quy thuộc mọi quân chủng và binh chủng và các lực lượng không chính quy của các bên ở miền Nam Việt Nam phải ngừng mọi hành động tấn công nhau.
  • Từ khi thực hiện ngừng bắn cho đến ngày thành lập chính phủ …hai miền Nam Việt Nam không được nhận đưa vào miền Nam Việt Nam quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, kể cả nhân viên quân sự kỹ thuật, vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh.
  • Hai bên miền Nam được phép từng thời gian thay thế vũ khí, đạn dược, dụng cụ chiến tranh đã bị phá huỷ, hư hỏng, hao mòn hoặc dùng hết từ sau khi ngừng bắn, trên cơ sở một đổi một, cùng đặc điểm và tính năng…

Vậy ngay sau khi quân đội Hoa Kỳ rút hết vào cuối tháng 3 năm 1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Giải phóng miền Nam ồ ạt tăng quân, binh chủng, súng đạn, chuẩn bị đánh dứt điểm chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Như vậy âm mưu xua quân của ngụy quyền Hànội, ồ ạt vượt vĩ tuyến 17 để cưỡng chiếm Sàigòn là một hình thức xâm nhập lãnh thổ và tiếm quyền bất chính, bất hợp pháp, vì đã vi phạm những điều khoản căn bản trên của Hiệp Định Paris 1973, cũng như đã từng vi phạm Hiệp Định Genève 1954 trước đó. Vậy, việc áp đặt chính quyền “thống nhất” trên Miền Nam Việt Nam, dưới chướng ngụy quyền Hànội/Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, sau khi lật đổ thể chế Việt Nam Cộng Hoà và gạt bỏ lực lượng bù nhìn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là một hành vi tiếm quyền bằng lừa đảo và bạo lực.

Căn cứ vào những sự kiện lịch sử trên [1945 & 1975], CSVN ngày nay, bắt nguồn từ hai đợt tiếm quyền bằng lừa đảo và cưỡng chiếm bằng bạo lực không thể được coi là một chính phủ chính thức, hợp pháp, hợp lệ, có chính danh chính thực.

Chính thể Hànội sau 1945 và nhất là sau 1975, không hơn không kém, vẫn chỉ là một ngụy quyền tại vị [un pouvoir illégal en place], một hiện trạng tiếm quyền [un état d’usurpation de pouvoir] bất hợp pháp, bất hợp lệ, khác hẳn với sự thẩm định của nhóm “Thư Ngỏ”, như đã được minh thị xác nhận bởi vị thầy chỉ đạo, GS Vũ Quốc Thúc và vị chánh chủ thảo, GS Lê Xuân Khoa.

II. TẠI SAO CSVN KHÔNG CÓ CHÍNH NGHĨA?

1. Thế nào là “chính nghĩa”?

Về mặt thuần thục, “Chính nghĩa” là trạng thái hành xử thích hợp với lẽ phải chân chính của công lý; ứng dụng đại nghĩa công bình và đạo đức nhân bản; bảo trọng quyền lợi, nguyện vọng tiến hoá và hạnh phúc của toàn dân.[6] Do đó, một chính quyền có chính nghĩa địch thực khi được dân chúng tín nhiệm, tin tưởng. [7]

Một lực lượng cách mạng, khởi đầu có thể là một tổ chức bất hợp pháp, khi nổi dậy đào thải một chính quyền tại vị. Nhưng sau cuộc đảo chính hay cách mạng đó, lực lượng nổi dậy có thể tạo dựng thành một chính quyền có chính nghĩa, như trường hợp của những cuộc cách mạng giành độc lập, tự do, dân chủ tại Pháp, Hoa Kỳ và gần đây tại các quốc gia Ả Rập và Trung Đông. Những lực lượng nhân dân này đã khởi nghĩa phá bỏ những thể chế lỗi thời, phản nước, hại dân để tạo dựng vào đó những chính thể phù hợp với chủ quyền quốc gia, với quyền lợi và phẩm giá của toàn dân.

