I. “Con đường truyền thông” (Information
Road) ngày nay:
Người ta cho rằng “Con đường truyền thông”
đã thay đổi sâu xa đời sống nhân lọai tựa như “Con đường tơ lụa” ở
thuở giao thương ban đầu của các nền văn minh cỗ Á Âu. Thời buổi
điện tử tin tức tòan cầu thóang qua trên mạng như nước lũ, khó để
lại một dấu ấn lâu dài trên ký ức của kẻ quan tâm. Hình như nó cũng
nằm trong cả một thiết kế phức tạp của bộ máy tuyên truyền tẩy não
của các thế lực siêu cường; bởi nó đã làm cho con người chóng quên
các tội ác mà các thế lực này gây ra cho nhân lọai vì tâm trí không
đủ thì giờ để lưu giử và phân bịệt thiện ác; và làm cho tình cảm con
người bị thui chột trước những cảnh sát hại hàng lọat do các vũ khí
tối tân mà các thế lực này không ngừng sản xuất.
II. Chuỵện cải tạo xã hội:
Xuyên suốt lịch sử nhân lọai, đời sống xã
hội chỉ được thay đổi triệt để bởi những thế lực phi thường thâu tóm
thiên hạ trong một thời gian đủ dài để cãi tạo giềng mối. Các nền
triết học và tôn giáo sở dĩ tồn tại và bành trướng được mà để lại
được dấu ấn trên đời sống nhân lọai thường phải dựa vào các thế lực
chính trị hay bị các thế lực này sử dụng cho mưu đồ sự nghiệp của
mình. Phật giáo nhờ vào đại đế Asoka, Harshavardhana, Kanishka vv… ở
Ấn độ; các triều Đường, Tống, Minh, Thanh ở Trung Quốc; các triều Asuka, Nara, Heian, hoặc Edo ở Nhật Bản; các
triều Lý, Trần ở Việt Nam; Ấn giáo nhờ vào các triều Gupta; Ca-tô
nhờ vào các hòang đế La Mã sau thời Constantine I, hay các vương
triiều châu Âu; Hồi giáo nhờ vào Salāh-ed-Dīn Ayyūbi (hay còn gọi là
Saladin) và các triều đại của đế quốc Hồi Ottoman; và Tin Lành ngày
nay đang dựa vào thế siêu cường của Hoa Kỳ vv… Vậy muốn kinh bang tế
thế, thay đổi được thiên hạ, chỉ có con đường nắm giữ quyền lực
chính trị cho lâu dài bằng mọi cách. Chỉ có chính trị mới có khả
năng làm biến đổi xã hội một cách sâu xa.
Dù vậy nếu xã hội có cùng chung một tín
ngưỡng, tôn giáo, vẫn còn là một sợi dây đan bện tạo cho xã hội được
thuần nhất đòan kết, mang ổn định cho đời sống. Nó còn hòa hợp với
phong tục tập quán của dân bản địa để trở thành bản sắc văn hóa cho
từng vùng miền, giúp các nước nhược tiểu có khả năng đề kháng các
cuộc xâm lăng vũ lực hoặc tôn giáo của các đế quốc. Do vậy mà các
thế lực này trong bước đường xâm lược luôn thi hành thủ đọan “cải
đạo”, muốn áp đặt tôn giáo của nước mình lên các nước khác bằng mọi
cách. Vì thế, yếu tố tôn giáo đã trở thành một chiêu bài xâm lược
trong thế cờ chính trị không thể thiếu. Nó trở thành lọai vũ khí
mềm, nguy hại và hiệu quả dùng để gây chia rẽ và làm suy yếu tiềm
năng đòan kết của các nước nhỏ, và làm cho nó không giữ vững được
nền độc lập của mình.
III. Tự do tôn giáo:
Trong các thời cực thịnh của Ki-tô giáo ở
châu Âu, mấy ai giám mở miệng kêu gào tự do tôn giáo. Biết bao tín
ngưỡng khác của nhân lọai đã bị diệt vong, bao xương máu đã đổ dưới
“lưỡi gươm và thánh giá”? Cùng thời ở Á Đông, trong lịch sử và văn
học chẳng hề nghe ai kêu ca việc “tự do tôn giáo”. Chỉ đến khi
các đế quốc thực dân xâm lược Tây
Phương cấu kết với Vatican đi “mở rộng nước Chúa” bằng súng đạn và
ép buộc cải đạo dân các thuộc địa, chuyện “tự do tôn giáo” mới thành
cớ sự.
Vậy tự do tôn giáo là gì? Tự do tôn giáo hay
tự do tín ngưỡng thường vốn nằm trong Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân
quyền, được coi là một nguyên tắc ủng hộ quyền tự do của cá nhân hay
cộng đồng trong việc thực hành, thờ phụng, rao giảng, hay tu tập một
tôn giáo hay tín ngưỡng mình thấy thích hợp mà không hề bị đe dọa,
cưỡng bức, ép buộc hay dụ dỗ. Khái niệm này thường được thừa nhận là
có bao gồm cả việc tự do thay đổi tôn giáo hoặc tự do không theo một
tôn giáo nào.
Nhưng đồng thời Điều 18 Công ước Quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị nói rằng: "Quyền tự do của cá nhân
thể hiện tôn giáo hay tín ngưỡng của mình phải chịu các giới hạn
chẳng hạn như các giới hạn được luật pháp quy định và các giới hạn
cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự, sức khỏe xã hội, hay tinh thần
hoặc các quyền cơ bản và quyền tự do của những người khác."
("Freedom to manifest one's religion or beliefs may be subject only
to such limitations as are prescribed by law and are necessary to
protect public safety, order, health, or morals or the fundamental
rights and freedoms of others”.)
Lịch sử đã cho thấy trên bước đường xâm lược
bành trướng, bọn thực dân tây phương và Vatican từ những nơi chốn xa
xôi quyết áp đặt một lọai tín ngưỡng xa lạ lên dân chúng ở các nước
thuộc địa trong đó có Việt Nam, với luận điệu đòi “tự do tín
ngưỡng”. Rồi với kỷ thuật vũ khí tân tiến chúng đã đi từng bước cai
trị được đất nước người, gài cấy một số cộng đồng cải đạo để làm tay
sai và gây sự rạn nứt trong
đại khối dân tộc. Đến khi nắm được
chính quyền thì chúng liền tiêu hủy mọi nền văn hóa và tín ngưỡng
bản địa để chỉ cho Ki-tô giáo được độc tôn. Bài học của Việt Nam còn
chưa ráo mực là khi chế độ Ca-tô Diệm được các thế lực thực dân dựng
lên, lại luôn lớn giọng là mình đã giành được độc lập từ tay thực
dân Pháp, nhưng dưới chỉ đạo của Vatican vẫn tiếp tục duy trì đạo dụ
số 10 kỳ thị tôn giáo, chỉ xem Giáo hội Ca-tô Rô-ma mới đúng là tôn
giáo duy nhất, còn xếp Giáo hội Phật giáo của tín ngưỡng đại đa số
dân tộc vào một lọai hội đoàn tựa như hội thể thao, hội đua ngựa vv…
cho đến sau cuộc lật đổ chế độ vào tháng 11 năm 1963, Giáo hội Phật
giáo mới được trở lại vị trí xứng đáng của mình.
