Bàn Tay Lông Lá Hoa Kỳ với Các Cuộc Thay Đổi Thể Chế ở Châu Mỹ Latinh

Bàn Tay Lông Lá Hoa Kỳ với Các Cuộc Thay Đổi Thể Chế ở Châu Mỹ Latinh

Trần Hải Âu

http://sachhiem.net/THOISU_CT/ChuH/HaiAu01.php

ngày 03-Feb-2019

Gương của các nước Trung Nam Mỹ châu vẫn chưa là bài học ư? Không theo Mỹ, theo chúa thì bị gán là cộng sản vô thần, là satan quỉ dữ. Các nước này đã theo Mỹ theo chúa, học thuộc bộ kinh “nhân quyền, dân chủ, đa đảng” bao lâu rồi mà vẫn đói nghèo bất an mãi? Lỗi tại ai? (THA)

Kể từ ngày 10 tháng 1 năm 2019, Venezuela đã trải qua một cuộc khủng hoảng tổng thống. Tổng thống đương nhiệm Nicolás Maduro tái đắc cử làm tổng thống Venezuela đã bị một số tổ chức và chính phủ quốc gia khác nhau phản đối. Quốc hội Venezuelađã đưa Juan Guaidó lên làm Tổng thống lâm thời và lãnh đạo các cuộc biểu tình phản đối cuộc bầu cử của Maduro.

Diễn tiến của cuộc khủng hoảng này là đề tài hàng đầu của tin tức thế giới hiện nay. Có một điều dễ nhận ra là hệ thống truyền thông Hoa Kỳ và đồng minh luôn là một mũi nhọn chính trị có lợi cho chính sách của khối tư bản, đóng một vai trò rất lớn trong việc gây hoang mang hỗn loạn thêm tình hình bất ổn trong một nước nhỏ như Venezuela khi phải đối đầu với một gã khổng lồ như Hoa Kỳ. Hậu quả hình như mọi người đều có thể dự đoán được ai sẽ thắng ai sẽ thua.

Theo tin mới nhất thì TT. Trump để ngỏ khả năng can thiệp quân sự vào Venezuela. Lối tung tin này chỉ là một trong những hỏa mù mà Hoa Kỳ bày ra. Nhiều người cho rằng vụ Venezuela bỗng dưng ồn ào gần đây là do Nhà Trắng muốn lạc dẫn dư luận trong nước trước những thất bại chính trị nội bộ gần đây của Trump từ khi Hạ Viện rơi vào tay đảng Dân chủ.

Nhưng xét về tình hình thực tế toàn cầu hiện nay thì phương cách can thiệp quân sự trực tiếp của Mỹ vào nội tình Venezuela sẽ gây ra nhiều chỉ trích lên án của thế giới, nhất là phe ủng hộ ông Maduro. Ngay cả Pentagon cũng đã có những ý kiến e dè, bởi vì quân đội của Venezuela không yếu kém như các nước nhỏ khác trong vùng. Nếu Mỹ xâm lược thì sẽ tạo nên một làn sóng tị nạn lớn của dân Nam Mỹ, trong khi chuyện ngăn chận các đoàn xe tị nạn của dân nghèo từ các nước trong vùng ở biên giới phia nam của Hoa Kỳ từ tháng 4, 2018 còn chưa giải quyết xong.

Một số dân ở Vancouver, Canada biểu tình phản đối sự can thiệp của nước ngoài vào nội tình Venezuela.

Phương sách khả thi nhất của Mỹ lúc này là mua thì giờ để lũng đoạn thêm hàng ngũ quân đội đang còn củng hộ TT. Maduro, và CIA đang cố mua chuộc một vài tướng lãnh nào đó làm đảo chánh. Vừa đỡ tốn kém vừà tránh được sự lên án của thế giới khi đem quân xâm lược; và giải quyết luôn vai trò của anh chàng tuổi trẻ thiếu kinh nghiệm chính trị là Juan Guaidó.  Ai cũng thấy rõ là Hoa Kỳ không kỳ vọng nhiều vào tài cán của anh Guaidó; mà anh chỉ là con cờ trước mắt trong trò chơi luật lệ hiến pháp của Venezuela.

