|
21 tháng 4, 2010 |
1
2
3
4
Sơ Lược Về Chức Tổng Thống Hoa Kỳ
Tính từ khi lập quốc vào năm 1776 đến nay, Hoa
Kỳ đã có 43 vị do nhân dân trực tiếp bầu chọn đưa lên làm tổng thống lãnh đạo
đất nước, và một vị được đưa lên theo Hiến Pháp qui định. Đó là Tổng Thống
Gerald R. Ford, thay thế cho Tổng Thống Richard M. Nixon từ chức vì lỗi lầm liên
quan đến vụ Watergate (Watergate affair).
Trong số 44 vi tổng thống Mỹ, Tổng Thống
Franklin D Roosevelt là người cầm quyền lâu nhất. Thời gian ông tại chức là 12
năm 1 tháng 8 ngày. (Tính từ ngày ông tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ đầu tiên vào
ngày 4 tháng 3 năm 1933 đến ngày 12 tháng 4 năm 1945 (ngày ông qua đời vì bệnh
xuất huyết não). Người cầm quyền ngắn ngủi nhất là Tổng Thống William Henry
Harrison (1773-1841), ông cầm quyền vỏn vẹn có 31 ngày (nhậm chức ngày 4 tháng 3
năm 1841 và từ trần đột ngột vì bệnh sưng phổi vào ngày 4/4/1841).
Trước năm 1933, các vị tổng thống và phó mới
đắc cử tuyên thệ nhậm chức vào 12 giờ trưa ngày 4 tháng 3 năm kế tiếp. Tu Chính
Hiến XX ra đời vào năm 1933 quy định rằng tổng thống và phó tổng thống vừa mới
đắc cử sẽ tuyên thệ nhậm chức vào 12 giờ trưa ngày 20 tháng 1 năm kế tiếp. Các
thượng nghị sĩ và dân biểu Quốc Hội Liên Bang mới đắc cử sẽ nhậm chức vào 12 giờ
trưa ngày 3 tháng 1 năm kế tiếp.
Năm 1951, Tu Chính Hiến XXIII giới hạn số năm
tại chức của một vi tổng thống là không quá 10 năm hay không quá hai nhiệm kỳ.
Trong 44 vị tổng thống Mỹ, có vào khoảng từ 4
đến 6 vị đã có công nghiệp vô cùng lớn lao với đất nước và nhân dân Mỹ. Vì vậy,
họ được nhân dân vô cùng kính mến và đời đời ghi ơn. Chúng tôi xin đề cập qua
bốn chương dưới đây.
Qui luật lịch sử gần giống như các qui luật khoa học.
Khi viết những biến động lịch sử, hay thời thế đã tạo ra những anh hùng nước
Mỹ, chúng tôi không thể không nghĩ đến trường hợp xứ ta. Vậy trong mỗi
chương, chúng tôi sẽ đưa ra sự tương
đồng hay khác nhau về một vài sự kiện
trong khung cảnh lịch sử giừa Hoa
Kỳ và Việt Nam.
I.- TỔNG THỐNG GEORGE WASHINGTON
(22/2/1732 - 14/12/1799)

Ông là dân thuộc địa gốc Anh, xuất thân từ một
gia đình điền chủ giầu có ở thuộc địa Virgina. Cuối năm 1752 (mới có 20 tuổi),
ông được Thống Đốc Robert Dinwiddie bổ nhiệm ông làm tư lệnh một trong 4 đạo
dân quân trong tiểu bang này. Năm sau (1733), ông được đưa lên lãnh đạo một chi
hội Hội Tam Điểm (Master Mason) tại Fredercksburg (một thành phố độc lập nằm
trong thuộc địa Virginia, cách Washington D. C. khoảng 50 dặm về phía nam.)
