Kế Sách Đồng Bộ Để Phòng Chống Tham Nhũng Vũ Tất Thắng https://sachhiem.net/THOISU_CT/ChuV/VuTatThang.php LTS: Tòa soạn nhận được bài viết sau đây do tác giả Vũ Tất Thắng gửi. Theo tác giả, bài viết này đã viết từ năm 2006 và được đăng trên website của Câu lạc bộ Khoa học Kỹ thuật Việt kiều năm 2006, nhưng vẫn còn giá trị tham khảo đối với hiện trạng trong nước. Bài viết này chứa đựng nhiều kiến thức chuyên môn, nhất là thu thập kinh nghiệm từ các nước trên thế giới. Những đề nghị trong bài đầy thực tiễn, với những phân tích khoa học, và với một quyết tâm xây dựng rất cần nghiên cứu. Xin kính mời quí vị có tiếng nói trong nghị trường quan tâm đến. (SH) Tham nhũng là một tệ nạn rất phức tạp giống như một căn bệnh trầm trọng mà chúng ta cần phân tích (chẩn đóan) để truy tìm ra các nguyên nhân gây bệnh, rồi dựa vào kết quả của phân tích mà tìm phương pháp điều trị. Một số người chủ trương là cán bộ công chức phải kê khai tài sản. Tuy nhiên, cách này có vẻ cục bộ và hàm chứa quá nhiều sơ hở vì đương sự có thể nhờ họ hàng đứng tên, chuyển tiền vào tài khỏan ở nước ngòai hoặc mua chứng khóan, trái phiếu hay bất động sản ở nước ngòai. Vậy nguyên nhân của tham nhũng là gì? Tôi xin nêu một ví dụ điển hình : Vụ sì căng đan chạy quota xuất khẩu hàng may mặc đã xẩy ra năm 2004. Vụ này bộc lộ một số khuyết điểm cơ bản của nền hành chính nước ta mà tôi xin được lần lượt trình bầy như sau : 1) Cơ chế “xin cho” Ở các nước tiến bộ, công chức và người dân làm các thủ tục hành chính trong tình thân thiện lịch sự, cởi mở và bình đẳng. Việc này rất bình thường vì công chức thực sự là công bộc của nhân dân, họ lãnh lương từ tiền thuế do dân đóng góp. Công chức có nhiệm vụ là phục vụ nhân dân. Còn ở nước ta, việc bình thường này lại ít khi xẩy ra vì cơ chế xin cho. Hầu như bất cứ điều gì cũng phải xin. Điều này dẫn đến tệ nạn một số cán bộ thoái hoá đòi “Đầu tiên” rồi mới cho, nếu không họ sẽ kéo dài thủ tục vô thời hạn! Nên chăng chúng ta phải tái giáo dục cán bộ theo như lời bác Hồ đã dậy là phải phục vụ nhân dân. Người dân đến các cơ quan hành chính không phải để xin mà họ đến để nhận các dịch vụ từ quyền công dân. Cán bộ lĩnh lương từ tiền thuế do nhân dân đóng góp phải cung cấp các dịch vụ hành chính tronng tình thân thiện lịch sự và bình đẳng. Điều này là thường thức ở bất kỳ một nước tiến bộ nào. Hiện nay, phương châm của nhà nước là công nghiệp hoá hiện đại hoá. Theo thiển ý, hiện đại hoá bao hàm sự bình thường hoá quan hệ ứng xử giữa nhân dân và cán bộ. 2) Nạn con ông cháu cha Nghi can trong vụ chạy quota xuất khẩu hàng may mặc là con một vị thứ trưởng, làm việc trực tiếp dưới quyền cha mình. Như tôi đã viết trong bài “Chống tham nhũng bắt đầu từ đâu?” (Diễn Đàn Doanh Nghiệp số 45 08/06 và số 46 10/06/2005), Nhật Bản cấm kỵ việc bố con, mẹ con hay anh chị em cùng làm trong một bộ hay một công ty. Tuy không có luật cấm cha con, mẹ con hay anh em làm cùng một bộ hay cùng một công ty, nhưng điều này đã thành một thông lệ tốt. Đó là cơ bản để gìn giữ kỷ cương và duy trì sĩ khí trong một tổ chức. Đọc lại lịch sử cận đại nước ta, ta thấy một trong những nguyên nhân khiến chế độ Ngô Đình Diệm xụp đổ chính vì đó là một chế độ gia đình trị. Trong thời phong kiến, dân gian có câu “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Để hiện đại hoá, chúng ta phải kiên quyết huỷ bỏ tư duy phong kiến này. 3) Tính liêm sỉ, tính trung thực và sự chính trực Khi một sì căng đan như vụ chạy quota xuất khẩu hàng may mặc xẩy ra ở một nước tiến bộ như Nhật Bản chẳng hạn, lập tức bộ trưởng bộ liên quan sẽ đệ đơn từ chức lên thủ tưởng chính phủ rồi thông thường là thủ tưởng sẽ chấp thuận và tìm nhân sự thay thế. Đây là một cách ứng xử có liêm sỉ, trọng danh dự. Người bộ trưởng đã từ chức sẽ không hoạt động chính trị nữa mà về hưu làm việc từ thiện để chuộc lỗi với nhân dân. Ở nước ta, lối ứng xử của người lãnh đạo của bộ gây ra sì căng đan có thể nói là quá xuề xoà, coi thường dân chúng. Trên báo Tuổi Trẻ ra ngày 02/10/2004, có cuộc phỏng vấn bộ trưởng bộ thương mại về việc thứ trưởng Mai Văn Dâu đã tạm nghỉ việc. Ông bộ trưởng không nói gì về trách nhiệm lãnh đạo của mình trong vụ này. Lã Thị Kim Oanh tâm sự với các nhà văn. Ảnh Dân Trí Chắc quí vị còn nhớ vụ Lã Thị Kim Oanh. Ông bộ trưởng liên quan xin từ chức mãi mấy tháng rồi mới được chấp thuận, còn được chuyển sang làm công tác khác và vẫn xuất hiện trên truyền hình! Như quí vị đã biết, Nhật Bản là nước tiên phong trong việc công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Á châu. Nước Nhật rất ít tài nguyên thiên nhiên, họ đã phát triển được như ngày nay, trở thành nước giàu thứ hai sau Hoa Kỳ trên thế giới chỉ nhờ nguồn nhân lực có giáo dục cao, trọng kỷ luật và nhất là trọng danh dự. Chính tính trung thực của người Nhật đã giúp họ có được sự vinh quang hiện nay. Sản phẩm của NB được tín nhiệm là có chất lượng cao, dù có đắt hơn sản phẩm cạnh tranh vẫn bán được đều nhờ tính trung thực trong công việc và trong ứng xử của người Nhật vậy. Khi ông Lý Hiển Long nhậm chức thủ tướng Singapore thay thế ông Go Chok Tong, ngài Lý Quang Diệu, phụ thân ông Long - cựu thủ tướng Singapore - đã trả lời câu hỏi về sức mạnh của Singapore như sau : “Singapore phát triển như ngày nay là dựa vào yếu tố nhân lực và sức mạnh của chúng tôi là sự chính trực”. Sự chính trực này bắt nguồn từ truyền thống Nho giáo mà cốt lõi là cách ứng xử của người quân tử theo Khổng học. SH ghi chú - Tu Weiming (nhà đạo đức học, giám đốc của Viện Nghiên cứu nâng cao nhân văn tại Đại học Bắc Kinh) cho rằng giá trị Nho giáo của sự làm việc chăm chỉ chịu khó mà không có lợi ích trước mắt đã góp phần phục hồi nhanh chóng cuộc khủng hoảng tài chính của Hàn Quốc năm 2009. Ảnh trong bài "Does Confucianism have a role in Korea today?" Tính trung thực của người Nhật và sự chính trực của người Singapore là điều mà chúng ta cần học hỏi để phục hồi, vì trong lịch sử của nước ta không thiếu những gương chính trực và trung thực. Chúng ta đã có Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ xin vua chém đầu gian thần. Khi vua không nghe, thì cáo lão về hưu. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần chấn chỉnh lại những truyền thống tốt đẹp của cha ông, phục hồi đạo đức cơ sở - nhân, lễ, nghĩa, trí, tín - trong học đường cũng như trong gia đình và xã hội. Đây là cách phòng chống tham nhũng từ gia đình và học đường, dạy cho con em chúng ta biết tính liêm sỉ, coi việc đưa và nhận hối lộ là một điều sỉ nhục. 4) Hệ chuyên tu và tại chức Một tàn tích phong kiến nữa là nạn khoa bảng và quá trọng bằng cấp. Khi mới về làm việc ở Hà Nội Năm 1992, tôi rất ngạc nhiên khi thấy danh thiếp cán bộ nước ta ghi quá nhiều phó tiến sĩ và tiến sĩ! Trong 100 công chức cao cấp của Nhật Bản thì may ra ta tìm được một vài người có bằng cao học trở lên. Nhiều công chức cao cấp NB còn không tốt nghiệp đại học vì chế độ thi tuyển công chức NB không đòi hỏi bất kỳ bằng cấp nào. Không phân biệt nam nữ, thí sinh chỉ cần dưới 26 tuổi, không có tiền án là được dự thi. Tuy nhiên, NB có đội ngũ công chức vào hạng mẫn cán nhất thế giới. Tất cả các chính sách kinh tế xã hội đều do đội ngũ này phác thảo. Thủ tướng hay bộ trưởng chỉ phải đề ra những phương châm, phương hướng phát triển rồi chọn lựa một trong các giải pháp tối ưu mà đội ngũ công chức NB đã soạn thảo ra. Tôi được đọc trong báo An Ninh thế giới về lý lịch của nghi can trong vụ xì căng đan nêu trên là nghi can đã học tại chức và có bằng cử nhân ngành ngoại thương. Ở đây, tôi xin đặt một câu hỏi : Hệ chuyên tu và hệ tại chức có còn cần thiết nữa không sau khi nước ta đã giải phóng được 30 năm tức là một thế hệ rưỡi rồi? Trong thời kỳ đất nước mới thống nhất, trình độ cán bộ còn thấp, hai hệ nêu trên đã đóng góp đáng kể nâng cao trình độ kiến thức của cán bộ công chức. Tuy nhiên, hiện nay hai hệ này bị lạm dụng để nạn con ông cháu cha hoành hành. Ta thấy một số con ông cháu cha không chịu học hành tử tế mà vẫn được làm công chức, rồi dù dốt vẫn lạm dụng được chế độ chuyên tu - tại chức để lấy hết bằng nọ đến bằng kia rồi lên địa vị lãnh đạo! Hệ quả là không những chúng ta có một số cán bộ bất tài vô đạo đức mà mặc nhiên chúng ta đã làm nản lòng các cán bộ có thực tài nhưng không có ô dù! Ngoài chế độ đãi ngộ chưa thoả đáng, đây là nguyên nhân chính tạo ra nạn lưu lạc chất xám sang các công ty liên doanh với nước ngoài và các công ty dân doanh. Ở các nước tiến bộ, công chức muốn học thêm thì phải xin nghỉ dài hạn không lương. Tỉ dụ nếu người công (hay tư) chức muốn học cao học thì họ xin nghỉ hai năm không ăn lương để nghiên cứu học hỏi. Ngoài ra còn có các khoá đại học buổi tối cho những người muốn học thêm. Học phí cho các khoá học sau giờ hành chính khá cao. Dù vậy, một số công chức và tư chức có chí tiến thân, vẫn