2. Tại sao lại quả quyết CSVN không có chính nghĩa?

Một lần nữa, người viết lại vịn vào lịch sử cận đại chứ không chỉ nghe ngóng lập trường của “những người chống cộng” mà khẳng định rằng CSVN không chính nghĩa, bởi những chứng cứ sau đây:

  • Rõ rệt nhất, từ lúc thành lập bán khai cho tới khi lộ diện, đảng phái và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam [CSVN] không bao giờ phục vụ quyền lợi của dân tộc Việt Nam.
  • Đối với Hồ Chí Minh và các đồng chí cộng sản, cứu cánh biện minh cho phương tiện, kể cả thủ đoạn đê hèn nhất. Cái dã tâm là cứu cánh của họ không có mục đích chính đáng, phục vụ dân tộc, mà chỉ phỉnh gạt, lừa lọc, gây tội ác để củng cố đảng phiệt và chế độ cộng sản của họ, và để duy trì quyền lợi cho khối cộng sản chuyên chính quốc tế [comintern], dù phải làm thiệt hại cho dân tộc Việt Nam.
  • Ứng dụng tư tưởng căn bản trên, năm 1941, Đảng CSVN họp ở Cao Bằng đã quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng Minh Hội (Việt Minh) để “mượn đầu heo nấu cháo”, gây thêm lực lượng, kết tụ “đồng minh giai đoạn” dưới chiêu bài “ái quốc”, chống Pháp, dành độc lập: “Liên hiệp hết thảy tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật-Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.” Sau đó vài năm, thành phần cộng sản bắt đầu loại trừ các hệ phái quốc gia trong “Mặt trận Liên Việt”: Cán bộ cộng sản thẳng tay tiêu diệt các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân v.v., dù những thành phần dân tộc này đã từng nhiệt thành sát cánh chống Pháp, cứu nước, bênh dân.
  • Cũng theo chiêu bài lợi dụng và tiếm quyền “đồng minh nhất thời” trên, lực lượng cộng sản miền Bắc đã xâm nhập miền Nam và tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam vào năm 1960. Lực lượng Việt Cộng miền Nam trá hình này sau 1975 cũng bị “thất sủng”, các lãnh tụ cuả “Mặt trận Dân Tộc” cũng bị thủ tiêu, hoặc đi “cải tạo” như kẻ thù phản động. Đồng chí hôm trước, kẻ thù hôm sau: Làm gì có “Mặt trận Dân tộc”? Làm gì có giải phóng dân tộc Miền Nam, khi đó chỉ là một cuộc tảo thanh ý thức hệ, một mưu toan bá chủ quyền lợi độc nhất của đảng cộng sản “Bắc Thuộc”.
  • Kể cả “đồng bào” của chế độ CSVN, dù được tuyên truyền tung hô là “dân làm chủ”, bất cứ lúc nào họ cũng sống trên đe dưới búa và dưới lưỡi liềm sát cổ. Làm gì có việc “bảo trọng quyền lợi, nguyện vọng tiến hoá và hạnh phúc của toàn dân” khi đội ngũ mác-xít trá hình “công bộc” chỉ biết tiếm quyền dân, với dã tâm nuôi dưỡng hận thù, tranh đấu giai cấp, đấu tố tư sản, đấu tố phú nông, sát hại địa chủ? Đó là những đợt “cải cách ruộng đất”, từ năm 1953 tại vùng Thanh Hoá, Liên Khu IV tới năm 1956, trên khắp miền Bắc, bằng cách thảm sát tập thể khoảng hai trăm ngàn người dân, quy vào thành phần địa chủ và phú nông, rập khuôn theo mưu đồ “vô sản hoá” của Nga Xô và Trung Cộng. Trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản (Manifesto), Karl Marx đã tuyên bố: “cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc”. Bằng cách thủ tiêu và sát hại dân oan.
