Các Bác Cờ Vàng Nên Cám Ơn Việt Cộng

Các Bác Cờ Vàng Nên Cám Ơn Việt Cộng?

Giang Thượng

http://sachhiem.net/THOISU_CT/ChuG/GiangThuong_304.php

03-May-2021

Kể từ nay đề nghị các bác nên lấy ngày 30 tháng Tư làm ngày LỄ Tạ ƠN (Thanksgiving) Đảng Cộng Sản Việt Nam. Và hãy tự hào về Đất Nước Việt Nam Quang Vinh, cũng như hãnh diện được làm con dân nước Việt.

Tại sao lại có ý tưởng kỳ cục như thế này? Ai cũng biết các bác cờ vàng là những người căm thù cộng sản thâm căn cố đế. Từ ngày sang Mỹ đến giờ các bác là những người cầm cờ đi đầu trong các cuộc biểu tình chống cộng mỗi khi có một chính khách Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ hay có một sự cố tại Việt Nam như cá chết, cây chết hay bắt phản động.. để tố cáo với thế giới sự độc tài của Cộng sản vô thần: “Hèn với giặc, ác với dân!”. Với một thể chế như thế thì làm sao các bác cờ vàng phải cám ơn? Xin quý vị bình tâm theo dõi.

 

Học Tập Cải Tạo:

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cả triệu lính Việt Nam Cộng Hòa phải trình diện để đi học tập cải tạo. Với những người lính quèn thì chỉ học vài tuần rồi trở về cuộc sống cũ. Còn sĩ quan thì từ vài năm đến cả chục năm tùy theo cấp bậc và tội trạng. Các bác than phiền là đi tù chứ học tập gì, thời gian quá lâu, ăn uống cực khổ, phí phạm nhân tài của đất nước!

Chính sách “Học Tập Cải Tạo” là một chính sách nhân đạo của nhà cầm quyền cộng sản. Thay vì tiêu diệt hết quân thù như các bác thường rêu rao trước ngày giải phóng là “Cộng sản sẽ tắm máu quân dân miền Nam”. Thế nhưng việc tắm máu không xảy ra. Vì lãnh đạo cộng sản quan niệm các bác chỉ là nạn nhân của chế độ Mỹ Ngụy mà thôi. Ngay cả người có nợ máu với nhân dân như tướng Lê Minh Đảo cũng được đi học tập cải tạo và sau khi mãn hạn được định cư tại Hoa Kỳ. Chắc quý vị còn nhớ trận Xuân Lộc từ 9 đến 20 tháng 4, 1975. Tướng Đảo đã cho nổ 2 quả bom CBU giết hàng chục ngàn dân vô tội trong những ngày cuối cuộc chiến!

Các bác bảo đây là giam tù chứ học tập gì! Trại tù khác với trại học tập. Tù nhân thì bị giam giữ gông cùm trong các xà lim. Các bác có bị đối xử như thế không? Hay là các bác ban ngày được ra ngoài làm việc, tối mới về trại?

Các bác than là thời gian giam cầm kéo dài quá lâu. Trong lúc mới giải phóng, tình hình đất nước chưa ổn định, quân Pôn Pốt chém giết dân lành ở biên giới Tây Nam; quân Trung Quốc đánh phá phía Bắc; dân Công Giáo nổi loạn ở nhà thờ Vinh Sơn, Dòng Đồng Công..; Mỹ và đồng minh cấm vận, CIA âm mưu lật đổ chính quyền Việt Nam với Mặt Trận Hoàng Cơ Minh... Trong tình hình rối ren như thế thù trong giặc ngoài, nếu không giữ các bác trong trại học tập thì đó là mối nguy cho chế độ. Hơn nữa phần lớn các bác đều có nợ máu với nhân dân, do đó giữ các bác trong trại là biện pháp giữ an ninh cho các bác.

