Thực Chất Đạo Công Giáo và Các Đạo Thờ Chúa
Charlie Nguyễn
http://sachhiem.net/CHARLIE/CN_TCCG/Tuochieu.php
¿ trở ra mục lục | 2-8-2013
Những tước hiệu bịp bợm của
giáo hoàng
Vào một buối sáng tinh sương trong tháng
Giêng năm 1995, một đám đông khổng lồ chưa từng thấy, khoảng
trên 5 triệu người, từ khắp năm Châu đã tụ hội tại thành phố
Manila (thủ đô của Philipines) để xem một buổi lễ Mi-sa ngòai
trời của Giáo hoàng John Paull II. Ngoài sự háo hức cuồng tín,
đám đông còn bị thôi thúc bởi óc tò mò nên họ đã
chen lấn xô đẩy nhau để được nhìn
thấy “vị cha chung” của họ bằng xương băng thịt.
Nhiều người bị thương phải đưa vào bệnh viện
cấp cứu. Chỉ có một số ít tu sĩ và
giáo dân chọn lọc được phép gần Giáo hoàng mà thôi. Chung
quanh giáo hoàng là một đội ngũ công
an, mật vụ, cảnh sát và đủ loại nhân viên an ninh lên tới cả
chục ngàn người!
Hàng triệu tín đồ đáng thương đành phải
mon men đến gần các loa phóng thanh
gắn rải rác khắp nơi trong thành phố để nghe giọng nói tiếng Anh
pha giọng Ba Lan của giáo hoàng. Ngoài 5 triệu tín đồ có mặt tại
thành phố này còn có hàng trăm triệu tín đồ trên khắp thế giới
đang theo dõi buổi lệ này qua radio
và truyền hình trực tiếp.
Cuộc công du của giáo hoàng tại
Philippines lần này chỉ là một trong hàng trăm chuyến công du
của ngài tới các nơi khác trên thế giới.
Giáo hoàng tới đâu thì khung cảnh cũng tương tự như vậy. Điều đó đủ cho thấy giáo hoàng là người có
ảnh hưởng chính trị lớn nhất trên hành tinh của chúng ta.
Điều đáng chú ý là dù cho giáo hoàng trẻ hay già, dù mang quốc
tịch Ý hay Ba Lan, dù đặc tính các
nhân của giáo hoàng ra sao chăng nữa... tất cả đều không thành
vấn đề.
Điều quan trọng hơn hết đã khiến cho giáo
hoàng được những đám đông tín đồ cuồng nhiệt tôn sùng chỉ vì
tin rằng giáo hoàng là người duy nhất trên thế gian có quyền
“Đại diện Chúa Ki-tô” (Vicar of Christ) và “kế nhiệm thánh
Phê-rô” (Sucessor of St. Peter). Đó là hai tước hiệu (titles)
quan trọng nhất trong hơn một tá những tước hiệu của giáo hoàng.
Nhưng tất cả chỉ là
những màn kịch được đạo diễn bời bọn Mafia chuyên nghiệp về tôn
giáo. Tất cả những gì chúng ta thấy
được chì là cái vỏ bên ngoài hào nhoáng của một giáo hội tội lỗi
tự nhận là thánh thiện. Cái bề ngoài hào nhoáng đó không
phải đã được tạo thành trong một sớm một chiều mà là kết quả do
nhiều công trình sáng tạo của những bộ óc lưu manh siêu việt
trong 17 thế kỷ qua!
Những tước hiệu “kế vị thánh Phê-rô” và
“đại diện Chúa Ki-tô” của giáo hoàng do đâu mà ra và bắt đầu từ
bao giờ? Những tước hiệu đó có nguồn gốc lương thiện chân chính
hay chỉ là những trò gian manh bịp bợm?
Vatican đã thổi phồng những tước hiệu đó nhằm mục đích gì và bọn
chúng đã khai thác những tước hiệu này để gây tội ác như thế nào
cho nhân loại? Bài viềt này dực trên
những sự kiện lịch sử nhằm đưa ra những lời giải đáp cho những
vấn đề nêu trên.
Vài nét
sơ lược về Vatican:
Trong 3 thế kỷ đầu
Công nguyên, Ki-tô giáo chưa thành hình, chưa có giáo đô và cũng
chẳng có ai tự xưng là giáo hoàng. Đến đầu thế kỷ thứ 4,
tức giai đoạn đầu của thời đại hoàng đế Constantine (306-337)
thì trong đế quốc La Mã có một số trung tâm Ki-tô giáo nguyên
thủy (The Early Christianity) như Lyon ở xứ Gaul tức nước Pháp
ngày nay, Alexandria ở Ai Cập, Anatolia ở Thỗ nhĩ kỳ, Damascus ở
Syria, Jerusalem và Rome.
Tại mỗi trung tâm nói
trên có những tu sĩ nổi tiếng được các tín đồ tôn xưng làm giám
mục (Bishop). Ở Rome cũng vậy, các tu
sĩ đứng đầu trong cộng đồng giáo dân ở Rome cũng được gọi là
“giám mục thành Rome” (Bishop of Rome). Trong
ba thế kỷ đầu Công nguyên, Rome được
coi là giáo đô và cũng không có một giám mục nào ở Rome đuợc gọi
là giáo hoàng cả !!.
Vào năm 324, hoàng đế Constantine quyết
định bỏ Rome và dời đô đến Constantinople, nay là thủ đô
Istambul của Thổ nhĩ kỳ. Lý do là
lãnh thổ của đế quốc La Mã lúc đó trải rộng về phía động gồm có
những quốc gia thuộc Bắc Phi, Trung Đông, Tiểu Á, và một phần
Đông Âu. Thủ đô cũ của đế quốc đặt tại Rome trở nên nên quá xa
với lãnh thổ ở phía đông, nên không còn thích hợp cho việc
cai trị của đế quốc nữa. Thủ đô mới
của đế quốc La Mã tại Constantinople tồn tại và phát triển trong
hơn một ngàn năm (từ 324 đến 1453) với 88 đời hoàng đế từ
Constantine.
Từ sau khi Rome bị các hoàng đế La Mã bỏ
trống từ năm 324 thì các giám mục ở Rome bắt đầu âm mưu củng cố
quyền lực bằng cách liên kết với các vua chúa của các nước Tây
Âu để tách rời khỏi quyền lực của các hoàng đế La Mã tại Con
stantinople. Dần dần, Constantinople không
còn đủ sức kiểm sóat lãnh thổ phía Tây gồm các nước Âu châu nên
đế quốc La Mã bị tách ra làm hai.
Ki-tô giáo gắn liền với đế quốc nên cũng bị tách ra làm hai giáo
hội. Giám mục ở Rome tự xưng là
“Thượng phụ của giáo hội Tây phương” (Patriarch of The West
Church) và giám mục tại Constantinople tự xưng là “Thượng phụ
của giáo hội Đông phương” (Patriarch of The East Church).
Hai giáo hội Đông và Tây của Ki-tô giáo vẫn cố gắng thuận thảo
với nhau từ thế kỷ 4 đến năm 1054 thì tách rời hẳn.
Năm 1204, Vatican tổ chức cuộc Thập tự chinh
lần thứ 4 (The Fourth Crusade) tàn phá Constantinople gần thành
bình địa. Constantinople trở thành
thuộc địa của Vatican trong 57 năm (1204-1261).
Vatican chính thức trở thành một quốc gia
độc lập do Hiệp ước Lateran được ký kết giữa hoàng đế Ý Victor
Emmanuel III và giáo hoàng Pio XI năm 1929.
Lãnh thổ của quốc tí hon Vatican vừa bằng một cái sân golf với
khỏang 700 công dân chính thức mang quốc tịch Vatican. Giáo hoàng là quốc trưởng của quốc gia tí
hon này (State Sovereign of Vatican) kiêm Tổng giám mục của nước
Ý (Primate of Italy). Các tu sĩ hoặc giáo dân nhiều khi
không thích dùng tước hiệu “giáo hoàng” nhưng họ tôn xưng giáo
hoàng bằng những tước hiệu khác, chẳng hạn
như “Đấng đáng tôn kính nhất” (The Most Reverend), “Đấng
cao quý” (The Excellency), “Người đứng đầu hội thánh” (Pontifex
maximus ) và đặc biệt là tước hiệu “Đầy tớ của các đầy tớ”
(Servant of Servants).
Trong các buổi triều yết tại Vatican, các
hồng y và giám mục thường xếp hàng để lần lượt quỳ gối hôn
chân : “đầy tớ của các đầy tớ”! Peter
de Rosa, cựu tu sĩ Dòng tên nhận xét: “Những người mặc áo lụa
tím, sống trong lâu đài và ngự trên ngai vàng khó có thể hành xử
như một đầy tớ của các đầy tớ của Chúa” (Those who dress in
purple lik, live in palaces, sit on throne... it is not easy for
them to act as servant of servants of God – Vicar of Christ,
page 27).
Chỉ các tu sĩ cao cấp hay những nhân vật
nổi tiếng mới có thể tới gần giáo hoàng. Các
giáo dân cắc ké muốn đến gần giáo hoàng không phải chuyện dễ. Từ đầu thế kỷ 20, giáo hoàng được bảo vệ bởi
cơ quan mật vụ Ý (Unfficio Central de Vigilanza). Cơ quan
này được lệnh nổ súng vào bất cứ ai khả nghi dám
mon men đến gần giáo hoàng!
Từ nhiều thế kỷ qua,
mỗi năm có nhiều triệu khách hành hương từ khắp năm châu đến
viếng Vatican. Đông nhất là vào sáng chủ nhật hàng tuần
tại Công trường thánh Phê-rô. Đến gần 12 giờ trưa, mọi con mắt
của hàng chục ngàn khách hành hương đều đổ dồn về khung cửa sổ
tầng lầu 3 của Lâu đài Các Thánh Tông đồ (The Apostolic Palace).
Họ chờ đón giáo hoàng xuất hiện để quơ tay
ban phép lành trong vài chục giây đồng hồ! Trong giây phút
nghiêm trọng đó, có nhiều giáo dân sùng tín đã không ngần ngại
quì gối trên sân đá để đón nhận “ơn phúc không khí” của giáo
hoàng!
Trong cái lãnh thổ tí hon chỉ bằng sân
golf của Vatican chất chứa biết bao những âm mưu
vĩ đại làm thay đổi lịch sử loài
người. Các tín đồ sùng tín chẳng thấy gì cả, nhưng đối với những
bậc thức giả thì Vatican có rất nhiều điều đáng nói. Chẳng hạn
như đại văn hào Pháp Chateaubriand (1768-1848) đã viết trong tác
phẩm Mémoire của ông như “Ở Rome có nhiều ngôi mộ hơn xác chết”
(In Rome there are more tombs than corpses – Vicar of Christ,
trang 13). Ý ông muốn nói ở Rome có nhiều
ngôi mộ giả vì ở trong mộ không có xác chết. Nhất là những ngôi mộ ngụy tạo được gán cho
là mộ của các thánh như Phê-rô, Phaolô chẳng hạn.
Vatican tìm đủ mọi cách để đề cao những
tước hiệu: “Thừa kế của thánh Phêrô”, Đại diện Chúa Kitô”... để
giáo hoàng có lý do cai trị gần một tỉ tín đồ, đứng đầu đội ngũ
tu sĩ gồm có 4000 hồng y và giám mục, 400.000 linh mục và một
triệu nữ tu. Những tước hiệu đó đủ tạo uy
thế cho giáo hoàng thành người đứng đầu một trung tâm quyền lực
khuynh đảo thế giới trong nhiều thế kỷ. Trong các buổi lễ
tại đền thánh Phêrô do giáo hoàng cử hành, ca đoàn chính thức
của Vatican là ca đoàn Sistine luôn luôn ca bài hát La-tinh “TU
ES PETRUS” (Người là thánh Phêrô) nhằm nhắc nhở mọi người biết
rằng : Giáo hoàng là thánh Phêrô tái
sinh để cai trị Giáo hội Công giáo.
I .Tước hiệu “Người
kế vị thánh Phêrô”
Theo bản danh sách
chính thức của Giáo hội Công giáo thì Phêrô là giáo hoàng đầu
tiên và John Paul II là giáo hoàng thứ 263. Theo cựu tu
sĩ dòng tên Peter de Rosa, tác giả của tác phẩm lừng danh “Vicar
of Christ” thì bản danh sách giáo hoang của Vatican là hoàn toàn
ngụy tạo vì mãi đến cuối thế kỷ 11 - tức là vào năm 1073 – giáo
hoàng Gregory VI mới ra lệnh cho toàn giáo hội Công giáo phải
dành danh từ “giáo hoàng” (Pope) cho riêng một mình giám mục ở
Rome mà thôi. Tất cả các giám mục không được
phép tự xưng là “Pope”. Trước năm
1073, có nhiều giám mục ở nhiều nơi cũng tự xưng là giáo hoàng.
Do đó, con số 263 được gán cho John Paul II là hoàn toàn vô căn
cứ. (Vicar of Christ, trang 14).
Vấn đề quan trọng nhất cần được đặt ra là:
Có thật sự Phêrô làm giáo hoàng đầu tiên ở Rome hay không?
Trong Kinh Thánh Tân ước (Sácch Tông đồ
Công vụ) có một bức thư của Phaolồ nhắc đến tên của 29 người
trong cộng đoàn nhưng không có tên Phêrô.
Chẳng lẽ Phêrô là người quan trọng nhất trong cộng đoàn ở Rome
mà Phaolồ bỏ qua? Sở dĩ Phaolồ không
nói tới vì Phêrô không có mặt ở Rome mà thôi.
Irenaeus là giám mục tại Lyon (178-200) và
là tác giả của Kinh Tin kính, đã viết sách khẳng
định : Giám mục đầu tiên ở Rome không
phải là Phêrô mà là Linus do Phaolồ bổ nhiệm.
(Vicar of Christ, trang 15).
Sử gia nổi tiếng về
lịch sử Kitô giáo nguyên thủy là Eusebius (260-340) viết sách
nói về các giám mục ở Rome nhưng không hề nói tới Phêrô.
Kinh Thánh Tân ước khẳng định cộng đồng giáo dân Kitô đầu tiên ở
Rome do Phaolồ lập nên. Phaolồ là người học
thức và có quốc tịch La Mã. Sách Tân ước gọi Phaolồ là
“tông dồ của dân ngoại” và Phêrô là “tông đồ của dân Do thái”.