Cũng nên biết Hội Tam Điểm ra đời ở Âu Châu vào
cuối thế kỷ 16 hay đầu thế kỷ 17 rồi lan tràn đi khắp mọi nơi trên thế giới
theo bước chân của nhà thờ Vatican. Mục đích tối hậu của hội là truất bỏ mọi
quyền lực của Giáo Hội La Mã để đem lại tình thương cho con người và công bằng
cho xã hội đúng như một nhà sử học đã ghi nhận: “Mục tiêu của hội này là
triệt hạ tất cả những tôn giáo, nhất là Thiên Chúa Giáo để xây dựng 1 tòa nhà lý
tưởng cho nhân loại.”[1]
Ngay khi cuộc chiến giữa Anh và Pháp
tại Bắc Mỹ (1754-1763) vừa mới bùng nổ, ông George Washington được Thống Đốc Robert
Dinwiddie thăng lên chức trung tá nắm giữ chức tư lệnh dân quân thuộc địa
Virginia và trao cho nhiệm vụ tấn công đồn Fort Duquesne. Trong thời gian ở
quân đội, ông chán nản vì có sự kỳ thị giữa người Anh và người dân thuộc địa.
Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục chiến đấu, hoàn thành nhiệm vụ này và đẩy lui quân
Pháp về Canada vào năm 1758. Ngay sau đó, ông từ giã quân đội trở về nhà lập gia
đình vào năm 1759 và vui thú điền viên ở
trên ngọn đồi “Mount
Vernon”.
Thế nhưng, với cái tuổi chưa tới 30 tràn đầy
sức sống, ông không thể không bị ảnh hưởng bởi thời cuộc và bởi những bạn bè có
thế lực. Vì vậy, ông lại phải dấn thân tham gia vào các hoạt động chính trị,
được chọn bầu vào cơ quan lập pháp của thuộc địa Virginia và làm việc trong cơ
quan này từ năm 1759 đến năm 1774, rồi trở thành một lãnh tụ chính trị chống
chính sách của Đế Quốc Anh tại Bắc Mỹ.
Năm 1774, không khí chống Anh trở nên sôi nổi.
Hội Nghi Lục Địa (Continental Congress) được thành lập, ông được đề cử làm đại
biểu của thuộc địa Virgina trong Hội Nghị này và liên tục làm việc ở trong cả Đệ
Nhất Hội Nghị Lục Địa (First Continental Congress) và Đệ Nhị Hội Nghị Lục Địa
(Second Continental Congress) trong những năm 1774-1775.
Cuộc chiến của nhân dân thuộc địa chống quân
xâm lăng Anh thực sự bùng nổ vào ngày 19/4/1775 khi một toán quân Anh
tấn công vào toán dân quân thuộc địa tại Lexington (Masachusetts) làm 8 người
thiệt mạng và hơn 10 người bị thương. Ngay sau đó, cũng vào năm 1775, toàn
thể Hội Nghị Lục Địa nhất tề bầu chọn ông nắm giữ chức vụ Tổng Tư Lệnh Quân Đội
Lục Địa để chống lại quân xâm lăng Anh.
Cuộc chiến kéo dài từ đó cho đến ngày
19/10/1781 thì quân Anh bị thảm bại tại trận đánh Yorktown. Trận đánh này kéo
dài từ ngày 28/9/1781 đến ngày 19/10/1781, thì quân Anh rơi vào tình trạng tuyệt
vọng trước sự bao vây và tấn công của 16 ngàn Liên Quân Mỹ - Pháp. Ở vào thế
kẹt, không còn hy vọng nhận được tiếp viện, vô kế khả thi, Tướng Anh Lord
Cornwallis, chỉ huy quân Anh ở đây, đành phải kéo cở trắng đầu hàng.
Sau thảm bại này, chính quyền Anh mới thực sự
tìm cách thương thuyết với chính quyền Mỹ để công nhân quyền độc lập của các
thuộc địa và rút quân ra khỏi lãnh thổ Bắc Mỹ cúa người dân thuộc địa. Tuy
nhiên, cuộc chiến vẫn còn kéo dài tới gần hai năm nữa mới chấm dứt bằng Thỏa
Hiêp Hòa Bình giữa hai bên được ký kết tại kinh thành Paris vào ngày 3 tháng
9 năm 1783. Thành viên của hội nghị này là Anh, Mỹ và các nước đồng minh
của Mỹ là Pháp và Tây Ban Nha. Sách sử gọi thỏa hiệp này là Hòa Hiệp Paris 1783
(The Paris Treaty of 1783).