Các bác than là phí phạm nhân tài. Nhà nước Việt Nam có chính sách thâu dụng nhân tài cho công cuộc tái thiết đất nước như mời Phó Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Xuân Oánh làm cố vấn kinh tế, giáo sư Võ Tòng Xuân đặc trách về nông nghiệp.. Nếu các bác có tài và thành tâm muốn phục vụ đất nước thì chắc chắn các bác đã được trọng dụng. Còn chuyện nuôi ong tay áo thì chẳng ai dám làm trong tình thế thù trong giặc ngoài. Bây giờ tuy đang ở Mỹ nhưng các bác vẫn còn thù hận đất nước thì nói gì ngày trước. Ai bảo đảm là các bác lúc đó không bị Hoa Kỳ xúi giục, Trung Cộng mua chuộc để nổi loạn? Có tài mà không có tâm thì chỉ là mối hại cho đất nước, Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc, Hoàng Văn Hoan, Hoàng Cơ Minh… là những minh chứng.

Các bác than là cuộc sống quá kham khổ, phải ăn bo bo. Đó là tình trạng chung cho cả đất nước chứ chẳng riêng gì các bác ở trong trại. Tuy lúc đó Việt Nam đang ở trong tình trạng khó khăn, bị Mỹ cấm vận, ngoại viện không còn, đất nước đổ nát; thế nhưng nhà nước vẫn cung cấp những nhu cầu vật chất tối thiểu cho các bác. Các cán bộ quản giáo ăn uống còn kham khổ hơn các bác nhiều vì các bác còn có gia đình tiếp tế và ở trong trại các bác còn được trồng trọt chăn nuôi để cải thiện khẩu phần ăn hàng ngày. Hơn nữa mình là kẻ thua trận, phía thắng trận không giết là phúc ba đời rồi, còn đòi hỏi này nọ có phải là “ăn mày đòi xôi gấc” không, thưa quý bác?

Nếu các bác so sánh tình trạng của mình với số phận của các tù binh Quốc Dân Đảng của Trung Quốc khi bị Mao Trạch Đông đưa ra trận địa, bắt làm bia đỡ đạn trong cuộc chiến Triều Tiên; hay Pôn Pốt đã giết hết mấy triệu người của chế độ cũ tại Cam Bô Chia; hay Mỹ và Đồng Minh đã giết phần lớn các quan chức của Phe Trục Đức Ý Nhật, và cho đến ngày nay vẫn còn truy lùng những cộng sự của Hitler, thì các bác sẽ đời đời “kết cỏ ngậm vành” tri ân sâu xa lòng nhân từ độ lượng của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã THA CHếT cho các bác.

Giả sử nếu năm 1975, miền Nam chiến thắng miền Bắc thì số phận của các cán bộ cộng sản ở miền Bắc và Việt cộng ở miền Nam sẽ ra sao? Điều chắc chắn mà ai cũng biết là nếu họ không bị giết thì cũng tù rục xương. Vì trong chiến tranh lính Công Giáo đã từng ăn gan chiến binh cộng sản, huống gì trong thời bình ở cương vị chiến thắng? Do đó các bác được  học tập cải tạo là một ân huệ. Đây là cái ơn thứ nhất: Ơn Tha Mạng.

 

Chương Trình HO (Humanitarian Operations: Chương Trình Nhân Đạo):

Từ năm 1990 Việt Nam đã hợp tác với Mỹ để đưa các bác sang Hoa Kỳ định cư, nếu muốn, trong Chương Trình HO. Điều kiện của Mỹ lúc đầu chỉ nhận những người đã học tập bảy năm. Việt Nam không chịu, muốn Mỹ nhận hết mấy triệu lính và thương phế binh. Cuối cùng họ đồng ý là nhận từ ba năm trở lên. Có bác bị thiếu vài tháng không được đi thì tiếc vô cùng. Có người phát biểu nếu biết thế thì xin ở lại trại thêm vài tháng nữa để đủ tiêu chuẩn đi Mỹ. Như thế Học Tập Cài Tạo là ân huệ, là cơ hội, chứ có phải đày đọa đâu? Sở dĩ có chương trình này là phía Mỹ họ cảm thấy lương tâm cắn rức khi họ bỏ rơi các bác năm 1975, do đó bây giờ tìm cách vớt vác. Phía Việt Nam nhận thấy các bác không hòa hợp được với hoàn cảnh mới của đất nước. Thôi thì ai muốn đi đâu thì đi, nhà nước tôn trọng sự tự do của các bác. Chứ nếu nhà nước muốn đày đọa các bác, họ không hợp tác với chương trình HO thì chẳng ai làm gì được. Còn những người bạn của các bác không đi Mỹ bây giờ cũng ăn nên làm ra, con cái thành đạt.

