NHỮNG ĐỨA CON HOANG

Nguyễn Mạnh Quang

http://sachhiem.net/NMQ/NMQ002.php

đăng ngày 12 tháng 11, 2007

 

C ác nhà xã hội học và các nhà viết sử đều có nhận xét chung về những em bé mồ côi cả cha lẫn mẹ ngay từ khi mới chào đời hay còn quá nhỏ, và những đứa con hoang thường không biết nguồn gốc gia đình hay gia phả dòng họ là ai. Nhận xét chung này là:

1.- Hoàn cảnh: Khi còn ở tuổi vị thành niên và cả khi đã bước vào tuổi trường thành, các em bé này thường có một đời sống cơ cực về vật chất, sống trong một môi sinh không được lành mạnh, và rất thiếu thốn về tinh thần.

2.- Hậu quả: Một số ít trường hợp trong số này đã gặp được may mắn, đã gặp được hoàn cảnh mới, thoát khỏi được những hậu quả đáng thương hại. Một số khác rất hiếm hoi những trẻ mồ côi đã phấn đấu chống lại những cơn bão tố trong đời, có người đã có thể thành công tột bực. Đây chỉ là những trường hợp ngoại lệ mà thôi. Đại đa số tiếp tục ở trong hoàn cảnh đau buồn kể trên, rơi vào những tình trạng xấu như:

a.- Không được đi học, nếu có, thì cũng chỉ ở trong một phạm vi giới hạn.

b.- Lăn lộn và hoà mình sống chung với giới người hạ lưu và tội ác trong xã hội, nên lớn lên các em này thường có những suy tư và lối hành xử của những người vô học.

c.- Ưa thích sử dụng loại ngôn từ “anh chị”, “ăn nói và hành động bạt mạng” mà người dân Sàigòn trong thời 1954-1975 gọi là dân “Cầu Muối” hay “Cầu Ông Lãnh”.

Trường hợp đa số những người này là “những đứa con hoang trong xã hội.” Thật ra đó là những trường hợp rất đáng thương hơn là đáng nói. Nhưng có một loại "con hoang" khác mới đáng nguyền rủa. Họ không phải mồ côi, nhưng không biết cha mẹ là ai, họ không phải không có nơi nương tựa, nhưng không biết nhà ở đâu, không phải không có làng xóm, ngôn ngữ, nhưng lại quên địa chỉ, quên tiếng nói. Họ là những đứa con hoang trong cộng đồng dân tộc.

 

NHỮNG ĐỨA CON HOANG TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC

 

Tại Việt Nam, hầu hết những lớp người sinh ra và lớn lên trong những năm từ khi Liên Minh Pháp – Vatican bắt đâu tấn chiếm và thống trị Việt Nam từ năm 1858 cho đến năm 1954 và ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 đều không được học đầy đủ quốc sử và toàn bộ lịch sử thế giới. Lý do rất đễ hiểu:

1.- Về quốc sử: Bất kỳ đế quốc thực dân xâm lược nào cũng đều có chủ trướng không đưa môn quốc sử vào trong chương trình học ở các bậc tiểu học và trung học cũng như ở bậc đại học (nước ta, trong thời Pháp – Vatican bảo hộ, chưa có trường đại học mở lớp dạy quốc sử thì phải.) Thuở đó, chính quyền bảo hộ chỉ cho dạy môn lịch sử Pháp ở các bậc tiểu học và trung học và học sinh Việt Nam được dạy rằng: “Nos ancêtres sont des Gaullois” (Tổ tiên chúng ta là người Gaullois) .

2.- Về môn sử thể giới: Là một thành phần trong Liên Minh Pháp – Vatican thống trị Việt Nam trong những năm 1885-1954 và trong Liên Mỹ - Vatican thống trị miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975, Giáo Hội La Mã chủ trương hoặc là không đưa môn sử thế giới vào trong chương trình trung học và ở bậc đại học, hoặc là nếu bất đắc dĩ mà phải có môn học này, thì phải cắt xén và phần còn lại phải được diễn dịch theo ý muốn của Giáo Hội để tránh né, không đề cập tới những sự kiện mà Giáo Hội cấm kỵ như:

a.- Những việc làm tội ác của Giáo Hội La Mã trong gần hai ngàn năm qua.

b.- Đời sống hoang đàng phóng đãng, loạn dâm, loạn luân dâm loàn của các giáo hoàng và các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican cũng như của các ông tu sĩ các cấp trong các giáo khu và trong các họ đạo tại các địa phương.

c.- Những vụ thanh toán tàn sát lẫn nhau của các phe phái chức sắc trong giáo triều Vatican để tranh giành ngôi vị giáo hoàng và độc chiếm quyền lực trong giáo triều Vatican.

Việc này hoàn toàn do Giáo Hội La Mã chủ trương. Bằng chứng cho sự kiện này là chuyện cụ Nguyễn Hiến Lê chỉ vì cùng với ông Thiên Giang biên soạn bộ Lịch Sử Thế Giới vào năm 1956 mà bị “một độc giả (giáo dân) ở Cần Thơ mạt sát là đầu óc đầy rác rưởi… vì nhắc qua đến thuyết của Darwin về nguồn gốc của loài người.”, bị “một linh mục ở (miền) Trung yêu cầu bộ Gáo Dục cấm bán và tịch thu hết bộ đó vì trong cuốn II viết về thời Trung Cổ, … có nói tới sự bê bối của một vài giáo hoàng” và bị “mật vụ rình”.[1]

 

Như vậy là ở Việt Nam, suốt trong thời kỳ 1858-1954 và ở miền Nam, môn sử trong chương trình học ở các bậc trung và đại học có rất nhiều sự kiện hoàn toàn bị bưng bít hay bị giấu nhẹm, không cho vào chương trình học, và có những sự kiện trước khi được đưa vào chương trình học đã bị xuyên tạc bằng cách diễn dịch lươn lẹo với mục đích làm cho học sinh không nhận ra có sự liên hệ khắng khít giữa Giáo Hội hay tu sĩ hoặc tín đồ Da-tô với những sự kiện đó.

 

A.- Những sự kiện lịch sử bị giấu nhẹm là:

1.- Việc Giáo Hội La Mã chủ trương đánh chiếm Việt Nam. Chủ trương này nằm trong chính sách chung của Giáo Hội qua việc ban hành Sắc Chỉ Romanus Pontifex vào ngày 8 tháng 1 năm 1454 trong thời Giáo Hoàng Nicholas (1447-1455).

2.- Việc Tòa Thánh Vatican đã ba lần gửi người đến kinh thành Paris uốn lưỡi Tô Tần vận động chính quyền Pháp liên kết với Giáo Hội xuất quân đánh chiếm Việt Nam để cùng thống trị và cùng chia nhau lợi nhuận.

3.- Việc Giáo Hội liên kết chặt chẽ với Pháp trong việc đánh chiếm và thống trị Việt Nam từ năm 1858 cho đến mùa thu năm 1954.

