Mất Đi Chữ Nôm Là Một Thảm Họa!

MẤT ĐI CHỮ NÔM LÀ MỘT THẢM HỌA!

Nguyễn Văn Thịnh

Link http://sachhiem.net/NGVTHINH/NguyenvThinh_29.php

25-Nov-2019

Phải đợi đến chiến thắng vĩ đại vang dội khắp hoàn cầu của nước Nhật trong chiến tranh với Nga (1904-1905), người châu Âu mới chịu tin rằng chữ Tàu nếu học đúng phương pháp thì cũng dễ như các thứ chữ khác và không phải là một chướng ngại vật trong sự tiếp thu những tinh hoa của khoa học phương Tây. (NVT)

ĐẠI HỌC DUY TÂN (Đà Nẵng) đã quyết định thành lập “Viện vinh danh chữ “quốc ngữ”, bảo vệ và phát triển tiếng Việt”, viết tắt là “Viện bảo tồn tiếng Việt”, hoạt động dưới sự giám sát của trường ĐHDT, đặt trụ sở trong khuôn viên trường, tại số 3 đường Quang Trung, Thành phố Đà Nẵng và bổ nhiệm GS.TSKH Nguyễn Đăng Hưng giữ chức vụ Viện trưởng.

C hữ viết đóng góp phần quyết định vào nền văn minh của một dân tộc, bởi nó là điều kiện tiên quyết để bảo tồn văn hiến và xây dựng nền giáo dục quốc gia. Vì thế các chính quyền ngoại bang thống trị luôn tìm mọi cách huỷ diệt nền văn minh bản địa và quyết liệt đồng hoá người bản xứ. Chữ viết là đối tượng bị huỷ diệt trước tiên bởi nó phản ánh tư tưởng, tâm hồn của một dân tộc. Vua nhà Minh Vĩnh Lạc thứ V lệnh cho Trương Phụ: “Ta nhiều lần dụ cho các ngươi lệnh cho quân lính phàm tất cả sách vở, ván khắc chữ An Nam, một mảnh văn tự của xứ ấy kể cả mẩu giấy có chữ trẻ con làng quê mới đi học, kể cả những tấm bia xứ ấy dựng lên, hễ thấy là đốt hủy ngay, không được giữ lại, chớ bỏ xót” ( Đinh Văn Minh dịch "An Nam Chí Lược").

Thực ra người Việt đã có chữ viết riêng theo mẫu tự tượng thanh từ rất sớm gọi là chữ Việt cổ. Các nhà ngôn ngữ học đang bổ sung, củng cố những chứng cứ thuyết phục.

Ảnh: tiengvietmenyeu.wordpress.com

Vậy mà người ta cứ tin theo sách sử Tàu truyền rằng: “Sỹ Nhiếp đã mang chữ Hán về khai hoá cho dân tộc Nam man”.

Yêu cầu bảo tồn văn hóa, mở mang trí tuệ, khát vọng phục sinh dân tộc, phục hồi tổ quốc, tiêu biểu là giới trí thức mọi thời đã tạo ra một lớp người học thức tài hoa uyên bác ngoài ý muốn của kẻ ngoại bang cầm quyền. Lớp sỹ phu Đại Việt thời Bắc thuộc chế tác ra chữ Nôm hợp với thổ âm của người Việt và chỉ qua mấy thế kỷ, chữ Nôm đã có những thành tựu rực rỡ, làm nên nền văn hoá Việt Nam trung cận đại với bản sắc riêng. Đã có ai dùng chữ “quốc ngữ” vượt qua các bậc tiền nhân với chữ Nôm mà đạt tới đỉnh cao tư duy và mỹ cảm như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Công Trứ, Bà Huyện Thanh quan, Hồ Xuân Hương…?

Học giả Nguyễn Văn Vĩnh là người rất hăng hái trong công cuộc phát triển Quốc ngữ từng nói: “Kể những sách của những bậc tài Nôm nước Nam để lại mà làm nền cho quốc văn thì thực hiếm, nhưng tuy hiếm mà thực là qúy, thực là hay. Như văn Kim-Vân-Kiều mà đem vào kho tàng văn chương thế giới kể cũng xứng, chớ không đến nỗi để người An Nam mình phải hổ thẹn rằng nước không có văn”.