Vấn đề sang Mỹ định cư là một mơ ước của dân các nước nghèo. Họ tốn biết bao nhiêu tiền của và công sức mà chưa chắc đã được Mỹ chấp nhận. Ví dụ đi bằng đường kinh doanh phải có trong ngân hàng ít nhất nửa triệu đô; đi bằng đám cưới giả phải chi tối thiểu là bảy chục ngàn; vượt biển thì phải có vàng và may rủi; còn dân Mễ vượt biên thì chịu bao khổ nhục vì kỳ thị. Ngay cả nhiều bác cờ vàng bây giờ cũng kỳ thị dân Mễ, nói gì dân da trắng!

Còn các bác sau khi học tập cải tạo về, có ngay visa và vé máy bay sang Mỹ. So với những người di dân khác, các bác là những người “đẻ bọc điều”, chỉ học tập vài năm là đủ điều kiện định cư. Việc này thành tựu được là nhờ chính sách nhân đạo của nhà nước Việt Nam đã đấu tranh với Mỹ cho các bác được định cư. Đây là cái ơn thứ hai: Cho Đi Mỹ.

 

Vinh Thân Phì Gia:

Từ khi sang Mỹ, các bác cố lao động để kiếm sống “hy sinh đời bố, củng cố đời con”, các bác theo phương châm đó của nhà nước để nuôi sống gia đình. Nhờ sự nổ lực cần cù, cuộc sống ổn định, con cái được vào học tại các trường của Mỹ. Điều mà tất cả học sinh trên thế giới mơ ước. Gia đình họ phải chi phí hàng năm mấy chục ngàn đô la để cho học sinh xuất sắc du học, còn các bác thì không tốn đồng nào. Ngày nay con cái của các bác nhiều người đã thành tài. Nếu nhà nước Việt Nam không tạo điều kiện dễ dàng cho các bác đi định cư thì làm sao quý bác có ngày nay. Trong lúc quê hương đang trong hoàn cảnh nguy khốn, thù trong giặc ngoài, đất nước tan nát, kinh tế lụn bại; tuy đang cần nhân lực cho công cuộc bảo vệ và tái thiết xứ sở nhưng nhà nước vẫn để cho các bác ra đi về vùng đất hứa. Đây là cái ơn thứ ba: Con Cái Thành Đạt.

 

Khúc Ruột Ngàn Dặm:

Người Việt ai cũng nhớ cội nhớ nguồn, thương quê cha đất tổ. Hiểu rõ tâm trạng của các bác như thế nên nhà nước tạo cơ hội cho các bác giúp đỡ gia đình, bà con họ hàng trong nước. Có người xấu mồm xấu miệng bảo gởi tiền về nuôi Việt Cộng! Các bác gởi tiền về nuôi gia đình, nuôi bà con của các bác, chứ có gởi cho cộng sản đâu? Không lẽ bà con của các bác là cộng sản hết. Thật vô lý. Vì quá rõ điều này nên bà con gởi tiền về giúp gia đình càng ngày càng nhiều.

Ngoài chuyện gởi tiền, nhà nước còn tạo cơ hội, cấp visa để quý bác về thăm quê cha đất tổ. Hiểu rõ tâm trạng của người sống xa quê, lúc nào cũng đau đáu nghĩ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, Trong tình dân tộc nghĩa đồng bào, nhà nước đã giang tay chào đón những người con xa xứ. Trong tình nhân đạo giữa con người và con người, nhà nước đã tạo điều kiện cho mối thân thuộc trong ngoài được nối kết. Tuy nhà nước biết rất rõ các bác ở Mỹ vẫn ra rả chưởi cộng sản và cầm cờ ba sọc đi biểu tình chống chính quyền Việt Nam. Nhưng nhà nước không quan tâm vì họ hiểu rằng số người chống đối thật sự chỉ là thiểu số (1%). Đại đa số chỉ hùa nhau màu mè cho xong chuyện “thương cha chớ chọc ăn mày” để tránh bị chụp mũ cộng sản và để được danh nghĩa “tỵ nạn chính trị”. Hơn nữa khi các bác hò hét đả đảo là để “xả xú bắp” cho tâm trí bớt căng thẳng trong cuộc sống lưu đày buồn thảm từ địa vị “ăn trên ngồi trốc” ngày xưa bây giờ phải lao động trong hãng xưởng! Nghĩa là chống cộng cho khỏi điên. Đây là cái ơn thứ tư: Nối Kết Tình Thân.