Ngay các xã hội tây phương, nhất là Mỹ nơi
thường hãnh diện là xứ sở tự do, nhất là tự do tín ngưỡng, nhưng
trong đời sống thực tế, chính quyền của họ vẫn luôn giành ưu tiên
cho Ki-tô giáo, vì khối tín đồ này chiếm đa số và có thực lực chính
trị. Họ gọi đó là truyền thống của họ và muốn luôn luôn
được duy trì ưu
tiên. Họ luôn luôn dùng cuốn Bible trong các buổi tuyên thệ nhậm chức lớn
nhỏ. Nhà thờ luôn luôn có buổi học đạo gọi là “Sunday schools”, họ thuê
hàng đòan thanh niên ăn mặc chỉnh tề gọi là “missionaries” đến gõ
cửa từng nhà để chiêu dụ cải đạo và phân phát Bible mặc kệ sự khó
chịu của người dâ bị quấy rầy. Bible còn được đều đặn biếu không
trong mỗi phòng ngủ của hotels; chưa kể đến những kênh TV, radio
giảng đạo ra rả cả ngày đêm và những TV Evangelists, mega churchs
vv… diễn nhiều trò bịp bợm vơ vét tiền bạc của đám tín đồ ngây ngô.
Đã có khá nhiều ông đạo điên khùng chế ngự và xúi giục cả họ đạo tự
sát chỉ vì tin điên cuồng vào “ngày tận thế” trong cuốn Bible. Họ
tạo đủ mọi thuận lợi cho Ki-tô giáo phát triển bằng mọi phương tiện,
chính sách, luật lệ, thuế má ưu đãi. Vì thế lắm kẻ đã lợi dụng biến
dịch vụ truyền giáo trong và ngòai nước trở thành một hệ thống kinh
tài làm ăn vĩ đại, dĩ nhiên chưa nói đến những họat động tình báo
kinh tài ngầm khéo được che giấu với bàn tay lông lá của “chú Sam” ở
đằng sau. Diễn văn của các giới chức cao cấp nào cũng kết thúc với
câu “God Bless America!” Đồng đô-la nào cũng mang câu “In God We
Trust”. vv…
Các tôn giáo khác khó hưởng được sự đãi ngộ
“tự do tôn giáo” như Ki-tô giáo; chưa kể các nơi thờ tự còn bị các
cặp mắt cú vọ của FBI luôn luôn rình mò cài đặt nghe ngóng như Hồi giáo,
và giới truyền thông thì luôn luôn tẩy não quần chúng khi dán nhãn hiệu
“khủng bố” lên những người muslims. Tu sĩ nào công khai chỉ trích
chính sách chiến tranh xâm lược của Mỹ liền bị Sở thuế, chứ không
phải công an cảnh sát đến điều tra sổ sách để tìm cớ kết tội “tham ô
tiền bạc liên quan đến thuế má” để bịt miệng, nếu không thì vào tù
dễ như chơi. Cơ quan công quyền nào ở Mỹ cũng đều có quyền bắt người
trước rồi tòa án xét xử sau. Chính phủ Mỹ chỉ dùng những chiêu “vô
tội vạ” êm ái nhưng vô cùng hiệu quả để đối phó với những
“dissidents” cho nên ở Mỹ không ai nghe đến “người tù lương tâm”,
“nhà họat động dân chủ”, “nhà tranh đấu nhân quyền”… vì món hàng này
đã được họ đã sản xuất qua các nước nằm ngòai quỉ đạo của tây
phương. Đốt đuốc đi tìm lỗ con mắt cũng chẳng bao giờ thấy vì những kẻ
có danh xưng như trên đều đã biến thành những tên tội phạm hình sự
cả. Trong thời hội nhập, mong Nhà nước Việt Nam học hỏi được những
siêu chiêu của Mỹ để trấn áp êm đẹp, mà không “trở thành tin nóng”
bọn phá rối ở trong nứơc, nhất là trong các họat động tôn giáo theo
sự chỉ đạo của ngọai bang. Đừng bao giờ gán cho bọn này những mỹ từ
hảo, chỉ càng làm bọn chúng có thêm “credits” trên lý lịch cá nhân
với chủ nước ngòai. Bọn chúng lúc nào cũng muốn được làm “kẻ tử đạo”
hơn là “bọn phá rối an ninh trật tự”. Vì như ta đã biết tử đạo dù là
do tội phản quốc sẽ được Vatican phong thánh và được lên thiên đàng
ngồi cạnh Chúa Cha.
Trông người mà ngẫm đến ta, dù Phật giáo là
tín ngưỡng của đại đa số quần chúng nhưng vai trò và vị trí của Giáo
hội Phật giáo Việt Nam đã có đủ tầm cở như Tin Lành ở Mỹ hay không?
Bởi đâu? Bởi chính sách chung chung của Đảng và Nhà nước hay bởi
hàng ngủ tăng già lãnh đạo do năng lực kém cõi không huy động nổi
khối tín đồ của mình thành một cộng đồng có thực lực chính trị và
kinh tế mạnh để đòi hỏi cho đúng nhu cầu tín ngưỡng của mình?
IV. Xin lỗi, không phải “đạo nào cũng
giống đạo nào”:
Hiện nay trên thế giới còn được khoảng 6 tôn
giáo lớn chia nhau dân số của quả địa cầu là Ca-tô Rô-ma, Tin Lành
và Chính thống giáo,
gom chung gọi là Ki-tô giáo (hay Cơ đốc giáo),
Hồi giáo, Ấn giáo và Phật giáo.
Ki-tô giáo luôn được các thế lực tây phương
xử dụng vào việc xâm lược. Đế quốc cũ từ châu Âu mang theo Ca-tô
Rô-ma giáo đi chiếm thuộc địa; và đế quốc mới từ Anh Mỹ thì kéo theo
Tin Lành và Do thái giáo đi chiếm tài nguyên. Lịch sử cũng cho thấy
rằng chỉ có thế lực Hồi giáo mới có đủ khả năng chặn được các bước
chân xâm lược “tòan cầu” kia, kể từ các cuộc “thánh chiến –
crusades” trong các những năm
1095-1291 cho đến nay vẫn còn tiếp diễn ở khắp nơi.
Không thể có được hòa bình giữa các khối dân khác văn hóa dù có tín
ngưỡng độc thần.
