|  
 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|  
 |  
●   Bản rời      
 Đây là những tiêu đề căn bản mà nhà sư Thích Chân Quang đã hướng dẫn trong "Biển Đông Dậy Sóng" 
2017-02-21 22:12 GMT-08:00 Tran Quang Dieu      Trích "Hiểu Đúng Lời Thầy"     Bài viết: Những  người kém tử tế đã xuyên tạc bài giảng Biển Đông dậy sóng vào ngày 12/6/2011  tại chùa Từ Tân của Thượng Toạ Thích Chân Quang như thế nào?     Trên mạng xã hội  Facebook, Youtube và các trang mạng có nhiều người đang lan truyền thông tin  rằng “Trong bài giảng Biển Đông dậy sóng, Thượng Toạ Thích Chân Quang khẳng  định Trung Quốc là anh, Việt Nam là em, nên việc Lý Thường Kiệt mang quân đánh  Trung Quốc xong rút về vào thời nhà Lý là hơi hỗn” khiến cho nhiều  người nghe xong tin liền, thiếu tinh thần kiểm chứng đã có những ý nghĩ, lời  nói không hay dành cho Thượng Toạ Thích Chân Quang – một vị tôn túc của Phật  Giáo Việt Nam.     Hôm nay, bằng tất cả  tinh thần khách quan, tôi xin được chia sẻ bài viết này để chứng minh rằng  thông tin về Thượng Toạ Thích Chân Quang ở trên đã đề cập là một thông tin đã  bị những người kém tử tế bóp méo, cắt đầu, cắt đuôi… một cách cố ý, làm lệch đi  hoàn toàn ý nghĩa câu nói của Thượng Toạ.     Tuy nhiên, trước khi đi  vào câu nói đó, ta hãy tìm hiểu xem Thượng Toạ Thích Chân Quang giảng bài Biển  Đông dậy sóng vào lúc nào, ở đâu và với đối tượng thính chúng là ai?   1. Hoàn cảnh, địa điểm  và đối tượng thính chúng của bài giảng Biển Đông dậy sóng      Thượng Toạ giảng bài  pháp trên tại khoá tu thiền hàng tháng ở chùa Từ Tân, ngã tư Bảy Hiền, quận Tân  Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, diễn ra sau khi tàu hải giám của Trung Quốc cắt  cáp tàu Bình Minh của Việt Nam vào tháng 6 năm 2011 trên vùng biển đặc quyền  kinh tế của Việt Nam, khiến những người dân Việt Nam yêu nước nói chung và  những thiền sinh yêu nước của khoá thiền Từ Tân có những dấy động lớn lao về  tình cảm. Nhiều người Việt Nam vì quá bức xúc đã xuống đường biểu tình ầm ĩ,  nhiều thiền sinh đã hỏi khẽ nhau về hành vi đó của tàu Trung Quốc và có lẽ đã  có một số thiền sinh bị suy giảm trong công phu tu tập. Trước tâm tình đó,  Thượng Toạ Thích Chân Quang đã giảng bài Biển Đông dậy sóng để các thiền sinh  yên tâm tu tập vì hiểu rằng việc tu tập đạo đức, thiền định của mình cũng góp  phần lớn vào việc bảo vệ tổ quốc; để những người dân định hướng lòng yêu nước  của mình vào những việc làm có ý nghĩa thiết thực hơn, như là rèn luyện thể lực  như một chiến sĩ, làm giàu, nhắc nhau lòng yêu nước, dạy răn con trẻ lòng yêu  nước, sử dụng hàng Việt Nam, trải lòng với những người bạn người Hoa hay khách  du lịch người Trung Quốc về chủ quyền biển đảo của Việt Nam… Hơn nữa, nhiều  thiền sinh cũng như Phật tử, người đến nghe giảng là người Hoa (Thành phố Hồ  Chí Minh là nơi nhiều người Hoa sinh sống nhất cả nước) nên những lời đạo lý  của Thượng Toạ còn có tác dụng xoa dịu tâm lý lấn cấn, ngại ngùng đôi khi có  thể là khó chịu, ngăn cách giữa người Hoa và người Việt trong và sau buổi  thuyết giảng, khoá thiền.     