 

Mối Duyên Xa Xăm:

Sau khi cuộc sống đã ổn định, con cái đã lớn. Bây giờ là lúc dựng vợ gã chồng cho con cái. Từ khi sang Mỹ đến giờ, cả nhà đầu tắt mặt tối, cha mẹ lo làm, con cái lo học. Tụi nó đứa thì học được, đứa không; tiếng Anh tiếng U cũng đại khái. Bây giờ muốn lập gia đình với người Mỹ cũng khó vì ngôn ngữ và văn hóa khác biệt. Nói chuyện với nhau dùng động từ “tu quơ” là chính. Không lẽ vì trở ngại đó mà bắt tụi nó ở “giá” thì tội nghiệp quá. Lấy Mỹ trắng thì vớ không tới, còn Mỹ đen thì dân ta vốn không ưa. Tôi nhớ những anh đực rựa vượt biên trong những năm 80, thì đành chịu chết. Vì đa số người vượt biên là đàn ông con trai, còn đàn bà con gái lúc đó rất hiếm. Nhà ai có con gái như bắt được vàng. Các ông gia bà gia tương lai này kén cá chọn canh đủ kiểu. Anh nào vớ được các cô này cũng trầy da tróc vảy. Các cô xấu xí ế ẩm sang đây đều được liệt vào loại hàng quý hiếm. May thay trong lúc tuyệt vọng đó thì nhà nước có chính sách phát triển du lịch và quan hệ với Mỹ cũng cởi mở hơn. Kiều bào có thể về quê thăm thân nhân, cũng như kết hôn, đoàn tụ. Nhờ chính sách này mà nhiều cặp tình nhân dang dỡ được tái hợp, nhiều mối tình thời học trò được tiếp nối, và các bác “trâu già muốn gặm cỏ non” cũng thừa thắng xông lên. Đây là cái ơn thứ năm: Cho Kết Hôn.

 

Kinh Doanh Điền Thổ

Sau mấy chục năm sinh sống tại hải ngoại, đa số người Việt đã “an cư lạc nghiệp”. Tiền bạc rủng rỉnh, nhưng chỉ gởi ngân hàng hay mua vàng vì không quen kinh doanh tại Mỹ. Trong những năm gần đây nhiều Việt Kiều có nhu cầu làm ăn tại quê nhà, những người này đã mua nhà, cũng như kinh doanh điền thổ. Điều này sở dĩ hiện thực là nhờ vào chính sách thông thoáng của chính phủ về vấn đề quốc tịch. Quốc Hội Việt Nam đã quy định những người nào sinh tại Việt Nam đều là công dân Việt Nam. Nhờ quy định này nhiều Việt Kiều đã có hộ chiếu Việt Nam cũng như quyền công dân. Từ đó có thể dứng tên tạo mãi nhà đất. Trước đây trong giai đoạn đất nước khó khăn về kinh tế, bất ổn về an ninh, chiến tranh biên giới đang tiếp diễn thì người nước ngoài kể cả Việt kiều phải chịu những quy định khắc khe. Lúc đó không ai được phép đứng tên mua nhà. Nếu có mua họ phải nhờ bà con đứng tên hộ. Thế nhưng hậu quả cay đắng, Việt kiều mất trắng tài sản. Biết được tệ trạng đó, nhà nước đã ban hành quy định mới để mọi người Việt sinh sống tại nước ngoài đều có quyền sở hữu tài sản tại Việt Nam. Đây là cái ơn thứ sáu: Cho Quốc Tịch.