Nhìn qua danh sách các nước hiện đang là
điểm nóng của chiến tranh tôn giáo, dù đã được che đậy hay dán nhiều
nhãn hiệu chính trị khác nhau, ta thấy có Afghanistan, Bosnia, Côte
d'Ivoire, Cyprus, East Timor, India, Indonesia, Iraq, Kashmir,
Kosovo, Kurdistan, Macedonia, Middle East, Nigeria, Northern
Ireland, Pakistan, Philippines, Somalia, Sudan, Uganda vv…
Tại sao ở các nước có tín ngưỡng Phật giáo
lại it thấy xung đột? Không hẳn là do tính bao dung của Phật giáo,
nhưng có lẽ vì các tổ chức Phật giáo địa phương không đủ mạnh để đối
kháng nổi sự xâm thực tôn giáo từ các đạo Chúa hung tàn, khi thì
mậnh như vũ
bão, khi thì âm thầm có bài bản chỉ đạo từ phương xa. Có vẻ như là ở
các xã hội Phật giáo theo Nam tông, vì lối sinh họat của tăng già
luôn gắn bó sâu sắc với quần chúng tín đồ nên sự cải đạo của Ki-tô
ít thành công hơn là các nước theo Bắc tông Đại thừa. Hay là vì vị
trí chiến lược của các nước Đại thừa có tầm quan trọng hơn nên luôn
được các thế lực xâm lược tây phương chú ý đến?
V. Sau khi ôn cố đến tri tân:
a) Từ Pakistan:
Thống đốc Salman Taseer nói chuyện trước báo chí ở Islamabad (Ảnh Reuters - 28 Mar 2009)
Mumtaz Qadri sát hại Governor Salmaan Taseer sau khi nghe các bài giảng của đạo sĩ Qari Hanif và Ishtiaq Shah, một viên chức khác trong giáo hội
Thống đốc Salman
Taseer của bang Punjab đã bị một cảnh sát viên trong đội hộ tống của
ông tên là Malik Mumtaz Hussain Qadri giết chết bới 26 viên đạn. Lý
do: Taseer đã mạnh mẻ lên tiếng bãi bỏ Luật Phạm Thượng (The
blasphemy law) của Hồi giáo, thường được giới tu sĩ Hồi giáo cực
đoan cổ xúy để trừng trị những kẻ đã có lời mộ phạm đến Giáo chủ
Muhammad.
Qadri bị bắt và bị truy tố về tội sát nhân.
Đảng Nhân Dân Pakistan đang cầm quyền cho rằng
những lời giảng của
hai đạo sĩ Qari Hanif và Ishtiaq Shah đã kích thích và khuyến khích
Qadri ra tay.
Ngày 10 tháng Giêng , 2011 khi Qadri bị giải
ra tòa ở Islamabad thủ đô của Pakistan thì thật bát ngờ dân chúng
Hồi giáo đủ mọi thành phần, và nhất là thế hệ trí thức trẻ được gọi
là thế hệ Zia, đã tụ tập để mạnh mẽ ủng hộ việc Qadri sát hại viên
thống đốc. Họ còn gọi Qadri là anh hùng. Cả ngàn luật sư từ hai
thành phố lớn Islamabad và Rawalpindi đã ký đơn tình nguyện bào chữa
cho Qadri chỉ vì muốn làm sáng danh đấng tiên tri Muhammad và muốn
duy trì Luật Phạm Thượng trong xã hội Hồi giáo. Khi Qadri ra tòa thì
các lụât sư này đã tung rải những cánh hoa hồng trên người y. Lòng
mộ đạo đã thấm sâu trong mọi tầng lớp xã hội của Pakistan.
Thế hệ Zia là thế hệ gồm những trí thức đã
được đào tạo thời tướng Zia cầm quyền vào những năm 80s, thời kỳ Mỹ
nuôi dưỡng phong trào thánh chiến chống quân Soviet xâm lăng
Afghanistan. Quả là cảnh “nuôi ong tay áo” cho Mỹ và tây phương.
Trước tình thế này chính phủ Pakistan đành
bó tay, không thể tiến hành điều tra thêm vì sức mạnh của dân ủng hộ
thành phần đạo sĩ càng gia tăng. Ngay cả giới quân sự có thực quyền
cũng im lặng tán đồng.
Điều đáng nói là các chính phủ tây phương,
nhất là Mỹ và ngay cả Giáo hòang Benedict XVI gần đây đã kêu gọi
Pakistan nên bãi bỏ Luật Phạm Thượng, vì cho rằng nó đã bị lạm dụng
mà kỳ thị dân Ki-tô. Những kẻ thức thời thì cho rằng giới đạo sĩ
càng muốn thi hành nó triệt để vì muốn tạo sự đồng nhất trong xã hội
Hồi giáo. Thì ra, lòng sùng tín vào luật đạo của Hồi giáo là chất keo
rắn chắc gắn kết sự đòan kết của xã hội Hồi bắt các nhà lãnh đạo
chính trị vốn xuất thân là tín đồ phải triệt để tôn trọng, mới có
được sự ủng hộ của dân chúng.
b) Qua Tucson, Arizona:
Dân biểu Gabrielle Giffords- Ảnh Associated Press
Dân biểu Gabrielle Giffords, 40 tuổi thuộc
Đảng Dân Chủ của bang Arizona đã bị Jared Loughner, 22 tuổi, một
thanh niên có tâm thần bất ổn ra tay sát hại bên ngoài một cửa hàng
tạp hóa trong khi bà đang gặp mặt cử tri. Bà may mắn không chết tuy
bị bắn vào đầu và đang hồi phục dần dần trong bệnh viện.
Vụ nổ súng này đã giết chết một thẩm phán liên
bang và năm người khác, trong đó có bé gái 9 tuổi tên Christina
Green, làm 14 người khác bị thương, đã làm rúng động cả nước Mỹ và
thế giới
Không khí chính trị của Mỹ gần đây đã bị ô
nhiễm trầm trọng bời những lời kích thích đầu độc của các tay chuyên
viên chính trị và truyền thông thân đảng Cộng Hòa thường dựa vào
những lời bình luận thiếu chính xác. Bọn này còn có sự cổ vũ tiếp
tay của những giáo phái cuồng tín Tin Lành và Ca-tô Rô-ma địa
phương. Nhất là Tea Party mới thành hình mà các thành viên đã được
cựu thống đôc tiểu bang Alaska và ứng viên Phó tổng thống Cộng Hòa
Sarah Palin hô hào quyết phá họai những thành quả của tổng thống da
đen đầu tiên Barack Obama, nhất là chính sách thông khóang về “đồng
tình luyến ái” trong quân đội và luật Cải Cách Y Tế vừa được thông
qua. Gabrielle Giffords lại thắng sát sao một đối thủ của Tea Party
trong cuộc tranh cử vừa qua; và Arizona vốn được nổi tiếng là “thành
đồng” của đảng Cộng Hòa và các giáo phái Tin Lành cuồng tín.
Các nạn nhân bị tử thương trong cuộc nổ súng ở Arizona gồm một bé gái 9 tuổi, một cựu thẩm phán. Ảnh Associated Press
Dân chúng tin rằng có thể sự chia rẽ chính
trị cực đoan lên đến đỉnh điểm, lại được các cơ quan truyền thông
khuynh hữu nhồi sọ liên tục đã đẩy Jared Loughner điên cuồng ra tay
bắn giết.