theo học các khoá buổi tối. Khi họ tốt nghiệp các khoa buổi tối này thì họ có thực lực chứ không chỉ có một mảnh bằng tốt nghiệp vì chế độ học tập và nghiên cứu rất nghiêm túc. Bản thân tôi cũng có kinh nghiệm giảng dậy khoa cao học quản trị kinh doanh (MBA) cho công tư chức gồm cả nhân viên người nước ngoài đang làm việc tại nước ta vào buổi tối. Vì việc học tập nghiên cứu rất vất vả, học viên thiếu ý chí dễ bỏ dở chương trình. Học viên phải làm bài tập hàng tuần và điểm số của các bài tập đóng góp 50% số điểm cho môn học. Điểm của bài thi cuối học kỳ chỉ đóng góp 50% tổng số điểm. Vì vậy, những người tốt nghiệp MBA thường thành đạt vì họ được tín nhiệm là có năng lực quản lý. Vắng mặt ở sở - Một ảnh trong bài "Bác sĩ bỏ bê phòng khám", báo Thanh Niên Chắc nhiều quí vị cũng có kinh nghiệm khi điện thoại hoặc trực tiếp đến công sở liên lạc với một cán bộ nào đó, thường hay nhận câu trả lời là ông X bà Y đang đi học tại chức khi họ vắng mặt! Tôi cũng có kinh nghiệm này, sau hỏi trực tiếp đương sự thì câu trả lới là bận việc riêng nên nghỉ một buổi. Điều này là bất khả trong bất kỳ một nước tiến bộ nào. Ở Nhật Bản chẳng hạn, nếu cần tổ chức một hội thảo chuyên đề để nâng cao kiến thức của công chức, thì họ chỉ tổ chức vào ngày cuối tuần (Thứ bẩy hay Chủ nhật) để tránh ách tắc không cần thiết trong nghiệp vụ hành chính. Khi người dân đến một cơ quan hành chính để làm một thủ tục nào đó, họ sẽ không phải đi lại nhiều lần vì ngườii công chức phụ trách luôn có mặt để cung cấp dịch vụ hành chính một cách lịch sự. Trường hợp người công chức nghỉ việc vì bịnh thì sẽ có người tạm thay thế để cung ứng dịch vụ, thường là đồng liêu thạo công việc đó hay người trưởng hay phó phòng của người công chức nghỉ việc. Tóm lại, hai hệ chuyên tu và tại chức hầu như đã hoàn thành nhiệm vụ đã giao là đào tạo, nâng cao trình độ kiến thức của cán bộ công chức thời hậu chiến. Nay nước ta đã thống nhất 30 năm rồi. Hai hệ này không còn hợp thời nữa và đang bị lạm dụng. Vì vậy nên chăng chúng ta nghiên cứu lộ trình cải cách triệt để hay huỷ bỏ hai hệ này một cách hợp tình hợp lý, ít gây xáo trộn trong hệ thống hành chính nước ta. 5) Hệ thống lương bổng cho cán bộ công chức Một nguyên nhân nữa của vụ chạy quota, tiểu biểu của các vụ tham nhũng ở nước ta là mức lương của cán bộ công chức quá thấp, không đủ để họ có một cuộc sống trung bình. Như tôi đã đề xướng trong bài viết kỳ trước nêu trên, nên chăng chúng ta nghiên cứu cải tổ chế độ lương bổng cho công chức, chí ít trên mức lương trung bình trong bộ môn dân doanh, đồng thời tổ chức thi tuyển công chức công khai và công bằng ngõ hầu thu hút nhân tài vào bộ máy hành chính nước ta. Tôi biết là việc cải tổ mức lương ở nước ta rất khó khăn vì số người ăn lương nhà nước quá nhiều. Vì vậy, việc cải tổ phải bắt đầu từ cơ chế. Chúng ta nên nghiên cứu cơ chế của các nước tiến bộ gồm cả Trung Quốc là nước tiền phong trong cải cách