Thượng Toạ là người chịu  trách nhiệm với khoá thiền, là một vị tôn túc uy đức với hàng vạn đệ tử xuất  gia lẫn tại gia và là một nhà yêu nước với hàng chục bài giảng, ca khúc ca ngợi  lòng yêu thương quê hương đất nước – một tình cảm hết sức cao đẹp vốn là một bộ  phận quan trọng cấu thành nên tâm từ bi của nhà Phật. Vậy, việc Thượng Toạ  giảng bài Biển Đông dậy sóng trong điều kiện, hoàn cảnh, đối tượng thính chúng  như trên là rất nhân văn, hoàn toàn hợp lý, thoả đáng, hợp tình, thể hiện được  tinh thần đồng hành thuỷ chung son sắt giữa Phật Giáo và Dân Tộc.   2. Những người kém tử tế  đã xuyên tạc bài giảng Biển Đông dậy sóng như thế nào?      Một chiếc lá xanh khi  tách rời khỏi cành thì không còn là một - chiếc - lá - ở - trên – cành nữa. Nên  nó sẽ có những khác biệt nhất định với chiếc lá xanh trên cây, ví dụ như nó sẽ  mau úa hơn, dễ bị người hay loài vật dẫm lên hơn... Sự thật này không ai có thể  phủ nhận. Cũng vậy, bài giảng Biển Đông dậy sóng của Thượng Toạ là bài giảng  phức tạp vì liên quan đến lịch sử, chính trị, Thượng Toạ giảng gần hai giờ đồng  hồ. Ngoại trừ những bài giảng cho Chư Tăng Ni, có thể nói Biển Đông dậy sóng là  bài giảng dài nhất trong cuộc đời giảng sư của Thượng Toạ, tính đến hiện tại  (hết năm 2016). Trong bài giảng, luận điểm ngắn nhất cũng kéo dài gần 12 phút,  luận điểm dài nhất dài hơn 20 phút, chưa từng có bài giảng nào trong gần 2000  bài giảng đã qua mà Thượng Toạ chia ít luận điểm như thế, dành nhiều thời gian  cho từng luận điểm như thế. Những chi tiết này nói lên rằng đứng trước vấn đề  chính trị phức tạp nhạy cảm, Thượng Toạ đã vô cùng cẩn thận, có trách nhiệm với  từng lời từng chữ mình ứng khẩu mà thành, để tạo thành một chỉnh-thể-bài-giảng  tuyệt vời lay động lòng yêu nước trong thính chúng…              Việc có một số người chỉ cắt lấy hai câu trong bài giảng "Trung Quốc là  anh, Việt Nam là em", "Lý Thường Kiệt đem quân đánh Trung Quốc  là hơi hỗn"... rồi kết luận, dẫn dắt suy luận đủ điều về nội dung bài  giảng, về mục đích giảng của Thượng Toạ và thậm chí là bôi nhọ về đạo đức của  Thượng Toạ, trước hết, phải nói thẳng: đó là việc làm kém tử tế. Vì việc tách  rời hai câu nói ngắn ngủn ra khỏi một chỉnh-thể-bài-giảng gần hai tiếng rồi phê  phán đúng, sai, phải, trái, giống hệt việc ngắt cái lá xanh khỏi cành rồi vò  đầu bứt tai, nổi trận lôi đình, mắng nhiếc chiếc-lá-xanh-đã-bị-ngắt-khỏi-cây,  vì nó không có những đặc tính của chiếc-lá-xanh-trên-cành vậy. Tự họ đã làm  biến đổi ý nghĩa câu nói của Thầy thông qua việc tách rời câu nói đó khỏi chỉnh  thể bài giảng, tự họ lại suy luận, phê phán, công kích. Họ tự biên tự diễn như  thể trong họ có hai người, một người làm méo mó nội dung bài giảng và một người  thoá mạ Thượng Toạ vì những nội dung bị méo mó đó.              Mặc dù họ đã bôi nhọ, nhục mạ Thượng Toạ không thương tiếc, tôi cũng sẽ không  đáp lại họ như cách họ đã làm với Thượng Toạ. Tôi sẽ thử, bằng sự tử tế nhất  khách quan nhất của cá nhân tôi, tiếp cận vấn đề mà họ đã đặt ra một cách kém  tử tế.              Quay trở lại bài giảng, tại sao Thượng Toạ lại khẳng định "Trung Quốc là  anh, Việt Nam là em"?                       2.1  Ý nghĩa đầy đủ mà Thượng Toạ muốn nói khi khẳng định “Trung Quốc là anh, Việt  Nam là em” là gì?              Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư,  ghi rõ:   “Kỷ Hồng Bàng Thị.  Kinh Dương Vương. Tên húy là Lộc Tục, con cháu họ Thần Nông. Nhâm Tuất, năm thứ  17: Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế  Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua  [Kinh Dương Vương]. Vua là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn  cho nối ngôi. Vua cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế  Nghi là con nối ngôi, cai quản phương Bắc, phong cho vua làm Kinh Dương Vương,  cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ. Vua lấy con gái Động Đình Quân tên  là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân….”     Đoạn trích trên không có  gì khác với nội dung phần đầu bài giảng của Thượng Toạ Thích Chân Quang. Vì sao  vậy? Vì một trong những vị vua đầu tiên của người Trung Hoa nếu truy ngược ra  tận nguồn cội là nhân vật mang tên Đế Nghi.     Còn quốc tổ của người  Việt Nam là ai? Là vua Hùng đầu tiên – vua Hùng Lân Vương, ta chọn Ngài là quốc  tổ vì Ngài có công tập hợp các bộ lạc, tộc người từ khắp nơi lại thành một đất  nước, lập nên nhà nước đầu tiên trong lịch sử nước ta. Tuy nhiên, nếu truy  ngược về nguồn cội thì Vua Hùng Lân Vương là con của ai? Vua Hùng Lân Vương là  con của Cha Lạc Long Quân. Cha Lạc Long Quân là con của ai?  Cha Lạc Long  Quân là con của Tổ Phụ Kinh Dương Vương và con gái vị Thần Long. Và Tổ Phụ Kinh  Dương Vương là con của ai? Tổ Phụ Kinh Dương Vương là con của vua Đế Minh – vị  vua khi xưa cai trị một lãnh thổ Trung Hoa, nói một cách xấp xỉ, là rộng lớn  kéo dài từ biên giới phía Bắc của Trung Quốc ngày nay cho đến biên giới phía  Bắc của nước Việt Nam ta ngày nay. Vị vua này là Cha của Tổ Phụ Kinh Dương  Vương của dân tộc Việt Nam ta, đồng thời là Cha của Đế Nghi, người có thể được  xem là một trong những vị vua đầu tiên của đất nước Trung Hoa.     Vậy thì việc Thượng Toạ  kết luận “Người Trung Quốc là anh, người Việt Nam là em” là có cơ  sở về cội nguồn sâu xa của hai dân tộc. Rõ ràng, Tổ Phụ Kinh Dương Vương là em  của Đế Nghi. Chi tiết này chẳng những không làm vị thế người Việt Nam trở nên  thấp bé hơn so với người Trung Quốc, như những người kém tử tế cố tình dẫn dắt,  mà còn tôn vinh sự vĩ đại, cao thượng tột cùng của Tổ Phụ chúng ta, vì lẽ, theo  như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tổ Phụ Kinh Dương Vương của ta là:   “…bậc thánh trí thông  minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Vua cố nhường cho anh, không dám  vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi là con nối ngôi, cai quản phương Bắc”     Từ “Thánh” ngày xưa chỉ  được dùng cho những bậc có đạo đức phi thường và Tổ Phụ của ta là một con  người, một nhân cách phi thường như thế! Lưỡi gươm tranh giành ngôi báu quyền  lực đã tưới máu người cùng khắp trên cả hành tinh này! Vậy mà ở Tổ Quốc của  chúng ta lại có câu chuyện khước từ ngôi báu nhẹ nhàng như cánh chim bồ câu đập  trên tầng không cao vút vậy. Có thể về tuổi tác vua Đế Nghi lớn hơn Tổ Phụ của  ta, ừ thì vị Đế Nghi là anh, Tổ Phụ ta là em. Nhưng rõ ràng Thánh trí, tài năng  của Tổ Phụ ta phải rất phi thường, thì vua Đế Minh mới không truyền ngôi cho  con trưởng mà định truyền ngôi cho con thứ là Tổ Phụ của ta. Và Đạo đức của Tổ  Phụ ta cũng phải rất lớn lao mới có thể khước từ ngôi báu, nhường lại cho anh  mình như thế. Trong lịch sử loài người, Tổ Phụ ta là người hiếm hoi có thể đặt  tình anh em cốt nhục lên trên ước vọng vương quyền. Tôi tin chẳng người Việt  Nam nào lấy làm xấu hổ, buồn phiền vì Tổ Phụ mình sinh sau đẻ muộn nên làm em  của một trong những vị vua đầu tiên của người Trung Hoa. Chẳng những thế, tôi  tin đồng bào ta nhất định sẽ vô cùng hãnh diện tự hào khi mình may mắn sinh ra  trong một dân tộc có vị Tổ Phụ toàn bích về tài năng và mênh mông về đạo nghĩa  như vậy. Tuổi tác không phải là thước đo giá trị một con người mà chính đạo đức  và tài năng mới là thước đo.     Như vậy, câu kết luận  trên của Thượng Toạ là một sự thật lịch sử và sự thật đó chỉ thắp lên niềm tự  hào về cội nguồn dân tộc, thổi bừng lên lòng thương kính tổ tiên trong mỗi  người dân Việt mà thôi. Hành vi cố tình cắt đầu cắt đuôi bài giảng của Thượng  Toạ, rút ra câu kết luận của Thượng Toạ mà bỏ hết phần kể chuyện lịch sử, trình  bày dẫn chứng cơ sở lập luận của Thượng Toạ đã khiến cho những người nhẹ dạ cả  tin nghĩ rằng Thượng Toạ hạ thấp vị thế của người Việt Nam xuống dưới người  Trung Quốc, khởi lên ác cảm đối với Thượng Toạ…                                 2.2  Ý nghĩa thật sự mà Thượng Toạ khi nói “Chỉ có một lần Lý Thường Kiệt hơi  ‘’hỗn’’…” là gì?                        Toàn văn đoạn đó, Thượng Toạ nói như thế này:              ‘’Theo đạo lý của Á Đông ta thì người em phải làm sao với người anh? Phải  kính trọng. Đạo lý của Á Đông là vậy. Chứ không có giống như bên Phương Tây  nhiều khi ta thấy mấy đứa nhỏ ngang ngược, hỗn láo, mình khó chịu. Bên Á Đông  mình thì dù ông anh mình ổng dở, ổng ngu, ổng dốt, ổng nghèo, ổng hèn gì kệ  ổng, hễ ổng là anh, mình đều phải dành cho ổng một sự kính trọng trong chừng  mực nào đó, đúng không ạ? Thì bây giờ cũng vậy, Việt Nam là em, em thì phải  kính trọng anh, mà từ xưa đến nay mấy nghìn năm qua, người Việt Nam luôn có  thái độ kính trọng người Trung Quốc đàng hoàng. Không bao giờ mình mất cái Lễ  này, không bao giờ mình đánh mất đạo lý của một người em. Về phần người em,  mình đã làm đầy đủ bổn phận là luôn kính trọng người anh.             Chỉ  có một lần Lý Thường Kiệt hơi ‘’hỗn’’ [nói đến đây, Thượng Toạ cười ra vẻ khôi hài, ám chỉ chữ  ‘’hỗn’’ được hiểu theo nghĩa bóng, không phải nghĩa đen]. Sau khi  nghe tin ông anh sắp quánh mình, ổng đem quân ổng đánh trước, diệt hết tất cả  những hậu cứ, những thành Châu Ung, Châu Liêm, Châu Khâm để cho bên Trung Quốc  không có hậu cứ để làm bàn đạp đánh sang Việt Nam….’’     Để chứng minh đây chỉ  đơn giản là câu nói khôi hài của Thượng Toạ, không hề có ý nghĩa chê bai Lý  Thường Kiệt, cũng không hề có ý nghĩa phủ nhận chiến tích đập tan quân Tống xâm  lăng của Lý danh tướng, tôi xin nêu ra ba cơ sở:        Thứ nhất, có một sự thật cần phải biết rằng đây là bài  giảng hết sức phức tạp, nhạy cảm, căng thẳng vì được giảng trong bầu không sục  sôi căm phẫn của cả nước sau khi Trung Quốc có những hành vi leo thang quấy phá  ở vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam ta. Đối tượng nghe giảng lại là  những Phật tử vốn có thể chưa quen lắm việc đối diện với những sự biến chính  trị như thế. Rất nhiều trong số người ngồi nghe bài giảng hôm đó, là những  người Hoa đang sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trước đó không lâu,  cũng trong dịp khoá thiền chùa Từ Tân, người đứng đầu của đại sứ quán Trung  Quốc tại Thành phố Hồ Chí Minh đã đến dự buổi thuyết pháp của Thượng Toạ và ra  về trong tâm trạng vô cùng hoan hỉ. Nên việc Thượng Toạ sử dụng những câu nói  khôi hài là một nghệ thuật diễn giảng cần thiết, quan trọng để làm lắng dịu cảm  xúc, tâm tư của thính chúng trước khi đi sâu vào bài giảng. Bằng chứng cho điều  này là ngay đầu bài giảng, Thượng Toạ đã liên tiếp dùng ba câu khôi hài.     Câu thứ nhất, sau khi  Thượng Toạ giới thiệu tên bài giảng, Phật tử vỗ tay nhiệt liệt, Thượng Toạ đã  hỏi đùa “chưa nghe biết ra sao không mà vỗ tay, tính đi đánh nhau [với Trung  Quốc] hay sao mà vỗ tay”. Câu thứ hai, khi Thượng Toạ hỏi quý Phật tử “Kinh  Dương Vương là ai” và “Lạc Long Quân là ai”, nhiều người ú ớ không  nhớ ra, Thượng Toạ đã giả vờ hù sẽ phạt “quỳ nhang điện” những người đó  (chi tiết này bài giảng video trên Sen Hông không có, nhưng trong đĩa CD mp3  thì có, tôi khẳng định chi tiết này vì tôi có đến dự buổi thuyết giảng). Sau  hai câu nói khôi hài này, không khí chăm chú có phần căng thẳng của pháp hội  như vỡ oà, giãn ra thấy rõ, những tiếng cười có công năng làm dịu sự sục sôi  của cảm xúc căm phẫn vô cùng hiệu quả. Câu thứ ba, Thượng Toạ gọi chuyến hành  trình từ vùng Nam Hồ Động Đình của Cha Lạc Long Quân, tìm gặp mẹ Âu Cơ là “cuộc  vượt biên trái phép đầu tiên vì không có visa, không có hộ chiếu gì hết”.  Thời đó làm gì có visa, có hộ chiếu, nhưng Thượng Toạ vẫn nói thế, để tạo yếu  tố khôi hài. Sau câu nói này, cả hội trường cười ồ lên, từ đó, tâm lý của một  số thính chúng chuyển hẳn từ trạng thái thủ thế, căng thẳng sang vui tươi, cởi  mở và từ tâm lý tích cực này, Thượng Toạ mới có thể trình bày tiếp. Thượng Toạ  quả là một bậc Thầy của nghệ thuật thuyết giảng. Nhiều lần khác trong xuyên  suốt bài giảng, Thượng Toạ cũng khôi hài như thế để thăng bằng cảm xúc của  thính chúng sau những đoạn Thượng Toạ đã kéo cảm xúc của thính chúng đi lên khi  khơi dậy tình cảm yêu nước cháy bỏng trong lòng mỗi người bằng tài kể chuyện,  dẫn dắt kiệt xuất… Không những hiệu quả cho số đông tất cả thính chúng, mà sự  khôi hài của Thượng Toạ còn cần thiết để bảo vệ tim mạch cho những Phật tử,  thiền sinh, người cao tuổi đến nghe pháp, có thể có hoặc không có bệnh tim. Sẽ  rất nguy hiểm cho sức khoẻ và tính mạng họ nếu như Thượng Toạ chỉ khơi gợi, đề  cao lòng yêu nước, vô tình đẩy cảm xúc của họ lên cao quá mà không thăng bằng  lại kịp.   