Vậy nếu có “giáo hoàng” hay “giám mục” đầu tiên ở Rome thì người
đó phải lả Phaolồ chứ không phải là Phêrô. Peter de Rosa khẳng
định : Phêrô chẳng bao giớ làm giáo
hoàng, Vatican đã gán cho ông ta cái chức vị nhiều thế kỷ sau
khi ông ta đã qua đời. (Vicar of Christ, tr.
15).
Sử gia Hoa Kỳ Lloyd M.
Graham, trong tác phẩm best-seller “Deceptions and Myths of the
Bible”, đã dành ra chương 26 để vạch trần nền tảng bịp bợm
(false foundation) của giáo hội Công giáo La Mã. Khởi đầu
là những cố gắng của giáo hội muốn cho mọi tín đồ phải tin rằng:
Giáo hội Công giáo được xây dựng trên nền tảng là thánh Phêrô do
chính Chúa Jesus sắp đặt. Họ viện dẫn 3 câu trong Tân ước:
Mattew 16:13, Luke 22:31 và John 21:15 để chứng minh Phêrô có
thẩm quyền tối thượng (St. Peter’s Supremacy) cả ở trên trời lẫn
dưới thế. Vậy giáo hoàng là người kế vị
thánh Phêrô cũng có cái quyền tối thượng ấy (the papal
supremacy).
Chính nhờ cái lối lý luận này mà giáo
hoàng đã lấn lướt quyền hành của các vua chúa Công giáo ở Âu
châu và nghiễm nhiên trở thành “Vua của các vua” trong nhiều thế
kỷ.
Phúc âm John kể chuyện: Trong một bửa
tiệc, Jesus hỏi Phêrô có yêu ông ta hơn những người khác không.
Phêrô trả lời “Chúa biết con yêu Chúa mà”.
Jesus nói “Vậy hãy nuôi nấng đoàn chiên của Ta” (Feed my lambs –
John 21:15).
Đoạn Phúc âm quan trọng nhất thường được
viện dẫn để chứng minh quyền lực của Phêrô, đó là Phúc âm của
Mattew : “Con là Đá (Peter / Pierre).
Trên viên đá này ta xây giáo hội. Các cánh cửa hỏa ngục không làm gì được.
Ta sẽ cho con chìa khóa thiên đàng. Những điều gì con buộc ở thế
gian thì cũng buộc ở trên trời và những gì con tha ở thế gian
thì cũng được tha ở trên trời” (Matthew 16). Nhưng tiếp
theo đó (Mathew 23) thì Jesus lại gọi
Phêrô là Satan” “Hãy lùi lại đàng sau ta, thằng quỉ Satan, ngươi
đã xúc phạm ta” (Get thee behind me, Satan, thou art an offence
unto me). Như vậy, Jesus đã xây giáo hội
trên nền tảng Phêrô tức trên nền tảng của quỉ Satan. Có
lẽ nào chúng ta có thể tọi Công giáo là “Đạo thánh Đức Chúa
Trời” trong khi chính Thánh Kinh của đạo này tự xác nhận là “Đạo
của Quỉ”? Nếu Phêrô là giáo hoàng đầu tiên của đạo Công giáo thì
chính hắn là thằng quỉ đầu tiên hiện hình làm giáo hoàng
cai trị giáo hội.
Sử gia M. Graham nhấn
mạnh đến tính cách vô nghĩa và vô cùng láo xược của câu chuyện
về Phêrô trong Phúc âm Matthew nói trên. Ông
viết : “Câu chuyện về Phêrô là hoàn
toàn vô nghĩa - một con người có sinh có tử mà được trao phó
quyền lực trên tòan thể nhân lọai cho đến muôn đời.
Nếu có Thiên Chúa thì chỉ một mình Thiên
Chúa có quyền đó mà htôi. Trong những vấn đề tôn giáo,
những người Công giáo hẳn nhiên là những kẻ nhẹ dạ, nhưng dù nhẹ
dạ tới đâu họ cũng không thể tin được là những bậc đại hiền
triết trước Công nguyên như Pythagore, Plato, Socrates và Đức
Phật Thích Ca lại phải tùy thuộc vào thẩm quyền tha tội hay buộc
tội của một thằng thuyền chài Do thái ngu ngốc là Phêrô hay sao?
Một Phêrô đầy thẩm quyền như vậy chẳng bao
giờ có. Câu chuyện này chỉ là một thí dụ điển hình về sự
thông thái bất lương của đạo Công giáo” (Peter’s
story is veriest nonsense – one mortal man endowed with the
power over all humanity for all eternity, we thought that only
God has this authority. In things religious, Catholics are
indeed credulous but can they be credulous as to believe that
pro – Christian sages like Pythagoras, Plato, Socrates and
Buddha require this ignorant Jewish fisherman to bind and loose
their souls?... Such a man as Peter never existed. This is just
a sample of Catholic scholarship with its capacity for
intellectual dishonesty... Deceptions and
Myths of the Bible, trang 439).
M. Graham hết luận :
Chẳng phải Phêrô là nền tảng của giáo hội, sự ngu dốt là vùng
đất tốt cho các tôn giáo phát triển và Kitô giáo không phải là
một ngoại lệ. (Ignorance is the soil in which
religions grows and Christianity is
no exception – S.đ.d, trang 441).
Vatican là hang ổ của bọn lừa bịp chuyên
nghiệp nhưng bọn chúng chỉ lừa bịp được những người
ngu ngốc mà thôi.
Hầu hết các tu sĩ Công giáo Việt Nam, kể cả những tu sĩ cao cấp
như hồng y Nguyễn Văn Thuận, đều đã không đọc kỹ Thánh Kinh.
Trong sách “Chúa Giêsu là ai? Giảng
dạy những gì?” nơi trang 51, giáo sư Trần Chung Ngọc đã vạch rõ
sự sai lầm của Hồng y Nguyễn Văn Thuận như sau: “Hồng y Thuận
viết “Chúa Giê-su đã chọn Phêrô, người đã chối ngài...” là sai,
chứng tỏ rằng ông đã được “giáo hội dạy rằng” rất kỹ và chưa
từng đọc Thánh kinh vì Thánh kinh đã viết rõ Giêsu tin rằng ngày
tận thế sắp tới ngay trong khi một số người cùng thời với Giêsu
còn sống, vậy chọn Phêrô để làm gì? Rõ ràng chuyện Chúa chọn
Phêrô là do giáo hội ngụy tạo để tự tạo vai trò kế thừa Phêrô và
là đại diện Chúa trên trần của các giáo hoàng”.
Ngoài ra, giáo sư Trần Chung Ngọc còn
trích dẫn nhiều đoạn Thánh kinh và nhiều nhận xét của các học
giả danh tiếng trên thế giới để chứng minh chuyện Giêsu chọn
Phêrô để lập giáo hội là một chuyện bịp bợm trắng trợn.
Họ phịa ra chuyện này chẳng phải để vinh
danh Phêrô mà chỉ dùng cái xác của Phêrô để làm bàn đạp tạo
quyền lực trên những cái đầu thiếu óc của đám tín đồ Công giáo.
(Xin đọc: “Chúa Giêsu là ai? Giảng dạy những
gì?” TCN, Giao Điểm xuất bản Xuân
2002, trang 67-75).
Tiến trình hình thành
quyền lực của giáo hoàng dưới chiêu bài “thừa kế Thánh Phêrô”:
Trong các công đồng Kitô nguyên thủy
(Early Christian communities) như Lyon, Rome, Jerusalem,
Antioch, Damascus, Alexandria .... đều chỉ có những tu sĩ cao cấp nhất
gọi là giám mục (bishop). Trong 3 thế kỷ đầu
Công nguyên không có ai là người đứng đầu toàn thể các giám mục. người đầu tiên tự xưng là vị chỉ huy
tất cả các giám mục là hoàng đế Constantine. Trong tác phẩm
“Vicar of Christ”, Peter de Rosa viết :
“Constantine gọi các giám mục là các anh em yêu quí và tư xưng
là Giám mục của các giám mục”... Ngay cả
giám mục ở Rome – chưa từng bao giờ được gọi là giáo hoàng trong
nhiều thế kỷ - so với hoàng đế thì chẳng là gì cả. Về dân
sự, giám mục ở Rome chỉ là giám mục hạng hai của Constantine”
(Constantine called bishops his beloved brethen and styled
homself ‘Bishop of bishops’... Even Bishop of Rome – not to be
called the Pope for many centuries –was, in comparison a
non-entity. In civic terms, he was, compared with Constantine, a
second-class bishop – Vicar of Christ, Peter de Rosa, trang 43).
Như vậy, nếu coi giáo
hoàng là người đứng đầu giáo hội và có thầm quyền trên hết các
giám mục thì giáo hoàng đầu tiên chính là Đại đế Constantine. Trong thực tế, Constantine đã hành xử quyền
hành của giáo hòang bằng cách triệu tập toàn thể giám mục đến
họp các công đồng (councils) và chính hoàng đế chủ tọa các công
đồng này. Trong cuốt thời gian trị vì từ năm 306 đến 337,
Constantine đã triệu tập và chủ tọa 4 công đồng đầu tiên của
lịch sử Kitô giáo.
Từ năm 324, Constantine bỏ thủ đô Rome để
thiết lập thủ đô mới tại hải cảng Byzantine của Hy Lạp, thủ đô
mới mang tên Constantinople, có nghĩa là thành phố của
Constantine. Đế quốc La Mã từ đó đổi thành
đế quốc Byzantine (Empire of Byzantine).
Rome trở thành một
thành phố trống vắng quyền lực vì ở xa Constantinople, các giám
mục ở Rome dần dần tạo ra cái gọi là Quyền lực của Giáo hoàng
(Papacy). Tân Tự điển Công giáo định nghĩa quyền lực của
giáo hoàng như sau: “Đó là một định chế nhằm đòi hỏi quyền cai
trị toàn cầu về phương diện tinh thần” (Papacy =
An institution in its claim to
universality in the spiritual sphere of government – New
Catholic Encyclopedia, Volume 14).
Người đầu tiên có tham
vọng thiết lập ngôi vị Giáo hoàng với quyền lực bao trùm thế
giới là Giám mục ở Rome tên Damasus. Peter de Rosa đã kể
lại trường hợp của Damasus tiếm đoạt chức Giám mục thành Rome
(Bishop of Rome) như sau:
Sau khi giám mục
Liberius chết năm 366, hai nhân vật có uy thế tại Rome tranh
nhau chức giám mục ở Rome là Ursimus và Damasus. Trong
khi Ursimus và những người ủng hộ ông ta đang họp trong nhà thờ
St. Mary Major thì Damasus thuê bọn du đãng ở Rome leo lên mái
nhà thờ ném ngói xuống như mưa khiến cho 137 người của phe
Ursimus chết tại chỗ. Trong khi đó thì những
tên du đãng khác đứng chận tất cả các cửa nhà thờ không cho ai
thoát chạy trong 3 ngày.
Nhờ vụ sát nhân ghê gớm này, Damasus khiến
cho mọi người phải khiếp sợ và nghiễm nhiên trở thành giám mục
tại Rome. (Xin đọc Vicar of Christ, trang
38). Damasus là người đầu tiên tự
xưng là người đứng đầu giáo hội (Pontifex Maximus / The Head of
Church – Babylon Mystery Religion, trang 72). Năm 382,
Damasus là ngưới đầu tiên khai thác mấy câu trong Phúc âm về
chuyện Jesus trao quyền cho Phêrô để dựa vào đó tự xưng mình là
“người kế vị thánh Phêrô” có quyền cai trị giáo hội hoàn vũ.
(The Rise of Christianity, Greenhaven press
1999, các trang 117-120).
Sau đây là tiến trình phát triển lý thuyết
về thẩm quyền của giáo hoàng dựa trên tước “kế vị thánh Phêrô”
(viết theo Eerdmans handbook of
Christianity, Eerdman Publishing Co. tái bản 1987, các trang
192-195). Qua tác phẩm này chúng ta sẽ thấy
Damasus là một nhân vật ghê gớm trong lịch sử giáo hội Kitô.
Tác giả viết : “Damasus làm cho
chuyện Phêrô thành một phần chủ yếu cho học thuyết về quyền lực
của giáo hoàng. Ông ta là giáo hoàng đầu tiên liên tục gọi Rome
là Tòa thánh của các Tông đồ và ông ta gọi các giám mục khác là
“con” chứ không phải “anh em”. Damasus cai
trị giáo hội 18 năm (366-384). [Sách đd,
trang 192].
+ Giáo hoàng kế vị Damasus là Siricius
(384-399): người đầu tiên gọi các văn kiện của y ký là Đạo luật
hoặc Tông huấn (Decree) nhằm mục đích xác nhận thẩm quyền của
giám mục ở Rome (cũng như thẩm quyền của hoàng đế) có hiệu lực
đối với các cộng đồng Kitô trên hoàn vũ.
+ Giáo hoàng Leo the Great (440-461): Vào
thế kỷ 5, giáo hội Kitô vẫn bao gồm các cộng đồng Kitô thuộc Tây
Âu và các nước phía Đông của đế quốc Byzantine. Năm 451, Giáo
hoàng Leo the Great triệu tập Công đồng Chalcedon nhằm mục đích
yêu cầu công đồng chính thức công nhận học thuyết Chúa trao
quyền cho Phêrô để thừa nhận giám mục ở Rome có thẩm quyền tối
cao của giáo hoàng. Leo the Great nói với công đồng rằng: “Thánh
Phêrô nói qua miệng của Giáo hoàng Leo” (St.
peter has spoken through Leo).
Nhưng kết quả là các
giám mục ở phía Đông đế quốc Byzantine bác bỏ chủ thuyết Phêrô
(Petrine theory) và hoàn toàn phủ nhận thẩm quyền tuyệt đối của
giáo hoàng. Họ công bố giáo hội
Constantinople là “thủ đô Rome mới” (the new Rome) có thẩm quyền
tương như giáo hội Rome cũ.
Công đồng Chalcedon năm 451 hoàn toàn tan
vỡ và mở đầu cho sự chia rẽ về sau để thành hai giáo hội: Công
giáo La Mã và Chính thống giáo!
+ Giáo hoàng Gelasius (492-496): Nhân danh
là “Người kế vị của thánh Phêrô”, Giáo hoàng Gelasius gửi
thư cho hoàng đế Byzantine với nội
dung như sau: “Hoàng đế phải bảo vệ giáo hội nhưng phải phục
tùng sự chỉ dẫn của giáo hoàng, người được hướng dẫn bởi Chúa và
thánh Phêrô. Giáo hoàng không thể được xét
đóan bởi bất cứ ai. Không một ai vào bất cứ thời gian và
không vì một lý do nào tự đặt mình trên giáo hoàng vì ngài là
người được Chúa Kitô đặt trên mọi người.” [xem
sách đã dẫn, trang 193].
Vì thấy các giáo hoàng ở Rome càng ngày
càng lộng hành, chẳng những về tôn giáo mà còn muốn lấn lướt cả
về thế quyền của hoàng đế nên vào đầu thế kỷ 6, hoàng đế
Justinian (527-565) mang quân từ Constantinople đến chiếm Rome
để tái lập trật tư. Kể từ đó, các giáo hoàng đều phải tuân phục
các hoàng đế La Mã đóng đô tại Constantinople và phải đối xứ với
các thượng phụ (Partriarchs) của giáo hội Đông phương tại giáo
đô Constantinople như những bậc bề trên.
Tác giả sách dẫn chiếu
viết : “Thẩm quyền của giáo hoàng bị lệ thuộc vào
Constantinople một thời gian rất lâu sau vài cái chết của hoàng
đế Justinian và giáo hoàng La Mã mất luôn quyền cai trị nước Ý.
Cho đến năm 741, các cuộc bầu chọn giáo hoàng ở Rome đều phải
được Constantinople xác nhận” [xem sách đã dẫn, các trang
194-195].
II. Tước hiệu
“Người đại diện Chúa Kitô”:
Tạp chí National
Geographic tháng 12-1983 có một bài viết đặc biệt về đế quốc
Byzantine (The Byzantine Empire) của Maria Nicolaidis
Karanikolas [từ trang 714 đến 777]. Theo tác giả thì các
hoàng đế Byzantine chủ trương dùng Kitô giáo để thống trị thế
giới qua khẩu hiệu : “Một Thiên Chúa,
một thế giới, một hoàng đế” (One God, one world, one emperor).
Tác giả viết: “Hoàng đế được Thiên Chús ủy nhiệm để truyền bá
đức tin chân chính và đặc các tín đồ dưới sự thống trị của ngài”
(The emperor had the divine mandate to progate the true faith
and bring them under his domination. Sách
đd, trang 727). Để hiện thân hóa vai trò của Chúa Kitô,
hàng năm vào ngày lễ Phục sinh và lễ Noel, các hoàng đế
Byzantine đều mặc áo lộng lẫy và được 12 cận thần đóng vai 12
tông đồ tháp tùng trong một cuộc rước từ hoàng cung đến nhà thờ
lớn Hagia Sophia. [ sách đd, trang
727].
Các hoàng đế
Byzantine, từ Constantine đại đế đến vị hoàng đế cuối cùng trải
qua 88 đời. Tất cả đều tự xưng là “Đại diện Chúa trên
trần thế” (God’s Vicar on earth). Trong 88 vị hoàng đế “đại diện
Chúa” có 13 vị đi tu, 30 vị bị chết bất đắc kỳ tử (bị đầu độc,
bị đấm chết, bị treo cổ, bị đâm, bị phanh thây, bị chặt đầu và
có vị bị chết đói). Tuy nhiên, đế quốc Byzantine đã tồn tại và
phát triển trong 1.123 năm - từ năm 330 đến ngày 29 tháng 5 năm
1453 thì bị quân Hồi giáo Thổ nhĩ kỳ tiêu diệt.
Các hoàng đế Byzantine
tự xưng là “Đại diện của Chúa” chỉ cốt để làm cảnh hoặc để đánh
bóng thêm cho ngôi vị hoàng đế trong đế quốc Kitô giáo của họ.
Trái lại, vì các giáo hoàng chỉ là chủ nhân của một lãnh thổ tí
hon, không lớn hơn một sân golf, không có quân đội, không có căn
bản thế quyền nên họ chỉ có một con đường duy nhất để tạo quyền
lực bằng cách nhấn mạnh rằng: chỉ có giáo hoàng mới thật sự là
Đại diện của Chúa Kitô và là người kế vị chân chính của thánh
Phêrô.
Theo sách “Giáo hoàng
Bách khoa Tự điển” (The Pope Encyclopedia, Matthew Buson,
Crowntrade Paperbacks 1995, trang 148, Giáo hoàng Gelasius I
(493-496) là người đầu tiên tự xưng là “Đại diện Chúa Kitô”).
Giáo hoàng viết thư cho hoàng đế
Byzantine là Anastasius với lập luận rằng: Chỉ có giáo hoàng mới
là đại diện chân chính của Chúa Kitô về mặt tinh thần còn hoàng
đế chỉ là đại diện về quyền thế tục mà thôi.