4.- Sự hiện diện của các nhà truyền giáo và tu sĩ Da-tô trong đoàn quân viễn chinh Pháp với nhiệm vụ dẫn đường đưa lối cho đoàn quân viễn chinh của Liên Minh Pháp - Vatican trong các chiến dịch tấn chiếm Việt Nam từ năm 1858 cho đến khi Hiệp Ước Giáp Thân 1884 ra đời.

5.- Vai trò các tín đồ Da-tô được Giáo Hội đưa đến chủng viện Pénang ở Mã Lai để huấn luyện kỹ thuật chống phá tổ quốc Việt Nam rồi đưa họ về Việt Nam để phục vụ cho Liên Minh Pháp – Vatican, làm các công việc thông ngôn, chỉ điểm, đưa đường dẫn lỗi cho Liên Quân Xâm Lăng Pháp – Vatican trong các chiến dịch tấn công các cứ điểm phòng thủ của quân dân ta cũng như trong các chiến dịch tấn công và tiêu diệt các lực lượng nghĩa quân kháng chiến Việt Nam trong suốt thời kỳ từ năm 1958 cho đến 1945. Trong số những tên Da-tô Việt gian này có Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài, v.v..

6.- Việc đoàn ngũ hóa tín đồ Da-tô trong các xóm đạo và tổ chức họ thành những đạo quân thứ 5 nằm tiềm phục tại địa phương chờ nhận lệnh của các đấng bề trên để nổi lên tiếp ứng khi Liên Quân Xâm Lăng Pháp – Vatican tiến đến tấn công một vị trí nào đó ở các vùng gần bên.

7.- Vai trò của Linh-mục Trần Lục dẫn 5 ngàn giáo dân Phát Diệm có võ trang đi tiếp viện cho đoàn quân Pháp dưới quyền chỉ huy của Trung-tá Metzinger và Đại Úy Joffre trong chiến dịch tấn công và tiêu diệt lực lượng nghĩa quân kháng chiến tại Chiến Lũy Ba Đình (Thanh Hóa) dưới quyền chỉ huy của cụ Đinh Công Tráng vào những năm năm 1886 và 1887.

8.- Vai trò của tên Da-tô Việt gian Ngô Đình Khả (phụ thân của Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, Ngô Đình Luyện) cùng với Nguyễn Thân trong chiến dịch tấn công và tiêu diệt căn cứ nghĩa quân kháng chiến của nhân dân ta dưới quyền chỉ huy của nhà ái quốc Phan Đình Phùng. Ngô Đình Khả và Nguyễn Thân là hai người chủ động trong việc đào mả cụ Phan lấy hài cốt đem đốt thành tro, lấy tro trộn với thuốc súng, rồi bắn xuống sông Lam Giang để trả thù cho những chiến dịch “Bình Tây Sát Tả” của nghĩa quân ta trước đó. Cái truyền thống đào mả kẻ thù đã chết để trả thù là của đạo Da-tô đã có ở Âu Châu từ thời Trung Cổ.[2]

9.- Việc tên Da-tô Việt gian Ngô Đình Khả được Liên Minh Thánh Pháp - Vatican gài vào triều đình Huế để theo dõi thái độ và hành động của ông vua gỗ Thành Thái rồi báo cáo với chính quyền bảo hộ.

10.- Việc Vatican và Pháp đồng thuận với nhau trong việc bổ nhậm cựu Linh-mục Thierry d’ Argenlieu (vừa là người của Giáo Hội La Mã vừa là người của Pháp) nắm giữ chức vụ Cao Ủy Đông Dương từ ngày 17/8/1945 cho đến ngày 15/3/1947.

11.- Vai trò của Giáo Hội La Mã và giáo dân Việt Nam đã liên tục chống lại tổ quốc Việt Nam qua những hành động chiến đấu bên cạnh đoàn quân xâm lăng Pháp suốt trong thời Kháng Chiến Chống Pháp 1945-1954.

12.- Sự chuyển hướng mục tiêu tranh đấu của các lực lượng nghĩa quân kháng chiến Việt Nam (từ 1858 đến 1945) trong việc đánh đuổi Liên Minh Pháp-Vatican để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc. Trong sự chuyển hướng này, có mục nói về chủ trương loại bỏ chế độ quân chủ dưới mọi hình thức kể cả trung ương tập quyền lẫn quân chủ lập hiến. (Nếu đưa mục này vào trong chương trình sử ở bậc trung học, thì làm sao nhà cầm quyền miền Nam có thể giải thích được việc Liên Minh Pháp – Vatican chủ trương đưa ra “Giải Pháp Bảo Đại” để chống lại chính quyền Kháng Chiến dưới quyền lãnh đạo của Mặt Trận Việt Minh?)

13.- Những bài học về Hội Nghị Genève và Hiệp Định Genève 1954

14.- Những hành động của chính quyền Ngô Đình Diệm vi phạm điều khoản quy định việc tổng tuyển cử thống nhất đất nước vào tháng 7/1956.

 

B.- Những sự kiện lịch sử bị diễn dịch lươn lẹo hay bị bóp méo hoặc bị xuyên tạc.

Ngoài ra, lại còn có rất nhiều sự kiện lịch sử đã bị cắt xén hay bị diễn dịch sai lạc (lươn lẹo) rồi mới được đưa vào chương trình học ở bậc trung học. Như đã nói ở trên, mục đích của việc làm bất chính này là nhằm để làm cho học sinh không nhận ra có sự liên hệ khắng khít giữa những sự kiện đó với Giáo Hội hay tu sĩ hoặc tín đồ Da-tô. Một trong những sự kiện này là chuyện Tòa Thánh Vatican cấu kết với đế quốc thực dân Pháp mưu đồ bơi ngược dòng lịch sử, đưa ra Giải Pháp Bảo Đại để phục hồi cái vương quyền lỗi thời của nhà Nguyễn với dã tâm sử dụng nó làm bức bình phong che đậy cho mưu đồ bất chính dùng người Việt đánh người Việt và dùng tín đồ Da-tô để cai trị đại khối dân tộc thuộc tam giáo cổ truyền. Tiếp theo đó, họ lại khua chiêng gióng trống tô vẽ cho ông vua gỗ này và bọn Việt gian phản quốc bán nước cho Pháp và Vatican bằng những luận điệu bịp bợm với những cụm từ “chính quyền quốc gia”, “chính nghĩa quốc gia”, “người Việt quốc gia” chiến đấu dưới “lá cờ vàng ba sọc đỏ”. Dĩ nhiên là khi tô vẽ cho bọn phong kiến phản độn và Việt gian phản quốc như trên, họ hết sức lúng túng trong việc giải thích về những hành động cấu kết với Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam. Tình trạng lúng túng này đưa đến nhiều lúng túng khác tiếp theo đó như những chiếc vòng khoen móc nối với nhau trong một sợi giây chuyền:

1.- Lúng túng không thể giải thích được việc tái lập vương quyền cho nhà Nguyễn bằng cái gọi là “Giải Pháp Bảo Đại”. Đây là một hành động bơi ngược dòng lịch sử, nghĩa là đi ngược với trào lưu tiến hóa của phong trào đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican với bốn nhiệm vụ chính là:

a.- Giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc,

b.- Đập tan cái ách quân chủ phong kiến lỗi thời coi nhân dân như chó ngựa đã đè nặng lên đầu lên cổ dân tộc ta từ mấy ngàn năm qua bằng cách thiết lập chính quyền dân chủ tự do dân, vì dân và bởi dân,

c.- Thực hiện một cuộc cách mạng xã hội, xóa bỏ hết tất cả những bất công xã hội, xóa bỏ hết tất cả những tàn tích đế quốc, thực dân và phong kiến còn rớt lại,

d.- Thực hiện một cuộc cách mạng ruộng đất để đem lại công bằng về kinh tế cho người dân ở nông thôn và mang lại phúc lợi cho toàn dân theo đà tiến hóa của nhân loại.