  • Ngoài cuộc thảm sát tập thể thành phần địa chủ và phú nông, tiểu tư sản, nhân danh “cải cách ruộng đất”, chế độ CSVN còn trực tiếp nhúng tay vào sách lược sát hại, thủ tiêu, chôn sống gần 8 ngàn dân vô tội, [2] cũng lạnh lùng nhân danh “giải phóng” dân tộc xứ Huế vào dịp Tết Mậu Thân 1968.
  • Để thực hiện chính sách hại dân, độc tài đảng phiệt chuyên chính, sau khi chiếm được chính quyền tại Miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, Hồ Chí Minh đã bê nguyên cái mô hình “hoc tập cải tạo” của Mao Trạch Đông từ Trung Cộng vào Miền Bắc Việt Nam. Đây là một kế hoạch nằm trong chính sách giết người có chủ đích, có tính toán dưới cái chiêu bài giả hiệu là “cải tạo” những người chống đối chủ nghĩa xã hội để biến họ thành công dân của nước xã hội chủ nghĩa. Với kế hoạch “cải tạo giết người” này, Hồ Chí Minh đã giết và thủ tiêu 850 ngàn người dân Miền Bắc trong những cái gọi là “trại học tập cải tạo” theo Nghị Quyết mang số 49-NQTVQH ngày 20/06/1961, áp dụng trong toàn nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
  • Tương tự, ngay sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, Chế độ CSVN đã tiếp tục thi hành kế hoạch bỏ tù cả triệu quân cán chính của phe Quốc Gia bại trận, đồng thời thủ tiêu mất tích hài cốt của 165 ngàn quân, cán, chính VNCH trong 150 “trại tù cải tạo” trên toàn cõi Việt Nam.
  • Chế độ CSVN này tới ngày nay vẫn truy tố và tiếp tục bỏ tù bất cứ ai dám bày tỏ bất đồng chính kiến, hay can đảm chỉ trích những sai quấy, thối nát của Chế độ này.
  • Ngoài chính sách lừa dân, tiếm quyền, bội ước, vi phạm hiến pháp rừng và lạm quyền pháp định cuội; ngoài việc hủy hoại tư tưởng, niềm tin căn bản của 90 triệu dân, chế độ CSVN còn trắng trợn trở thành một bày tham nhũng tư bản đỏ, cướp đất của dân, của chùa, của chúa, thụt két của công, đại náo môi trường mậu dịch toàn cầu, chia chác toàn bộ lãnh đạo. Chế độ CSVN ngày nay không hơn, không kém là một hệ thống mafia quốc tế, một băng đảng tội ác dây chuyền, di căn toàn bộ.
  • Chế độ CSVN luôn luôn chủ mưu hán hoá, bán đứng lịch sử và căn cước của toàn dân Việt Nam; tìm mọi cách cầm cố, bán đứng lãnh thổ, lãnh hải cho đàn anh Trung Cộng, miễn sao họ được bảo vệ, được giữ nguyên cái ghế quyền hành mục nát, “made in China”.

