Một Quan Chức Tôn Giáo Thuyết Giảng Nói Chiến Tranh Việt Nam Là “Nội Chiến”, “Chiến Tranh Ý Thức Hệ”
 Giới Thiệu Một Tư Liệu Tham Khảo. 
 Minh Thạnh
 http://sachhiem.net/TONGIAO/tgM/MinhThanh48.php
 
 14-Aug-2025
 
14-Aug-2025
 
   Mỹ, thông qua các giáo hội, từ "từ thiện" và "viện trợ" nhân đạo để trực tiếp nắm lấy các giáo hội địa phương và các tổ chức Công giáo làm các công tác cứu trợ, bác ái thuộc phạm vi y tế, giáo dục, xã hội, biến họ thành công cụ phục vụ đắc lực cho chủ nghĩa thực dân mới.
  
 (Phần 1)
 Bạn đọc có đề nghị tôi vào xem các video xung quanh việc một  quan chức tôn giáo thuyết giảng rằng chiến tranh Việt Nam là “nội chiến”,  “chiến tranh ý thức hệ”, yêu cầu tôi bình luận.
   Đây là vấn đề nhạy cảm về chính trị, cho nên tôi xin phép không  bình luận.
   Thay cho bình luận, tôi xin giới thiệu đến bạn đọc một quyển sách  có nội dung mà bạn đọc có thể tham khảo và tự rút ra những kết luận, đánh giá.  Có lẽ, nó sẽ có ích đối với một số Youtuber thường vẫn hay nói đến nội dung phê  phán Chính quyền Vatican trong lịch sử.
   Sách được giới thiệu là quyển “Chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ ở  miền Nam Việt Nam (khía cạnh tư tưởng văn hoá) 1954-1975”, tác giả Phong Hiền,  Nhà xuất bản Thông tin Lý luận, Hà Nội, 1984?
   Quyển sách được giới thiệu đã nêu và phân tích quan điểm của  Pháp, Mỹ, Chính quyền Sài Gòn, Chính quyền Vatican… về chiến tranh Việt Nam với  nội dung “chiến tranh ý thức hệ”, “nội chiến”?
   Dưới đây là tường thuật một số nội dung trong quyển sách để bạn  đọc tham khảo. Những chỗ được nhấn mạnh là của người tường thuật.
   Bạn đọc xem sách rồi đối chiếu nội dung sách (được dùng làm tài  liệu tham khảo trong một số trường đại học vào cuối thập niên 1980 và nhiều  thập niên sau đó) so với nội dung thuyết giảng của một quan chức tôn giáo, vốn  thường xuyên thuyết giảng về đề tài chính trị và nói chiến tranh Việt Nam là “chiến tranh ý thức hệ”, “nội chiến”, nghĩa là nhận định cuộc chiến không phải  chiến tranh giải phóng dân tộc.
   Đọc nội dung tường thuật, phải chăng, chúng ta sẽ thấy những  quan điểm chính của Mỹ và lãnh đạo chính quyền Sài Gòn trước đây nay lại được  một quan chức tôn giáo nhắc lại?
   Sau đây là nội dung tường thuật:
 1- Đế quốc Mỹ đã tích cực sử dụng vũ khí tư tưởng và văn hoá để  bổ sung cho sự xâm lược về quân sự và nô dịch về chính trị của chúng đối với  nhân dân ta ở miền Nam. 
Tướng tình báo Mỹ E. G. Lên-xđên (Edward Geary Lansdale), người được Chính phủ  Mỹ cử sang làm cố vấn cho Ngô Đình Diệm về các biện pháp chống du kích và chống  cộng sản trong những năm 1954-1956, đã nêu lên một kết luận có tính chất tổng  kết về công tác của mình như sau:
“Những bài học ở Phi líp pin và Việt Nam đã  nhấn mạnh đến chiến lược nhân dân do cộng sản áp dụng và sự cần thiết phải  phòng thủ nhân dân để chống lại chiến lược ấy. Trên căn bản, NHÂN DÂN TRONG MỘT  QUỐC GIA là yếu tố chủ yếu trên chiến trường mà cộng sản lựa chọn, VÌ CUỘC  CHIẾN TRANH Ở CHIẾN TRƯỜNG ẤY LÀ CUỘC CHIẾN TRANH GIỮA CỘNG SẢN VÀ CHÍNH QUYỀN  ĐỂ GIÀNH SỰ ỦNG HỘ CỦA NHÂN DÂN. Bên nào được nhân dân ủng hộ, bên ấy sẽ giành  được quốc gia và đánh bại được bên kia”. Và 
“Tôi mong rằng chúng ta sẽ không  quên vấn đề căn bản chính trị của các cuộc tranh chấp thuộc loại này, và sẽ  không đặt quá nhiều tin tưởng một cách sai lầm vào các hành động quân sự, hành  động cảnh sát và hành động kinh tế mà không nhìn nhận các hành động ấy chỉ là  công cụ của ý đồ chính trị”. 
Cũng cần chú ý rằng trước đó, trong tuyên bố ngày  3 tháng 2 năm 1954 về Đông Dương, Ai-xen-hao, (SH- Eisenhower) lúc đó là tổng thống Mỹ đã nói:  “Trái tim và tâm hồn của dân chúng thực sự trở thành yếu tố quan trọng nhất của  thành công hoặc thất bại”.
   Được cử sang miền Nam lần thứ hai để phụ tá cho chính quyền Sài  Gòn, trong thời gian từ năm 1965 đến năm 1966, tức là ngay giữa lúc L. Giôn-xơn (Lyndon Johnson) quyết định đưa nửa triệu quân Mỹ kéo vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam.  Lên-xđên (Lansdale) vẫn tuyên bố tiếp theo Tay-lo (General Maxwell Taylor, Cố vấn quân sự cho TT Kennedy) và Ha-kin: “Người ta không thể giết chết  một ý kiến cách mạng do cộng sản gieo rắc ở miền Nam bằng cách phủ nhận những ý  kiến ấy hoặc oanh tạc chúng… PHẢI CHỐNG Ý THỨC HỆ CỘNG SẢN BẰNG MỌI Ý THỨC HỆ  KHÁC”.
   Các chính quyền lệ thuộc Mỹ kế tiếp nhau ở Sài Gòn đều quán  triệt quan điểm nói trên của Mỹ. Ngô Đình Diệm đã tuyên bố rằng: “Thứ chiến  tranh này không phải là thứ chiến tranh chỉ liên hệ đến một số quân nhân mà  thôi đâu. Thứ chiến tranh mà ta phải đối địch là thứ chiến tranh lý tưởng đối  đầu với lý tưởng”. Những kẻ kế tiếp Diệm tiếp tục che giấu cho tính chất xâm  lược của cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành ở miền Nam Việt Nam bằng cách gọi đó  là một cuộc chiến tranh ý thức hệ: “Cuộc chiến tranh ở Việt Nam ngày nay mang  bản chất một cuộc chiến tranh ý thức hệ hơn là một cuộc chiến tranh xâm lăng,  nên chiến tranh chính trị được đặt nặng hơn bất cứ vấn đề nào khác. Người ta  còn gọi đó là chiến tranh chủ nghĩa”.
   Tất cả những lời trích dẫn đó chứng tỏ rằng, nói chung, đế quốc  nào cũng phải lấy việc ĐẦU ĐỘC VỀ TƯ TƯỞNG VÀ VĂN HOÁ để bổ sung cho sự xâm  lược về quân sự và nô dịch về chính trị. Nhưng so với thực dân Pháp, đế quốc Mỹ  làm việc này một cách tích cực hơn quán triệt hơn, không hề thấy lúc nào coi  nhẹ hoặc lơ là. Bởi vì, một mặt, đó là một bộ phận của chiến lược của Mỹ. Mặt  khác, vì Mỹ đứng trước một nhân dân đã được thức tỉnh mạnh mẽ về ý thức giải  phóng dân tộc theo lập trường vô sản, kiên quyết không chấp nhận chế độ THỰC  DÂN của Mỹ, nên bên cạnh việc huỷ diệt đồng bào miền Nam bằng bom đạn. Mỹ càng  ngày càng phải tìm cách thuần phục họ bằng những cố gắng nhiều mặt, trong đó,  tư tưởng văn hoá là những công cụ được Mỹ sử dụng một cách mạnh mẽ. Tất cả đều  nhằm mục đích xoá mờ ý thức dân tộc và giai cấp, GIEO RẮC MƠ HỒ GIỮA TA VÀ  ĐỊCH, hòng làm tê liệt ý chí chống Mỹ, cứu nước của đồng bào ta ở miền Nam, phá  hoại phẩm giá và nhân tính của con người, nhào nặn sự đồng tình hoặc cam chịu  của họ đối với chế độ Sài Gòn, và TÔ ĐIỂM HOẶC BIỆN HỘ CHO NHỮNG KẺ THỐNG TRỊ.
   Mỹ đã tiến hành cuộc “chiến tranh tư tưởng” đó một cách kiên trì  và công phu.
   Một mặt, Mỹ cho du nhập vào miền Nam tất cả các trào lưu văn  hoá, các triết học hiện đại phương Tây và cổ đại phương Đông – trừ chủ nghĩa  Mác, hình thành nên một thứ “chợ trời văn hoá” trong đấy mọi người đều có thể  tìm thấy “món ăn tinh thần” cho mình. Tuy nhiên, sự giao lưu có tính chất áp  đặt về mặt tư tưởng và văn hoá như vậy, tự nó đã nói lên tính chất nô dịch  không cần trá hình.
   Mặt khác, Mỹ cũng có một chính sách “chinh phục tinh thần” theo  cách riêng của Mỹ, Mỹ không chỉ nhằm vào một thiểu số trí thức để qua đó mà tác  động đến đông đảo quần chúng như Pháp đã từng làm, Mỹ còn đi từ dưới lên, tranh  thủ trực tiếp đa số quần chúng thuộc các tầng lớp dưới. Khi trực tiếp đưa quân  xâm lược miền Nam thì Mỹ phải triển chính sách này thành “một cuộc chiến tranh  khác” – nói như L. Giôn-xơn ở hội nghị Hô-nô-lu-lu năm 1966 – như là sự kế tục,  trên một quy mô lớn hơn, các chiến dịch “tranh thủ trái tim và khối óc” thời  Ken-nơ-đi. Riêng về mặt tư tưởng đây là cả một cố gắng “điều kiện hoá” tư tưởng  và văn hoá, dựa trên quan niệm cho rằng con người được xác định bởi những điều  kiện vật chất vốn bó chặt lấy cuộc sống của anh ta, và người ta có thể nhào nặn  con người một cách sâu sắc hơn, không phải chỉ bằng cách nhồi nhét cho anh ta  những tư tưởng và văn hoá thống trị, mà còn tạo cho anh ta những điều kiện sống  vật chất khác hẳn. qua đó mà thay ý thức hiện có của anh ta bằng một ý thức mà  anh ta có thể có một ý thức phù hợp với ý muốn của Mỹ - nguỵ. Mục tiêu của Mỹ  lúc này là: song song với việc thực hiện chính sách diệt chủng, Mỹ tiến hành  chính sách diệt tộc về văn hoá, không phải một cách tuyệt đối mà theo nghĩa  buộc dân tộc Việt Nam phải quỳ gối và biến con người Việt Nam thành một thứ nô  lệ tự nguyện.
   …
   Khía cạnh tôn giáo của chế độ thực dân mới. Công giáo: trụ cột  tinh thần của chế độ 
   Mỹ nắm các tôn giáo bằng nhiều con đường.
   Miền Nam Việt Nam vốn là một xứ nông nghiệp lạc hậu, luôn luôn  sống trong tình trạng bị đế quốc, phong kiến thống trị áp bức bóc lột hà khắc,  rồi lại tiếp đến chiến tranh ác liệt kéo dài. Vì vậy, đây là miếng đất tự  nhiên, thuận lợi cho nhiều tôn giáo nảy nở. Mặt khác, các thế lực đế quốc, thực  dân, cũ cũng như mới, đều tìm mọi cách xen vào lũng đoạn các tôn giáo: một số  đảng phái chính trị và PHẦN TỬ ĐẦU CƠ CŨNG CHUI VÀO CÁC TỔ CHỨC TÔN GIÁO ĐỂ LỢI  DỤNG. Tình hình ấy đã làm nảy sinh ở miền Nam Việt Nam có lúc tới hơn một trăm  tôn giáo lớn nhỏ, kể cả những thứ tôn giáo chỉ có mấy trăm hoặc mấy ngàn tín đồ  v.v… tất cả thu hút tới gần một nửa dân số.
   Đế quốc Mỹ tìm đủ mọi cách nắm lấy 5 tôn giáo lớn nhất là Công  giáo, Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, Tin Lành. Các tôn giáo này, do ảnh hưởng  trong quần chúng, do số lượng tổ chức và tín đồ, do có nhiều quan hệ quốc tế,  đã trở thành những lực lượng chính trị - tinh thần chính yếu ở miền Nam Việt  Nam. Vai trò của chúng càng ngày quan trọng do chỗ giai cấp tư sản mại bản ở  miền Nam Việt Nam yếu và phụ thuộc, đã không nặn ra được một chính đảng thực sự  nào ở miền Nam Việt Nam kể cả Đảng Cần lao nhân vị của Ngô Đình Diệm hoặc Đảng  Dân chủ của Nguyễn Văn Thiệu, mặc dù Bộ Nội vụ của nguỵ quyền Sài Gòn có lúc  đăng ký tới 123 đảng chính trị. Điều đó cắt nghĩa vì sao MỸ QUAN TÂM NẮM CÁC  TÔN GIÁO HƠN LÀ NẮM CÁC “CHÍNH ĐẢNG”.