Chiến tranh chấm dứt, nước Anh công nhân chủ
quyền độc lập của nhân dân các thuộc địa tại Bắc Mỹ, rút quân về vùng đất ở
Canada. Cũng nên biết, trước chiến tranh Anh - Pháp 1754-1763, vùng đất này là của nước Pháp. Đế
quốc Anh trả ơn cho những người đã tích cực cộng tác với quân Anh (gọi là những
người loyalists) bằng cách đưa họ tới lập nghiệp ở miền đông bắc Canada và giúp
đỡ họ ổn định cuộc sống mới ở đây.
Sau cuộc chiến, các nhà ái quốc Hoa Kỳ nhận
thấy rằng vì nhu cầu chống lại chính sách áp bức, bóc lột và sự kỳ thị của người
Anh, nhân dân 13 thuộc địa mới tụ lại với nhau để cùng chung lưng đấu cật đánh
đuổi kẻ thù chung. Đây chỉ là hành động đoàn kết nhất thời vì thời thế và vì
cùng chung một cảnh ngộ mà thôi. Chứ trong thực tế, 13 thuộc địa là 13 tiểu quốc
riêng rẽ, rời rạc và chỉ là 13 tiểu nhược quốc,không có gì gắn bó với
nhau cả. Nếu tình trạng này cứ tiếp diễn thì cả 13 tiểu quốc này sẽ dễ dàng trở
thành những miếng mồi ngon lành cho các cường Âu Châu Anh, Pháp, Tây Ban Nha,
Nga tiến vào tấn chiếm làm thuộc địa, nhất là lúc đó cả bốn cường quốc này đều
coi Bắc Mỹ là vùng đất béo bở mà họ đang thèm khát và nhắm tới.
Vì lo sợ như vây, cho nên các nhà ái quốc mới
bàn nhau phải làm thế nào để 13 tiểu quốc này liên kết vơi nhau thành một liên
bang hùng mạnh mà các quyền tự do và quyền lợi riêng của nhân dân các tiểu quốc
này vẫn được tôn trọng. Vì thế, họ mới vận động thành lập một hội nghị lập hiến
để soạn thảo một kế hoạch thành lập một quốc gia Liên Bang Hoa Kỳ theo ý định
trên đây. Kết quả là Hội Nghi Lập Hiến được ra đời vào đầu tháng 6 năm 1787 gồm
có 55 nhân sĩ và các nhà ái quốc đã từng có công trong cuộc chiến đánh đuổi quân
Anh (1775-1783) kéo nhau đến nhóm họp tại Tòa Nhà Thị Sảnh trong thành phố
Philadelphia, thuộc tiểu bang Pennsylvania. Tại hội nghị lịch sử này, tất cả 54
thành viên trong hội nghị đều nhật tề bầu nhà ái quốc anh hùng trong
cuộc chiến chống
Anh giành độc lập cho nhân dân Mỹ lên ngồi ghế chủ tọa cho đến khi hoàn thành
việc biên sọan bản hiến pháp. Vị đại anh hùng đó là ông George Washington.
Mãi đến ngày 17 tháng 9 năm 1787 công việc
biên soạn hiến pháp mới hòan thành. Các thành viên của hội nghị chia tay nhau ra
về để làm việc chuẩn bị cho cuộc bầu cử chọn hai vị lãnh đạo trong ngành hành
pháp, và các thượng nghị sĩ cũng như các dân biểu trong ngành lập pháp lưỡng
vỉện để quản lý công việc của tân quốc gia Hoa Kỳ.
Lúc bấy giờ, Hoa Kỳ chưa có hai chính đảng Dân
Chủ và Cộng Hòa như ngày nay. Cho nên trong kỳ bầu đầu tiên tuyển chọn vị tổng
thống đầu tiên cho chính quyền đầu tiên của Liên Bang Hoa Kỳ, tất cả mọi thành
phần trong tất cả mọi tầng lớp trong quần chúng Hoa Kỳ đều có cũng một ý nghĩ
là phải nên đưa vị đại anh hùng dân tộc lên làm nhà lãnh đạo đất nước. Vì vậy mà
trong kỳ bầu cử tổng thống vào tháng 11 năm 1788, hầu như toàn thể nhân dân Hoa
Kỳ đều bầu chọn người anh hùng George Washington lên làm tổng thống, lãnh đạo
chính quyền Hoa Kỳ, và đúng trưa ngày 30/4/1789, tại một Tòa Nhà của chính quyền
Liên Bang Hoa Kỳ tọa lạc trên đường Wall Street trong thành phố New York, ông
tuyên thệ nhậm chức.
Đến cuối năm 1792, nhiệm kỳ đầu tiên của ông
chấm dứt, nhân dân Hoa Kỳ lại tín nhiệm và bầu chọn ông tiếp tục chức vụ tổng
thống thêm một nhiệm kỳ nữa. Cuối năm 1796, cho rằng đã làm tròn nhiệm vụ đối
với đất nước và dân tộc, ông quyết định phải rút lui để cùng với gia đình trong
cảnh điền viên vui với gió núi trăng ngàn. Vì cái tinh thần “Phạm Lãi” này mà
khi có nhiều người đề nghị ông nên tiếp tục ra ứng cử nhiệm kỳ thứ 3, ông nhất
định từ chối.
PHỤ LỤC
NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG GIỮA HAI CUỘC CHIẾN
CÁCH MẠNG HOA KỲ 1774-1783
VÀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM 1945-1954

Họa ảnh: Chiến tranh của Mỹ đánh đuổi quân Anh
Nếu đem cuộc chiến của nhân dân của các thuộc
Anh tại Bắc Mỹ (gọi là nhân dân Mỹ) so sánh với cuộc chiến của nhân dân Việt Nam
đánh đuổi Liên Quân Xâm Lược Pháp – Vatican trong thời Kháng Chiến 1954-1975,
chúng ta thấy có một vài điểm gần giống nhau như sau:
1.- Cuộc chiến của người Mỹ đánh đuổi người
Anh để giành lại chủ quyền độc lập kéo dài hơn 8 năm (19/4/1775 – 3/9/1783. Cuộc
Kháng Chiến của nhân dân Việt Nam đánh đuổi Liên Quân Xâm Lăng Pháp – Vatican
cũng kéo dài gần chín năm (23/9/1945 – 20/7/1954).
2.- Trong cuộc chiến (1775-1783) đánh đuổi
quân Anh của người Mỹ, ngay từ lúc khởi đầu và trong nhiều năm kế tiếp, chính
quyền Anh cương quyết đem đại quân đánh dẹp phong trào nổi dậy của người Mỹ để
tái lập quyền lực bất chính của người Anh ở phần đất này. Cho mãi tới khi quân
Anh bị thảm bại nặng nề tại trận đánh Yorktown vào ngày 19/10/1781, chính quyền
Anh mới nhìn ra sự thật là phải tìm cách thương thuyết nghiêm chỉnh với người Mỹ
để công nhân nền độc lập của họ và rút quân về.
Trong cuộc chiến (1945-1954) đánh đuổi Liên
Quân Xâm Lăng Pháp – Vatican của người Việt Nam, ngay từ lúc khởi đầu và trong
nhiều năm kế tiếp, Pháp và Vatican cũng cương quyết đem đại quân đánh dẹp phong
trào nổi dậy của người Việt Nam để tái lập quyền lực bất chính của Pháp và
Vatican ở Đông Dương. Cho mãi tới khi Liên Quân Pháp – Vatican bị thảm bại tại
các cứ điểm Điện Biên Phủ vào ngày 7/5/1954, thì Pháp mới nghiêm chỉnh thương
thuyết với chính quyền Kháng Chiến Việt Nam tại Hội Nghi Geneve, công nhân quyền
độc lập của Việt Nam và rút quân về.
3.- Theo Thỏa Hiệp Paris 1783, nước Anh công
nhận chủ quyền độc lập của người dân thuộc ở Bắc Mỹ, rút quân về Anh, về Canada
và đem theo những tên Mỹ gian hay Mỹ ngụy (những người dân thuộc địa Mỹ chiến
đấu trong hàng ngũ quân Anh trong những năm chiến tranh) cùng thân nhân của họ
sang định cư miền Đông Bắc Canada (còn thuộc Anh) và giúp đỡ tài chánh để họ ổn
định đời sống ở vùng đất mới này.
Theo Thỏa Hiệp Gienève 1954, Pháp công nhận
chủ quyền độc lập của dân tộc Việt Nam, Liên Quân Xâm Lược Pháp – Vatican rút về
Pháp và vào miền Nam, đem theo nhóm thiểu số con chiên Việt gian và Việt ngụy
(những người chiến đấu trong hàng ngũ Pháp trong những năm chiến tranh) cùng
thân nhân của họ vào miền Nam hay sang Pháp và giúp đỡ tài chánh để họ ổn định
đời sống ở vùng đất mới.
4.- Trong cuộc chiến Anh Mỹ 1775-1783, Ông
George Washington, được đưa lên làm
tổng tư lệnh quân đội. Do tài ba quân sự và đức độ của của cá nhân ông, ông rất
được lòng kính mến của quân lính dưới quyền. Nhờ vậy mà toàn quân hăng say chiến
đấu và quân dân Mỹ đã chiến thắng quân Anh một cách rất oai hùng, ông trở thành
người anh hùng đứng hàng số 1 và đầu tiên của nước Mỹ.

Việt Nam thắng Pháp ở Điện Biên Phủ
Tương tự như vậy, trong cuộc chiến (1945-1954)
đánh đuổi Liên Quân Xâm Lăng Pháp – Vatican, ông Hồ Chí Minh được nhân dân coi
là vị lánh đạo tối của đất nước và ông Võ Nguyễn Giáp được đưa lên nắm giữ chức
Tổng Tư Lệnh Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Do tài năng quân sự và đức độ của hai
nhà lãnh đạo trên đây, cả hai nhà lãnh đạo này đều toàn quân và toàn dân Việt
Nam vô cùng lòng kính mến. Nhờ vậy mà toàn quân và toàn dân
ta rất hăng say chiến đấu
và đã chiến thắng được Liên Quân Pháp – Vatican một cách vô cùng oanh liệt. Cả hai
ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đều trở thành những vị đại anh hùng của dân
tộc trong cuộc chiến đòi lại đất nược cho dân tôc.
5.- Trong cuộc chiến Anh Mỹ 1775-1783, chính
quyền đạo phiệt Ca-tô của Vua Louis XVI (1774-1792) là đồng minh thân thiết của
Mỹ. Nhưng chính quyền Pháp thân thiết với Mỹ chỉ có mục đích duy nhất trả thù
cho nước Pháp đã bị chính quyền Anh đánh bại trong trận chiến Anh – Pháp
(1754-1763) ở Bắc Mỹ cách đó không bao lâu, và cũng là để đánh phá chính quyền
Anh theo Anh giáo, kẻ thù của Vatican từ năm 1531 cho đến lúc bấy giờ. (Xin xem
Chương 15, sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam.
Chương sách này có thể đọc online trên
sachhiem.net.) Thế rồi, khi chiến tranh chấm dứt, cái bản chất trả thù của Vatican
vẫn còn tồn tại khi một tín đồ Ca-tô ngoan đạo của Vatican có quyền lực ở trong
chính quyền Pháp, thì nước Pháp lại quay ra tìm cách đánh phá, gây khó khăn
cho tân quốc gia Hoa Kỳ. Bằng cớ là khi làm Bộ Trưởng Ngoại Giao trong chính
quyền Tổng Tài Napoléon (11/1799 – 12/1804), Giám-mục Charles Maurice de
Talleyrand tìm cách gây khó khăn cho Mỹ.
Gây khó khăn như thế nào?