Những chứng cứ điển hình trên cho thấy CSVN chỉ là một chính thể ngụy tạo, độc tài, vô nhân đạo, bán nước, hại dân. Bị dân oán trách. Như vậy, CSVN không hề có chính nghĩa quốc gia nhằm bảo tồn vận mệnh đất nước và cũng không hề có chính nghĩa quốc dân nhằm bảo trọng và phát huy dân tộc, vốn đó là những điều kiện cần và đủ [conditions nécessaires & suffisantes] để được lòng tin của toàn dân trong và ngoài nước.

Trên căn bản tiên quyết của đại nghĩa chí nhân, đất nước, dân tộc, nhân loại mới là cứu cánh của chính nghĩa đích thực. Ý thức hệ chỉ là phương thức, nếu khả chấp, hữu hiệu, nếu tử tế, nhân bản. Khi chủ trương ngược lại những điều kiện cần và đủ trên, ý thức hệ kiểu phát xít, cộng sản, giáo phiệt v.v. chỉ có tính cách ngụy tạo, phản động, tự hủy. Lịch sử đã và đang loại trừ những tai ương nhân tạo này.

III. CSVN: PHÁP TRỊ HAY ĐẢNG TRỊ?

“Pháp trị”, dịch từ Anh-Mỹ ngữ “Rule of Law”, đôi khi còn gọi là “Supremacy of Law”hay “Ưu Thế của pháp luật”,là một châm ngôn pháp lý [legal maxim] xác định rằng:

  • Không ai đứng trên pháp luật;
  • Không ai bị nhà nước trừng trị, nếu không vi phạm pháp luật;
  • Không ai bị xét xử về một tội trạng ngoài phạm vi và thủ tục xét xử về tội danh đó.

Ngắn gọn, chế độ Pháp trị chủ trương bất cứ ai, kể cả cấp lãnh tụ, người có quyền hành, mọi công dân trong nước đều phải tôn trọng và thi hành pháp luật một cách đích thực, chính đáng, căn cứ vào “ưu thế của pháp luật” và nguyên tắc “pháp luật chi phối”.[8]

Trong năm 1959, có tất cả 185 luật gia gồm thẩm phán, luật sư, giáo sư luật học, đã họp mặt tại New Delhi dưới danh xưng “International Commission of Jurists” để xác định những nguyên tắc chính của “Pháp trị”/Rule of Law như sau:

  • Ngành tư pháp độc lập;
  • bị can được đoán chừng vô tội [presumption of innocence];
  • xét xử công minh không bị chậm trễ;
  • hình phạt tương xứng, không quá mức;
  • công bằng trước pháp luật;
  • mọi hình thức tầm nã, bắt giữ trái phép; giam cầm vô hạn định; xét xử bí mật; hình phạt quá đáng, độc ác; doạ nạt, mua chuộc thẩm đoàn, v.v. đều bất khả chấp.
  • Pháp trị đặt nền móng công minh, trong sáng, ứng dụng cho mọi trường hợp, mọi công dân, vừa để xét xử nội vụ đúng cách, vừa để bảo vệ nhân cách của mọi bị can đem xét xử.

Để thực thi, định nghĩa “Pháp trị” theo hình thức bao gồm những thủ tục pháp lý chuẩn mực phù hợp với cơ cấu pháp quy đem thi hành. Còn định nghĩa “Pháp trị” theo nội dung cho phép ứng dụng pháp luật ợ những khía cạnh phụ thuộc, trong phạm vị pháp định, đối với từng trường hợp liên can.[9] Do đó, xét về nội dung, một đạo luật bất công, thiếu công minh [unjust law] không đáng gọi là luật, và không thể thi hành. Đương nhiên những đạo luật bất hợp hiến thì bất khả thi.[10]

Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc định nghĩa Pháp Trị/Rule of Law như sau:

  • Nguyên tắc cai trị [principle of governance] mà theo đó mọi người dân, tổ chức, pháp thể, tư cũng như công, kể cả Chính quyền, Nhà Nước [including State itself], đều phải tôn trọng, thi hành một cách công minh, công bằng, phù hợp với quy tắc nhân quyền quốc tế.
  • Tôn trọng ưu thế của pháp luật, trên căn bản công minh, công bằng, phân quyền xét xử và bảo trọng pháp luật, cũng như bãi bỏ mọi hình thức võ đoán, biệt đãi, hay miệt thị.