Đó cũng là ngón nghề quen thuộc của chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ qua lịch sử, đặc biệt là ở Mỹ Latinh. Ai cũng từng nghĩ rằng Hoa Kỳ là một quốc gia luôn cầm cân nẩy mực cho các giá trị đạo đức chính trị của thế giời; nhưng thực ra không phải vậy. Mọi sự can thiệp đảo chánh của Mỹ ở bất kỳ nước nào cũng đều do CIA âm thầm cài cấy và thi hành, cốt phục vụ cho quyền lợi của Hoa Kỳ, chứ chẳng phải vì sự ấm no hạnh phúc của dân địa phương như những mỹ từ đã được rêu rao. Các chính sách này vẫn phản ảnh thái độ kiêu ngạo của thực dân da trắng kiểu mới mà thôi.

Đám đông giơ tay ủng hộ khi Juan Guaido tự xưng Tổng Thống (24 Jan 2019)

Các chiêu bài nhân quyền, tự do tôn giáo, dân chủ chỉ là cái cớ để Mỹ xỉa mũi vào việc nội bộ của các nước nhỏ khác chứ nó chẳng có giá trị cỏn con nào đối với siêu cường. Ngay cả các hiệp ước hay luật lệ quốc tế Hoa Kỳ còn xé toạt khi cần thì sá gì ba cái trò chơi con nít ấy. Gần đây Chánh án của Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC) Keith Flügge đã phải từ chức vì sự can thiệp thô bạo của Nhà Trắng. Ông nói rằng Hoa Kỳ đã đe dọa các thẩm phán về một cuộc điều tra của Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC) về hành vi của lính Mỹ ở Afghanistan. Chính quyền Hoa Kỳ, nhất là Trump tin rằng Mỹ không chỉ đáng hưởng qui chế đặc biệt không bị chế tài và còn không có trách nhiệm luật pháp gì ở nước ngoài.

John Bolton, cố vấn an ninh quốc gia cho tổng thống Mỹ, đã có một bài phát biểu vào tháng 9 năm ngoái, trong đó ông muốn tòa án hình sự quốc tế này nên chết đi, theo ông Keith Flügge.

Bolton nói “Nếu các thẩm phán này can thiệp vào các mối quan tâm nội bộ của Hoa Kỳ hoặc điều tra một công dân Mỹ, ông nói rằng chính phủ Mỹ sẽ làm tất cả những gì có thể để đảm bảo rằng các thẩm phán này sẽ không còn được phép đến Hoa Kỳ - và họ sẽ thậm chí có thể bị truy tố hình sự.” [If these judges ever interfere in the domestic concerns of the U.S. or investigate an American citizen, he said the American government would do all it could to ensure that these judges would no longer be allowed to travel to the United States – and that they would perhaps even be criminally prosecuted.”]

AI cũng biết ICC là một cơ chế để ngăn chặn sự tàn bạo và giữ cho các nhà lãnh đạo thực hiện các tội ác ghê tởm. Hiện tại có 123 quốc gia tham gia. ICC đã kết án các lãnh chúa Congo, hiện đang xét xử cựu lãnh đạo Bờ Biển Ngà vì tội ác chống lại loài người, và ra lệnh bắt giữ nhà lãnh đạo Sudan vì tội diệt chủng ở Darfur. Trước đó các tòa án quốc tế khác đã kết án cựu tổng thống Liberia Charles Taylor và nhà lãnh đạo Serbia Radovan Karadžić, và tổng thống Serbia Slobodan Milošević chết trong tù trong khi chờ xét xử ở The Hague. Dĩ nhiên là theo ý muốn của Hoa Kỳ. ICC đã không ngăn chặn được các sự tàn sát dã man thường dân ở Iraq, Yeman, Syria, vv…

I. Lịch sử Venezuela

Diện tích của Venezuela hiện nay là 916.445 km², dân số khoảng 28 triệu người. Mỏ dầu có trử lượng lớn hang thứ tư trên thế giới.

Những bằng chứng khảo cổ cho thấy, con người đã định cư tại vùng đất Venezuela từ 13.000 năm trước công nguyên. Những mũi giáo săn bắn của người bản địa đã được xác định có niên đại trong khoảng từ 13000 đến 7000 năm về trước. Khi người Tây Ban Nha khám phá ra vùng đất này, những bộ lạc thổ dân da đỏ như người Mariche đã đứng lên chống lại. Tuy nhiên những cuộc khởi nghĩa của người da đỏ nhanh chóng thất bại và họ dần dần bị người Tây Ban Nha tiêu diệt.