Thứ hai, đây chỉ là câu nói khôi hài, từ ‘’hỗn’’  phải được hiểu theo nghĩa khôi hài, là vì trong chính câu nói đó, sau khi nói  hết câu, Thượng Toạ đã mỉm cười sau gần mấy phút trước đó không hề cười, gương  mặt khá nghiêm vì đang chỉ ra một số điều sai của Trung Quốc về đối ngoại. Nụ  cười đầy ý vị của Thượng Toạ là một tín hiệu của sự khôi hài mà toàn thính  chúng, những người xem bài giảng đầy đủ đều nhận thấy dễ dàng, chỉ trừ những  người cắt đầu, cắt đuôi bài giảng, bỏ thành hai câu văn bản cụt ngủn rồi đả phá  ầm ĩ…   Thứ ba, đây chỉ là câu nói khôi hài, từ ‘’hỗn’’  phải được hiểu theo nghĩa khôi hài, là vì trong nhiều bài giảng trước đó,  Thượng Toạ luôn bày tỏ lòng ngưỡng mộ của mình dành cho danh tướng Lý Thường  Kiệt. Một trong những lần đó, là trong đoạn dạo đầu trươc khi bắt đầu bài giảng  Cách sống tuỳ duyên tại vùng địa đầu biên giới phía Bắc giáp với Trung Quốc  (Trà Cổ, Móng Cái) ngày 15-6-2009, Thượng Toạ đã phân tích và ca ngợi hết lời  bài thơ ‘’Nam quốc sơn hà’’ của danh tướng Lý Thường Kiệt.     Qua những bằng chứng  trên, tôi có thể kết luận rằng câu nói của Thượng Toạ về danh tướng Lý Thường  Kiệt “Chỉ có một lần Lý Thường Kiệt hơi ‘’hỗn’’…” hoàn toàn  là một câu nói khôi hài, chữ ‘’hỗn’’ phải được đặt trong ngoặc kép.  Thượng Toạ tuyệt đối không hề có ý phủ nhận, hạ thấp, chê bai cuộc hành quân vệ  quốc của Lý danh tướng.     Nhưng khi những người  kém tử tế cố tình tách câu nói ngắn ngủn đó ra khỏi bài giảng video, thành một  câu văn bản không có dấu ngoặc kép dành cho từ ‘’hỗn’’ …thì đã rất nhiều người  nhẹ dạ cả tin, thiếu tinh thần phản biện lý trí đã bị cuốn theo tâm lý đám đông  mà cho rằng Thượng Toạ phủ nhận, phê phán Lý danh tướng, để rồi buông những lời  trách móc, thoá mạ, bôi nhọ Thượng Toạ đủ điều.   3. Thay lời kết      Những người tin theo  thông tin đã bị xuyên tạc rồi nặng lời với Thượng Toạ là nạn nhân. Tuy họ có  đáng trách nhưng cũng không đáng trách  bằng những người kém tử tế đã cắt  xén bài giảng video của Thượng Toạ, bỏ đầu bỏ đuôi, lấy ra hai câu cụt ngủn làm  cho hai câu đó đứng trơ trọi một mình và khi ghép hai câu đó lại với nhau,  những người kém tử tế đã muốn hướng dư luận đến một suy nghĩ rằng: “Thượng  Toạ Thích Chân Quang hạ thấp vị thế của người Việt Nam xuống dưới người Trung  Quốc, gọi Việt Nam là em Trung Quốc là anh, và từ đó Thượng Toạ phủ nhận, chê  danh tướng Lý Thường Kiệt”. Trong khi bài giảng của Thượng Toạ không hề có  ý đó. Khi tách hai câu nói cụt lủn ra khỏi bài giảng dài gần hai giờ, họ đã tự  ý bẻ cong ý nghĩa hai câu nói đó theo một hướng khác so với khi nó còn nằm  trong một chỉnh thể bài giảng dài hai giờ đồng hồ. Việc này tương tự như việc  ngắt một cái lá xanh ra khỏi cành vậy. Nó dĩ nhiên sẽ mau úa hơn, dễ bị người  và động vật dẫm lên hơn so với khi nó là cái lá xanh còn đung đưa trên cành. “Tách  một bộ phận ra khỏi một tổng thể chứa đựng nó, luôn luôn làm biến đổi chức  năng, giá trị, ý nghĩa của bộ phận đó” – Đây là tính toàn vẹn, đồng bộ của  mọi sự vật, sự việc.     Hành vi đó là hành vi  không ngay thẳng, lươn lẹo, không quân tử, kém tử tế… Là một đòn đánh dưới thắt  lưng hèn hạ nhắm vào danh dự, uy tín của cá nhân Thượng Toạ nói riêng và Phật  Giáo Việt Nam nói chung.. Một Phật tử 
 
 |  
  | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|  .
 Trang Sách Hiếm | ©2012 | | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||