 

Lá Rụng Về Cội

Từ năm hai ngàn đến nay, có nhiều Việt Kiều đã hồi hưu và hồi hương. Vì nhiều lý do: cuộc sống buồn bã tại xứ người, tiền hưu không đủ sống, khí hậu lạnh lẽo, bị đối xử phân biệt, nhớ nước, nhớ quê.. Đất nước với con người như có một sự ràng buộc linh thiêng. Cho dầu đi đâu ở đâu, người Việt luôn nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Giọng nói mộc mạc, câu hò tiếng hát, hương vị đặc sản quê hương là những gì thân thiết nhất trong cuộc sống mà không ai có thể thiếu được. Như con cá hồi (salmon), sau khi sinh ra, lang thang ra biển để sống, đến lúc trưởng thành chúng quay trở về nơi sinh ra để đẻ trứng rồi chết. Tâm trạng người Việt tha hương cũng thế, lúc trẻ bôn ba xứ người, lúc già cũng muốn về quê an dưỡng “vui thú điền viên” và gởi lại nắm xương tàn trong lòng đất mẹ. Từ sự ràng buộc thiêng liêng đó đã thôi thúc dân Việt tìm về cố hương. Hơn nữa từ sau bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2020, nạn kỳ thị á Châu gia tăng, dịch bệnh hoành hành, do đó rất nhiều người Việt muốn trở về quê hương để “tỵ nạn” kỳ thị và tránh dịch. Từ đó mọi người nhận ra rằng không đâu hạnh phúc bằng quê mình: “Ta về ta tắm ao ta, Dầu trong dầu đục ao nhà vẫn hơn”. Vòng tròn của đời người được khép lại, chiếc lá lìa cành để trở về cội gốc của nó. Việt Nam vẫn luôn là nơi trú ẩn an toàn cho dân Việt, như gà mẹ dang rộng đôi cánh che chở cho gà con khi bị lâm nguy. Nhà nước Việt Nam cũng thế lúc nào cũng hoan nghênh giúp đỡ kiều bào hồi hương. Đây là cái ơn thứ bảy: Sự Che Chở.

 

Thương Cội Nhớ Nguồn

Mỗi người ai cũng có gốc rễ của mình. Gốc có vững thì cây mới lớn mạnh được. Như cây trong vườn, mỗi cây có một bản chất từ đó đơm hoa kết trái. Còn những cây mất gốc thì không thể tồn tại lâu bền được. Tại hải ngoại phần lớn những người trẻ thường rơi vào tâm trạng bơ vơ: Mỹ cũng không phải Mỹ, Việt cũng chẳng phải Việt. Họ như những cô hồn vất vưởng đói khát những thức ăn về tinh thần, về văn hóa. Những em nói được tiếng Việt còn cảm thấy đỡ tủi thân, còn những em không biết tiếng Việt thì hoàn toàn lạc lỏng trong trạng thái vong bản. Cha mẹ nhiều khi không ý thức được nỗi khổ đó. Các em lớn lên trong sự què quặt về văn hóa và mất tự tin trong cuộc sống. Tôi biết có những em lớn lên tại nước ngoài nhưng tìm cách về Việt Nam để học tiếng Việt, để yêu thương quê hương Việt Nam. Các em làm thế để tìm sự bù đắp cho những thiếu thốn về văn hóa, tâm linh, lòng tự tin, tự tôn và tự hào về gốc gác tổ tiên dòng họ, về đất nước hào hùng, về dân tộc bất khuất. Đây cũng là lý do tại sao cha mẹ thì chống cộng, còn con cái thì theo cộng “con hơn cha là nhà có phúc”. Quyết định bỏ nước ra đi là quyết định của quý vị, nhưng đừng chặt đứt gốc rễ của con cháu. Vì nếu làm như thế quý vị đã chặt đứt mạch nguồn văn hóa tâm linh trong đời sống tinh thần của con cháu. Cho dầu các em Mỹ hóa đến đâu cũng không trở thành Mỹ trắng khi màu da nước tóc của các em không thay đổi. Nếu quý vị giữ được gốc Việt vững bền trong các em, thì các em sẽ sống mạnh, sống khỏe, phát triển bền vững từ vật chất đến tinh thần. Con cháu quý vị sẽ không bị mất gốc. Gốc rễ đó chỉ tìm thấy tại quê hương, nơi quê cha đất tổ. Đây là cái ơn thứ tám: Cội Nguồn Quê Mẹ.

 

Kết Luận:

Qua những phân tích trên chúng ta thấy về phương diện cá nhân các bác chịu nhiều ân nghĩa của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Như thế tại sao các bác vẫn chống cộng? Có phải vì bị đi học tập cải tạo? Được đi học tập là một ân huệ lớn như đã phân tích ở trên. Hay là trong gia đình có người bị cộng sản giết? Cuộc chiến Việt Nam đã tiêu hao đến bốn triệu con người tại hai miền, không có gia đình nào không có người chết trong chiến tranh. Nếu miền Nam căm thù miền Bắc và miền Bắc căm thù miền Nam thì đến bao giờ hận thù mới chấm dứt? Con cháu chúng ta tội tình gì phải tiếp tục gánh chịu những oan nghiệt đó?

Tôi nhớ câu chuyện Quan Công đòi trả đầu. Vào một đêm rằm, thiền sư Phổ Tịnh đang tĩnh tọa, bỗng nghe trên không oan hồn Quan Công đang cởi ngựa cầm đao la hét: “Hãy trả đầu cho ta!”.  Phổ Tịnh gọi Quan Công xuống và nói: “Thế còn đầu Nhan Lương, Văn Xủ, và năm vị tướng thủ thành bị ngài chém chết (lúc Quan Công bỏ Tào Tháo về với Lưu Bị) thì ai đòi?” Quan Công tỉnh ngộ và xin quy y Phật.

Các bác thù Cộng Sản vì Cộng Sản vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo. Định nghĩa cộng sản tam vô là định nghĩa của Cần Lao Công Giáo trong thời chiến tranh cho mục đích tuyên truyền. Bây giờ nếu các bác nhìn các cán bộ Cộng sản từ nhỏ đến lớn ai cũng có gia đình, cũng có tín ngưỡng và đều yêu nước thì lý thuyết tam vô không có chỗ đứng. Có thể nói nhiều cán bộ cộng sản có niềm tin tôn giáo và yêu nước sâu sắc hơn một số những người gọi là tướng tá, quan chức chính quyền miền Nam trước đây. Khi sang Mỹ, họ sẳn sàng vì một vài lợi ích vật chất nhỏ nhoi mà đạp đổ lư hương bát nước của tổ tiên dòng họ, bỏ đi lòng tự trọng để “rửa tội” làm tín đồ tà đạo!

Các bác đòi “phục quốc”? Nước có mất đâu mà phục quốc, có mất chăng là mất chế độ tay sai miền Nam. Các bác đòi lật đổ chính quyền cộng sản! Các bác lấy gì mà lật? Ngày xưa một triệu lính Việt Nam Cộng Hòa và trên nửa triệu lính Mỹ không thắng được cộng sản, thì bây giờ làm sao mà lật? Các bác hy vọng là Mỹ sẽ lật giùm rồi bồng các bác về đặt lên ngai vàng! Các bác nghĩ  Mỹ có làm như thế không? Đặt trường hợp quý bác có lực lượng quý bác có lật giùm cho ai không? Thật ảo tưởng! Giả dụ cộng sản bị lật rồi ai sẽ về lãnh đạo đất nước? Nếu mấy bác cờ vàng chống Cộng bên này về lãnh đạo thì đất nước sẽ tan nát và dân tộc rơi vào vòng nô lệ. Vì ngay một cái cộng đồng nhỏ xíu bên này còn bị các bác chụp mũ, đánh nhau chí chóe, huống gì một đất nước? Thật ra chuyện chống cộng chỉ là ảo tưởng ngụy tạo cho mình một chính nghĩa để gây quỹ lừa tiền dân nhẹ dạ mà thôi!