Năm 1522, người Tây Ban Nha bắt đầu thiết lập các thuộc địa đầu tiên ở Venezuela. Thời gian đầu, miền đông Venezuela được sát nhập vào một thuộc địa lớn với tên gọi New Andalusia. Đến đầu thế kỷ XVIII, Venezuela lại được sát nhập vào thuộc địa New Granada.

Dưới sự thống trị hà khắc của phong kiến Tây Ban Nha, nhân dân Venezuela đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh nhưng không thành công. Ngày 5 tháng 7 năm 1811, nước Cộng hòa Venezuela tuyên bố độc lập. Francisco de Miranda, một chỉ huy từng tham gia Cách mạng Pháp và chiến tranh giành độc lập Bắc Mỹ quay trở về lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân Venezuela. Năm 1812, quân Tây Ban Nha quay trở lại tấn công, Miranda bị bắt về Tây Ban Nha và chết trong ngục. Cuộc đấu tranh sau đó vẫn tiếp tục với nền Cộng hòa thứ hai được thành lập vào ngày 7 tháng 8 năm 1813 nhưng rồi cũng nhanh chóng sụp đổ.

Dưới sự lãnh đạo của người anh hùng dân tộc Simon Bolivar, Venezuela đã giành được độc lập với chiến thắng Carabobo vào ngày 24 tháng 6 năm 1821. Quốc hội mới của New Granada trao quyền lãnh đạo quân đội cho Bolivar và ông đã giải phóng thêm nhiều vùng đất mới, thành lập nên nước Đại Colombia (Gran Colombia) bao gồm Venezuela, Colombia, Ecuador và Panama ngày nay. Venezuela trở thành một phần của Đại Colombia cho đến năm 1830, khi nước này tách ra để thành lập một quốc gia mới.

Francisco de Miranda (1750-1816) - Simon Bolivar (1783-1830)

Thế kỷ XIX đánh dấu một giai đoạn đầy biến động của lịch sử Venezuela với những cuộc khủng hoảng chính trị và chế độ độc tài quân sự. Nửa đầu thế kỷ XX, các tướng lĩnh quân đội vẫn kiểm soát nền chính trị của Venezuela mặc dù cũng chấp nhận một số cải cách ôn hòa và thúc đẩy kinh tế phát triển. Sau khi nhà độc tài Juan Vicente Gomez qua đời vào năm 1935, những phong trào dân chủ tại Venezuela cuối cùng đã loại bỏ sự thống trị của quân đội vào năm 1958 và tổ chức những cuộc bầu cử tự do.

Dầu mỏ được phát hiện tại Venezuela đã mang lại sự thịnh vượng cho nền kinh tế đất nước, thu nhập quốc dân được nâng cao. Đến sau Chiến tranh thế giới thứ hai, những dòng người nhập cư từ Nam Âu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý cũng như những nước Mỹ Latinh nghèo hơn đã khiến xã hội của Venezuela trở nên vô cùng đa dạng.

Giá dầu mỏ sụt giảm trong thập niên 1980 đã khiến nền kinh tế Venezuela khủng hoảng sâu sắc. Việc phá giá tiền tệ càng làm cho đời sống của người dân Venezuela bị hạ thấp. Những chính sách kinh tế thất bại và mâu thuẫn chính trị đã đẩy đất nước Venezuela vào khủng hoảng trầm trọng, thể hiện rõ nhất qua hai cuộc đảo chính trong cùng năm 1992.

Tháng 2 năm 1992, viên sĩ quan quân đội Hugo Chavez đã tiến hành đảo chính nhưng thất bại. Đến tháng 11 cùng năm, những người ủng hộ Hugo Chavez lại một lần nữa tiến hành đảo chính song không thành công. Tuy nhiên, Chavez đã giành được nhiều thiện cảm của nhân dân Venezuela và ông đã chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Venezuela 1998 với tỉ lệ 56%.