Tinh thần phải được coi trọng hơn vật chất vì vật chất sẽ qua đi
còn tinh thần là muôn đời. Do đó hoàng đế phải công nhận
thẩm quyền của giáo hoàng cao hơn thẩm quyền thế tục của hoàng
đế. Lập luận của Giáo hoàng Gelasius I mau
chóng được loan truyền khắp Âu châu và được đa số trong dư luận
ủng hộ vì lúc đó số tín đồ Kitô giáo ở Âu châu rất đông. Chính nhờ địa vị của giáo hoàng được củng cố
và dần dần giáo hoàng trở thành người có quyền lực mạnh nhất cả
về thần quyền lẫn thế quyền tại Âu châu.
Tám thế kỷ sau, giáo hoàng Innocent III
(1198-1216) dành độc quyền tước hiệu “Đại diện Chúa Kitô” cho
ngôi vị giáo hoàng với lập luận rằng: Giáo hoàng ở Rome là người
trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, do đó chỉ
giáo hoàng là đại diện duy nhất của Chúa Kitô trên thế gian này.
Chúa Jesus là Chúa của
vũ trụ, giáo hoàng đại diện Chúa có quyền trên tất cả mọi người,
kể cả các vua chúa thế gian. Với lập
luận này, Innocent III tự cho mình có quyền kiểm sóat các vua
chúa thế gian. Do đó, trong đầu thế kỷ 13, giáo hoàng
Innocent III đã ra lệnh cho các vua chúa Âu châu thực hiện nhiều
tội ác đẫm máu:
- Ra lệnh cho vua Pháp tàn sát những giáo
dân theo phái dị giáo Albigensians ở
Pháp.
- Ra lệnh cho vua Ý và Đức thực hiện cuộc
Thập Tự chinh Thứ tư (The Fourth Crusade) kéo dài 3 năm, từ 1201
đến 1204, để trừng phạt đế quốc Byzantine và Chính thống giáo.
Kết quả là các thập tự quân của giáo hoàng
đã chiếm thủ phủ Constantinople và phần lớn lãnh thổ của đế quốc
Byzantine. Vatican cai trị
phần lãnh thổ này 57 năm (1204-1261).
- Triệu tập Công đồng Lateran năm 1215 để
lập ra các khu tập trung người Do thái (ghettos), buộc mọi người
Do thái và Hồi giáo khi bước chân ra khỏi nhà phải mặc những
quần áo đặc biệt để phân biệt với những người Kitô giáo.
Innocent III mở đầu cho chủ nghĩa diệt chủng
Do thái của Công giáo La Mã.
- Ra lệnh cho dòng tu Dominicians tổ chức
Tòa án Dị giáo (Inquisition). Kết quả
là những tòa án tôn giáo này đã thiêu
sống 10 triệu người qua nhiều thế kỷ.
Nhờ dựa vào vài tước hiệu bịp bợm, giáo
hoàng Innocent III đã gây ra biết bao tội ác lớn lao đối với
nhân loại: phát động chiến tranh thập tự, mở đầu chiến tranh
diệt chủng Do thái, tàn sát những người muốn tách rời giáo hội
và nhất là việc thiết lập hệ thống Tòa án tôn giáo giết hại hàng
chục triệu người.
Innocent III không phải là giáo hoàng duy
nhất gây ra nhiều tội ác ghê gớm như Boniface VIII (1294-1303)
Urban V (1378-1389) Alexander VI (1492-1503) v.v... Theo các sự
kiện lịch sử nêu trên thì hiển nhiên một điều là hai tước hiệu
“Thừa kế thánh Phêrô” và “đại diện Chúa Kitô” đã tạo nên quyền
lực của giáo hoàng. Nhưng xét cho cùng thì
quyền lực củ giáo hoàng phát sinh từ đầu óc mê muội của tập thể
tín đồ. Nói cách khác, chính sự ngu
dốt của giáo dân Công giáo là nguồn gốc quyền lực của Vatican và
các giáo hoàng.
Charlie
Nguyễn
tháng 12.2002
Các chương khác trong sách:
- Bảy Cuộc Chiến Tranh Chống Hồi Giáo ...
- Cuốn Thánh Kinh Ô Nhục Của Đạo Công Giáo
- Hỏa Giáo Ba Tư là Tiền Thân ...
- JESUS dưới cái nhìn của Do Thái Giáo và Hồi Giáo
- Những tước hiệu bịp bợm của Giáo Hoàng
- Thiên Chúa Đang Được Động Viên ...
- Thập Giá và Lưỡi Gươm của Đại đế Constantine
- Truyền Thống Abraham Dưới Ánh Sáng ..
- Vai trò của chính quyền (Charlie Nguyễn)
- Việt Nam Cần Thưc Hiện Những Biện Pháp Mạnh.. (Charlie Nguyễn)
- Đạo Hồi là Đức Tin của Chiến Tranh và Bạo Lực
- Đạo Thiên Chúa chỉ là Đạo Thờ Bò Cải Biến
- Ảnh Hưởng Thần Học Do Thái Giáo và Kitô Giáo ...
Trang Charlie Nguyễn
Trang Tôn Giáo