Còn cái “cờ vàng” mà quý bác tôn thờ lâu nay là cái cờ đã khiến nước Mỹ thua trận nhục nhã. Các bác ngây thơ cứ hãnh diện trưng ra để ghi công với bu, nhưng quý vị không hiểu là quý vị làm thế chỉ khơi lại sự đau thương tủi nhục của nước Mỹ. Nếu hiểu xuất xứ nô lệ của lá cờ đó các bác còn tiếp tục làm nhục dân tộc Việt Nam. Đầu năm nay các bác còn hồ hỡi cắm nó lên nóc tòa nhà quốc hội để biến nó thành lá cờ khủng bố và các bác trở thành quân phiến loạn! Nếu bị truy tố trục xuất, thì chỉ có Việt Nam dang tay đón nhận các bác mà thôi. Các bác suy nghĩ đi.

Bao nhiêu năm chúng ta bị nhồi sọ vì những tuyên truyền sai lầm đã bôi đen hình ảnh của Đảng Cộng Sản, cũng như phủ nhận tất cả công lao của họ đã đóng góp cho đất nước và dân tộc Việt Nam. Nếu bình tâm suy nghĩ chúng ta sẽ thấy mình chịu ơn Đảng Cộng Sản Việt Nam quá nhiều. Dưới đây là sơ lược một vài công đức nổi bật của Đảng Cộng Sản Việt Nam:

  • Sau khi Thực Dân Pháp xâm lăng Việt Nam, khắp cả nước biết bao phong trào ái quốc đứng lên đấu tranh giành độc lập từ Phong Trào Cần Vương, Văn Thân, Đông Du, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, Quốc Dân Đảng.. nhưng tất cả đều thất bại. Chỉ có Đảng Cộng Sản đã thành công trong việc đánh đuổi thực dân, đế quốc giành lại Độc Lập cho đất nước.
  • Ai đã cứu dân ra khỏi nạn đói năm 1945? Đảng Cộng Sản đã phá kho thóc của Nhật để cứu đói.
  • Ai đã làm cho nhân dân toàn thế giới nể phục với chiến thắng Điện Biên Phủ hào hùng, làm ngọn đuốc soi đường cho các dân tộc á Phi và Châu Mỹ La Tinh trong công cuộc đấu tranh giành độc lập? Đảng Cộng Sản Việt Nam.
  • Ai đã đánh thắng các đế quốc đầu sỏ thế giới như Mỹ, Pháp, Nhật, Tàu? Đảng Cộng Sản Việt Nam.
  • Ai đã duy trì văn hóa Việt Nam trước sự xâm lăng ồ ạt của văn hóa Tây Phương Thiên Chúa Giáo? Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Nếu không có Đảng Cộng Sản thì Việt Nam đã mất văn hóa tín ngưỡng như Philippines và mãi mãi chỉ là một nước nô lệ lạc hậu nghèo đói mà thôi! Nhân dân Việt Nam sẽ không bao giờ dám ngẩng cao đầu, đứng thẳng làm người.

Các bác nên nhìn lại để đánh giá đúng đắn và bày tỏ lòng tri ân đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam. Vì Cộng Sản đã tha mạng cho các bác; tạo điều kiện cho các bác được sang Hoa Kỳ vinh thân phì gia; cũng như không cắt đứt mối dây liên hệ tinh thần của các bác với quê hương. Ngày 30 tháng Tư là ngày chiến tranh chấm dứt, chế độ ngụy quyền cáo chung, đất nước thống nhất. Trong cái rủi có cái may, nhờ sự thay đổi chính thể này mà các bác có lý do để được định cư tại các nước Tây Phương, con cháu các bác được học hành thành tài.

Bây giờ các bác cũng gần đất xa trời, để được thanh thản ra đi, không hổ thẹn khi gặp tổ tiên nơi chín suối, và để cho con cháu còn tôn trọng mình, các bác hãy “quăng đao để thành Phật” thành tâm sám hối với dân tộc về những lỗi lầm mà các bác đã gây ra cho bản thân, dòng họ và đất nước.

Kể từ nay đề nghị các bác nên lấy ngày 30 tháng Tư làm ngày LỄ Tạ ƠN (Thanksgiving) Đảng Cộng Sản Việt Nam. Và hãy tự hào về Đất Nước Việt Nam Quang Vinh, cũng như hãnh diện được làm con dân nước Việt.

Tháng Tư Quang Vinh 2021.

Giang Thượng

 

Trang Lịch Sử