Chính Toàn quyền Pasquier, đứng ở góc độ văn hóa đã thừa nhận: “Các tác phẩm văn học Việt Nam, dù đậm nét dân gian hay có giá trị đỉnh cao của Nho học là một kho tàng văn hóa độc đáo, phi thường

Chữ “quốc ngữ” mà ta đang dùng hiện nay khởi nguồn từ các linh mục người phương tây, được sự hưởng ứng tận tình của những sỹ phu cải đạo bản xứ, đã sáng chế ra một dạng ký tự tượng hình sang ký tự tượng thanh đơn giản, dễ phổ cập, trước hết để các nhà truyền giáo dễ học một ngôn ngữ mới, làm phương tiện tác nghiệp để thâm nhập với cộng đồng thổ dân, nhằm mục tiêu trước mắt là rao truyền tân đạo.

Sự bành trướng của đạo Ki-tô về phía Đông gắn liền với quá trình mở mang thuộc địa, khai thác tài nguyên và thị trường giao lưu hàng hóa của chủ nghĩa tư bản phương tây. Bao giờ cũng vậy, các linh mục đi trước và theo sau là đoàn quân viễn chinh xâm lược. Ngay từ buổi đầu, hai chủ thể ấy cố kết chặt chẽ với nhau cùng bành trướng và song song tồn tại. Đúng như hoàng đế Napoléon I từng nói: “Áo nhà tu che chở và giúp họ che đậy mục đích chính trị và thương mại”. Bất kể sự diễn tiến như thế nào, kết quả đều giống nhau: “Những dân tộc Á châu mất đi hoặc một phần, hoặc toàn phần sự tự do của họ, bất cứ khi nào và ở nơi nào mà cái Thánh giá cùng cái mũ Tây phương xuất hiện” (Avro Mahattan – Chủ nghĩa đế quốc của Ki-tô giáo và sự tự do của thế giới). Giáo hội được tín đồ đồng nghĩa với Vatican mở rộng thêm vòng tay ôm trái đất. Thực dân được thuộc địa và tài nguyên.

Khi đặt được nền móng cho sự cai trị, nhà cầm quyền thực dân mới dùng “tân ngữ” vào âm mưu đồng hóa một dân tộc bất đồng ngôn ngữ. Về mối quan hệ giữa nhà nước thực dân và giáo hội Công giáo Việt Nam, như giám mục Puginier đã nói thẳng ra:


GM Paul-Francois Puginier
(1835-1892)

Không có giáo dân thì quân đội Pháp như con cua bị bẻ hết chân càng” và “Không đồng hóa chủng tộc được thì phải đồng hóa trước là ngôn ngữ và sau là văn hoá để lập nên một nước Pháp nhỏ ở Viễn Đông” (Nguồn: Alain Forrest and Yoshiharu Tsuboi, "Catholicisme et Sociétes Asiatiques", Paris: L'Harmattan, 1988). Quốc danh Việt Nam bị xóa sổ thì chữ Nôm bị bức tử!

Ý đồ hủy diệt một nền văn hóa truyền thống của một dân tộc tồn tại lâu đời ở Đông phương không dễ được thực hiện. Trước hết nó gặp sự bất hợp tác của người bản địa là lẽ đương nhiên. Đó là lý do vì sao quá trình hình thành chữ “quốc ngữ” kéo dài hơn ba trăm năm, tính từ giữa thế kỷ XVII cho đến nửa sau thế kỷ XIX, khi người Pháp hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam, nó chỉ lưu hành hạn hẹp trong giáo hội Ki-tô. Đồng thời với những quan điểm bất đồng trong giới chức thực dân cầm quyền cũng làm cản trở tiến trình.

Toàn quyền Pasquier (đọc trước Hội nghị Địa dư học – tỉnh Marseilles năm 1906) khuyến cáo các đồng sự cực đoan: “Ta không nên phá hoại bất cứ thứ gì trong tòa lâu đài văn hóa cổ xưa này. Nếu ta làm mất đi trong quên lãng, thử hỏi đó có là trọng tội?” và ông nhắc nhở: “Hãy tìm cách thích nghi, hòa nhập, chứ không phải hủy hoại, sao cho trong một thế kỷ tới người Pháp sẽ không phải chuốc lấy những lời trách cứ nặng nề rằng: Dưới chế độ tập quyền nghiệt ngã, những bản sắc đặc thù của một đất nước xa xôi đã bị tàn phá”! (Mai Bá Triều - Phạm Thị Tuyết Anh, Sự bức tử chữ Hán – Nôm)

Toàn quyền Lanessanse cũng có lời cảnh báo như là tiên tri: “Sự hủy bỏ nền giáo dục Hán-Nôm đồng nghĩa với sự hủy bỏ về giáo huấn đạo lý mà chúng ta sẽ không có gì để thay thế vào bộ môn đạo đức đã bị tiêu diệt này… Đối với học sinh An Nam, mỗi chữ viết (Hán-Nôm) đều chứa đựng ý nghĩa sâu rộng, khi đọc hoặc viết, chúng tiếp nhận được một cảm xúc mạnh. Còn sách vở của ta, họ tiếp nhận với một tâm trạng khác hẳn. Đó là những tập tục của một xã hội khác biệt với họ, các thầy giáo cũng khác ông thầy đồ – người mà họ coi có thể thay thế cha mẹ của họ”. (Mai Bá Triều - Phạm Thị Tuyết Anh, Sự bức tử chữ Hán – Nôm)


Gustave Dumoutier (1850-1904)

Ông G. Dumoutier, một nhà giáo dục học người Pháp có lương tâm ở Việt Nam từng trăn trở: “Nếu những đứa trẻ An Nam xuất thân từ các trường học của ta (Pháp), mà không biết đọc và viết chữ Hán-Nôm thông dụng, thì chúng sẽ trở thành người ngoại quốc trên chính đất nước của chúng”! (Nguyễn Văn Trường, Gustave Dumoutier: Giám đốc Học Chính Trung – Bắc Kỳ với lịch sử và văn hóa Việt Nam)

Đó là lời cảnh báo nghiêm khắc mà đến bây giờ dường như nó đang lộ diện!

Sự chống trả của giới sỹ phu bản xứ không lại được trước áp lực của chính quyền thực dân nắm trong tay cả một guồng máy khổng lồ quân sự, chính trị, kinh tế, giáo dục, khoa hoc kỹ thuật, tổ chức xã hội. Và bản chất của chủ nghĩa thực dân chỉ cần sự chiếm đóng, khuất phục và lợi nhuận; văn hoá nếu có, chỉ duy nhất một nền văn hóa chính thống mẫu quốc mà tinh hoa của nó là tinh thần “Tự do-Bình đẳng-Bác ái” thì Cụ Hồ đã sớm phát hiện ra: “Nước Pháp là một xứ sở kỳ lạ. Nó đã sản sinh ra những tư tưởng tuyệt diệu nhưng khi xuất cảng chẳng bao giờ nước Pháp cho đưa ra những tư tưởng đó”! (Báo Điện Tử, Đại Biểu Nhân Dân: Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nhà báo)

Giám mục Puginier, người cầm đầu giáo phận Hà Nội như là người phát ngôn thay cho nhà nước bảo hộ, đã không cần che đậy:


giám mục Puginier

“Sau khi đạo Thiên Chúa được thiết lập, tôi xem việc tiêu diệt chữ Nho và thay thế dần dần ban đầu bằng tiếng An nam (Quốc ngữ), rồi bằng tiếng Pháp như là phương tiện rất chính trị, rất tiện lợi và rất hiệu nghiệm để lập nên tại Bắc Kỳ một nước Pháp nhỏ ở Viễn Đông. Khi chúng ta đạt được thành quả lớn lao đó, chúng ta xóa đi của nước Trung hoa một phần lớn ảnh hưởng tại An nam và phe trí thức An nam là phe rất căm ghét sự thiết lập thế lực Pháp, cũng sẽ bị tiêu diệt dần dần”. (Cao Huy Thuần, Đạo Thiên Chúa Và Chủ Nghĩa Thực Dân, Phần III, Chương III: "Kế Hoạch của GM Puginier")

Thực hiện chủ trương dùng chữ “quốc ngữ” thay cho chữ Hán-Nôm, tờ báo tiếng Việt đầu tiên ra đời với bộ chữ in có dấu thanh được thửa ở châu Âu riêng cho nó (Gia Định báo–1865).

Nhưng “ngu dân” là chính sách nhất quán của mọi chính quyền ngoại bang đô hộ. Cần thiết chúng chỉ dạy cho người bản xứ ít chữ đủ dùng làm thư lại tay sai.

Từ đầu những năm 1920, khi nhà cầm quyền đô hộ kết họp với nhà thờ đẩy mạnh việc áp đặt dùng chữ “quốc ngữ”, một người dòng dõi nho học danh gia vọng tộc và cũng là người Việt Nam đầu tiên lấy bằng Tiến sỹ Luật khoa tại Paris là ông Phan Văn Trường (1878-1933) đã chỉ ra rằng:

Cái việc nước Tàu đang còn chậm tiến về khoa học đã làm cho nhiều người tin rằng chữ viết của Tàu vốn không giản dị như mẫu tự a, b, c… của phương Tây đã là một chướng ngại lớn cho việc tiếp thu các kiến thức khoa học Âu Tây. Nhưng họ không biết đến người Tàu đã cải tiến công việc dạy và học của họ theo những cơ sở mới. Người Tàu đã dịch ra tiếng Tàu và bình luận bằng tiếng Tàu hầu hết những tác phẩm văn học nổi tiếng của phương Tây. Nhờ đó mà có nhiều nhà nho An Nam chỉ cần đọc một vài quyển gọi là “tân thư” của Tàu cũng đã hiểu rõ những khái niệm tổng quát về các môn khoa học và nghệ thuật, về địa dư và lịch sử của năm châu thế giới, trong khi những anh em đồng bào của họ được đào tạo trong những trường Pháp – Nam thì chẳng biết một tí xíu gì về những môn này, ngoại trừ những anh nào trong bọn họ tò mò tìm cách tự học lấy trong sách vở.

Ở Hà Nội có một nhà nho An Nam cao tuổi, đã một mình nhờ mấy cuốn sách nho nhỏ của Tàu, học được môn vật lý và môn hóa học rồi tìm cách ứng dụng những điều đã học được vào những công việc rất thú vị, hay ho.

Hiện nay chúng ta vẫn còn gặp nhiều nhà nho An Nam, tuy không biết  một chữ Pháp nào cả nhưng lại biết rất rành lịch sử nước Pháp, lịch sử châu Âu, rành hơn mấy anh học trò An Nam được đào tạo trong các trường Pháp.

Phải đợi đến chiến thắng vĩ đại vang dội khắp hoàn cầu của nước Nhật trong chiến tranh với Nga (1904-1905), người châu Âu mới chịu tin rằng chữ Tàu nếu học đúng phương pháp thì cũng dễ như các thứ chữ khác và không phải là một chướng ngại vật trong sự tiếp thu những tinh hoa của khoa học phương Tây.

Về vấn đề ngôn ngữ, nước Nhật cũng nằm trong một tình cảnh tương tự tình cảnh của nước An Nam trước khi bị Pháp xâm chiếm. Họ có tiếng nói là tiếng Nhật như An Nam ta có tiếng nói là tiếng An Nam, nhưng chữ viết của họ là chữ Tàu. Ngày nay ở Nhật, những văn thư hành chính, những tạp chí, nhật báo lớn và những sách giáo khoa cho bậc học cao đều viết bằng chữ Tàu, và chữ Tàu được xem là thứ chữ chính mà các cấp học trong ngành giáo dục của Nhật đều phải dùng.

Đây là lúc nhà cầm quyền thực dân với sự cộng tác đắc lực của giáo hội Kito áp đặt dùng chữ Quốc ngữ thay thế chữ Hán-Nôm trong hệ thống giáo dục và hành chính ở toàn cõi An Nam. Mục đích là để đồng hóa người Nam thành người Tây mũi tẹt da vàng. Tuy nhiên nhóm chủ trương ngu dân lập luận như sau: “Dạy người An Nam học hoặc cho phép họ được học hành là cung cấp cho họ những khẩu súng bắn nhanh nhiều phát để họ bắn lại chúng ta”. Năm 1908, Toàn quyền Beau lập trường Đại học Đông Dương không chỉ cho người An Nam thôi mà còn hy vọng thu hút sinh viên từ các nước láng giềng đến học. Thế là các báo chí địa phương đồng loạt la ó: “Chúng tôi không hiểu tại sao chính phủ lại có cái ý tưởng điên rồ đem những tinh hoa của ngành khoa học của chúng ta dạy cho cái giống người An Nam đáng ghét. Trường Đại học Đông Dương là cái ổ cách mạng, là nơi hẹn hò gặp gỡ của bọn âm mưu làm quốc sự…” (Une histoire de conspirateurs anamites à Paris ou La vérité sur l’Indo-chine: Sự thật ở Đông Dương, Chúng tôi làm quốc sự…).

Sở dĩ người ta cường điệu quá mức giá trị của chữ “quốc ngữ” đồng nghĩa với việc tôn vinh “công lao ảo” của giáo sỹ Alexandre de Rhodes – là cách tri ân của nhà nước Pháp và giáo hội Công giáo, bởi ông ta là người Pháp đầu tiên phát hiện và hết lòng vận động chính quốc mau sang khai thác xứ Viễn Đông đầy tiềm năng đang còn hoang hóa và “Vai trò của Alexandre de Rhodes trong việc thành lập “Hội thừa sai Paris” đã đưa giáo hội công giáo Đàng trong và Đàng ngoài ra khỏi vòng kiểm soát của người Bồ Đào Nha, đã đem lại cho người Pháp vai trò quan trọng nhất ở bán đảo Đông Dương” (Sử gia Pháp Bonifacy, tác giả cuốn “Les Debuts du Christianisme en Annam” xuất bản tại Hà Nội năm 1930).  

Vào dịp tròn 100 năm ngày vua Khải Định xuống chiếu chấm đứt các khóa học và khoa thi chữ Hán (14/6/1919 – 2019 ), công nhận Quốc ngữ là chữ viết chính thức trên toàn cõi Việt Nam và người ta còn hy vọng tượng ông Đắc Lộ sẽ được dựng lên ở cảng thị Nước Mặn – Quy Nhơn, nơi được coi là cái nôi của chữ “quốc ngữ”, mà thực ra là nơi các giáo sỹ thừa sai Dòng Tên Bồ Đào Nha lần đầu cặp cảng và nhiều năm sau đó là nơi các giáo sỹ tân đạo ẩn náu sự truy lùng gắt gao của triều đình nhà Nguyễn!

Theo Hiệp ước Patenôtre 1884, người Việt Nam đã là dân vong quốc thì vua chỉ là tay sai bù nhìn. Khải Định có ra chiếu chỉ bãi bỏ các kỳ thi và trường học Hán-Nôm trong cả nước, tất nhiên phải làm theo lệnh của nhà cầm quyền thuộc địa. Bới nó ra càng hổ thẹn với người!

Còn việc tượng ông giáo sỹ thì đã có sẵn rồi, chỉ còn chờ thiên thời, địa lợi và lòng người nữa thôi. Gần trăm năm trước, khi người Pháp đã bình định xong xứ Đông Dương, để quảng bá văn hóa Pháp, nhà nước bảo hộ đã cho dựng đủ thứ tượng đồng hình người, hình thú. Mà sao với ông giáo sỹ này họ chỉ cho dựng một tấm bia đá ghi cái gọi là công tích do họ thổi lên, chớ đâu có dựng tượng ông ta? Trong khi họ có quyền và đâu thiếu chi tiền!  

Chẳng lẽ một dân tộc bị nô lệ hàng trăm năm, đã đổ bao xương máu mới phục sinh được Tổ quốc của mình, thì nay con cháu họ nhân danh đủ thứ “nhà” lại bàn nhau bày chuyện tạc tượng ghi ơn một nhà truyền giáo đi tiền trạm vác cây thánh giá dựng làm cột mốc trên đất đai ông cha họ từng đổ mồ hôi xương máu hàng ngàn năm khai sơn phá thạch và không từ cả việc phỉ báng truyền thống văn hóa “tam giáo đồng nguyên” thiêng liêng của họ! 

Người ta ngoa ngôn rằng: “Khi cho Việt Nam các mẫu tự Latin, Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến ba thế kỷ”? Có thật vậy không? Và có ai nghĩ rằng sự mất đi ngôn ngữ Hán-Nôm không khỏi kéo theo hệ quả là những bản sắc đặc thù của một dân tộc có truyền thống văn hiến lâu đời đã bị tàn phá?

Trên thế giới này, các dạng chữ viết đều theo hai qui tắc: Hoặc theo dòng tượng thanh như chữ Latin, chữ Slavơ. Hoặc theo dòng tượng hình như chữ Ai-cập, chữ Phạn, chữ Hán. Mỗi vùng miền có những đặc thù riêng về địa lý, lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa và cách phát âm. Trên đường tiến sang phía Đông, buổi đầu các giáo sỹ phương tây đã nghĩ ra phương pháp “La tinh hóa chữ tượng hình” và họ đã làm việc này ở Ấn Độ, Trung Hoa, đặc biệt ở Nhật Bản họ đã tạo ra chữ “romaji” hoàn toàn theo mẫu tự Latin. Trước sự phản ứng quyết liệt của giới cầm quyền đương thời Mạc Phủ, dưới sức mạnh của Thần đạo (Shinto) lại được các “shamurai” dẫn dắt, đám giáo sỹ Kito mở đường cùng với con chữ ấy bị đánh bật ra khỏi đất Phù Tang! Chữ Nhật truyền thống vẫn tồn tại cùng với nền tảng văn hóa Nhật để có một nước Nhật hiện nay ở “top” đầu thế giới. Cũng như một tỷ tư dân Tàu trước sau vẫn dùng chữ tượng hình truyền thống mà nay họ đã vươn lên hàng nhì thế giới khiến người Mỹ hoang mang về ngôi vị số “dzach” của mình.

Trái lại khi tới Việt Nam đúng lúc chủ nghĩa phong kiến suy vi bạc nhược, cuộc Thập tự chinh mà các giáo sỹ thừa sai phương Tây đi tiên phong đã là những người có công đầu cho thực dân Pháp biến nước ta thành thuộc địa đồng thời với việc dùng chữ “quốc ngữ” để mở mang nước Chúa song hành với âm mưu đồng hóa nền văn hóa bản địa của chủ nghĩa thực dân! Hiện nay, chỉ còn hai loại chữ phát sinh từ chữ Hán được sử dụng làm văn tự quốc gia chính thức, là Hanguel ở Triều Tiên và Kana ở Nhật Bản. Còn các loại văn tự khác đều đã trở thành “văn tự chết”. Trong khi chữ Nôm Việt hàng mấy thế kỷ trước, từng được coi là “gia tài văn hóa quý báu” của người Việt.

Bạn đọc nghĩ gì khi đứng trước một tấm bia, bức hoành phi câu đối hay bức thư pháp kèm bài thơ cổ, người trí thức Nhật dò đọc và giải ra được ý, trong khi người trí thức Việt Nam đứng “ngẩn tò te” nghe người xứ lạ đọc dòng lưu bút của chính tổ tiên mình?!

Ảnh https://vi.wikipedia.org/wiki/ Cao Xuân Hạo

Nhà ngôn ngữ học uyên bác Cao Xuân Hạo từng ao ước: “Tôi luôn nghĩ người Việt mình lẽ ra nên dùng chữ Hán mới đúng. Chúng ta dùng Quốc ngữ chỉ có lợi là học nhanh nhưng thực sự là rất có hại vì đã tự bứt lìa với nền văn hóa cổ của mình… Do vậy việc khôi phục chữ Hán trong nhà trường phổ thông là tối cần thiết nếu không muốn mình bị bứng ra khỏi gốc rễ văn hóa cha ông” (Những con người, những năm tháng – Ngô Ngọc Ngũ Long – NXB Hội nhà văn – 2017) để rồi đau đớn thốt lên: “Chữ quốc ngữ là một thảm họa không thể hoán cải!” (Người Việt – Tiếng Việt – Văn Việt).

Nhìn sang các nước Á Đông, quốc gia nào chữ viết không bị đồng hóa thì nước Chúa khó được mở mang trong khi các lĩnh vực văn hóa, khoa học, xã hội  vẫn bắt nhịp với đà tiến hóa chung của loài người. Nhìn rộng ra toàn thế giới nhiều nước vẫn dùng chữ viết tượng hình mà sự phát triển vẫn đứng ở “top” đầu thế giới? Ngay như nước Philippin, Anh ngữ đã là thứ tiếng phổ thông nhưng trình độ dân trí và xã hội của họ tiến tới mức nào mặc dù những thứ hàng hóa dư thừa của phương tây tràn ngập từ thành thị tới thôn quê?!

Tất nhiên nền văn hóa ngoại lai không thể không có ảnh hưởng sâu sắc trong việc hình thành nhân cách và tư tưởng những người dân vong quốc.

Đến đầu thế kỷ XX, chính quyền thuộc địa lập một Ban cải tiến chữ “quốc ngữ” gồm nhiều học giả người Pháp và người Việt. Dù “tân quốc ngữ” được cởi trói và các thể loại văn học mới lần lượt ra đời nhưng vẫn không nhận được sự hưởng ứng mặn mà cả trong giới nho sỹ và giới bình dân.  

Bước vào những năm 1930, phong trào đòi độc lập trên thế giới dâng cao mạnh mẽ. Mặc dù nhà nước thực dân đàn áp khốc liệt nhưng dưới chân chúng nền tảng bảo hộ đang bị lung lay. Như chúng ta đã biết phong trào “Truyền bá Quốc ngữ” khởi đầu từ những nhân sỹ tiến bộ, thiết tha với sự mở mang dân trí và khi Đảng Cộng sản trực tiếp nắm ngọn cờ giải phóng dân tộc đã kịp thời vận động các nhân sĩ có uy tín trong quốc dân như Hoàng Xuân Hãn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Huyên, Phan Thanh, Nguyễn Hữu Đang, Hằng Phương... ra gánh vác công việc. Nhân sỹ nổi tiếng, học giả Nguyễn Văn Tố được mời làm Hội trưởng. Mục đích của Hội là “Dạy cho đồng bào Việt Nam biết đọc, biết viết tiếng của mình để dễ đọc được những điều thường thức cần dùng cho sự sinh hoạt hằng ngày.Cốt cho mọi người viết chữ Quốc ngữ giống nhau”, suy cho cùng là tiếp nối mục tiêu “khai dân trí-chấn dân khí” khởi từ phong trào Duy tân đầu thế kỷ. Vậy mà chính quyền thực dân Pháp lại viện mọi lí do trì hoãn việc cho phép. Nhưng trong tình hình ấy, chúng đã không thể ngăn cấm được. Các Hội truyền bá Quốc ngữ tiếp nhau ra đời từ Bắc kỳ đến Trung kỳ và Nam Kỳ. Dưới danh nghĩa là một Hội văn hóa giáo dục nhưng thực chất đây là một tổ chức quần chúng yêu nước, có sự tham gia của nhiều nhà hoạt động xã hội và chính trị. Hội đã đóng góp rất lớn cho Cách mạng bằng việc tuyên truyền giáo dục, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh trong toàn thể quần chúng nhân dân. Trong Cách mạng tháng Tám, nhiều hội viên Truyền bá Quốc ngữ đã trở thành những chiến sĩ cách mạng tham gia khởi nghĩa giành chính quyền và đi suốt cuộc trường chinh.

Đến khi nhân dân ta giành được quyền làm chủ vận mệnh tổ quốc mình thì ý thức cần được khai thông trí tuệ càng trỗi dậy mạnh mẽ. Giữa lúc quốc gia nguy biến, Cụ Hồ –  vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam cộng hòa độc lập và dân chủ vẫn sáng suốt đặt ra ba yêu cầu bức bách mang tính sống còn là: “Diệt giặc đói – Diệt giặc dốt – Diệt giặc ngoại xâm”! Giặc nào cũng làm cho mất nước. Chữ “quốc ngữ” được mạnh dạn cải tiến trên cơ sở tiếng Việt là thứ tiếng thống nhất trong cả nước nên việc phổ cập rất nhanh. Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng từ sự khắc nghiệt của lịch sử đã luyện cho người Việt có biệt tài “trong cái khó ló ra cái khôn”, biến cái không thuận lợi thành thuận lợi. Phong trào “Truyền bá Quốc ngữ” vẫn tiếp tục được duy trì và phát triển trong những năm kháng chiến dưới hình thức “Bình dân học vụ”.

Những người trí thức tâm huyết vẫn giữ được truyền thống văn hóa cổ truyền và tiếp thu tinh hoa nền văn hóa mới Hy-La, quảng bá chữ “quốc ngữ” để mau nâng cao dân trí. Các nhà văn hóa của nước Việt Nam mới đã chế ra cách phát âm các từ theo đúng âm ngữ người Việt: a, bờ (b), cờ (c), dờ (d), đờ (đ), gờ (g), nhờ (nh), ngờ (ng), khờ (kh), thờ (th)… mà những ông tây chính thống nghe lạ hoắc nhưng những người bình dân Việt Nam cảm thấy rất dễ nhận diện, ghép vần, nhập tâm. Cũng nhờ đấy mà chữ “quốc ngữ” càng được phổ cập nhanh chóng.

Sau khi đuổi được giặc Pháp, năm 1960, “Hội nghị cải tiến chữ quốc ngữ” được tổ chức tại Hà Nội và năm 1965, khi cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam mở rộng và vô cùng ác liệt, Nhà nước Việt Nam độc lập lại mở hội nghị bàn về “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”. Chữ “quốc ngữ” được nâng cấp, phát triển toàn diện, đáp ứng được mọi lĩnh vực của đời sống xã hội từ sinh hoạt, tình cảm, trí tuệ, tâm linh tới các lĩnh vực ngoại giao, quân sự, các bộ môn khoa học xã hội và tự nhiên hiện đại rất phức tạp, là ngôn ngữ chính thống giảng dạy trong các trường từ mầm non đến đại học. Cụ Hồ và những lãnh tụ cách mạng đồng thời là những nhà văn hóa lớn rất quan tâm và nêu gương trong việc làm trong sáng tiếng Việt cả trong cách nói và cách viết. 

Không ai phủ nhận tính dễ phổ cập của chữ “quốc ngữ”. Nhưng cũng không thể phủ nhận điều căn bản là bởi yêu cầu phải thích nghi để tồn tại đã thành truyền thống văn hóa Việt. Một khi đã nhận ra sự cần thiết để làm chủ được mình thì người Việt chỉ trong thời gian ngắn đã biến một thứ chữ hoàn toàn xa lạ thành một thứ chữ mới hoàn toàn của mình, thống nhất trong hệ thống giáo dục quốc gia – Điều chưa từng xảy ra ở bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới này.

Bây giờ, trải hàng trăm năm chữ “quốc ngữ” phát triển đại trà mà trong sinh hoạt đời thường và cả trong lĩnh vực văn chương nảy sinh ra những loại truyện, thơ cách tân, hiện đại, hậu hiện đại để nảy nòi ra những “Bóng đè” và đám nặc nô “Mở miệng” được Nhã Thuyên và Nguyễn Thị Bình cùng đủ hàng chức sắc thầy bà đang kẻ tung người hứng! Con chữ vấy bẩn lên văn chương hay là văn chương làm nhơ nhuốc những con chữ? Dư luận đang lo lắng liệu tiếng Việt có sẽ bị vẩn đục, xuống cấp, làm hỏng, thậm chí là tha hóa?!

Ngày nay khi phân tích lý giải về các vấn đề xã hội người ta thường đưa ra những yếu tố kinh tế, chính trị để giải thích sự biến động của tình cảm, đạo đức, nhân tâm… chưa hẳn đã là đầy đủ! Tuy nhiên, thời nay chỉ người điên mới đòi bỏ đi chữ “quốc ngữ”. Nhưng nếu xếp xó lại chữ Hán-Nôm coi như đồ bỏ, khác chi để mất một báu vật gia truyền?! Như con rắn thần mù không biết trên đầu mình có viên ngọc quý. “Tổ quốc ta là rắn khác gì đâu!” (R.Tagor).

GSTS Toán học Ngô Việt Trung nhận xét: “Chữ tượng hình rất trừu tượng. Chính cái sự trừu tượng và tính tích hợp trong nó lại có ý nghĩa cụ thể để tạo ra ý nghĩa khác, rất phù hợp với tư duy toán học”. Trong khi không ít người vẫn còn mê muội về cái ơn và cái họa một thời mất nước!

GS-TS Trần Chung Ngọc nhận định chính xác: Sự phát triển Quốc ngữ cho tới ngày nay là do cha ông chúng ta biết dùng đòn gậy ông đập lưng ông”. Dùng Quốc ngữ để mở mang dân trí người Việt, vô hiệu hóa âm mưu dùng Quốc ngữ làm vũ khí văn hóa để nô dịch hóa đầu óc dân ta. Vậy chúng ta nên biết ơn ông cha ta đã linh hoạt sáng tạo vận dụng vũ khí văn hóa đó hay biết ơn kẻ tạo ra nó với những ý đồ hủy diệt chúng ta?

Điều chủ yếu là cần làm cho hậu thế hiểu rõ bản chất sự hình thành và phát triển chữ “quốc ngữ” và chấm dứt mọi âm mưu nô dịch văn hóa của chủ nghĩa thực dân kéo dài hàng trăm năm trong lịch sử nước nhà.

  Thành phố Hồ Chí Minh

   tháng 10 năm 2019

Nguyễn Văn Thịnh

Trang Lịch Sử