Một điều khôi hài là các tín đồ cuồng tín
của một nhánh Tin Lành, Westboro Baptist Church, thuộc bang Kansas
dự định biểu tình chống “đồng tình luyến ái” trong các đám tang của
6 người tử nạn, mà bọn họ cho là thân đảng Dân Chủ, qua cuộc sát hại
ấy nhưng đã bị Hạ viện tiểu bang Arizona kịp thời ngăn chận bằng
cách bỏ phiếu thuận cho việc ban hành luật khẩn cấp hôm 11 tháng
Giêng cấm biểu tình trong vòng 300 bộ gần buổi lễ.
Nhóm giáo dân cuồng tín này thường rêu rao
rằng nước Mỹ đang bị Chúa phạt vì đã tràn lan “đồng tình luyến ái”.
Họ đã từng trơ tráo biểu tình trong đám tang của tử sĩ từ các chiến
trường Afghanistan and Iraq; và đã gắn nhiều bản chống “đồng tình
luyến ái” trong Nghĩa trang Quốc gia Arlington ở Virginia vào ngày
Cựu Chiến Binh vừa qua November 11, 2010. Họ cũng đã biểu tình chống
“đồng tình luyến ái” trong đám tang của Bà Elizabeth Edwards, vợ của
ứng cử viên tổng thống đảng Dân Chủ John Edwards đã mất vì bệnh ung
thư vú, tại nhà thờ Methodist ở Raleigh, North Carolina vào ngày 6
tháng 11 chỉ vì gần cuối đời Bà không còn tin ở Chúa sau khi đứa con
trai 16 tuổi qua đời.
Ai bảo các sinh họat chính trị và tôn giáo
của dân Mỹ “rất văn minh và lịch sự”?
Gần đây trên trang nhà Phật Tử Việt Nam
trong nước thường xuất hiện các bài của tác giả Minh Thạnh báo động
về các họat động cải đạo rầm rộ của các tôn giáo Ki-tô ở trong nước,
nhất là sự trỗi dậy họat động của Tin Lành; dĩ nhiên là có sự tiếp
tay tài trợ mạnh mẽ từ bên ngòai, nhất là từ Mỹ và Nam Hàn. Các bài
viết của tác giả này đã được loan truyền nhanh chóng trên các trang
mạng Phật giáo ở hải ngọai.
Ai cũng biết từ khi Việt Nam với chính sách
kinh tế mở cửa và gia nhập WTO, Nam Hàn là đầu cầu sớm nhất ra tay
hổ trợ về mọi mặt. Theo đó, du học sinh và thiếu nữ Việt lấy chồng
Hàn gia tăng nhanh chóng. Trong bối cảnh tranh tối tranh sáng, chính
quyền Việt Nam không chuẩn bị một chính sách chiến lược dài hạn về
nhân lực đã vô tình để một bộ phận thanh niên rơi vào vòng tay cải
đạo của các đòan truyền giáo Tin Lành, tựa như đồng bào Việt tị nạn
trên đất Mỹ vào những năm 80s và 90s, qua các quỉ thuật tinh vi từ
giúp đỡ vật chất trong khi túng quẩn đến giúp công ăn việc làm vv...
Một số lớn đã không thể nào thóat ra khỏi vòng kim cô này và đã trở
thành những chuyên viên cải đạo chuyên nghiệp khi quay về lại tổ
quốc. Nam Hàn là tiền đồn mạnh mẻ của Tin Lành Mỹ ở Á Châu. Chuyện
xảy ra vài năm trước đây nhiều người vẫn còn nhớ! Một đòan thanh niên
Tin Lành Hàn quốc nghe quan thầy xúi dại theo chân lính Mỹ vào
Afghanistan để rao giảng cải đạo đã bị lực lượng kháng chiến Taliban
sát hại và bắt làm con tin một thời gian đến khi tiền chuộc được
trao mới được về nước chưa kịp hòan hồn.
Sự việc cải đạo được lập lại ở Việt Nam với
sự hấp dẫn bội phần vì đa số dân chúng vẫn còn sống trong vòng đói
khổ và thất học, nhất là ở những vùng cao. Người dân trong nước sau
bao năm chiến tranh cơ cực bỗng chốc với chính sách mở cửa, đã bị
chóang ngợp với hình ảnh của các xã hội “văn minh vật chất” của Hàn
và Mỹ, suốt ngày được trình chiếu trên các màn ảnh nhỏ, cùng với
những thời trang và tiện nghi điện tử bày bán trên phố, không khỏi
làm người dân so sánh đến hòan cảnh thực tại thua sút của xã hội
mình đang sống mà không đủ kiên nhẫn chờ đợi sự canh tân của đất
nước. Tín ngưỡng truyền thống Phật giáo đã không thể đem lại cho xã
hội đời sống sung túc, vì những lời giảng “diệt tham sân si để được
giải thóat” một cách cứng ngắc, thiếu ứng dụng thực tế của hàng tăng
sĩ. Dân chúng sẽ ngộ nhận cho rằng chỉ theo Tin Lành là theo nền
“văn minh hịện đại thời thượng”; đi theo Chúa Trời và Jesus mới
thóat khỏi đói nghèo. Cũng cùng một bài bản của cha ông trước đây
khi chạy theo Ca-tô Rô-ma giáo do lời quyến rũ của các cố đạo mà đất
nước rơi vào tay thực dân. Thế là đã mắc mưu lớn. Họ đã nhầm hình
ảnh trên phim với hình ảnh thực tế. Họ có biết đâu rằng xã hội ở các
nước được “cải đạo” còn khốn khổ lầm than gấp bội so với xã hội chủ
nhân ông; bởi mức sống thuộc địa cũ hay mới vẫn không thể nào bằng
mức sống của mẫu quốc. Hãy nhìn theo gương Trung Quốc, chỉ có độc
lập tự chủ thì mới có ngày tự cường sung túc. Nào có cần Chúa Cha
Chúa Con nào phù hộ đâu?
Sau khi đọc xong bài “Lửa đã cháy ở Mỹ Đình,
bao giờ lan đến Quán Sứ?” của Minh Thạnh và Trọng Hoàng, tôi tìm
hiểu thêm thì biết rằng bài có đầu đề “Lửa Đã Cháy Trên Quảng Trường
Mỹ Đình, Hà Nội” đã cũ, từng xuất hiện trên trang HoiThanh.Com nói
đến sự kiện đã xảy ra vào đêm 20/12/2009, trong đó mô tả là đã có
12.000 “khán giả” (chứ không phải tín hữu, vì gồm nhiều kẻ hiếu kỳ!)
tham dự và hơn 2.000 người tiếp nhận Chúa (có ai làm thống kê
chăng?) tại Thủ đô trong một buổi tụ tập có đốt nến tại sân vận động
Mỹ Đình, Hà Nội do Hiệp hội Thông công Tin lành Hà Nội (HCF) tổ
chức. Nên biết Hiệp hội này chỉ mới được thành lập vào tháng 8 năm
2008. Quả là một sự kiện lich sử vì mấy ai tin rằng Tin Lành lại có
thể lan truyền ra các tỉnh miền bắc và giương oai diệu võ như thế
tại Hà Nội trong một thời gian ngắn như vậy. Đáng tiếc là bài báo
trên trang HoiThanh.Com đầy rặt lối viết “giật gân, phóng đại, thổi
phòng quá đáng” cứ như là mục sư trên bục giảng sau khi đã nhập đồng
bóng với Chúa mà say sưa nói huyên thuyên những điều vô nghĩa, mà
ông ta lại cho là “vô cùng ý nghĩa”.
Đọc qua chương trình thấy có màn trình diễn
mở đầu của “Gia đình Jacksons”. Cứ ngỡ là gia đình của cố ca sĩ
Michael Jackson từ bên Mỹ qua, hóa ra là Mỹ da vàng đi làm việc
Chúa, hát "Silient night", "What a wonderful child"... và các thánh
ca bằng tiếng Việt. À thì ra là tòan những màn lừa bịp để lôi kéo
khán giả Hà Nội đến cho đông theo lối “sơn đông mãi võ”; thảo nào mà
không thiếu người hiếu kỳ đổ xô đến xem một buổi nhạc hội.
Đọc qua tiêu đề “Lửa Đã Cháy Trên Quảng
Trường Mỹ Đình, Hà Nội”, nhìn vào Google Search thì lại lộ rõ trò
sao chép chữ nghĩa của các tiêu đề giựt gân của các sự kiện khác ở
cùng sân vận động trước đó. Nào là “Lửa rock “bùng cháy” tại sân Mỹ
Đình”; “’Lửa” từ Mỹ Đình cháy, nhưng liệu có bỏng?”; “Xế hộp cháy
đùng đùng tại Quảng trường Mỹ Đình”; “Sân Mỹ Đình bùng cháy với điệu
Múa Rồng”; “Nổ lớn ở Sân Mỹ Đình, nghi là do kho pháo hoa.” vv và
vv…
Vào đêm cầu nguyện 16/12/2009 trước sân Mỹ
Đình, họ bảo là họ đối diện với bao nhiêu sự khó khăn... Khi đó, họ
đã hát với nhau bài “Quyết dâng” với sự lời lẽ đao to búa lớn: “dầu
sống, hay chết, quyết dâng trọn đời sống cho Jesus… để tôn cao danh
Đức Chúa Trời trên đất nước Việt Nam.” đủ tỏ sự cuồng tín của đám
tân tòng này.
SH chú thích: Không phải là một cuộc tập quân hay ở vũ trường - chỉ là một đám đông bị bùa mê thuốc lú. Tiếc rằng đã xảy ra ở một nước Cộng Sản!
Điều đáng nói là qua phần “thắp nến cầu
nguyện” cho Việt Nam, cho sự hiệp một của đất nước Việt Nam với
Chúa; họ đã đưa ra bản "Tuyên ngôn thuộc linh" được dõng dạc tuyên
bố “trước hàng ngàn trái tim ngày đêm quặn thắt cho dân tộc” (sic):
“Dân tộc Việt Nam chắc chắn thuộc về Đức Chúa Trời. Mọi xiềng xích
tội lỗi và rủa sả của các thế hệ trước đã bị tuyên bố cắt đứt, hình
ảnh con rồng, tức con rắn xưa là ma quỷ kể từ nay không còn tiếp tục
được ảnh hưởng trên dân tộc Việt Nam. Việt Nam thuộc về Đức Chúa
Trời, từ nay dân tộc Việt Nam sẽ được phước, Hội thánh Việt Nam sẽ
bước vào một cơn phấn hưng chưa từng có và trong một tinh thần hiệp
một khắng khít trước mặt Đức Chúa Trời...” Đọc qua nghe luận điệu có
vẻ quen quen của một tên mục sư trẻ mang danh Tiến Sĩ Lê Anh Huy ở
Hoa Kỳ! Đường dây ghê gớm thật.
Tôi chẳng hiểu nổi Nhà nước nào đã cho phép
những đứa con hoang tụ tập để xỉ vả tổ tiên của đất nước mình chỉ
vài tháng trước Đại Lễ Kỷ Niệm Một Ngàn năm Thăng Long. Hay là món
quà đô-la hậu hĩ đã làm mờ mắt UBND Thành Phố Hà Nội?
Không những thế, mùa Noel năm nay Tin Lành
lại cố làm thêm “Mùa Gặt 2010 – Mùa bội thu cho Đức Chúa Trời?” tại
thành phố Hồ Chí Minh bằng cách kêu gọi dân thành phố đến cho đông
để…xem trình diễn văn nghệ. Luận điệu giảng đạo quen thuộc: “Xin
Ngài đụng chạm mỗi tấm lòng khi họ nghe đến Phúc Âm của sự cứu rỗi,
quyền năng Ngài bẻ gãy mọi sự trói buộc của ma quỷ để người
dân Việt Nam đến với Chúa trong sự tự do. Mùa gặt 2010 sẽ là mùa gặt
bội thu cho Chúa nếu con cái Ngài nắm lấy lời hứa của Ngài đã dành
cho, chúng ta sẽ không chỉ thấy hàng ngàn người thờ phượng Chúa
nhưng sẽ là hàng trăm ngàn người, hàng triệu người được cứu rỗi trên
đất nước của chúng ta trong mùa giáng sinh năm nay.” Mọi sự trói
buộc của ma quỷ? Ám chỉ Đức Phật như tên cố đạo Alexandre de Rhodes
đa từng hổn láo hay muốn nói đến Đảng Cộng Sản Việt Nam chăng? Hình
như Đảng Cộng Sản Việt Nam lúc này hiền như bụt, do ăn nhiều bơ sữa
chăng? Bọn chiên cừu be he chế giễu trước mặt nhưng vẫn “lim dim
thiền”.
Nói cho cùng thì “Lửa Đã Cháy Trên Quảng
Trường Mỹ Đình, Hà Nội” chỉ là một trò “nổ” mua vui cho dân Hà Nội
vào mùa Noel và giúp cho công nhân các dịch vụ thêm công ăn việc làm
mà thôi. Bởi vô vàn tin tức thời sự mới hằng ngày đã nhanh chóng
nhấn chìm những lọai tin giảng đạo vu vơ như vừa kể. Đồng bào Phật
tử cứ an tâm, chùa Quán Sứ vẫn vô hại như Kim Cang tòa; và Phật giáo
không cần phải tổ chức những màn trình diễn cải đạo lố bịch như thế,
mất đi vẻ “uy nghiêm cõi Phật”.
b) Lễ Bế mạc Năm Thánh 2010
Trong ba ngày (4, 5 và 6/1/2011), tại Giáo
xứ La Vang, xã Hải Phú, huyện Hải Lăng (Quảng Trị), Giáo hội Công
giáo Việt Nam đã tổ chức Đại lễ Bế mạc Năm Thánh 2010. Năm Thánh kéo
dài từ 24/11/2010 đến 2/1/2011, mở đầu với Lễ khai mạc Năm Thánh tại
Hà Nội, và kết thúc với Lễ Bế mạc được tổ chức tại Giáo xứ La Vang,
thuộc Giáo phận Huế để kỷ niệm 50 năm thiết lập hàng giáo phẩm Việt
Nam, 350 năm thành lập 2 giáo phận Đàng Trong và Đàng Ngoài. Hồng y
Ivan Dias, Đặc sứ của Giáo hoàng Benedicto 16 và đại diện Giáo Hội
một số nuớc trên thế giới và khu vực cũng đã đến La Vang tham
dự.
Chính quyền tỉnh Quảng Trị đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi giúp cho việc tổ chức các hoạt động tôn giáo trong
những ngày diễn ra Đại lễ thành công.
Nội dung Năm Thánh của Giáo Hội Ca-tô Rô-Ma
Việt Nam xoay quanh chủ điểm là “Sám hối và hòa giải” theo tinh thần
giáo huấn của Giáo hoàng Benedict 16 qua cuộc tiếp kiến với 29 giám
mục Việt Nam, tại Vatican vào tháng Sáu 2009. Ông đã từng tuyên bố:
"Các giáo dân Công giáo cần chứng tỏ - qua cuộc sống dựa trên bác
ái, lương thiện, yêu chuộng công ích - rằng một tín hữu Công giáo
tốt cũng là một công dân tốt". Ông còn thêm nhân dịp đại lễ: “Năm
Thánh là một thời điểm chứa chan ân sủng, thuận lợi cho việc hòa
giải với Thiên Chúa và anh em đồng loại. Trong ý hướng đó, chúng ta
nên nhìn nhận những sai lỗi chúng ta đã phạm trong quá khứ và hiện
tại, đối với anh em đồng đạo và anh em đồng bào, và xin mọi người
tha thứ”. Giáo hoàng Benedict cũng nhấn mạnh đến sự đóng góp tích
cực của Giáo hội vào sự phát triển đất nước: "Sự tham gia của Giáo
hội vào tiến trình này là một nghĩa vụ... Giáo hội không hề muốn
thay thế các vị hữu trách chính quyền, chỉ mong muốn có thể tham gia
chính đáng vào đời sống quốc gia, trong tinh thần đối thoại và cộng
tác tôn trọng, để phục vụ toàn dân". Nghe thật là êm tai… Nhà nước!
Lời dịu dàng của con sói nói với cô bé choàng khăn đỏ trong khi tìm
cách ăn thịt con mồi.
Vì thế các bài diễn văn của các chức sắc
trong Lễ khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện gần Hà Nội, Giáo
hội Công giáo nhấn mạnh đến Sám hối - Hòa giải, một trong các
chủ đề của Năm Thánh và mời gọi tín đồ sống tâm tình ấy. Đặc
biệt, cũng qua dịp lễ đại lễ này, ngoài việc xin lỗi Chúa và xin lỗi
nhau, Giáo hội Công giáo Việt Nam đã xin lỗi anh chị em đồng bào một
cách công khai, chính thức và tập thể.
Cha Phêrô Nguyễn Văn, Chủ tịch HĐGMVN nhấn
mạnh: "Chúng ta khiêm tốn nhìn nhận những lỗi lầm thiếu sót đó, chân
thành xin Chúa và mọi người tha thứ, để với tâm hồn thanh thản,
chúng ta mạnh mẽ tiến lên trên con đường loan báo Chúa Giêsu và Tin
Mừng của Người cho anh chị em đồng bào của mình."
Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, phó Chủ tịch Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam đã lặp lại lời xin lỗi đó: "Chúng tôi muốn
nói lời xin lỗi với tất cả những ai, cách này hay cách khác, đã
không hài lòng về người công giáo và về Giáo Hội Công giáo."
Chiều 5/1, Phó Thủ Tướng Nguyễn Thiện Nhân,
đại diện lãnh đạo Đảng, Chính phủ, UBMTTQ Việt Nam đã đến dự và phát
biểu chúc mừng. [Làm ta nhớ lại cố Tổng Thống Ca-tô Diệm đến dự Đại
Lễ Đức Mẹ La-Vang ngày 15/8/1961. Ôi thời thế đổi thay! Bà Maria ở
đâu? Sao không hiện ra và nói rõ sẽ tiếp ai và chối ai đây?].
Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã khẳng
định “Giáo hội Công giáo Việt Nam là một tôn giáo luôn đồng hành với
dân tộc và là một bộ phận quan trọng trong khối đại đoàn kết toàn
dân”. Lại lạm dụng câu “luôn đồng hành với dân tộc!”. Từ nay Phật
giáo không còn độc quyền tuyên bố câu này nữa đấy nhé! Đảng đã ra
lệnh!
Ông tiếp: “… Nhà nước Việt Nam luôn coi
trọng quyền tự do tín ngưỡng của người dân và luôn coi đó là một
chính sách nhất quán bảo vệ quyền lợi chính đáng của tín đồ các tôn
giáo khác nhau. Chính sách ấy là nền tảng cho quan hệ tốt đẹp giữa
Nhà nước, chính quyền địa phương với các tôn giáo, tạo điều kiện cho
đồng bào công giáo sống tốt đời đẹp đạo”.
Dĩ nhiên trong tâm trí của mọi người đến dự
luôn luôn bị ám ảnh bởi hình ảnh của các vụ bạo lọan của giáo dân Thái Hà, ở
Hà Nội, Tam Tòa ở Quảng Bình vv… vốn đã gây căng thẳng trong quan
hệ giữa Giáo hội và chính quyền.
Nhà Nước đã từng tuyên bố Việt Nam có chủ
trương rất rõ ràng về đất đai các cơ sở tôn giáo. Như lời phát biểu
của ông Trương Tấn Sang, Ủy viên Thường trực Ban Bí thư Đảng cuối
tháng 7 vừa qua, Chính phủ sẽ tập trung giải quyết các khiếu kiện
liên quan đến đất đai cơ sở tôn giáo "trên cơ sở chính sách pháp
luật hiện hành", tức là dựa vào các quy định ban hành trước ngày
1/7/1991 thì thực hiện theo Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày
26/11/2003 của Quốc hội.
Pháp luật là tối thượng. Ở Hà Nội, Phó Chủ
tịch UBND/TP Vũ Hồng Khanh khẳng định nếu cơ sở tôn giáo trên địa
bàn thành phố có nhu cầu sử dụng đất đai chính đáng, thành phố sẽ
xem xét, trong trường hợp nhu cầu đó phù hợp với quy hoạch thì thành
phố sẽ giải quyết.
"Những hành vi lợi dụng việc giải quyết nhà,
đất liên quan đến tôn giáo gây rối trật tự xã hội, chia rẽ khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết trong cộng đồng dân cư, vi phạm pháp
luật phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định pháp luật".
Thế nhưng những “bọn thù nghịch” trong cái
giáo hội này chưa chắc đã chịu “Sám hối và hòa giải”? Bản tin của
BBC phần Việt ngữ lại có lời đâm thọc: “Chiến tranh đã kết thúc hơn
30 năm, đất nước đã ‘thống nhất’ nhưng vì lý do lịch sử, vì cố tình
hay vô ý, hình như giữa người Việt với nhau vẫn còn những ngăn cách
về chính trị, tôn giáo, địa lý. Phải chăng đã đến lúc cần dẹp bỏ
những rào cản ngăn cách ấy?” Không nghe bản tin nói đến những sự xúi
giục không ngưng từ nước ngòai và Vatican.
Tình cờ đọc được một bài trên VietCatholic
News (06 Jan 2011) có tựa đề “Cảm nhận từ La Vang” của ông Giám mục
Hải Phòng GM Giuse Vũ Văn Thiên, thì theo ông “Từ thời xa xưa, vào
năm 1798, tại nơi này, Đức Mẹ đã hiện ra để gặp gỡ an ủi những tín
hữu đang lánh nạn vì cuộc bắt đạo tàn khốc… Câu chuyện La Vang xưa
mà không cũ. La Vang là sự kiện của quá khứ nhưng cũng là của hiện
tại, là chuyện của hôm qua mà cũng là chuyện của hôm nay. … Mỗi dịp
Đại Hội Thánh Mẫu La Vang, việc Đức Mẹ hiện ra để an ủi các tín hữu
đang chịu bách hại lại được tái diễn, ấy vậy mà mỗi lần diễn lại,
câu chuyện ấy vẫn mới, vẫn làm nao lòng người. Đó là câu chuyện của
ngày xưa, nhưng lại ảnh hưởng đến những vui buồn nhân thế hôm nay.
Mỗi dịp Đại Hội, câu chuyện ấy lại mang một nét mới, lại để lại
những dấu ấn, những cảm nghiệm rất riêng tư và sâu đậm nơi lòng
người tham dự.”
Hàng lãnh đạo giáo hội thì kêu gọi “Sám hối
và hòa giải”; còn các ông áo đen áo đỏ riêng rẻ vẫn ấm ức mối hận
“bị Đảng và Nhà Nước bách hại”, và đến La Vang là để cầu nguyện Bà
Maria cứu vớt như thời Cảnh Thịnh trước đây. Ông Giuse Vũ Văn Thiên
còn cương ẩu theo lối cảm hứng lên đồng tựa như các ông Mục sư nói
trên: “Cách đây 213 năm, Đức Mẹ đã đến thăm con dân Việt Nam trước
khi Mẹ đến Lộ đức (1858), trước khi Mẹ đến Fatima (1917). Điều này
cho thấy Mẹ Thiên Chúa đã dành cho Giáo Hội và Dân tộc Việt Nam
những ưu ái đặc biệt. Trước những đau khổ của các tín hữu công giáo
Việt Nam, Mẹ đã đến để an ủi và nâng đỡ họ.”
Ông tiếp tục mê sảng: “Nhân dịp bế mạc Năm
Thánh Giáo Hội Việt Nam 2010, La Vang được chọn để cử hành biến
cố quan trọng này. Việc cử hành lễ Bế mạc Năm Thánh tại La Vang
mang ý nghĩa quan trọng: Giáo Hội Công giáo Việt Nam vào thời điểm
kết thúc Năm Thánh muốn phó thác mọi dự tính tương lai của mình nơi
Mẹ Thiên Chúa. Mẹ La Vang củng cố chúng ta trong đức tin:
những tín hữu lánh nạn vào rừng La Vang để giữ gìn một đức tin trọn
vẹn. Vì trung thành với Chúa mà họ từ bỏ gia đình, quê hương và tài
sản để đến nơi hoang sơ này.”
Cũng lạ, một ông Giám Mục mà lại cuồng mê
“Mẹ Thiên Chúa” như thế huống chi là giáo đồ ít học. Mẹ Thiên Chúa
có nghĩa là Thiên Chúa là do bà Maria “đồng trinh” sinh ra sau khi
thánh linh của Thiên Chúa đã hảm hiếp bà (bởi bà đâu có đồng ý!). Mà
khi xưa Thiên Chúa lại ngồi buồn đem đất sét nặn ra tổ tiên nghìn
đời của bà Maria. Thiệt là “đau cái đầu. Hiểu chết liền!.”
Ông Giám Mục Thiên này không khéo lại “lỡ
mồm lỡ miệng “ như ông Tổng Kiệt nhục nhã, tiết lộ bí mật của giáo
hội Ca-tô Rô-ma khi chưa được phép. Nhờ ông mà Nhà nước nay mới hiểu
việc giáo hội chọn La Vang để cử hành Lễ bế mạc là đã có ẩn ý nhắn
nhe với Đảng và Nhà nước Việt Nam về sự bực bội nói không ra lời của
mình. Và việc tổ chức tại La Vang cũng đã được tính tóan trước để
tiện cho Christian Marchant, viên chức chính trị Đại sứ quán Mỹ tại
Hà Nội tìm cách đến liên lạc với ông cựu LM Nguyễn Văn Lý đang bị
quản thúc tại gia trong Nhà giòng trên đường Phan Đình Phùng, TP.
Huế. Vụ việc bị phát hiện kịp thời và bị giới công an hữu trách Huế
ngăn chặn, làm tên này với thái độ lố lăng,
đã hành xử thô bạo cứ như “quan
thái thú” ở Sài Gòn thuở còn làm cha chú trên đất nước Việt Nam;
chẳng coi luật pháp sở tại ra gì cả.
Hóa ra những lời lẽ trong các bài diễn văn
phát biểu chỉ là sáo ngữ chính trị, đầu môi chót lưỡi của các giới
chức hai phía. Đôi bên cứ như là hai kẻ “đồng sàng dị mộng”, miệng
thì thơn thớt nhưng trong bụng luôn chứa sẳn một bồ dao găm để chờ
dịp là thọc huyết nhau.
Nhưng tiếc thay chuyện Đức Mẹ hiện ra ở La
Vang chỉ là một trò ảo thuật khiên cưỡng, và được các ông nhà giòng
say sưa vẽ vời theo cảm tính tôn giáo của mình. Theo nhà nghiên cứu
Lê Xuân Nhuận thì Tòa Thánh Vatican, trong tuần-báo “L'Osservatore
Romano”, tiếng nói chính thức của Ca-Tô Rô-ma giáo, trong số ra ngày
12-19/8/1998, đã thành thật xác quyết rằng: “Tiếc thay, không có một
văn bản tài liệu nào chứng minh các lần Đức Mẹ Hiện Ra Tại La Vang”;
chỉ vì một lý do đơn giản là Đức Mẹ không hề hiện ra tại La Vang!
Xin vào trang
http://lexuannhuan.tripod.com/LaVang.html để rõ thực hư về
chuyện Đức Mẹ La Vang.
VII. Lời Kết:
a. Chỉ có kẻ ngu ngơ mới bảo là “trong tôn
giáo không có chính trị, và trong chính trị không có tôn giáo” hay
“tôn giáo nào cũng giống nhau, chuyên dạy điều đạo đức”. Ki-tô giáo
luôn luôn ráo riết xâm nhập vào xã hội Việt vẫn theo bài bản cũ trong
lịch sử trước đây, để làm tan rã sự đòan kết keo son vốn nhờ nó đã
từng chống lại các cuộc xâm lược của các đế quốc hùng mạnh nhất của
thế giới. Nếu trước đây trên bước đường xâm lược quân Nguyên Mông,
Tống, Minh, Thanh vv… mà có được một tôn giáo độc thần len lỏi dẫn
đường, thì đất nước ta đã bị Bắc thuộc muôn đời không trổi dậy được.
Bài học này con cháu có chóng quên chăng?
b. Tự hỏi nếu muốn có “tự do tôn giáo” tại
sao tín đồ Ki-tô không tự lập lấy giáo hội quốc gia, với sự giúp đỡ
và bảo vệ của Nhà nước, mà lại cứ luôn chịu sự giựt dây của ngọai
bang, chịu cúi mình trước những ràng buộc của giáo triều quân chủ
độc tài nham hiễm Vatican hay các chủ nhân tài phiệt ở Washington
hay London, để luôn gây bất ổn cho quốc thái dân an? Lại nữa, các sự
kiện tôn giáo ở nước ngòai bây giờ chỉ là chuyện nhỏ, bởi ai cũng
biết Thiên Chúa chẳng giúp đỡ cứu vớt gì được ai chỉ vì Ông chẳng hề
có; nhưng sao lại làm lớn chuyện ở Việt Nam?
Nay tuy Vatican không còn kinh khiếp như xưa
vì ảnh hưởng chính trị tòan cầu của các đế quốc châu Âu đã tàn,
nhưng Ca-tô Rô-ma giáo vẫn còn là mối đe dọa cho sự tòan vẹn độc lập
của tổ quốc ngày nào mà khối giáo dân Việt vẫn còn bị đầu độc bởi
bọn tu sĩ trong hệ thống Vatican. Nay thì Tin Lành đang thay thế ảnh
hưởng tòan cầu của Ca-tô Rô-ma giáo nương theo thế mạnh của Hoa Kỳ,
và trở thành công cụ xâm lược cho thế lực đế quốc mới này. Cả hai
đều muốn thay thế giới lãnh đạo Việt Nam bằng người của họ để dễ sai
bảo như các lãnh tụ miền Nam trước đây.
Vì vậy, Đảng và Nhà nước nên nhìn các họat
động tôn giáo cải đạo Ki-tô trong bối cảnh một chiến lược xâm lăng
dài hạn không ngưng nghỉ của các thế lực đế quốc kể từ thế kỷ thứ 16
để phác họa một chính sách đối đầu dứt khoát. Hãy xem các họat động
truyền giáo cải đạo là các họat động tiếp tay gây rối chống phá đòi
lật đổ Nhà nước. Nếu không có một chính sách tôn giáo dứt khoát phân
biệt bạn thù, thì đất nước khó có được yên ổn lâu dài để phát triển.
c. Đảng cầm quyền hiện nay giải phóng được
dân tộc khỏi gông cùm xiềng xích của Tây Mỹ và Vatican sau bao thế
hệ khác đã thất bại, cũng nhờ đòan kết được dân tộc không bị nạn
Ki-tô phá họai. Nhưng nay khi sống trong môi trường hội nhập mới với
đầy đủ tiền tài, tiện nghi vật chất hình như tinh thần đảng viên cán
bộ đã bị thóai hóa, mất cảnh giác cách mạng bởi quốc nạn tham ô mua
chuộc hối lộ, hay áp lực liên tục không cưỡng nỗi của ngọai bang.
Lọan Degar ở tây nguyên do Ki-tô giáo giựt dây mới ngày nào đã bị bỏ
quên chăng?
Đảng chiến thắng trong gian khổ hy sinh
nhưng sẽ bị diệt vong dễ dàng trong ham muốn thụ hưởng vật chất và
nhất là sự cám dỗ của đồng đô-la. Kẻ thù biết rất rõ như thế; nên
chúng sẽ không trực tiếp trao tay mà sẽ gián tiếp do những “sứ giả
truyền rao tin mừng của Chúa” mới được tuyển dụng đem lại một cách
êm ái nhẹ nhàng; và tiền của Tin Lành cũng như của Vatican thì không
bao giờ thiếu. Đợi khi thời cơ chin mùi thì chuyện lật đổ Đảng chỉ
là vấn đề thời gian; và cuộc tắm máu sẽ diễn ra vô cùng khốc liệt.
Đến lúc ấy, Đảng quay tìm sự ủng hộ đại khối dân tộc thì quá muộn, a)
vì đại khối dân tộc ấy đã bị cải đạo gần hết; b) vì lúc còn đang cầm
quyền, Đảng đã không giúp kiện tòan cơ cấu tổ chức của khối tín
ngưỡng đa số làm nòng cốt đủ vững mạnh để đối kháng với các thế lực
ngọai xâm văn hóa và tôn giáo. Xem qua những hình ảnh hoằng pháp của
tăng già ngày nay hình như tô màu rất đẹp chỉ dùng để làm trang trí
cho các buổi lễ hội. Áo vàng chói lọi khắp nơi mà thành tích Phật sự
thì chẳng gây được phấn khởi bao nhiêu. Hãy xem gương cách tổ chức
của Hồi giáo trong các xã hội của họ.
d. Đảng và Nhà Nước phải làm cho nước mạnh
dân giàu, thóat khỏi đói nghèo thì dân sẽ không trở thành nạn nhân
của những trò cải đạo bằng hối lộ giúp đỡ vầt chất lúc nghèo khó.
Phải tiêu diệt tham nhũng ở mọi tầng lớp cán bộ để duy trì lòng tin
của dân vào Đảng. Phải chấn chỉnh luật pháp, kiện tòan các cơ quan
chấp pháp để giữ vững an ninh xã hội. Có được vậy thì những thành
quả ngày nay mới được trao truyền cho con cháu về sau; thập giá sẽ
không cắm bừa bải trên Hồ Gươm, Vịnh Hạ Long, Núi Hương Tích, núi
Yên Tử vv… và Đền Tổ vua Hùng ở Phú Thọ sẽ không thể bị cưỡng bức
thành một La Vang thứ hai.
e. Hãy học sự khôn ngoan về chính sách tôn
giáo của hàng ngũ lãnh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc, nhất là đối với
các tôn giáo ngọai nhập. Khi hùng cường thì kẻ thù cũng nể mặt tránh
xa không còn giám đem những trò tiểu xảo ra hù dọa. Do đó, chỉ những
nước nhược tiểu mới vẫn còn bị loay hoay thụ động, không thể thóat
ra được những bao vây trùng điệp của thế cờ tôn giáo, nhân quyền,
dân chủ vv… do kẻ thù cũ tiếp tục giăng bẩy. Vậy thì “chiến thắng
vinh quang giành độc lập” như thế phỏng có ích gì? Muốn không bị
chết do ung bướu thì nên sớm dứt khóat cắt bỏ nó đi khi mới phát
hiện; đừng dây dưa đợi đến khi nó lan khắp cơ thể, chỉ vì chiêu bài
“tự do tôn giáo” rởm mới loay hoay tìm thuốc thì dã muộn.