kinh tế và hành chính trong khối các nước xã hội chủ nghĩa. Tại các nước tiến bộ như Nhật Bản chẳng hạn, nhà nước chỉ trả lương cho công chức và các nghị sĩ tại chức, tức những đại biểu quốc hội hay hội đồng nhân dân đương nhiệm. Các đoàn thể khác phải hoạt động bằng hội phí do thành viên đóng góp. Cũng tại NB, trừ những xã trong các huyện xa xôi, cơ quan hành chính chỉ có tới cấp quận / huyện thôi. Tỉ dụ, tại các đô thị lớn như Tokyo hay Osaka, ngoài UBND và HĐND thành phố chỉ có UBND và HĐND các quận mà thôi. Các UBND quận thường có vài văn phòng khoảng hai ba nhân viên thuộc phòng cư dân để phục vụ dân chúng trong khu vực như cấp giấy chứng nhận cư trú, nhận tờ khai sinh cho trẻ sơ sinh v.v. Ngoài ra NB cũng không có công an phường hay xã. Trong suốt gần bốn chục năm sinh sống ở NB, tôi chưa bao giờ phải đến công an vì tất cả mọi thủ tục hành chính đều do UBND quận và thành phố (Tokyo) đảm trách. 6) Phương pháp tuyển chọn công chức của Nhật Bản Để tìm hiểu xem ở các nước tiến bộ, người ta tổ chức nhân sự thế nào, tôi xin giới thiệu sơ lược phương pháp tuyển chọn và đãi ngộ công chức của NB. Trong cơ cấu tổ chức của chính phủ NB có viện nhân sự là cơ quan quản lý việc tuyển chọn công chức và quy định chế độ lương bổng cho công chức. Mỗi năm, các bộ và cơ quan ngang bộ phải báo cáo với viện nhân sự về nhu cầu nhân sự mới, cụ thể là cần bao nhiêu công chức cao cấp, bao nhiêu công chức trung cấp. Viện nhân sự tổng gộp nhu cầu của các bộ và cơ quan ngang bộ rồi quyết định số công chức cần tuyển chọn cho cả năm. Ngân sách của NB bắt đầu ngày 1 tháng 4 hàng năm ; niên học cũng vậy. Vì thế kỳ thi tuyển công chức được tổ chức vào tháng 10 hàng năm. Người được tuyển chọn sẽ bắt đầu làm việc vào tháng tư năm sau. Hàng năm viện nhân sự và chính quyền địa phương tổ chức các kỳ thi tuyển công chức cao cấp và trung cấp. Ngoài giới hạn về tuổi tác : dưới 26 tuổi, thí sinh không cần có bằng cấp nào cả. Tuy nhiên đề thi cho công chức cao cấp có trình độ đại học và đề thi cho công chức trung cấp có trình độ trung học phổ thông. Trình độ đề thi khá cao nên các thí không đủ thực lực thì không dám dự thi. Khi trúng tuyển, thí sinh có quyền nêu nguyện vọng muốn vào làm trong bộ nào; họ chỉ đạt nguyện vọng của mình nếu có điểm cao. Người Nhật cấm kỵ việc anh em, chị em hay bố con, mẹ con cùng làm trong một bộ. Trong các công ty cũng vậy. Xin nêu một ví dụ : Khi công ty Honda cổ phần hoá, nghĩa là chuyển từ công ty TNHH sang công ty cổ phần, ông Honda Soichiro, người sáng lập công ty đã chuyển em trai mình, một kỹ sư giỏi sang một công ty khác vì ông nghĩ rằng việc em trai ông làm trong công ty Honda sẽ làm giảm sĩ khí của công nhân viên Honda! Tóm lại, chỉ một chế độ đãi ngộ thích đáng chí công vô tư thì mới tụ tập được nhân tài. Về lương bổng, hàng năm bộ tài chính lấy thống kê về lương bổng trong nước rồi tính ra bình quân lương bổng. Mức lương khởi đầu cho công