Trong khi đó, CSVN chủ chương Đảng Trị, căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam [1992, sửa đổi 2001], Điều 4:

  • “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội…”

Bất cứ ai, nếu minh mẫn, công bằng, không thiên vị, đều phải thấy những bất cập, sai lầm sau đây do Điều 4 gây ra:[11]

  • điều 4 Hiến pháp 1992 đặt Đảng vào vị thế siêu quyền lực.
  • trước đó, điều 4 Hiến pháp năm 1980 đã khẳng định “Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Điều 4 Hiến pháp Việt Nam 1992 xây dựng trên cơ sở điều 4 Hiến pháp 1980, chỉ bỏ đi từ “duy nhất” sau khi chủ nghĩa cộng sản Đông Âu sụp đổ, nhưng không vì thế mà làm giảm đi siêu quyền lực của đảng CSVN.
  • Việc quy định quyền lãnh đạo của Đảng trong hiến pháp tất nhiên tạo ảnh hưởng đến cả các bộ luật hay văn bản dưới luật, cũng như gây ảnh hưởng trực tiếp đến các điều khoản khác trong hiến pháp, cũng như các luật lệ ban hành sau đó. Có thể nói hầu hết các điều trong Hiến pháp đều bị điều 4 chi phối, nghĩa là sự lãnh đạo của Đảng vẫn là tối thượng.
  • Như vậy Đảng Cộng Sản, thực chất chỉ là một nhóm người được quy định tại điều 4 Hiến pháp, được độc quyền lãnh đạo đất nước, nhà nước và xã hội, đã tước đi vai trò làm chủ thật sự của người dân và mặc nhiên đứng trên pháp luật của lãnh thổ, đương nhiên xoá bỏ tận gốc nguyên tắc Pháp trị.
  • Ngay quyền làm luật qua Quốc hội cũng nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng bởi hơn 90% đại biểu Quốc hội là đảng viên CSVN và mọi đảng viên phải tuân theo chính sách và chỉ thị của đảng CSVN.
  • Kể cả ngành tư pháp cũng do Đảng chỉ định, bổ nhiệm, kiểm soát, qua vai vế Quốc hội. Vậy, mỗi khi Toà án nhân dân xét xử là Đảng CSVN cũng lại ra chỉ thị tiên quyết về bản án, như trường hợp xét xử các bị can bất đồng chính kiến, hoặc gần đây vụ xét xử LS Cù Huy Hà Vũ.
  • Còn khi Đảng sai lầm, phạm pháp, tham nhũng như trong các vụ đặc nhượng khai thác Bauxite tại Tây Nguyên, bán rừng, buôn lậu gỗ, và cả những vụ tầy trời như lạm dụng công quỹ trong vụ Vinashin vỡ nợ hơn 4 tỷ Mỹ kim, hay Vụ tham nhũng RBA/Securency về tội danh đưa hối lộ số tiền lên tới $17 triệu Mỹ kim thông qua môi giới liên can tới Lương Ngọc Anh và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng v.v. thì lại không bị chế tài theo nguyên tắc Pháp trị mà chỉ kiểm thảo theo cương lĩnh Đảng trị.

Như vậy, Hiến pháp Việt Nam, nền móng của luật pháp ở Việt Nam lại nằm dưới Cương lĩnh của Đảng CSVN. Do đó, thuật ngữ “Pháp Quyền/Rule by Law” [cai trị bằng luật] do CSVN trưng bày chỉ là một mạo nhận xảo trá của nguyên tắc Pháp Trị/Rule of Law[thượng tôn luật pháp]. Do đó, luật rừng của chế độ CSVN cũng chỉ là một trò hề nực cười của công lý – A mockery of justice.[12]

IV. TẠM KẾT : NÊN “ỦNG HỘ” HAY CẦN CHỐNG CỘNG SẢN VIỆT NAM?

Vậy trong khi CSVN quyết tâm bám chặt định hướng xã hội chủ nghĩa, tận dụng vị thế siêu quyền lực để củng cố đảng phiệt, độc quyền thao túng thị trường, độc quyền tham nhũng và gây thảm hoạ cho đất nước, cho dân tộc, thì những người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại vẫn phải giữ vững lập trường vừa đề cao cảnh tỉnh trước tai ương lịch sử, vừa chuẩn bị cho giai đoạn tái thiết đất nước khi CSVN tất nhiên phải cáo chung.