Họ gây khó khăn bằng cách khi Mỹ gửi một phái
đoàn sang Pháp xin được nói chuyện với Pháp qua Tổng Trưởng Ngoại Giao của chính
quyền Pháp (thời Tổng Tài Napoléon 1799-1804) là Giám-mục Charles Maurice de
Talleyrand để cầu thân với Pháp với hy vọng không còn bị Anh và Tây Ban Nha đe
dọa. Thấy rằng Mỹ đang ở thế yếu, ông quay ra bắt chẹt Mỹ, đòi chính quyền Mỹ
phải hối lộ cho cá nhân ông 250 ngàn Mỹ kim làm “điều kiện đầu tiên” rồi
mới “chịu thương thuyết”. Hành động vô liêm sỉ này của ông làm cho phái
đoàn Mỹ vô cùng tức giận và cực lực phản đối. Họ cho rằng nộp tiền hối lộ cho
Talleyrand là làm nhục quốc thể và nhân
dân Mỹ vô cùng phẫn nộ, họ nêu lên khẩu
hiệu “Thà mất tiền triệu để phòng thù còn hơn là mất một xu để hối lộ.”
[2]
Rồi sau này, Vatican lại xúi giục miền Nam phát
động cuộc chiến chống lại chính quyền Liên Bang Mỹ. Vấn đề này sẽ được trình bày
tường tận trong mục nói về Tổng Thống Lincoln ở sau.
Gần giống như vậy, trong cuộc Kháng Chiến
1945-1954, Trung Quốc là đồng minh thân thiết của chính quyền Kháng Chiến Việt
Nam, đã viện trợ rất nhiều vũ khí, hỗ trợ tích cực về cả hai mặt trận chính trị
và ngoại giao cho Việt Nam trong công cuộc đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp -
Vatican để đòi lại quyền độc lập cho dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, dù là tích cực
ủng hộ và viện trợ dồi dào về vũ khí và các mặt trận chính trị cũng như ngoại
giao như vậy, nhưng thâm tâm họ lại chỉ muốn có một nước Việt Nam ở một thế yếu,
lúc nào cũng phải tùy thuộc vào họ để tồn tại. Cũng vì thế mà họ đã ngả theo
Pháp, Mỹ, Anh và Vatican để ép buộc chính quyền Kháng Chiến Việt Nam phải đồng ý
giải pháp tạm thời chia đôi Việt Nam tại Hội Nghị Genève; và sau này sau khi
Việt Nam đã thành công đòi lại miền Nam từ trong tay Liên Minh Xâm Lược Mỹ -
Vatican để đem lại thống nhất đất nước vào cuối tháng 4/1975, thì họ lại có mưu
đồ dùng Tổng Thống Dương Văn Minh để duy trì tình trạng Việt Nam tiếp tục bị
chia đôi với dã tâm kìm hãm Việt Nam luôn luôn ở thế yếu để cho họ dễ bề khống
chế. May mắn là, Tổng Thống Dương Văn Minh là một người nặng lòng yêu nước, đã
từ chối không tiếp nhận đề nghi của họ. [3]
Vì thế mà mưu đồ của họ bất thành. Thất bại
trong mưu đồ này, năm 1978, họ quay ra xúi giục chính quyền Cộng Sản Pol Pot
đánh phá Việt Nam. Ý đồ này bị thảm bại, họ đem 600 ngàn vượt biến quân tấn công
vào các tỉnh Việt Nam ở vùing ven biên vào ngày 17/2/1979.
Thế nhưng, trước chống trả
mãnh liệt của quân dân ta, chỉ mấy tuần lễ sau, họ phải ra lệnh rút hết quân về
nước vào ngày 18/3/1979. [4]
kỳ sau: ABRAHAM LINCOLN
CHÚ THÍCH
[1] Nguồn:
https://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/lofiversion/index.php/t9845.html và https://vn.360plus.yahoo.com/tuedang_cql91/article?mid=706
[2]
Xin xem Chương 16 với tựa đề “Một
Nhận Vật Tiêu Biểu Cho Nên Đạo Lý Da Tô – Talleyrand: Một ông Vua Trở
Cờ”, sách Thực Chất của Giáo Hội La Mã (Tacoma, WA: TXB, 1999) của tác
giả Nguyễn Mạnh Quang.
[3]
Trần Viết Trần Đại Hưng. “Lời Phân
Trần Của Tướng Dương Văn Minh Về Ngày 30/4/1975.” Chủ Nhật
28/9/2008. Nguồn:
https://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=525
[4]
Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945-1995 –
Tập I (Bethesda, MD: Tiên Rồng, 2004), tr. 211.