chức cao cấp được định bởi mức lương trung bình của các kỹ sư hay nhân viên viên mới tốt nghiệp đại học trong các công ty thuộc bộ môn tư nhân cộng thêm một hằng số tương đối. Mức lương cho công chức trung cấp cũng được định bởi mức lương trung bình của các công nhân viên thuộc bộ môn tư nhân mới tốt nghiệp trung học phổ thông (lớp 12) cộng thêm một hằng số. Việc tăng lương hàng năm cũng làm theo phương pháp này. Mục đích của viện nhân sự NB là định mức đãi ngộ trên trung bình để thu hút nhân tài. Ngoài ra, chế độ lương hưu cho công chức NB cũng tương đối cao hơn chế độ lương hưu trong bộ môn tư nhân. Nhờ vậy NB luôn có một đội ngũ cán bộ công chức rất ưu tú. Họ là đầu tầu cho phát triển kinh tế xã hội tại NB. Gần đây, chắc dộc giả cũng biết, chính phủ Singapore đã tăng lương đột biến cho công chức nhằm thu hút nhân tài vào đội ngũ công chức rất mẫn cán và trong sạch của họ. 7) Chúng ta có đối sách gì để chống tham nhũng? 7.1 Trước hết, chúng ta phải tạo một hệ thống hành chính minh bạch không tồn tại những kẽ hở cho một số cán bộ thóai hóa lạm dụng sách nhiễu dân chúng. Điều này không dễ dàng vì Quốc hội chỉ có thể từng bước cải tạo hệ thống pháp luật và các quy chế hành chính. Như vậy, cơ chế “xin cho” mặc nhiên sẽ dần dần bị đào thải. 7.2 Quốc hội nên sọan thảo một bộ luật công chức mới, trong đó việc tuyển chọn công chức phải qua các kỳ thi công khai và công bằng. Đồng thời, chúng ta cũng nên tạo thông lệ tốt là cấm bố con, mẹ con hay anh em cùng làm trong một cơ quan. Chúng ta nên sử dụng linh hoạt kinh nghiệm Nhật Bản. 7.3 Chế độ lương bổng cho công chức phải được triệt để cải thiện ngõ hầu tạo điều kịên cho họ có một cuộc sống trên trung bình bằng đồng lương của mình. 7.4 Nên chăng Bộ Giáo dục & Đào tạo nghiên cứu cải thiện triệt để chế độ chuyên tu và tại chức vì chế độ này đang bị các tham quan lạm dụng. 7.5 Chúng ta thấy rõ ràng là các cán bộ thoái hoá đã và đang coi thường luật pháp. Chỉ khi đổ bể thì cán bộ cấp dưới mới lãnh hình phạt còn cấp lãnh đạo thì vẫn bình chân như vại! Nên chăng chúng ta nghiên cứu cách xử lý kiên quyết của Trung Quốc trong việc chống tham nhũng của họ, nghĩa là phán xử nghiêm minh các tham quan bất kỳ họ ở địa vị nào. 7.6 Đồng thời chúng ta nên tuyên dương và khen thưởng các gương liêm khiết và chính trực. Trên đây là một số biện pháp mà tôi thiển nghĩ sẽ có thể cải thiện phần nào nền hành chính nước ta. Tuy nhiên để có một kế sách đồng bộ, nên chăng Quốc hội nước ta tạo ra một ủy ban chuyên trách về cải cách hành chính để điều nghiên và đề khởi các kế sách tối ưu. Sau đây tôi xin bàn về những thủ tục hành chính cần cải tiến và một vài suy tư nhằm cải thiện chế độ thuế má nước ta Thủ tục rườm rà gây tổn thất đáng kể cho nước nhà Ta thấy thủ tục rườm rà làm mất thì giờ của nhân dân và cán bộ công chức : Ta thử cộng lại thì giờ tiêu hao của dân chúng và cán bộ công chức vì những thủ tục này thì sẽ thấy tổn thất đáng kể. Thì giờ này lẽ ra phải dùng vào các việc có tính cách sản xuất : Người dân phải bỏ công việc để làm thủ tục hành chính, gây ảnh hưởng tới sản xuất. Nhân dân phải đi lại các cơ quan nhiều lần phải tốn phí giao thông. Ta thử cộng lại phí giao thông và thì giờ lãng phí trong các thủ tục hành chính thì sẽ có tổn thất tổng gộp gây ra bởi thủ tục hành chính rườm rà và lỗi thời. Nên chăng chúng ta nghiên cứu thay đổi các thủ tục lỗi thời Tôi nói lỗi thời vì một số thủ tục thông dụng trong thời kỳ bao cấp, nay không hợp thời nữa vẫn được tiếp tục tạo thành rào cản không cần thiết cho nhân dân và doanh nhân. Việc quản lý hộ khẩu phát sinh trong thời kỳ bao cấp khi tất cả vật tư và sản phẩm đều phải cung cấp theo tem phiếu. Nay chúng ta đã đổi mới được hơn mười năm, chế độ cung cấp theo tem phiếu không còn nữa. Vậy chúng ta quản lý hộ khẩu vào mục đích gì? Hiện nay, tại một số đô thị lớn, mục đích chính của việc quản lý hộ khẩu là nhằm điều chỉnh dân số để tránh tình trạng quá tải do mật độ dân số đô thị quá cao. UBND một số đô thị lớn đòi hỏi phải có hộ khẩu trong thủ tục đăng ký nhà đất. Tôi thông cảm với UBND các đô thị lớn về nhu cầu điều chỉnh dân số này. Tuy nhiên nhà chức trách phải tìm những biện pháp khác hơn là hạn chế quyền tự do cư trú của nhân dân. Ở Nhật Bản, sau thế chiến thứ hai, trong tình trạng thiếu lương thực trầm trọng, chính phủ NB cũng quản lý sổ hộ tịch (tương đương với sổ hộ khẩu của ta). Phải có sổ hộ tịch thì mới được cấp sổ mua gạo (Beikoku Tsucho). Chế độ này y như chế độ tem phiếu trong thời bao cấp ở nước ta. Tuy nhiên chỉ 5 – 10 năm sau (Thập niên 1950) khi kinh tế ổn định và tình hình cung cấp lương thực được cải thiện, chính phủ NB đã bãi bỏ việc cấp sổ mua gạo, và từ đó họ chuyển trọng tâm quản lý cư dân sang việc quản lý địa chỉ cư trú. Gần đây, truyền hình huyện Vân Đồn có đăng thông báo tuyển sinh cho trường trung học phổ thông của Huyện, đòi hỏi học sinh phải có hộ khẩu tại Vân Đồn mới được nộp đơn. Như vậy nếu bố mẹ học sinh có nhu cầu làm việc tại Vân Đồn sẽ phải chuyển hộ khẩu thì con cái mới có điều kiện học hành! Nếu chúng ta chuyển qua quản lý địa chỉ cư trú và chỉ đòi hỏi giấy chứng nhận cư trú khi xin nhập học thì đỡ phiền hà cho dân chúng rất nhiều. Cần cải tổ chế độ thuế để tạo ngân sách tăng lương cho công chức 1. Thuế cư dân Nhà nước nên thiết lập hệ thống thuế cư dân như rất nhiều nước tiên tiến đã và đang thực thi. Như đã nêu trên, Nhât Bản hiện đặt trọng tâm quản lý cư dân vào việc quản lý địa chỉ cư trú. Dân chúng Nhật được tự do cư trú tại bất cứ nơi nào trên đất nước của họ với nghĩa vụ phải đăng ký cư trú tại quận hay huyện nơi cư trú. Sau khi đăng ký cư trú, họ sẽ được hưởng mọi quyền lợi như các cư dân khác : con cái được nhập họp các trường công lập cấp 1 (tiểu học) và cấp 2 (trung học cơ sở; Nhật Bản cưỡng bách giáo dục tới hết cấp 2), được khám bệnh tại bất kỳ bệnh viện công nào trong khu vực bằng thẻ bảo hiểm y tế, v.v. . Lấy ngày đầu năm Dương lịch làm mốc, tại ngày này, người dân đăng ký cư trú ở đâu thì phải đóng thuế cư dân trong năm đó cho quận hay huyện nơi đăng ký. Thuế cư dân lũy tiến theo thu nhập của đương sự. Đây là nguồn thu ngân sách quan trọng cho UBND quận (huyện) để trả lương cho cán bộ công chức. 2. Triệt để thu thuế thu nhập Nhà nước nên tìm phương pháp triệt để thu thuế thu nhập bằng cách giao cho các công ty hay pháp nhân nghĩa vụ nộp thuế thu nhập của công nhân viên trong công ty hay pháp nhân của mình. Ở nước ta hình như chỉ các công ty liên doanh với nước ngoài hoặc 100% vốn nước ngoài triệt để thực thi điều này. Ở Nhật Bản chẳng hạn, công ty có 7 công nhân viên trở lên bị buộc phải khai và đóng thuế cho công nhân viên hàng tháng. Công ty sẽ khấu trừ thuế thu nhập, thuế cư dân, tiền đóng vào quỹ hưu trí, phí bảo hiểm thất nghiệp, phí bảo hiểm y tế rồi trả phần lương còn lại cho công nhân viên thường là bằng cách chuyển vào tài khỏan cá nhân của họ. Sau đó, công ty sẽ thay mặt nhân viên đóng các loại thuế và phí nêu trên. Ở nước ta, tiền đóng vào quỹ hưu trí và phí bảo hiểm thất nghiệp gộp vào thành phí bảo hiểm xã hội. Nên chăng chúng ta quản lý việc thu thuế thu nhập chặt chẽ hơn bằng cách áp dụng linh họat kinh nghiệm của Nhật Bản. 3. Thuế thừa kế Loại thuế này rất phổ biến ở các nước tiên tiến. Nó vừa tăng thu cho ngân sách nhà nước vừa giúp tái phân phối tài sản trong dân gian, làm giảm khoảng cách giàu nghèo. Ở Nhật Bản chẳng hạn, đối với những tài sản thừa kế lớn, mức thuế có thể lên tới 50% (trên 300 triệu Yen = khoảng 2.7 triệu USD). Cũng tại Nhật Bản, lúc bố mẹ còn sống nếu cho con cái quá 1,1 triệu Yen (Khỏang 10.000 USD) / năm, thì người con phải khai và đóng thuế thu nhập cho phần thặng dư. 4. Thuế “không xây dựng” và thuế lợi đắc đầu tư (Capital gain tax - CGT) Gọi X là giá mua, Y là giá bán, n là số năm sau khi mua, R là thuế xuất, CGT = R [ Y - X (1.07) ⁿ ] Từ lợi đắc đầu tư, mỗi năm người bán được khấu trừ 7% (tương đương với tiền lời tiết kiệm tại ngân hàng). Loại thuế này rất thịnh hành tại các nước Tây Âu. Tỉ dụ ở Bỉ trong thập niên 1990, R = 33.33%. Nghĩa là sau khi khấu trừ, người bán nhà đất phải trả cho nhà nước 1/3 lợi đắc đầu tư. Sau 07 năm, người bán sẽ khỏi phải đóng CGT. Nhật Bản và các nước Âu Mỹ không hạn chế việc người nước ngòai mua bán bất động sản vì người nước ngoài mua bất động sản là họ đầu tư tạo công ăn việc làm cho dân bản xứ, họ phải đóng thuế trước bạ và tùy trường hợp, thuế “không xây dựng và CGT, tăng thu cho ngân sách nhà nước và địa phương. Ở Bruxelles, thủ đô của Bỉ, người nước ngoài hiện sở hữu khỏang 1/3 tổng giá trị bất động sản, nhưng dân chúng Bruxelles có mức sống vào bậc cao nhất trong EC! Tóm lại hai loại thuế nêu trên ngoài việc tăng thu ngân sách, giúp ổn định thị trường bất động sản một cách hữu hiệu. Vũ Tất Thắng (Giảng viên MBA) Trang Thời Sự |