Chống CSVN-Mafia bằng trí giác, bằng lời lẽ từ tốn, minh bạch nêu cao sự thật và đại nghĩa là chính danh, chính nghĩa, là trân trọng dân tộc.

Còn mập mờ “Ủng hộ” [sic] CSVN, vừa không có chính danh, vừa không có chính nghĩa, vốn là những kẻ quyết liệt phạm pháp, phản nước, hại dân có phải là nối giáo cho giặc, là a dua, a tòng với “họ” hay không? Là liều lĩnh tự hủy trong ngay cái bẫy ngỏ do chính quý vị tạo bày, khi biết rõ “ỦNG HỘ HỌ” không đi tới đâu? Cả cựu Tổng Thống Nga Boris-Yeltsin cũng đã từng nói “CỘNG SẢN KHÔNG THỂ NÀO THAY ĐỔI, MÀ CẦN PHẢI DẸP BỎ.”

Vậy, mời quý vị về lại với lý trí, với lẽ phải, với gần 90 triệu dân Việt của chúng ta [sau khi trừ đi vài ngàn/vài trăm "Ngài" CS Đại gia Tư bản đỏ, đang tìm cách tẩu thoát ra "nước lạ/nước ngoài"].

Trân trọng,

Lưu Nguyễn Đạt, PhD, LLB/JD, LLM,Michigan State University

Cập Nhật April 14, 2015

www.vietthuc.org

alt

CHÚ THÍCH

[1] Lê Xuân Khoa,”Bàn thêm về “Thư Ngỏ” của 36 trí thức hải ngoại”, Hẹn Nhau Saigon 2015, September 12, 2011– Original Message – From: thuc.vu-quoc To: Khoa Le Cc: Nguyen Thai Son Sent: Wednesday, September 07, 2011 6:25 PM Subject: Re: phan ung doi voi Thu Ngo

Thua Anh ,Nguoi ta luôn luôn – vô tinh hay cô y – lân lôn vân dê chinh nghia (legitimité) voi vân dê chinh danh ( légalité ) . Dôi voi nhung nguoi chông công , thi nhom C.S dang nam quyên o Viêt Nam không co chinh nghia vi da chiêm quyên duoi vi tuyên 17 bang bao luc , trai voi cac hiêp dinh da ky kêt o Paris nam 1973 và ho tiêp tuc nam quyên bang môt thê chê dôc tài , không tôn trong nhung quyên tu do thiên bâm cua công dân . Noi khac : không co dân chu dich thuc và không co phap tri dich thuc . Nhung trong linh vuc quôc tê , theo quy tac cung nhu lê thoi bang giao quôc tê , ho vân là chinh quyên chinh thuc ( gouvernement légal ) cua nuoc Viêt Nam và da duoc quôc tê thua nhân. Chung ta gui thu ngo cho ho ( thu ngo không phai là kiên nghi hay don thinh câu ) vi hiên thoi chi co ho là co kha nang thay dôi thê chê . Nhu vây là ” danh chinh ngôn thuân ” .Nêu ho phuc thiên thi tranh duoc nhung su hôn loan luôn luôn di kèm cac cuôc nôi dây , biêu tinh , tuân hành .. nho vây mà ” cuôc cach mang nhung ” ( velvet revolution ) nhu o Tchecoslovaquie moi thuc hiên duoc . Trai lai , nêu ho không chiu phuc thiên , nhân dân , dung dâu là NHUNG NGUOI DANG CAN DAM CHÖNG DÖI CHINH QUYËN o quôc nôi se dung phuong thuc tranh dâu khac .