2.- Lúng túng trong việc biện minh sao cho thuận lý về cái chính nghĩa khi khoác cho chính quyền bù nhìn Bảo Đại cái danh xưng "chính quyền quốc gia" và "chính nghĩa quốc gia".

3.- Lúng túng khi phải gọi những tên Việt gian vốn đã có thành tích làm tay sai cho Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp Vatican từ trước năm 1945 và trong thời Kháng Chiến 1945-1954 là "những người Việt quốc gia chân chính". Ai cũng biết rằng gọi những tên Việt gian này là “những người Việt quốc gia chân chính” quả thật là không ổn, vì rằng

Làm sao những tên Việt gian như Lê Văn Hoạch, Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Tâm, Phan Văn Giáo, Trần Văn Hữu, Lê Văn Viễn, v.v… lại có thể được gọi là những người quốc gia chân chính yêu nước tranh đấu cho quyền lợi tối thượng của dân tôc?

Làm sao những tên quan lại làm tay sai cho chính quyền bảo hộ Liên Minh Pháp Vatican trong thời kỳ từ tháng 3/1945 trở về trước lại có thể được gọi là những người quốc gia chân chính yêu nước?

Làm sao có thể gọi những tên Việt gian này là những người đã quyết tâm liều thân tranh đấu cho quyền lợi tối thượng của dân tộc?

Chẳng lẽ những tên Việt gian khét tiếng làm tay sai đắc lực cho liên minh giặc Pháp – Vatican như Trần Bá Lộc, Nguyễn Hữu Độ, Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài, Lê Hoan, Linh-mục Trần Lục, Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, Hoàng Trọng Phu, Ngô Đình Khôi, Hoàng Gia Mô, Giám-mục Nguyễn Bá Tòng, Giám-mục Ngô Đình Thục, Cung Đình Vận, Vi Văn Định, Nguyễn Duy Hàn, Ngô Đình Diệm, v.v…lại có thể được gọi là những người quốc gia yêu nước hay sao?

Nếu như vậy, thì những tên Việt gian ác ôn làm tay sai cho Liên Minh Pháp – Vatican trong thời Kháng Chiến 1945-1954 như Lê Văn Hoạch, Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Tâm (cọp Cai Lậy, nhân sĩ Bắc Hà đã từng mắng thằng vào mặt là “Chó Tâm bồi Tây” bằng cụm từ “đại điểm quần thần”), Trần Văn Hữu, Phan Văn Giáo, Lê Văn Viễn, Giám-mục Lê Hữu Từ, Giám-mục Phạm Ngọc Chi, Linh-mục Hoàng Quỳnh (Phát Diệm), Linh-mục Nguyễn Gia Đệ (Ninh Bình), Linh-mục Lương Huy Hân (Nam Định), Linh-mục Nguyễn Kim Điền (Phát Diệm), Linh-mục Mai Đức Tín (Thái Bình), Linh-mục Nguyễn Quang Ân (Thái Bình), Linh-mục Vũ Đức Luật (Thái Bình), Linh-mục Mai Ngọc Khuê (Bùi Chu), v.v…  và những sĩ quan người Việt trong đạo quân đánh thuê cho Liên Quân Pháp – Vatican trong thời Kháng Chiến 1945-1954 cũng được gọi là những người Việt Quốc Gia yêu nước hay sao?

Nếu như vậy, thì những tên Việt gian bán nước cho Liên Minh Mỹ – Vatican trong những năm 1954-1975 cũng có thể được gọi là "những người Việt quốc gia chân chính" hay sao?

Nếu như vậy, thì những tên Việt gian làm mật vụ cho Liên Minh Pháp – Vatican trong những năm 1945-1954 và đã từng nắm giữ những chức vụ chỉ huy trong ngành mật vụ công an ở miền Nam như Trần Kim Tuyến, Trần Khắc Kính, Trần Khắc Nghiêm, Lê Quang Tung, Lê Quang Triệu, Ngô Thế Linh, Nguyễn Văn Hai, Phan Quang Đông, Dương Văn Hiếu, Trần Thiện Dzai , v.v… cũng được gọi là những người Quốc Gia yêu nước hay sao?

Ai cũng biết rằng tất cả những người được nêu lên trên đây đều là những người được chính quyền Liên Minh Pháp – Vatican đào tạo để phục vụ cho quyền lợi của hai thế lực này và đã có nhiều thánh tích chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam hoặc là từ trước năm 1945 và hoặc là từ thời Kháng Chiến 1945-1954.

Nếu gọi những hạng người này là những “người Việt quốc gia yêu nước” thì quả thật là tội nghiệp cho cụm từ “người Việt quốc gia yêu nước” và tội nghiệp cho ngôn ngữ Viêt Nam!

Thực ra, những lúng túng này là do ý đồ nhập nhằng đánh lận con đen bằng cách gom chung những tên Việt gian đã được nêu lên trên đây vào với những người yêu nước chân chính trong các đảng phái và phong trào cách mạng chống Liên Minh Pháp – Vatcian trong thời kỳ 1858-1945.

Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ Giáo Hội La Mã là thủ phạm làm cho tín đô Da-tô cũng như tất cả những người Việt khác sinh ra và lớn lên ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 không được học toàn bộ lịch sử thế giới, và cũng không được học đầy đủ những bài học lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại. Chính vì lẽ này mà phần lớn những lớp người này dù đã hoàn tất chương trình trung học ở miền Nam cũng không biết gì về lịch sử thế giới và biết rất lơ mơ về lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại.

Tình trạng này đã khiến cho họ khi nói hay viết về lịch sử đều có một điểm chung là thiếu một bức tranh toàn cảnh, tức là đã loại bỏ hầu hết những thế lực hay nguồn lịch sử thế giới (những diễn biến hoạt động của các thế lực ngoại xâm) đã ảnh hưởng trực tiếp đến dòng sinh mệnh của dân tộc ta, trong đó có Giáo Hội La Mã là quan trọng hơn cả.

 

Nêu những người sinh ra và lớn lên mà không biết tên tuổi, không biết nguồn gốc hay cha mẹ của họ là ai hay là người như thế nào, hoàn toàn sống vào của bố thí và lòng thương hại của ngiười đời và bị gọi là những đứa con hoang của xã hội, thì ta cũng có thể gọi những người không biết quốc sử là những đứa con hoàng trong cộng đồng dân tộc. Những đứa con hoang trong cộng đồng dân tộc này hầu như:

1.- Không biết gì về thời điểm và những khó khăn trong cái buổi ban đau thời dựng nước mà tổ tiên ta phải tranh đấu gian khổ như thế nào?

2.- Không biết tiền nhân của họ đã phải tranh đấu giữ nước đánh dẹp giặc trong, đánh đuổi giặc ngoài như thế nào để tồn tại.

3.- Không biết những công lao của tiền nhân ta đã phải trải quan không biết bao nhiêu khó khăn gian khổ trong những bước đường mở rộng đất nước từ ngày mới có nước cho đến ngay nay..

 

Hậu quả: Nhân bất học bất tri lý. Không học sử tất nhiên là tất nhiên là không biết sử. Không biết sử, cho nên “những đứa con hoang trong cộng đồng dân tộc rơi vào tình trạng:

1.- Không biết một tí gì về lịch sử tranh đấu kiên cường, dũng cảm, oai hùng của tiền nhân.

2.- Sẽ trở thành những người thiếu vắng lòng yêu nước và mất đi niềm tự hào về dân tộc. Từ đó, họ sinh ra có tinh thần vọng ngoại. Những người nặng tinh thần vọng ngoại, mỗi khi bất mãn với chính quyền đương thời về quyền lợi cá nhân hay gia đình hoặc tôn giáo của họ, họ thuờng tìm cách chạy chọt và thỉnh cầu các thế lực ngoại bang dùng bạo lực hay ảnh hưởng để đạp đổ nhà nước đương quyền ở nơi quê cha đất tổ với hy vọng họ sẽ được đưa lên cầm quyền để làm tay sai cho bất kỳ thế lực nào đã đưa họ về cầm quyền. Làm chính trị theo kiểu này được gọi là làm chính trị theo kiểu Lê Chiêu Thống. Đây là trường hợp của tên Da-tô tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm đã từng làm trong những năm đầu thập niên 1954 (đã được toại nguyện và đã phải đền tội trước nhân dân vào sáng ngày 2/11/1963), của Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation được cho ra đời vào tháng 7 năm 2003 của các ông Nguyễn Xuân Vinh, Lý Tòng Bá, Lâm Quang Thi, Nguyễn Văn Canh, v.v…, của tổ chức 8406 của mấy ông linh-mục tín đồ Da-tô ở Việt Nam, và của các tổ chức chống Cộng theo lệnh truyền của Vatican hiện nay:

Bộ Thánh Vụ Vatican ra thông cáo cho cha mẹ những vị thành niên có chân trong các tổ chức Cộng Sản đều bị vạ tuyệt thông. Thông cáo này cũng tố cáo những ai dự vào tổ chức có mục đích đưa thanh niên vào thuyết duy vật.” [3]

3.- Sẽ trở thành những người vong bản và dễ dàng chạy theo miếng mồi danh lợi để thỏa mãn dục tính thấp hèn “tình, tiền, quyền lực và danh vọng”. Lý do: vì thiếu vắng lòng yêu nước.

4.- Một khi đã trở thành những người vong bản và dễ dàng chạy theo miếng mồi danh lợi để thỏa mãn những dục tính thấp hèn “tình, tiền, quyền lực và danh vọng”, thì sẽ dễ dàng trở thành những kẻ xu thời (cơ hội chủ nghĩa), chạy theo những thế lực mạnh để được ban phát cho những thứ mà họ thèm khát như trên.

5.- Riêng về những người Việt Nam, nếu không được học quốc sử, những lớp người sinh ra và lớn lên trong thời kỳ này không biết rằng Giáo Hội La Mã là thế lực chủ động vận động Đế Quốc Pháp liên kết với Vatican xuất quân đánh chiếm để cùng thống trị Việt Nam và cùng chia lợi nhuận. Cho nên họ không biết rằng Giáo Hội La Mã là kẻ thù của dân tộc. Vì không biết rằng Giáo Hội là kẻ thù của dân tộc, cho nên ở Việt Nam, từ năm 1945 cho đến ngày 30/4/1975 và ở hải ngoại từ giữa năm 1975 đến nay, có nhiều nhà tu hành bên Phật giáo gia nhập tổ chức Liên Tôn Chống Cộng hay những tổ chức khác như tổ chức hay khối 8406 hiện nay do mấy ông linh mục và tín đồ Da-tô chủ trương mà họ không biết rằng gia nhập những tổ chức này là phục vụ cho Giáo Hội La Mã để chống lại dân tộc và chống lại Phật Giáo.

6.- Cũng vì không được học đầy đủ lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, cho nên mới có một số những người Việt hải ngoại quyết tâm tranh đấu bảo vệ lá cờ vàng ba sọc đỏ, duy trì “lằn ranh Quốc Cộng” mà không biết rằng những quái chiêu này là do Giáo Hội La Mã chủ mưu. Đây là dã tâm phục hồi vương quyền nhà Nguyễn bằng cách đưa ông vua gỗ Bảo Đại trở lại chính quyền với chiêu bài gọi là “Giải Pháp Bảo Đại”. NHư đã nói ở trên, chiêu bài này được mạ kền bằng những danh xưng hào nhoáng như “Chính Quyền Quốc Gia”, “Chính Nghĩa Quốc Gia” với ông Bảo Đại làm quốc trưởng và với lá cờ vàng ba sọc đỏ làm biểu tượng đấu tranh nhằm để làm cho nhân dân ta lầm tưởng rằng ông Bảo Đại là người nắm được chính nghĩa tranh đấu cho quyền lợi tối thượng của tổ quốc và dân tộc. Mưu đồ này là Giáo Hội La Mã chủ trương, được công khai hóa và tiến hành từ tháng 12/1945. Sự kiện lịch sử này đều được sách sử ghi lại rõ ràng. Sách Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 -Tập A: 1939-1946 ghi lại với nguyên văn như sau

"Ngày 28/12/1945: HUẾ: Tổng Giám Mục Antoni Drapier, đại diện Roma, tuyên bố:

"Gia đình Bảo Đại là gia đình thân Pháp bậc nhất trong dân chúng Việt Nam (la plus francophile de tois les annmites) và theo ý ông ta, nên cho Bảo Đại lên ngôi như trước ngày 9/3 (À mon avis, il serait avantageux pour le calm de rétablir le Roi comme chef régulier avant le 9 mars; DOM [aix], CP 125). DRAPIER cũng đưa ra giải pháp là có thể sau đó sẽ cho Bảo Long kế vị, và Nam Phương làm Giám Quốc [Phụ Chính]."[4]

Mãi tới đầu tháng 6 năm 1948, mưu đồ này mới được thể hiện ra thành cụ thể. Vấn đê này đã được trình bày đầy đủ với rất nhiều chi tiết trong Mục XV (Chính Sách Chia Để Trị của Vatican tại Việt Nam), Phần V (Mặt Trận Việt Minh Lãnh Đạo Cuộc Kháng Chiến 1945-54) trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã.

Cũng vì không được học quốc sử đầy đủ, đặc biệt là thời Cận Đại và Hiện Đại, các ông lãnh đạo Việt Quốc và Việt Cách mới có ý đồ bơi ngược dòng lịch sử, hăng say cổ võ tái lập chế độ quân chủ phong kiến bằng những nỗ lực đưa ông Bảo Đại lên nắm lãnh đạo chính quyền nhằm phục hồi vương quyền cho nhà Nguyễn để đối đầu với chính phủ do Cụ Hồ Chí Minh lãnh đạo. Sự kiện này được sách Việt Sử Khảo Luận rõ ràng như sau:

Nhóm Quốc Dân Đảng (của Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ, Nguyễn Tường Tam, v.v…) đòi thành lập một Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến với Vĩnh Thụy làm Chủ Tịch. Nhiều cuộc biểu tình được tổ chức ở đường Gambetta cũ, hoan hô Cố Vấn và đòi ông ra cầm quyền.”[5]

Thật là vô cùng ngạc nhiên khi thấy rằng các ông Việt Quốc và Việt Cách thuộc loại trí thức như Nguyễn Tường Tam, Nghiêm Kế Tổ và Vũa Hồng Khanh lại có ta hành động như vậy mà họ không biết rằng:

a.- Sau khi triều đình Huế đã ký Hòa Ước Nhâm Tuất 1862 nhường ba tỉnh miền đông Nam Kỳ cho Liên Minh Xâm Lăng Pháp – Vatican, cùng các Hiệp Ước Giáp Tuất 1874 (nhường toàn bộ Nam Kỳ cho liên minh giặc), Qúi Mùi 1883 và Giáp Thân 1884 (dâng cả nước cho liên minh giặc), nhà Nguyễn mất hết chính nghĩa không còn tư cách gì để ngồi vào ngôi vị lãnh đạo quốc dân cai trị đất nước nữa.

b.- Chế quân chủ phong kiến chuyên chế trung ương tập quyền đã bị nhân dân thế giới đào sâu chôn chặt từ mấy trăm về trước. Sẽ nói rõ trong một tiểu mục khác ở sau.

Những việc làm này cho chúng ta thấy rõ ràng là các ông Việt Quốc và Việt Cách làm chính trị và làm cách mạng mà lại không thấu hiểu quốc sử và cũng không biết gì về trào lưu tiến hóa của nhân loại. Vì ở vào tình trạng này, họ mới hành động loạng quạng để rồi rơi nghịch cảnh trớ trêu cười ra nước mắt: “Nắm quyền điều khiển một thế lực đánh đuổi thằng giặc con Thực Dân Xâm Lược Pháp nhưng lại rơi vào cái bẫy “Giải Pháp Bảo Đại” của thằng giặc bố là Vatican giăng ra”.

Cũng vì không biết quốc sử một các đầy đủ và chỉ học những bài sử qua bàn tay uốn nắn của Giáo Hội La Mã, cho nên ông nhà văn Da-tô Nguyễn Ngọc Ngạn mới phạm phải những sai lầm trầm trọng trong lúc ông hứng chí viết và tuyên bố những vấn đề có liên hệ đến lịch sử khi biên soạnt cuốn Xóm Đạo và khi điều khiển chương trình Văn Nghệ thực hiện cuốn băng ca nhạc Paris By Night 81. Vấn đề này đã được người viết trình bày khá đầy đủ ở trong một tập sách có tựa đề là Khi Nhà Văn Lạm Bàn Lịch Sử và đã được đưa lên sachhiem.net từ mấy tháng nay.

Đây là nguyên nhân TẠI SAO cac chính quyền đế quốc thực dân xâm lược thường không đưa môn quốc sử (của các thuộc địa) vào trong chương trình học ở bậc tiểu và trung học tại các thuộc địa của chúng. Cũng vì lý do này mà trong thời bảo hộ (1885-1945), chính quyền Liên Minh Pháp – Vatican mới chủ trương không dạy quốc sử Việt Nam, và dạy người Việt Nam rằng “Tổ tiên chúng ta là người Gaulois” (Nos ancêtres sont des Gaulois). Và đây cũng là chủ tâm của Giáo Hội La Mã.

Ta có thể gọi những người không học hay không biết gì về quốc sử là những đưa con hoang trong cộng đồng dân tộc.

 

NHỮNG ĐỨA CON HOANG

TRONG CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI

 

Tương tự như những người không học quốc sử, những người không học sử thế giới sẽ:

1.- Không biết sự hình thành trái đất như thế nào;

2.- Không biết sự xuất hiện của bầy người đầu tiên ra làm sao;

3.- Không biết những bước tiến của loài người từ thuở hồng hoang cho đến thời đại tin học như ngày nay đã phải qua những thời kỳ tranh đấu cam go ác liệt chống lại các thế lực phong kiến phản động bảo thủ, đặc biệt là phải chống lại Giáo Hội La Mã trong suốt thời Trung Cổ (476-1500) để đòi được quyền:

a.- Tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự báo chí, tự do tôn giáo, tự do duy trì và bảo tồn những thành quả của những phát minh cũng như những tiến bộ khoa học mà những người đi trước đã thực hiện được, và

b.- Phát huy và khai triển những thành quả tiến bộ của học thuật và khoa học để làm cho kho tàng kiến thức của nhân loại ngày càng thêm phong phú.

4.- Không biết gì về đời sống bê bối thối tha, hoang đàng, loạn luân, loạn dâm của các giáo hoàng cũng như tập đoàn chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican và các hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục cai quản các giáo phận hay quản nhiệm các họ đạo tại các địa phương.

5.- Không biết gì về những sự ganh ghét, đố kị, tị hiềm, kèn cựa, chèn ép, thanh toán, chém giết, hạ độc và tàn sát lẫn nhau để tranh giành quyền lực ở trong giáo triều Vatican cũng như tại các tòa Tổng Giám Mục và tại các nhà thờ tại các địa phương. (Cả hai vấn đề 4 và 5 này đều đã được trình bày đầy đủ với khá nhiều tài liệu sử trích dẫn kèm theo ở trong Mục V (gồm 3 chương), Phần I trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã.)

6.- Không biết rằng trong suốt cả thời Trung Cổ và nhiều năm sau đó, Giáo Hội La Mã đã làm mưa làm giáo trên sấn khấu chính trị Âu Châu với những quyền lực tuyết đối như một đế quốc thực dân xâm luợc cực kỳ bạo ngược, cực kỳ phong kiến. Đây là thời kỳ Giáo Hội bước lên tuyệt đỉnh của quyền lực: giáo hoàng được coi như là vua của các vua ở Âu Châu và vùng ven biển địa Trung Hải. Trong thời kỳ này, Giáo Hội chỉ biết dùng bạo lực để cưỡng bách người dân dưới quyền phải tuyệt đối tin tường vào những tín lý Ki-tô. Chính sách này đã khiến cho người dân Âu Châu rơi vào tinh trạng ngu dốt không khác gì người dân Do Thái trong thời ông Moses cách đó gần ba ngàn năm về trước. Cũng vì thế mà các nhà viết sử mới gọi thời kỳ này là Thời Kỳ Hắc Ám hay Thời Kỳ Đen Tối (The Dark Ages).