Hugo Chávez (1954-2013)

Sau khi lên nắm quyền, ông Hugo Chavez đã lãnh đạo đất nước Venezuela theo đường lối cánh tả và giúp nền kinh tế phát triển. Ông đã ra lệnh quốc hữu hóa các công ty khai thác dầu của Mỹ và tây phương. Chính vì động thái chính trị này đã làm cho Hoa Kỳ gia tăng áp lực phá hoại bằng mọi cách. Ông vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của phe đối lập. Năm 2002, phe đối lập tại Venezuela tiến hành đảo chính song thất bại. Bạo loạn và đình công đã khiến kinh tế Venezuela một lần nữa rơi vào khủng hoảng, nặng nề nhất là vào năm 2003. Đến năm 2004, ông Hugo Chavez vượt qua cuộc trưng cầu ý dân về việc bãi nhiệm tổng thống với tỉ lệ 59%. Ông được bầu làm tổng thống cho một nhiệm kỳ khác vào tháng 12 năm 2006 và tái đắc cử nhiệm kỳ thứ ba vào tháng 10 năm 2012. Chávez qua đời vào ngày 5 tháng 3 năm 2013 sau một cuộc chiến chống ung thư kéo dài gần hai năm.

Nghèo đói và lạm phát bắt đầu gia tăng chóng mặt trong những năm 2010. Nicolás Maduro được bầu vào năm 2013 sau cái chết của Chavez. Năm 2014, Venezuela đã lâm vào một cuộc suy thoái kinh tế nghiêm trọng vì giá dầu thế giới bị sụt thảm hại; mà nền kinh tế của Venezuela lại chủ yếu dựa vào dầu mõ. Đến năm 2015, Venezuela trở thành nước có tỷ lệ lạm phát cao nhất thế giới, xấp xỉ 1.000.000% đầu năm 2018. Các vấn đề về kinh tế, cũng như tội phạm, cướp bóc, đặt biệt là cướp bóc lương thực và tham nhũng, là một trong những nguyên nhân chính gây ra một loat các cuộc biểu tình của nhân dân Venezuela trong những năm 2014–2018. Hầu hết thực phẩm, thuốc men đều thiếu thốn, các mặt hàng nhu yếu phẩm khác cực kì xa xỉ, vượt với tầm tay của hầu hết người dân tại nước này.

Nicolás Maduro (1962- )

II. Sự can thiệp của Hoa Kỳ vào việc thay đổi chế độ ở Mỹ Latinh:

Nổi bật nhất trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh: (xem bản đồ ở hình kế)

1) Argentina

Tại Argentina, các lực lượng cánh hữu đã lật đổ Tổng thống được bầu cử dân chủ Isabel Perón trong cuộc đảo chính Argentina năm 1976, bắt đầu chế độ độc tài quân sự của Tướng Jorge Rafael Videla, được gọi là Quá trình Tái tổ chức Quốc gia, khiến khoảng 30.000 nạn nhân bị mất tích. Cả cuộc đảo chính và chế độ độc tài theo sau đều được chính phủ Hoa Kỳ nhiệt tình tán thành và ủng hộ với việc Ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger đã viếng thăm chính thức vài lần tới Argentina trong thời kỳ độc tài. Trong số nhiều hành vi vi phạm nhân quyền trong thời kỳ này là bắt bớ, hành quyết hàng loạt, tra tấn, hãm hiếp, mất tích của tù nhân chính trị và bất đồng chính kiến, [4] và di dời bất hợp pháp những đứa trẻ sinh ra từ phụ nữ mang thai (cả trước khi bị tù hay có thai do hiếp dâm liên tục trong tù). Theo thẩm phán Tây Ban Nha Baltazar Garzón, Kissinger là nhân chứng cho những tội ác này.

Cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên sau khi kết thúc chế độ quân sự của quân đội là cuộc tổng tuyển cử ở Argentina năm 1983, với ứng cử viên của Liên minh dân sự cấp tiến Raul Alfonsin đã giành được nhiều phiếu. Nhưng nền kinh tế của Argentina đã rơi vào tình trạng hỗn loạn do nhiều năm đưa ra các quyết định tồi tệ trong thời kỳ nhóm quân nhân nắm quyền với sự đồng thuận của Washington. Cuộc khủng hoảng kinh tế lớn ở Argentina năm 1998-2002 gây ra mọi biến động xã hội và chính trị dẫn đến sự từ chức của một số tổng thống.

2) Brazil

Brazil đã trải qua nhiều thập kỷ của các chính phủ độc tài cánh hữu, đặc biệt là sau cuộc đảo chính ở Brazil vào năm 1964 do Mỹ hậu thuẫn chống lại đảng dân chủ xã hội trung tả của João Goulart, do Tổng thống John F. Kennedy muốn "ngăn Brazil khỏi trở thành một Cuba khác ". Sự trở lại nền dân chủ của Brazil đã chứng kiến một số chính phủ cánh hữu tân tự do (right-wing neoliberal governments) nối nhau với sự Đồng thuận của Washington kết thúc bằng sự bất bình đẳng tràn lan và nghèo đói cùng cực, một trong những điều tồi tệ nhất ở lục địa này.

3) Chile

Sau cuộc bầu cử dân chủ của Tổng thống Salvador Allende năm 1970, một cuộc chiến kinh tế do Tổng thống Richard Nixon ra lệnh, cùng một số những điều khác, đã gây ra cuộc đảo chính ở Chile năm 1973 với sự tham gia của CIA chỉ vì Allende thiên về chủ nghĩa xã hội dân chủ. Sau đó là chế độ độc tài quân sự Augusto Pinochet được Mỹ ủng hộ trong nhiều thập kỷ. Năm 1988, một cuộc trưng cầu dân ý đã được tổ chức để xác nhận cho Pinochet nắm quyền thêm 8 năm nữa. Nhưng Liên kết của các Đảng Đối Lập vì Dân chủ gồm hầu hết các đảng trung tả và cánh tả, đã thắng với lựa chọn “Không” giành chiến thắng trong cuộc trưng cầu dân ý và chấm dứt chế độ Pinochet một cách dân chủ. Sau đó, cuộc bầu cử tự do được tổ chức vào năm 1989 với chiến thắng của Liên kết của các Đảng Đối Lập vì Dân chủ một lần nữa. Liên Kết này và Đảng Tân Đa Số (New Majority) kế nhiệm cai trị Chile kể từ đó với những chiến thắng liên tiếp ngoại trừ hai giai đoạn với ứng cử viên cánh hữu Sebastián Piñera lên nắm quyền tổng thống. Cùng với thời gian ấy, một số vụ bê bối tham nhũng liên quan đến gia đình Pinochet và Hoa Kỳ đã xuất hiện.

Tổng thống Michelle Bachelet được bầu lần đầu tiên vào năm 2006. Cha của Bachelet là một vị tướng trung thành với Allende, người bị chế độ xử tử, và chính bà đã bị bắt và tra tấn trong thời kỳ độc tài của Pinochet. Bà được bầu lại trong cuộc tổng tuyển cử Chile, 2013.

4) Costa Rica

Costa Rica là quốc gia duy nhất ở Mỹ Latinh chưa bao giờ có một chính phủ độc tài lâu dài trong thế kỷ 20. Chế độ độc tài duy nhất của nó là sau cuộc đảo chính của Costa Rica năm 1917 do Bộ trưởng Chiến tranh Federico Tinoco Granados lãnh đạo chống lại Tổng thống Alfredo González Flores sau khi González cố gắng tăng thuế cho người giàu nhất, và nó chỉ kéo dài hai năm. Trên thực tế, chính phủ Hoa Kỳ do Tổng thống đảng Dân chủ Woodrow Wilson lãnh đạo đã không công nhận sự cai trị của Tinoco và, mặc dù thực tế rằng Công ty Hoa quả là một trong những công ty bị ảnh hưởng bởi cải cách thuế của González, đã giúp phe đối lập nhanh chóng lật đổ Tinoco sau vài tháng đụng độ.

Nhiều năm sau, Rafael Ángel Calderón Guardia của Đảng Cộng hòa Quốc gia đạt được quyền lực thông qua các biện pháp dân chủ, thúc đẩy cải cách xã hội nói chung và liên minh với Đảng Cộng sản Costa Rica. Căng thẳng giữa chính phủ và phe đối lập cánh hữu (được CIA hỗ trợ) đã gây ra cuộc Nội chiến Costa Rico ngắn ngũi vào năm 1948 đã chấm dứt chính phủ của Calderón và dẫn đến sự cai trị ngắn hạn trong 18 tháng của Jose Figueres Ferrer. Tuy nhiên, Figueres cũng có một số ý tưởng thiên tả và tiếp tục cải cách xã hội. Tuy vậy, sau chiến tranh nền dân chủ đã được nhanh chóng khôi phục và một hệ thống hai đảng bao gồm các đảng của Calderonistas và Figueristas đã phát triển ở nước này trong gần 60 năm.

Mặc dù Costa Rica không có nhiều xung đột như phần còn lại của khu vực, cuộc khủng hoảng Trung Mỹ đã tác động đến đất nước này. Tổng thống thiên tả Rodrigo Carazo (1978-1982) đã ủng hộ FSLN (The Sandinista National Liberation Front) và cho phép nó hoạt động ở biên giới phía bắc chống lại nhà độc tài Anastasio Somoza, cùng với vài chính sách gây tranh cãi của Carazo như xâm nhập vào IMF và Ngân hàng Thế giới và từ chối trả nợ nước ngoài - có nghĩa là chiến tranh kinh tế từ Washington vốn gây ra nhiều khó khăn trong nước. Người kế nhiệm của Carazo, Luis Alberto Monge (1982-1986) đã chuyển đổi hoàn toàn các chính sách này trở thành một đồng minh đáng tin cậy của Washington trong cuộc chiến chống lại FSLN đến mức Monge bị phe đối lập và thậm chí là thành viên của đảng của mình như Oscar Arias buộc tội háo chiến.

Sau nhiều năm đổ máu, chính phủ Costa Rica và Mexico bắt đầu đàm phán về thỏa thuận hòa bình về mọi mặt, mặc dù nhận được sự phản đối gay gắt từ chính quyền Ronald Reagan, người đã tìm kiếm một chiến thắng trước các lực lượng cánh tả. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán hòa bình đã kết thúc thành công với Thỏa thuận hòa bình Esquipulas và Tổng thống Costa Rica Oscar Arias được trao giải thưởng Nobel.

5) El Salvador

Sau nhiều cuộc nổi dậy của nông dân và công nhân ở nước này chống lại các chính phủ thiểu số đầu sỏ và phản dân chủ, thường chịu sự kiểm soát của các công ty Mỹ hùng mạnh như United Fruit Company, với sự xuất hiện của những nhân vật như Farabundo Martí, người lãnh đạo các cuộc nổi dậy xã hội này và bị tiêu diệt tàn nhẫn, những nỗ lực giành quyền lực một cách dân chủ thường bị cản trở bởi sự can thiệp của Hoa Kỳ. Cuộc Nội chiến lan rộng với các chính phủ cực hữu được Mỹ ủng hộ ở El Salvador đối mặt với quân du kích cực tả.

Khi nền dân chủ được khôi phục, bốn chính phủ liên tiếp của ARENA bảo thủ ở El Salvador đã được bầu, tất cả đều tán thành các chính sách tân tự do (neoliberal) với sự đồng thuận của Washington. Kết quả rõ ràng với sự gia tăng nghèo đói, mở rộng khoảng cách bất bình đẳng, và các vụ bê bối tham nhũng. Các nhà lãnh đạo cánh tả được bầu cử dân chủ đầu tiên ở El Salvador là ứng cử viên Mauricio Funes của Mặt trận Giải phóng Quốc gia Farabundo Martí vào năm 2009 và sau đó là Salvador Sánchez Cerén vào năm 2014. Giống như FSLN láng giềng, FMLN cũng từng là một nhóm du kích trước đây trở thành các đảng chính trị, và cả hai Ortega and Cerén vốn là các chiến sĩ du kích, mặc dù vị trí chính trị của họ rất khác nhau, với Cerén vẫn tiếp tục cách tiếp cận thị trường thực dụng của Funes.

6) Guatemala

Nông dân và công nhân (chủ yếu là người gốc bản địa) nổi dậy trong nửa đầu thế kỷ 20 của Guatemala do điều kiện khắc nghiệt và sự lạm dụng từ các địa chủ và chính phủ được hỗ trợ của American United Fruit Company đã bị đàn áp dã man. Điều này dẫn đến cuộc bầu cử dân chủ của Jacobo Arbenz thiên tả. Arbenz bị lật đổ trong cuộc đảo chính Guatemala năm 1954 do Mỹ hậu thuẫn dẫn đến các chính phủ độc tài được Mỹ ủng hộ, và gần 40 năm nội chiến ở quốc gia Trung Mỹ này. Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan, người tìm cách ngăn chặn sự lây lan của chủ nghĩa cộng sản ở các quốc gia Trung Mỹ gần Hoa Kỳ, đã chính thức gặp nhà độc tài Guatemala cực hữu bị buộc tội về tội ác chống lại loài người Efraín Ríos Montt ở Honduras, ủng hộ mạnh mẽ cho chế độ của ông.

7) Nicaragua

Sau cuộc cách mạng Sandinista lật đổ nhà độc tài thân Mỹ Anastasio Somoza Debayle, Nicaragua phải đối mặt với phiến quân du kích cực hữu Contra của Hoa Kỳ.

Sau khi nền dân chủ được lập lại, các lực lượng cánh hữu chiếm ưu thế ở nước này, với Nicaragua có ba chính phủ liên tiếp của phe Tự do. Như ở các quốc gia Trung Mỹ khác, các chính phủ này tán thành các chính sách kinh tế tân tự do với sự gia tăng nhanh chóng về nghèo đói, bất bình đẳng và chênh lệch thu nhập. Chiến thắng cánh tả đầu tiên ở Trung Mỹ đến từ cựu chiến binh du kích cánh tả Daniel Ortega và Mặt trận Giải phóng Quốc gia Sandinista ở Nicaragua năm 2006.

8) Panama

Cái chết bất ngờ của nhà cai trị thiên tả Omar Torrijos trong một vụ tai nạn máy bay đã được quy cho các đặc vụ Hoa Kỳ hợp tác với Manuel Noriega. Theo cuốn sách “Lời thú tội của một sát thủ kinh tế” (Confession of an Economic Hit Man) của John Perkins, động cơ bên sau là các cuộc đàm phán của Torrijo với các doanh nhân Nhật Bản để mở rộng Kênh đào Panama, loại trừ các công ty Mỹ. Torrijos còn là người ủng hộ cho nhóm du kích FSLN chống Somoza ở Nicaragua đã làm căng thẳng mối quan hệ của ông ta với Reagan. Torrijos đã được kế thừa bởi nhà độc tài thân Mỹ hơn là Manuel Noriega, người đứng về phía lợi ích của Hoa Kỳ trong chính phủ Torrijos.

Tuy nhiên, căng thẳng gia tăng giữa Noriega và chính phủ Hoa Kỳ cũng dẫn đến cuộc xâm lược Panama của Hoa Kỳ kết thúc bằng sự lật đổ của Noriega và ông ta bị dẫn độ về Mỹ và bị kết án 40 năm tù vì tội buôn ma túy, rửa tiền … như bao nhiêu tên drug lords khét tiếng khác vào ngày 10 tháng 7, năm 1992. Noriega chết vào năm 1917 ở tuổi 83.

9) Paraguay

Đảng Bảo thủ (đôi khi được mô tả là cực hữu) Đảng Colorado ở Paraguay cai trị đất nước này trong 65 năm liên tiếp, bao gồm cả chế độ độc tài tàn bạo được Mỹ ủng hộ Alfred Stroessner kéo dài 35 năm, từ 1954 đến 1989. Paraguay là một trong những quốc gia nghèo nhất Nam Mỹ. Hệ thống độc tài của đảng thống trị này đã bị phá vỡ tạm thời trong cuộc tổng tuyển cử Paraguay năm 2008, khi thực tế toàn bộ phe đối lập thống nhất trong Liên minh Yêu nước cho Đổi Thay đã bầu cựu Giám mục Fernando Lugo của Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo làm Tổng thống Paraguay. Chính phủ của Lugo đã được ca ngợi vì những cải cách xã hội bao gồm đầu tư vào nhà ở thu nhập thấp, giới thiệu điều trị miễn phí tại các bệnh viện công, giới thiệu chuyển tiền mặt cho những công dân nghèo nhất ở Paraguay và quyền củ thổ dân.

Tuy nhiên, Lugo đã không hoàn thành giai đoạn của mình khi ông ta bị luận tội, mặc dù được dân chúng ủng hộ rất cao. Phe đối lập kiên định và bảo thủ nhất của Lugo được USAID tài trợ. Bản luận tội đã bị Ủy ban Nhân quyền Liên Mỹ bác bỏ, bị các chính phủ cánh hữu và cánh tả lên án, và UNASUR và Mercosur coi như một cuộc đảo chính và bị đối xử bằng các biện pháp trừng phạt và đình chỉ cho Paraguay. Lugo sau đó được bầu làm Chủ tịch Thượng viện.

10. Peru

Một chính phủ khác do CIA tài trợ ở Peru là chế độ của Alberto Fujimori và Vladimiro Montesinos. Tuy nhiên, tham nhũng cực đoan và khuynh hướng độc đoán của Montesino cuối cùng đã dẫn đến sự sụp đổ của chính phủ Fujimori.

Một số chính phủ dân chủ theo sau, bao gồm lãnh đạo phe đối lập của Fujimori, Alejandro Toledo, lãnh đạo APRA Alan Garcíaand, ông Ollanta Humala thiên tả. Mặc dù tại một thời điểm được báo hiệu là "chavista" (thân với Hugo Chávez của Venezuela), Humala giữ Peru là một phần của Liên minh Thái Bình Dương và ảnh hưởng kinh tế của nó.

11) Uruguay

Sau 150 năm của các chính phủ cánh hữu từ cái gọi là "các đảng truyền thống" ở Uruguay, chế độ độc tài quân sự do Mỹ hậu thuẫn đã bắt đầu sau cuộc đảo chính của quân đội Uruguay năm 1973 do quân đội lãnh đạo đã dẹp bỏ Hiến pháp của Uruguay năm 1967 trao quyền cho Tổng thống Juan María Bordaberry làm nhà độc tài. Các nhà lãnh đạo công đoàn và các đối thủ chính trị đã bị bắt, bị giết hoặc bị lưu đày, và vi phạm nhân quyền rất phong phú. Dân chủ cuối cùng đã được khôi phục trong cuộc tổng tuyển cử ở Uruguay, 1984.

Chính phủ cánh tả đầu tiên của Uruguay trong lịch sử được đưa ra sau chiến thắng của Tabaré Vazquez được đề cử của Mặt trận Rộng Rãi (Broad Front) trong cuộc tổng tuyển cử năm 2004 của Uruguay, giành chiến thắng với 50% số phiếu, hơn 35% đối thủ chính của ông là ông Jorge Larrañaga của Đảng Colorado. Vazquez được hưởng tỷ lệ phổ biến cao trong nhiệm kỳ đầu tiên và sau đó, với mức độ phổ biến lên tới 70%. Ông đã đươc kế nhiệm bởi thành viên của Broad Front và cựu chiến binh du kích Jose Mujica, người đã giành được 54% ủng hộ trong vòng hai, 2009, và sau đó Vázquez đã được bầu lại trong cuộc tổng tuyển cử ở Uruguay năm 2014, với khoảng 54% ủng hộ.

III. Kết luận:

Thân phận các nước nhược tiểu trong thế giới hiện nay thực là bèo bọt, giới lãnh đạo khó tồn tại được lâu dài trước những tham vọng vô hạn của các siêu cường. Mới là người hùng trong mắt Mỹ hôm nay khi Mỹ cần thì sớm trở thành tội đồ của Mỹ hôm sau khi hết giá trị sử dụng. Mọi mỹ từ như tự do, dân chủ, nhân quyền, đa đảng hình như là những câu kinh cầu do các giáo sĩ chính trị tây phương rao giảng cho bọn nghèo nàn lạc hậu nghe cho vui, chứ chẳng bao giờ hiện thực cả; giống như Vatican đã đem Kinh Thánh ra nói cả hàng ngàn năm nay để đầu độc ru ngủ dân chúng. Với dân nhược tiểu trong khi đất nước còn nghèo nàn đói rách mà cứ mãi tin vào các điều vô bổ ấy thì chỉ trở thành trò bung xung cho các nước lớn đùa cợt. Chỉ khi nào đất nước mình hùng mạnh sung túc thì bàn đến nó cũng không muộn.

Gương của các nước Trung Nam Mỹ châu vẫn chưa là bài học ư? Không theo Mỹ, theo chúa thì bị gán là cộng sản vô thần, là satan quỉ dữ. Các nước này đã theo Mỹ theo chúa, học thuộc bộ kinh “nhân quyền, dân chủ, đa đảng” bao lâu rồi mà vẫn đói nghèo bất an mãi? Lỗi tại ai?

Khi các siêu cường Âu Mỹ muốn trừng phạt nước nhỏ nào không làm hài lòng mình thì cứ đổ tội cho giới lãnh đạo nước ấy đã vi phạm các điều cấm kỵ trên tựa như “làm phật lòng chúa”. Biết than vãn với ai bây giờ? Vì chúa cũng đã hùa theo kẻ gian ác đã từ rất lâu rồi.

Trần Hải Âu

2/2019 – Tết Kỷ Hợi

Ghi chú: Tài liệu biên tập trích từ Wikipedia.

 

Trang Thời Sự