[2] …Chung ta – nhung nguoi sông yên ôn o hai ngoai – co bôn phân ung hô ho : thu ngo là môt hành dông yêu nuoc , phuc vu dân chu , phuc vu RULE OF LAW . Thu ngo gui cho ai ? Le nào cho Tông Thông Hoa Ky , Tông Thông Phap , Thu Tuong Anh hay Duc , Canada , Australie ? Nhung nguoi này co thê can thiêp truc tiêp dê thay dôi thê chê chinh tri o Viêt Nam không ? Phai chang nhung AI DO muôn co môt cuôc can thiêp bang vo luc nhu o Irak , Afghanistan hay Lybie ? Dân Viêt Nam chua du khô hay sao mà lai muôn cho chiên tranh tai diên ?

Dây là môt vài y kiên tôi xin gop voi Anh , tuy Anh xet xem co nên dua ra trong cuôc phong vân cua nhà bao nu Trà My không .

Kinh thu : Vu Quôc Thuc

[3] Est légal ce qui est conforme à la loi, à la législation ; ce qui est prévu, désigné par la loi. D’après le dictionnaire Trésor de la langue française informatisé (TLFI)]

[4] “những người chống cộng” chỉ là những người Việt tỵ nạn cộng sản, còn ý thức về căn cước của họ và còn nêu cao cảnh giác về kinh nghiệm bản thân, hoặc thông thạo, hiểu biết về các sự kiện lịch sử và những sự thật trắng trợn liên hệ tới chế đô CSVN.

[5] Thiên Nam, “Quả lừa lịch sử: HCM / CSVN-CSTQ cướp chính quyền Việt Nam”

Tô Hải kể về cái “Quả lừa lịch sử” đó:

“Đúng ngày 17 tháng 8 năm 1945, chúng tôi kéo nhau đến quảng trường Nhà Hát Lớn Hà Nội mít-tinh chào mừng chính phủ Trần Trọng Kim. Cuộc mít-tinh bắt đầu được mấy phút bỗng hàng loạt cờ đỏ sao vàng được tung ra, cờ quẻ ly bị giật xuống và trên bục diễn giả xuất hiện một người đeo poọc-hoọc, đăng đàn diễn thuyết, kêu gọi đồng bào đi theo Việt Minh, đánh Pháp, đuổi Nhật, đòi lại áo cơm, tự do, xóa bỏ gông xiềng… Những khẩu hiệu vừa phát ra đã có hàng ngàn người hô to hưởng ứng. Không một tiếng súng. Không một sự phản kháng từ ai, từ đâu, dù trại lính Nhật ở cách đó chỉ khoảng 300 mét!” (Tô Hải: Hồi ký của một thằng hèn).]

[6] Est légitime ce qui est conforme au droit positif ou ce qui est conforme à l’équité; ce qui est fondé sur la morale, le droit naturel… D’après le dictionnaire Trésor de la langue française informatisé (TLFI)

[7] Rational-legal legitimacy derives from a system of institutional procedure, wherein government institutions establish and enforce law and order in the public interest. Therefore, it is through public trust that the government will abide the law that confers rational-legal legitimacy.

[8] “Law should govern”. Aristotle,Politics.

[9] Craig, Paul P. (1997). “Formal and substantive conceptions of the rule of law: an analytical framework”.

[10] “…the framers of the U.S. Constitution believed that an unjust law was not really a law at all”…^ Gedicks, Frederick. “An Originalist Defense of Substantive Due Process: Magna Carta, Higher-Law Constitutionalism, and the Fifth Amendment”, Emory Law Journal, Vol. 58, pages 585-673 (2009). See also Edlin, Douglas “Judicial Review without a Constitution“, Polity, Volume 38, pages 345-368 (2006).

[11] Xem thêm “Điều 4 Hiến pháp – những bất cập”, Quỳnh Chi- RFA, 2011-08-29

[12] A mockery of justice — A false, derisive, or impudent imitation: “The trial was a mockery of justice”.

________________________________

Bạn đọc viết và xem nhận xét ở Facebook: