 |
07 tháng 6, 2008
|
Cách đây vài hôm, tới nhà một người bạn thân, được anh ấy cho
xem cái email
bài của Nguyễn Trọng Văn phàn nàn Nguyễn Văn Trung
động chạm tới anh ấy (không thể chấp nhận được) trong một bài
viết đăng trên Văn học, xuất bản tại Hoa kỳ. Tưởng chỉ
là thư riêng nhưng hôm sau mở talawas thì thấy đã công bố rồi.
Anh Nguyễn Trọng Văn không nói rõ ngày xuất hiện bài báo mang
tên “Văn học hải ngoại?” đăng trên tờ Văn học ở Mỹ đó
(do nhà văn Nguyễn Mộng Giác chủ trì), nhưng tôi biết đó là số
Văn học tháng 8 năm 1995. Một số báo cách đây đã 13 năm
rồi (bao nhiêu nước chảy qua cầu!). Tôi đã có được bài báo ngay
sau khi nó vừa xuất hiện, qua một con đường thật đáng nhớ: do
chính Nguyễn Văn Trung photo ra và nhờ một người quen chuyển
giùm.
Đọc xong bài ấy tôi không nói gì, nhưng ít lâu lại nhận được một
bài khác cũng của Nguyễn Văn Trung viết tiếp về tôi (chưa đăng)
và yêu cầu cho biết ý kiến. Đắn đo mãi tôi mới có bài trả lời
riêng cho anh, không có ý công bố, nhưng đồng thời lại gửi cho
một vài người thân (vừa quen Trung vừa quen tôi) để đọc cho
biết. Có lẽ vì vậy mà không lâu sau khi chuyển cho Trung, bức
thư đó đã xuất hiện trên một Phụ bản của Tin nhà ở
Paris, số tháng chạp năm 1995 mang tựa đề: “Bên lề cuộc đối
thoại dân chủ: Lữ Phương – Nguyễn Kiến Giang và Nguyễn Văn
Trung”, trong đó mối quan hệ giữa tôi và Nguyễn Văn Trung chỉ
còn giữ một phần nhỏ so với chủ đề của Phụ bản ấy.
Tưởng mọi thứ đã xong, nhưng điều bất ngờ với tôi là sau sự xuất
hiện của tài liệu đó một thời gian không lâu, từ Canada về Việt
Nam, Nguyễn Văn Trung đã chủ động tìm cách đến gặp tôi, để sau
hơn hai giờ lời qua tiếng lại, chúng tôi bỗng hiểu nhau hơn rất
nhiều và mọi căng thẳng cũ bỗng tan biến đi tất cả. Một sự thoả
thuận không nói ra giữa tôi và anh đã hình thành từ đó cho đến
bây giờ: tôi và Trung không ai còn muốn gặp nhau nữa, cũng không
cần nhắc lại chuyện cũ làm gì chỉ làm cho tuổi già buồn thêm.
Hãy để nó thuộc về quá khứ.
Nhưng bây giờ thì điều đó không còn giữ được nữa khi Nguyễn
Trọng Văn lên tiếng trên talawas. Với bài viết ngắn ngủi của
mình, anh Văn đã khơi dậy chuyện 13 năm về trước và trong khi
đính chính cho mình nhiều điều (và cả cho tôi một ít) bài viết
của anh lại vô tình mở ra một khoảng trống dồn về đó tất cả sự
đả kích rất nặng nề của Nguyễn Văn Trung đối với tôi, điều mà
anh Văn cho rằng không biết như thế nào và tất nhiên không thể
nào không làm tôi bối rối trước một kỷ niệm mà tôi muốn quên đi
từ lâu.
Theo lời khuyên của người bạn thân tôi định viết một bài về
Nguyễn Văn Trung để làm rõ ra mọi chuyện, nhưng nghĩ đi nghĩ lại
tôi từ bỏ ý định ấy mà chỉ nhân bài viết của anh Văn, nhờ
talawas cho công bố lại bức thư tôi gửi Nguyễn Văn Trung đã xuất
hiện trên Phụ bản Tin nhà năm 1995, dù sao cũng đã trở
thành một thứ chứng từ, tuy chỉ là những uẩn khúc riêng tư giữa
những cá nhân, nhưng không chừng, có thể trở thành một tư liệu
sống, biết đâu giúp được những bạn đọc ngày nay hiểu thêm phần
nào tình trạng phân liệt của thế hệ những người như chúng tôi
trước những chuyển động về thời thế ở miền Nam sau 1975.
*
Thư của Nguyễn Văn Trung gửi Lữ Phương:
“Có chết cũng
không nói ra lời…”
Anh Lữ Phương,
(…)
Anh tưởng và tin anh có giá ở trong nước và ngoài nước vì cái
mác “đối lập”. Thiết tưởng cứ để anh tưởng và tin như vậy nếu
anh chỉ ở trong nước. Nhưng nếu anh được ra nước ngoài theo lời
mời của những tổ chức Âu Châu hay Bắc Mỹ, tôi e ngại có sự có
mặt của anh có thể gây ra những xô xát giữa những người ca tụng
anh bây giờ và những người đã ca tụng anh hồi 1966, đặc biệt
những người lính chiến thám báo hay nhảy dù! Trương Hồng, Khánh
Băng nếu họ còn sống và sau khi đọc bài của Vũ Hạnh. Chính anh
cũng có khả năng và bị ăn đòn và mất mạng… Đó là một viễn tượng
tôi không muốn thấy xảy ra trong cộng đồng người Việt ở nước
ngoài chỉ vì không hiểu rõ được “thực chất và huyền thoại” của
Lữ Phương, một chuyên đề mà anh định viết về thực chất và huyền
thoại của cộng sản Việt Nam. Để góp phần giải toả viễn tượng kể
trên, tôi thiết lập một hồ sơ đầy đủ về anh, tôi sẽ gửi cho tạp
chí Đối thoại ở Hoa Kỳ đăng, nếu Đối thoại
không chịu, tôi gửi cho Làng Văn ở Canada.
Để chuẩn bị chuyến đi, tôi gửi hai câu hỏi sau đây:
Anh có nhìn nhận đã liên đới chịu trách nhiệm những hành động
khủng bố trí thức, văn nghệ sĩ miền Nam sau 75 và nếu có, anh có
sẵn sàng xin những nạn nhân tha thứ cho anh không?
Anh cùng đi một con thuyền với Đảng, lúc đang lên và chiến
thắng. Bây giờ con thuyền đó đó gặp thử thách, anh vội nhảy ra
khỏi và lên tiếng phê phán đả kích nó như thể anh không dính líu
gì cả với quá khứ của nó. Tuy nhiên, những đồng chí cũ của anh
vẫn tiếp tục đối xử tử tế với anh, chưa có lời nói nào phê phán
anh công khai hay rút lại những quyền lợi vật chất đã cung cấp
cho anh và vẫn sẵn sàng giúp đỡ anh… Vì thế chỉ khi nào anh lên
tiếng chính thức ra khỏi Đảng, trả lại mọi quyền lợi, lúc đó dư
luận mới có thể tin phần nào những điều anh nói, viết.
(…)
Mấy điều tôi viết trên được trao cho anh đọc trước hết. Tôi sẽ
chuyển cho tạp chí Văn học nếu anh muốn, những phản ứng
của anh, như anh đã nói trao đổi trên giấy trắng mực đen, sự
việc có thực và cụ thể có thể kiểm chứng được, không phải nghe
tin đồn. Nhưng thành thực mà nói, tôi nghĩ anh nên im lặng,
nhiều đảng viên hay cựu đảng viên mà tôi quen biết, đã hy sinh
phấn đấu gian khổ tù tội hơn anh bội phần, nhưng vì tự trọng
không thể phê bình chửi lại một lý thuyết đã coi là lý tưởng hay
một đảng mà mình đã tham gia phục vụ, nên chỉ còn biết im lặng,
có chết cũng không nóí ra lời (…)
Nguyễn Văn Trung
Sài Gòn, 28-9-1995
*
Thư của Lữ Phương trả lời Nguyễn Văn Trung:
“Hình như
anh đã chuyển nghề…”
Sài Gòn, ngày 27 tháng 11 năm 1995
Anh Nguyễn Văn Trung,
Tôi đã nhận được photo hai bài anh viết về tôi, do anh nhờ Hồ
Hữu Nhựt (ở Ban Khoa học Xã hội Tp HCM) chuyển: bài “Văn học Hải
ngoại?” (đã đăng trên tạp chí Văn học, số tháng 8-1995,
xuất bản tại Hoa Kỳ) và bài “Trường hợp Lữ Phương”, anh viết
xong tại Sài Gòn ngày 28-9-1995 (anh hỏi tôi nếu đồng ý anh sẽ
công bố) trong dịp từ Canada về thăm nhà lần thứ ba.
Thú thật, đọc xong hai bài ấy, cho đến giờ, đã hơi lâu rồi, tôi
vẫn chưa hết ngạc nhiên, vẫn chưa hiểu tại sao lại có sự quay
ngoắt của anh đối với tôi – đến 180 độ – vì thế tôi đã định
không trả lời anh. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, thái độ ấy với anh có
vẻ không phải phép lắm (dù sao tôi quen anh khá lâu, đã từng
biết anh như một giáo sư triết học, đã từng gặp gỡ rất nhiều lần
uống cà phê và bàn luận với anh về văn nghệ tư tưởng…) cho nên
vượt qua những do dự, tôi viết gửi anh mấy dòng sau đây, hoàn
toàn không có chút hy vọng “giải thích” với anh những ngộ nhận
nào đó đã xảy ra, mà chỉ để anh biết rằng cho đến giờ tôi vẫn
chưa hiểu về anh nhiều lắm, và do đó vẫn chưa biết sẽ phải ứng
xử với anh thế nào cho thích hợp khi đọc xong những gì anh đã
bất ngờ viết về tôi như vậy.
Tức thời tôi chỉ muốn nói với anh điều sau đây: hoàn toàn tuỳ ý
anh, anh có thể công bố bài “Trường hợp Lữ Phương” trên bất cứ
báo nào anh muốn. Anh cũng có thể viết thêm hằng loạt những bài
khác tố cáo những việc tôi đã làm, đã viết trước đây, anh cũng
có thể “thiết lập” ra một, hai hay ba “hồ sơ đầy đủ” về tôi rồi
gửi cho bất cứ nơi nào anh muốn – để cho cộng đồng người Việt ở
nước ngoài hiểu rõ “thực chất và huyền thoại” về tôi (như anh
nói). Tất cả đều… tốt thôi! Anh cứ làm những việc đó mà khỏi cần
màu mè làm ra vẻ “trao” cho tôi đọc “trước hết” – bài “Trường
hợp Lữ Phương” – rồi sau khi khuyên tôi “chết cũng không nói ra
lời” (nghĩa là đừng trả lời anh và đừng tiếp tục phê phán chế độ
đương quyền nữa) thì lại vu vơ cho biết nếu tôi “muốn” anh sẽ
“trao cho Văn học”. Anh cũng không nên làm ra vẻ “giả
nai” gán cho người này người khác những lời lẽ đả kích tôi (anh
nói Làng Văn cho rằng “Đảng bỏ Lữ Phương nhưng Lữ
Phương không bỏ Đảng”), trong khi những lời lẽ ấy chính lại là
của anh chứ không phải của ai khác. Trước đó anh đã cho đăng bài
“Văn học hải ngoại?” tố cáo tôi đủ tội, nhưng khi gặp tôi tại
Sài Gòn vào tháng 9 vừa qua, anh không nói gì cả và vẫn ngồi
uống bia với tôi cùng một người bạn nữa – để rồi trước khi về
Canada, anh mới qua Hồ Hữu Nhựt đưa cho tôi – cùng với bài
“Trường hợp Lữ Phương” anh vừa viết thêm… và trong khi làm như
vậy thì anh cũng đã photo cho các người khác hai bài ấy rồi. Anh
muốn làm gì thì cứ làm đường hoàng, khỏi cần phải nhấp nhứ quanh
co hăm doạ, mất công lắm. Chẳng lẽ anh không nhớ ra rằng tuy
tuổi tôi nhỏ hơn anh, nhưng tóc tôi đã bắt đầu có nhiều sợi bạc
rồi hay sao?
Anh hãy tin rằng – tôi vẫn cố giữ những lời mình đã hứa – tôi sẽ
không có dòng nào trả lời một cách công khai bất cứ những gì anh
viết về tôi theo cách mà anh đã viết trong hai bài anh đã viết.
Anh cứ tha hồ dựng đứng sự việc – trong sách vở lẫn đời tư,
trong văn học lẫn chính trị – để bôi nhọ, kích động dư luận “hải
ngoại” với tôi. Tôi sẽ không nói gì hết, mặc dù với những chuyện
anh đã viết, tôi có thể căn cứ vào đó kiện anh về tội vu khống.
Nói vậy thôi chứ thực sự tôi hiểu vấn đề không phải nằm ở đó. Do
đã quen nhau khá lâu (từ trước 1975) không có gì thù oán với
anh, trong thâm tâm tôi vẫn nghĩ rằng anh cũng biết rõ những
điều anh đã viết về tôi là không phải như vậy và có lẽ vì một lý
do nào đó anh phải viết như vậy, không phải với tôi mà với cả
một số người khác nữa (vốn chẳng xa lạ gì với anh). Chưa hiểu
thật rõ mục đích của anh, tôi tạm thời theo gương một người đã
bị anh mạ lỵ rất nặng nề (và rất thô tục nữa) im lặng, không
phải vì ngán anh mà chỉ vì không muốn nhặt rác rưởi, cứt đái ném
vào cái môi trường chữ nghĩa đây đó, vốn thối tha từ lâu rồi. Vì
thế xin anh cứ việc tiếp tục dùng những biện pháp đã làm để thực
hiện cái chương trình nào đó mà tôi đoán anh đang theo đuổi khi
rời Việt Nam ra định cư ở nước ngoài. Tôi thật sự không biết rõ
chương trình ấy là gì nhưng cũng xin được nói với anh cảm nghĩ
sau đây của một vài người hiểu anh khá rõ sau khi đã đọc loạt
bài anh viết về những người vốn là bạn cũ của anh: dường như anh
đã chuyển nghề rồi thì phải?
Phần tôi nói thật với anh tôi vẫn chưa hề xác quyết một điều gì
thật chắc chắn về anh cả, vì dù sao tôi vẫn chưa thể quên những
ấn tượng khá lành mạnh khi tôi tìm đến những cuốn sách mà anh
viết ra hồi tôi mới vào đời. Cũng vì những lý do rất xưa cũ đó,
tôi muốn thành thật nói với anh rằng: không phải là như thế
cái điều mà anh đã viết về tôi sau đây – về cái bài có tên
là “Mấy suy nghĩ về các xu hướng gọi là ‘cách mạng xã hội không
cộng sản’ ở miền Nam” trước đây mà tôi đã phát biểu ở một hội
nghị do Viện Triết học tổ chức ở Sài Gòn sau 1975 không lâu, có
anh tham dự, và hiện nay tôi biết anh đã “sưu tầm” được và giữ
rất kỹ trong “hồ sơ” của anh. Tôi chắc chắn rằng những gì tôi
viết ở đó không thể nào gây ra hiểu lầm được; nhưng tôi đã ngạc
nhiên đến độ bàng hoàng, không hiểu sao với bài “Trường hợp Lữ
Phương” mà anh cho biết anh có thể sẽ gửi đăng trên Văn học
ở Mỹ, anh lại có thể viết ra câu sau đây: “Những tố cáo
‘Cách mạng xã hội không cộng sản’ của Lữ Phương cũng góp phần
đưa tôi vào nhà tù, nằm cả tháng trong một cachot mờ mờ, chỉ
mong được đi thẩm vấn để thấy ánh sáng mặt trời và nghe tiếng
người”! Anh chẳng thấy như vậy là đổi trắng thay đen, là vô
ơn bạc nghĩa hay sao? Cái gì khiến anh phải như vậy? Chẳng lẽ
anh đọc mà không hiểu rằng những gì mà tôi trình bày trong bài
tham luận ấy và cả trong cuốn Cuộc xâm lăng văn hoá và tư
tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam đã được viết ra
với mục đích cố ý bao che cho anh khỏi bị cái “tội CIA” mà bấy
giờ ở Sài Gòn không thiếu gì người (không nhất thiết là cộng
sản) đã cho là như thế, mà về phần tôi, tuy chẳng biết đúng sai
như thế nào, nhưng do không quên những gì đã đọc sách của anh
hồi tôi còn đi học, tôi cứ nhất định không tin. Tôi đã nói với
anh rằng những bịa đặt (phải nói là trắng trợn) mà anh đã dựng
nên, đầy dẫy trong hai bài đã viết của anh, có thể sẽ tiếp tục
trong các bài viết khác, tôi không cần phải đính chính làm gì,
nhưng do cái việc tù đày mà anh nói trên đã đụng chạm trực tiếp
đến sự quen biết giữa tôi và anh như một con người với một con
người, theo cái truyền thống miền Nam này, nên buộc lòng tôi
phải nhắc lại một chút thế thôi – gửi kèm theo đây đoạn tôi đã
phát biểu trong hội nghị nói trên về cái gọi là “cách mạng xã
hội không cộng sản” của anh. Anh có nhớ hay làm bộ không nhớ,
chấp nhận hay chối dài để tiếp tục cái phương pháp đã dùng để
thực hiện cái chương trình gì đó của anh, cũng chẳng sao. Chỉ
xin yêu cầu anh khi về Việt Nam, nếu đàng hoàng, anh hãy dẫn tôi
đến gặp cái cơ quan “chức năng” nào đã bỏ tù anh suốt mấy tháng
trời để nghe họ khẳng định xem có phải anh bị bắt vì bài “tố cáo
cách mạng không cộng sản” của tôi hay không? Anh hãy trả lời
tôi: anh có làm được điều đó hay không?
Tôi nhận thấy là kỳ cục khi phải nói với một người đã từng quen
biết với tôi về văn chương chữ nghĩa những lời như vậy, nếu viết
tiếp chắc sẽ khó tránh khỏi buồn bã thêm. Tôi xin ngưng lại và
muốn nhắc lại với anh điều tôi đã nói: anh hãy cứ tiếp tục công
việc của anh một cách thoải mái và hãy giả định rằng từ nay trở
đi mối quan hệ giữa tôi và anh sẽ không còn như xưa nữa, nên
không cần phải hỏi han, hù doạ nữa. Không phải tôi tức giận và
chơi trò “đoạn tuyệt” với anh đâu – những gì anh viết về tôi là
“quá sức tưởng tượng” đến nỗi tôi chưa thể tức giận được – mà vì
bây giờ (qua hai bài viết của anh) dường như tôi có vẻ hơi
“khôn” ra một chút (dù có hơi muộn màng), nhất quyết không để
anh tiếp cận, chơi bời, nhậu nhẹt, ở trên mảnh đất này, để rồi
sau đó khi rời bỏ nó, anh đã sử dụng sự quen biết đó như một một
thứ bảo chứng phục vụ cho những toan tính văn hoá và chính trị
của anh. Dù sao cũng cám ơn anh về việc anh đã gửi cho tôi hai
bài anh viết về tôi. Chúc anh sức khoẻ và thành đạt nơi quê
người.
Lữ Phương
*
Lữ Phương
Mấy ý kiến về các xu hướng gọi là “cách mạng xã hội
không cộng sản” ở miền Nam trước đây
(…)
Khác với Lập trường là cơ quan tranh đấu, Hành
trình chỉ là một tạp chí mang màu sắc trí thức, suy nghĩ
đặt vấn đề hơn là vạch ra chương trình hành động thực tế. Đây là
nơi quy tụ một số cây bút trí thức trẻ – chủ yếu là Công giáo có
khuynh hướng tự do – có ảnh hưởng trong quần chúng thanh niên,
sinh viên, giáo chứ trẻ. Ngoài các bài viết về các vấn đề tôn
giáo, văn nghệ, tạp chí này đã có một loạt bài đề cập liên tục
đến vấn đề “cách mạng xã hội không cộng sản” một cách có hệ
thống, trong đó quan trọng nhất là nhiều bài của Nguyễn Văn
Trung và Lý Chánh Trung. Tuy hai tác giả này có nhiều điểm không
giống nhau về lập luận nhưng cả hai đều khởi đầu từ tình trạng
bất công, nghèo đói, thối nát của xã hội miền Nam để đặt vấn đề
cách mạng, coi cách mạng như là nhu cầu bức thiết của quần
chúng. Chính vì đặt vấn đề như vậy mà họ thừa nhận tính chất hợp
lý của phong trào cộng sản, cho đó chỉ là phản ứng tất yếu của
của xã hội. Từ quan điểm căn bản ấy, họ không chấp nhận cơ cấu
tổ chức bất bình đẳng của xã hội, không đồng tình với biện pháp
can thiệp của Mỹ, thuần quân sự và xâm phạm chủ quyền của miền
Nam, những biện pháp ấy chỉ càng hợp lý hoá cho đường lối cách
mạng cộng sản, càng đẩy quần chúng về phía “bên kia”. Những
người “quốc gia” không chấp nhận cách mạng cộng sản – vì cho đó
là “độc tài”, “trả giá đắt” – chỉ có một con đường tự cứu là
tiến hành một cuộc cách mạng xã hội: cách mạng xã hội sẽ triệt
tiêu nguồn gốc phát khởi các phong trào cộng sản, sẽ tranh thủ
được nhân tâm, tạo được thế lực để giành lại chủ động với Mỹ
trong trường hợp phải thương lượng chấm dứt chiến tranh. Nói tóm
lại là để khỏi hoàn toàn nô lệ Mỹ nhưng cũng khỏi mất tất cả về
tay cộng sản. Phương hướng nói chung thì như vậy, còn đi vào
những vấn đề cụ thể như vấn đề lãnh đạo, lực lượng tổ chức… thì
các tác giả ấy lại tỏ ra hết sức lún túng. Người thì giao sứ
mệnh cho từng lớp thanh niên, trí thức, người thì nói phải dựa
vào những người lao động và kêu gọi tinh thần khoan dung. Cái
tên gọi cũng không đồng nhất: lúc thì “cách mạng không cộng
sản”, lúc thì “cách mạng xã hội chủ nghĩa không cộng sản”, “cách
mạng của người nghèo”… không từ ngữ nào được giải thích đầy đủ,
cụ thể. Đúng chỉ là những suy tưởng nặng về tự biện và ước mơ.
Tôi nhận thấy dấu vết của quan điểm tiểu tư sản đã biểu lộ rất
rõ nét trong thứ “cách mạng không cộng sản” này. Ở đây có những
bất bình vì bất công áp bức, có sự phẫn nộ vì đất nước bị quân
đội viễn chinh Mỹ tràn ngập, nhưng ở đây cũng có rất nhiều nhận
thức mơ hồ về chính sách xâm lược kiểu mới của Mỹ mặc dù đã biết
cảnh giác, nhiều nhận định sai lạc, ngộ nhận về chủ nghĩa cộng
sản. Nhưng chính những điều đó đã phản ảnh cái chỗ đứng không
vững chắc của từng lớp trung gian trước các thế lực căn bản của
xã hội, phản ánh nhiều ảo tưởng cải lương của nhiều người trí
thức còn đứng bên ngoài cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân
lao động, chưa hiểu được quy luật phát triển của lịch sử và chưa
bắt kịp được những chuyển động của lịch sử. Tất cả những giới
hạn này, chỉ trong một thời gian không lâu sau đó đã tự phơi
trần trước thực tế khiến một số người chủ trương thứ “cách mạng”
này phải đặt lại những duy nghĩ của mình từ một thế đứng thiết
thực hơn.
(…)
(Trích bài phát biểu tại Hội nghị do Viện Triết học tổ chức tại
Sài Gòn năm 1978)
© 2008 talawas
nguồn: https://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=13323&rb=0306