7.- Không biết gì về tham vọng bá quyền của Giáo Hội La Mã với mưu đồ thống trị toàn cầu và Ki-tô hóa nhân loại bằng bạo lực để làm nô lệ cho Giáo Hội. Mưu đồ này đã được thể hiện qua việc ban hành các sắc chỉ và thánh lệnh trong thế kỷ 15 ngay từ thời điểm các nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha còn đang dò dẫm hải lộ đi theo ven biển phía Tây Châu Phi, (rồi đi theo ven biển phía Đông Chấu Phi ngược theo hướng bắc, men theo ven bờ biển phía nam bán đảo Á-rập và băng qua Vịnh Ba Tư để tới Ấn Độ.)

8.- Không biết gì về việc Giáo Hội La Mã đã ba lần gửi các nhà thuyết khách đến kinh thành Paris để uốn lưỡi Tô Tần thuyết phục triều đình Pháp [trong các thời Vua Louis XIV (1643-1715), Vua Louis XVI (1774-1792) và Pháp Hoàng Napoléon III (1852-1870)] liên kết với Giáo Hội và xuất quân đánh chiếm Việt Nam để cùng thống trị, cùng chia nhau khai thác tài nguyên và cùng nô lệ hóa dân ta. Sự kiện này đã phát sinh những tình trạng cười ra nước mắt:

Trường hợp 1.- Ông Việt Quốc Nghiêm Kế Tổ chỉ trích và lên án những biện pháp mạnh của chính quyền Việt Minh đối phó với Giáo Hội La Mã với giọng điệu tội nghiệp và bênh vực cho cái đạo giáoo mà văn hào Voltaire gọi nó là “Cái tôn giáo ác ôn”.[6] . Dưới đây là nguyên văn lời lẽ nhà cách mạng Việt Quốc họ Nghiêm viết:

Đối với Giáo Hội Gia Tô, lực lượng, có tổ chức chặt chẽ, Việt Minh cũng không tha, khẩu hiệu thì Lương Giáo đoàn kết, nhưng được thực hiện bằng cấm mở trường thần học của Giáo Hội, bằng đổ lỗi cho các cha cố đã làm gián điệp cho ngoại bang, ép họ vào tội tàng trữ khí giới bất hợp pháp… Khẩu hiệu Đại Đoàn Kết của Việt Minh chính là mầm chia rẽ giữa đảng phái, giữa tôn giáo, giữa mọi tầng lớp nghèo nàn Việt Nam.” [7]

Trường hợp 2.- Lời giải thích sai lệch một sự kịện lịch sử được (nhân vật Anh) nêu lên (với nhân vật thày giáo Thông) là “ đạo Công Giáo mang thực dân Pháp vào chiếm nước ta!…có phải thế khôn anh?” như sau:

“Tại bố em không đọc lịch sử nên mới nghĩ như vậy. Đạo Công Giáo truyền sang nước ta từ năm 1533, tức là đời vua Lê. Các Giáo sỹ lần đầu tiên đến Ninh Cường và Trà Lũ giảng đạo, có âm mưu chính trị gì đâu! Hơn 300 năm sau thực dân Pháp mới xâm chiếm Việt Nam, là lúc mà đạo Công Giáo đã vững vàng. Chính triều đình và phong trào Văn Thân giết 130 nghìn giáo dân, đã gây nên cái hố chia rẽ càng ngày càng trầm trọng!”[8]

9.- Không biết gì về lòng uất ức và căm thù của các dân tộc nạn nhân của Giáo Hội La Mã đối với Tòa Thánh Vatican. Lời phát biểu dưới đây của nhà báo Jacques René Hebert (Nov. 15, 1757- March 24, 1794) được đưa lên báo chí phổ biến vào ngày 28/11/1790 cho ta thấy rõ lòng căm phẫn của nhân dân Pháp đối với Giáo Hội La Mã:

"Ngày 28/11/1790, ông (Hebert) viết: “Tôi đang sôi máu. Các bạn người Pháp, các bạn hãy nói cho tôi nghe xem có được không. Nếu cái người mà các bạn gọi là Đức Thánh Cha cướng quyết chống lại luật pháp của các bạn, các bạn có ngu xuẩn và hèn hạ đến độ phải từ bỏ luật pháp của các bạn. Các bạn hy vọng gì ở một ông Giáo Hoàng. Đ.M Giáo Hoàng, hãy tin ở tôi đi, bây giờ là đến lượt các bạn; cả trong mười thế kỷ qua, Giáo Hoàng đã áp bức các bạn quá nhiều rồi.". Nguyên văn:My blood boils, he wrote on 28 November 1790, for instance. “Tell me, Frenchmen, is it possible? if that man you call the Holly Father takes it into his head to oppose your laws, do you dare, are you stupid and base enough, to give them up? What do you expect from a Pope? Screw the Pope, believe me; it is your turn at last; for ten centuries the Pope has screwed you."[9]

10.- Không biết gì về phong trào nhân dân thế giới chống Giáo Hội La Mã hết sức mãnh liệt. Đây là những phong trào nhân dân Âu Châu vùng lên chống lại Giáo Hội La Mã và đòi cải cách tôn giáo (1309-1648) với chủ thuyết nhân bản ra đưa đến Thời Đại Lý Trí - Age of Reason (1500-1789) mà đối tượng nhằm vào Giáo Hội La Mã. Điển hình là Phong Trào Tin Lành của Linh-mục Martin Luther (1483-1546), Phong Trào Tin Lành của John Calvin (1509-1564), phong trào thành lập các Giáo Hội địa phương ly khai với Tòa Thánh Vatican như Anh Giáo và Pháp Giáo. Rồi từ các phong trào này nẩy sinh ra phong trào đấu tranh mới gọi là Thời Đại Cách Mạng Dân Chủ - The Age of Democratic Revolution (1603-1815) với những kiện tướng lý thuyết gia như John Locke (1632-1704), Montesquieu (1689-1755), Jean Jacques Rousseau (1712-1778), Denis Diderot (1713-1784), Voltaire (1694-1778), Victor Hugo (1802-1885), Charles Robert Darwin (1809-1882), v.v…

11.- Không biết gì trong Thời Đại Cách Mạng Dân Chủ. Trong thời kỳ này, những tư tưởng của những kiện tướng lý thuyết gia trên đây được thể hiện thành những hành động cụ thể với những biện pháp cứng rắn như”

a.- Tại Anh quốc, vào năm 1691,Quốc Hội Anh ban hành đạo lụât cấm, không cho một người Anh nào là tín đồ Da-tô La Mã được lên cầm quyền. Sách Living World nói rõ History đạo luật này quy định rằng:

Biện pháp thứ ba, Đạo Luật Ổn Định 1691 quy định rằng, không có một tín đồ Ki-tô La Mã có thể trở thành nhà lãnh đạo nước Anh. Như vậy là luật này loại hẳn tất cả những người con và cháu của vua James Đệ Nhị với người vợ thứ hai của nhà vua, không cho họ lên cầm quyền.” Nguyên văn: “A third measure, the Act of Settlement of 1691, provided that no Roman Catholic could be ruler of England, automatically excluding the descendants of James II by his second wife.[10]

b.- Theo gương nước Anh, chính quyền Cách Mạng 1789 triệt để sử dụng những biện pháp mạnh để bẻ gẫy nanh vuốt của Giáo Hội La Mã và phá tan hệ thống quyền lực của Tòa Thánh Vatican. Dưới đây là những biện pháp này:

i.- Truất bỏ chế độ đạo phiệt Da-tô làm tay sai cho Giáo Hội..

ii.- Tịch biên toàn bộ tài sản của Giáo Hội La Mã tại nước Pháp.

iii.- Tước bỏ tất cả mọi đặc quyền đặc lợi dành cho Giáo Hội La Mã và giai cấp tu sĩ Gia-tô.

iv.- Tách rời giáo quyền (tôn giáo) ra khỏi thế quyền (chính quyền).

v.- Ban hành một hiến chế dân sự cho giới tu sĩ, trong đó tu sĩ được coi như là bình đẳng với tất cả người dân khác và phải có nghĩa vụ đối với đất nước, phải trung thành với hiến pháp và nước Pháp, chứ không phải trung thành với Tòa Thành Vatican hay Giáo Hội La Mã. Việc này đưa đến việc thiết lập một giáo Hội Pháp tách rời khỏi Giáo Hội La Mã giống như Giáo Hội Anh được thành lập và giữa thập niên 1530.

vi.- Tước bỏ hết tất cả mọi đặc quyền đặc lợi dành cho giới qúy tộc,

vii.- Xòa bỏ tất cả mọi tục lệ phong kiến.

viii.- Xóa bỏ tất cả mọi bất công trong xã hội để thực thi lý tưởng bình đẳng (trong xã hội) tự do (cho nhân dân) và bác ái (đối với tất cả mọi người, chứ không phải chỉ đối với “dân Chúa” mà thôi).

ix.- Ghi vào hiến pháp điều khoản “tách rời tôn giáo ra khỏi chính quyền”.

x.- Trừng phạt nghiêm khắc những phần từ cuồng tín, ngoan cố, không chịu phục thiện, vẫn tiếp tục vâng phục các đấng bề trên của họ chống lại chính quyền của nhân dân trong ý đồ bơi ngược dòng lịch sử phục hồi chế độ cha cố thần phục Tòa Thánh Vatican.

Những biện pháp cứng rắn này đã được nhân dân Pháp, một trong những dân tộc nạn nhân lâu đời nhất của Giáo Hội La Mã, tiên phong cương quyết triệt để thi hành trong thời Cách Mạng Pháp 1789. Một trong những biện pháp cứng rắn này được sách sử ghi lại với nguyên văn như sau:

"Trước hết, nước Pháp mà Giáo Hoàng Pius VI (1775-1799) thường gọi là "người trưởng nữ của Giáo Hội" đã xóa bỏ toàn bộ tôn giáo, đưa nhà vua lên đọan đầu đài, chính thức tôn vinh thần Lý Trí lên ngôi chí tôn, tàn sát 17 ngàn linh mục, 30 ngàn nữ tu và 47 giám mục, tất cả các tu viện, các dòng tu và các trường học của Giáo Hội đều bị giải thể, tất cả các thư viện của Giáo Hôi đều bị thiêu rụi, chính quyền Paris còn ban hành quyết định ra lệnh cho Tướng Bonaparte (Sau này là Hòang Đế Napoléon i) "đem quân đi "giải phóng nước Ý", "có toàn quyền hành động" "hủy diệt Rome và chế độ Giáo Hòang". Tháng 5 năm 1796, trước khi tiến vào kinh thành Rome, Tướng Bonaparte tuyên bố, "Chúng tôi là những người bạn của con cháu Brutus (một anh hùng của dân tộc La Mã) và dân Scipios. Ý muốn của chúng tôi là phục hồi điện Capitol và giải phóng nhân dân La Mã thóat khỏi thân phận nô lệ tôi đòi."

Quân Pháp tiến vào chiếm kinh thành Rome và nước Ý. Hòa Ước Tolentino được ký kết giữa Tướng Bonaparte và Giáo Triều Vatican. Đây là một sự sỉ nhục cho Tòa Thánh Vatican. Giáo Hội phải nộp cho nước Pháp một khoản tiền là 46 ngàn đồng scudi (tiền Vatican) trả làm ba hạn kỳ (Giáo Hòang Pius VI phải đem các đồ trang trí bằng vàng và bằng bạc ra đúc tiền để trả cho Pháp), 100 món đồ nghệ thuật và 500 tác phẩm hiếm bị tịch thu mang về Pháp; tất cả các hải cảng nằm trong lãnh thổ của Tòa Thánh Vatican phải mở cửa cho hạm đội Pháp làm căn cứ tru quân, phải từ bỏ tất cả tài sản của Giáo Hội ở trong lãnh thổ các nước Ý, Pháp, Naples, và Sicily ... tất cả mọi nơi. Giáo Hòang Pius VI than thở, "Hòa Ước! Tệ quá đi! Quân đội Pháp chiếm đóng Vatican và Quirinal, truất phế Giáo Hoàng Pius VI và thiết lập nước Cộng Hòa La Mã...."

Nguyên Văn: "First, France, "eldest daughter of the church "he used to call it, abolished all religion, beheaded its king, enthroned Reason officially as supreme deity, massacred over 17,000 priests and over 30,000 nuns as well as forty-seven bishops, abolished all seminaries, schools, religious orders, burned all churches and libraries, then sent the Corsian Bonaparte to liberate italy and Rome." "Just as you please," wrote the Paris government to the Corsian. "Destroy Rome and the papacy utterly " "We are the friends of the descandants of Brutus and the Scipios... Our intention is to restore the Capitol to free the Roman people from their long slavery," The Corsian declared in May 1796, just before taking Rome.

Then the capture, and the humiliation of the Peace of Tolentino between the papacy and the Corsian: a ransom of 46,000 scudi in three installement (Pius melted down all available silver and gold ornaments); 100 objects d'art and 500 rare manuscripts from Vatican; the opening of all papal harbors to the French fleet; renunciation of all property in italy and France and Naples and Sicily - everywhere. "They made us their prisoner Spina," mutters Pius. "Peace treaty! Bah!" The Vatican and Quirinal were occupied by French troops. They deposed Pius, and created the republic of Rome....")[11]

Nhờ có những phong trào chống lại Giáo Hội La Mã và chống lại các thế lực bảo thủ phong kiến phản động khác liên minh với Giáo Hội La Mã, nhờ có những biện pháp cứng rắn để trừng trị Giáo Hội và bọn tín đồ cuồng tín ngoan cố như trên mà nhân loại mới có thể được tự do đưa ra được những tư tưởng cao đẹp và phát minh khoa học, nhiên hậu làm cho loài người càng ngày càng tiến mạnh như ngày nay. (Các phong trào này đã được trình bày đầy đủ với rất nhiều chi tiết trong Phần VI với tựa đề là Phong Trào Phản Kháng Giáo Hội La Mã của Nhân Thế Giới của bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã.)

 

KẾT LUẬN

 

Tất cả những chuỗi sự kiện trên đây đều xa lạ đối với những người không học lịch sử thế giới. Người Trung Hoa có câu nói “vọng tự như manh, thính thư như tủng”. Những người không học quốc sử và cũng không học lịch sử thế giới có thể được gọi là những người “vọng sử như manh” và “thính sử như tủng”. Nếu chúng ta gọi những trẻ em mồ côi không biết gia phả hay không biết nguồn gốc gia đình của chúng là “những đứa con hoang trong xã hội”, nếu chúng ta gọi những người không học quốc sử của đất nước của họ là “những đứa con hoang trong cộng đồng dân tộc”, thì chúng ta cũng có thể gọi những người không học lịch sử thế giới là “những đứa con hoang trong cộng đồng nhân loại”.

Vịệc Giáo Hội chủ trương thi hành chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ (trong đó môn sử thế giới và môn quốc sử bị cắt xén, phần còn lại bị bóp méo và được diễn dịch theo ý muốn của Giáo Hội) với chủ tâm biến tín đồ Da-tô và nhân dân dưới quyền (trong các chế độ đạo phiệt Da-tô) thành những người vừa giống như “những đứa con hoang trong cộng đồng dân tộc” (vì không thấu hiểu quốc sử hay biết sai lạc) và cũng là “những đứa con hoang trong cộng đồng nhân loại” (vì không biết gì lịch sử thế giới hay biết sai lạc), vừa ngu xuẩn, không biết sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật. Có như vậy thì họ mới không nhìn ra những rặng núi tội ác của Giáo Hội trong gần hai ngàn năm qua. Có như vậy thì họ mới tin rằng những chuyện bố láo như chuyện ông bà tổ của loài người là hai cục đất sét do ông Chúa Bố Jehovah nặn ra rồi hà hơi vào mà thành cặp vợ chồng đầu tiên (ông bà tổ) của nhân loại. Có như vậy thì họ mới tin vào những thuyết lý bịp bợm như thuyết lý “tội tổ tông”, thuyết lý “chúa ba ngôi” thuyết lý về “vai trò cứu rỗi” của ông Jesus mà Giáo Hội gọi Chúa Ki-tô. Có như vậy thì họ mới tin bà già xề Maria là “Đức Mẹ Đồng Trinh” của họ (đã được trình bày khá rõ ràng trong chương sách có tựa đề là Ngô Đình Diệm: Con Người Va Tội Ác, và đã được đưa lên sachhiem.net). Và có như vậy thì họ mới tin vào thuyết lý về bẩy phép bí tích, v.v… của Giáo Hội.

 

Chính vì tình trạng này mà tất cả tín đồ Da-tô và những người đã tiếp nhận nền học vấn qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ do Giáo Hội La Mã chủ trương đều không biết gì về lịch sử thế giới và cũng không biết gì về quốc sử. Hậu quả của tình trạng này đã khiến cho họ mỗi khi đề cập đến vấn đề gì có liên hệ đến lịch sử là họ loạng quạng, viết ẩu, viết càn, viết láo, viết bạt mạng, bóp méo hay xuyên tạc sự thật lịch sử để hoặc là chạy tội cho Giáo Hội La Mã, chạy tội cho bọn tín đồ Da-tô phản quốc bản địa, hoặc là để tâng bốc Tòa Thánh Vatican như chúng ta đã thấy họ tâng bốc Tòa Thánh một cách vô cùng trơ trẽn, trơ trẽn đến nỗi “có những linh mục nói rằng “Tòa Thánh đánh rắm cũng khen thơm thơm.”(Nhiều tác giả, Tại Sao Không Theo Đạo Chúa - Tuyển Tập 2 (Spring, TX: Ban Nghiên Cứu Đạo Giáo, 1998), tr 116, và tâng bốc tín đô Da-tô bản địa làm tay sai đắc lực cho Giáo Hội La Mã. Bằng chứng rõ ràng nhất cho sự kiện này là những trường hợp ông Da-tô Lữ Giang viết trong cuốn, Những Bí Ẩn Lịch Sử Đàng Sau Cuộc Chiến Việt Nam (Califirnia, 1999), Nguyễn Văn Chức viết trong cuốn Việt Nam Chính Sử (Falls Church, VA: Alpha, 1992) Linh-mục Vũ Đình Hoạt viết trong cuốn bố sách Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan (Falls Church, VA: Alpha, 1991), Nguyễn Gia Kiểng viết cuốn Tổ Quốc Ăn Nặn (Pháp”: TXB, 2001), nhóm ông Lê Hữu Mục, Nguyễn Gia Đệ, Bằng Phong, Phạm Xuân Thu và Trần Trung Lương viết cuốn Trần Lục (Montréal, Canada, TXB,, 1996), nhóm các ông Diên Dương Nghị, Nguyễn Châu, Lương Văn Toàn, Lê Hữu Phú và Hoàng Đức Phương viết cuốn Việt Nam: Cuộc Chiến Tranh Quốc Gia- Cộng Sản (Santa Clara, CA: Nhân Chứng, 2002), nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn tuyên bố bậy bạ trong cuốn băng văn Nghệ Paris By Night 81 và viết trong cuốn Xóm Đạo (Đông Kinh, Tân Văn, 2003), v.v….


CHÚ THÍCH

[1] Nguyễn Hiến Lê, Đời Viết Văn Của Tôi (Wesminster, CA:Văn Nghệ, 1986), tr. 99-101.

[2] Trần Quý, Lòng Tin Âu Mỹ Đấy! (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1993), tr. 132-133.

[3] Báo Giang Sơn Số 109, ra ngày 31/7/1950 – Quang Toàn & Nguyễn Hoài, Những Hoạt Động Của Bọn Phản Động Đội Lốt Thiên Chúa Giáo Trong Thời Kỳ Kháng Chiến 1945-1954 (Hà Nội, Nhà Xuất Bản Khoa Học, 1965), tr. 18.

[4] Nguyên Vũ, Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 -Tập A: 1939-1946 (Houston, TX: Văn Hóa,  1996), tr. 295.

[5] Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 4 (Paris: Nam Á. 2002)., tr. 2076.

[6] Bùi Đức Sinh, Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo - Phần Nhì (Sàigòn: Chân Lý,1972), tr. 1965

[7] Nghiêm Kế Tổ,  Việt Nam Máu Lửa, Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1989), tr. 89.

[8] Nguyễn Ngọc Ngạn,Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật Bản: Tân Văn, 2003), tr. 355).

[9] J. E. Bosher, The French Revolution (New York, W.W. Norton Company, 1988), p. 155.

[10] Arnold Schrier & T. Walter Wallbank, Living World History (Glenview, Illinois, 1974), p. 398.

[11] Malachi Martin, The Decline And Fall Of The Roman Church (New York: Putnam ’s, 1981) pp. 232-233.

 

Trang Lịch Sử