   Trong điều kiện ấy, không có gì là ngạc nhiên khi thấy Mỹ tích  cực ủng hộ các tôn giáo. Chẳng hạn đối với Công Giáo La Mã, giữa toà đại sứ Mỹ và toà  khâm sứ, toà thánh, có đường điện thoại riêng. Linh mục Mỹ J. Hác-mét, Giám đốc  cơ quan cứu trợ Công Giáo  Mỹ (Catholic Relief Service) luôn luôn ở bên cạnh vị  khâm sứ này. Các viên chức cao cấp Mỹ W.E. Con-bai, sau đó là W. Gia-cốp-son,  rồi là Pôn-ga, tiếp nối nhau điều khiển guồng máy, nuôi và nắm các tôn giáo ở  miền Nam Việt Nam.
   Mỹ viện trợ cho các tôn giáo bằng nhiều cách: viện trợ trực tiếp  bằng tiền, bằng các tặng phẩm, hoặc bằng vật liệu xây dựng v.v… Linh mục Trần  Tam Tỉnh, trong bài Thập giá và gươm, đã viết: “Biết bao linh mục đã khúm núm  đi xin viện trợ, hoặc tại các cơ quan Hoa Kỳ ở Việt Nam, hoặc tại Mỹ. Nếu chúng  ta đếm được những nhà thờ được xây dựng từ ngày Mỹ can thiệp vào Việt Nam,  chúng ta sẽ không ngạc nhiên thấy đồng đô la có một sự cám dỗ ghê gớm đối với  nhiều giáo sĩ. Thiết tưởng cũng nên thêm: đồng đô la cũng có sức mạnh tương tự  trước Phật đài”.
   Sau khi Mỹ trực tiếp đem quân vào miền Nam Việt Nam, thì con  đường có hiệu quả nhất để Mỹ quan hệ với các giáo hội ở miền Nam Việt Nam là  con đường “viện trợ nhân đạo”.
   Từ lâu, Mỹ đã chú ý đến vai trò của các hội từ thiện. Ban đầu,  các tổ chức này, với số lượng hạn chế và số quỹ có hạn, chỉ thiên về những hoạt  động xã hội cấp thời để cứu trợ các nạn nhân xã hội, các cô nhi, người già v.v…  Từ năm 1965, Mỹ đã cố biến chúng thành một bộ phận của guồng máy chiến tranh,  thành một trong những yếu tố của cuộc “chiến tranh không có súng”, thể hiện  trong các Chương trình Bình định do R. Cô-mơ (SH -   Robert W. Komer, Giám đốc CIA, Cơ quan tình báo trung ương Mỹ) phụ trách.
   Vì vậy, người ta tính có đến khoảng 60 hội từ thiện thực sự có  mặt, hoạt động hợp pháp ở miền Nam và cộng tác với chính quyền Sài Gòn với 775  người nước ngoài (trong đó có 481 người Mỹ) và khoảng 1.900 người Việt Nam tham  gia hoạt động trực tiếp, và với một kinh phí hàng năm khoảng 43 triệu đô la.  Theo một nguồn tài liệu của Mỹ, trong số những hội từ thiện này có 16 hội nhận  một phần và 8 hội nhận hoàn toàn tiền trợ cấp của cơ quan phát triển quốc tế  Hoà Kỳ (U.S.A.I.D). “Có thể kể tên một số tổ chức quan trọng đã nhận trợ cấp của  U.S.A.I.D trong năm 1969: cơ quan cứu trợ Thiên Chúa giáo (800.000 đô la), cơ  quan cứu trợ y tế thiếu nhi quốc tế (800.000 đô la), quỹ phát triển cộng đồng  (319.246 đô la), uỷ ban cứu trợ quốc tế (350.000 đô la), hội thanh niên chí  nguyện quốc tế (887.410 đô la), Đội quân cứu trợ tôn giáo (227.000 đô la), Hội  đồng cứu trợ thế giới (474.860 đô la) v.v… Các hội này hoạt động ở nhiều lĩnh  vực, trong đó có mấy trọng tâm: cứu trợ nạn nhân chiến cuộc, dịch vụ y tế, bảo  trợ cô nhi viện v.v… Mỹ có 32 hội từ thiện, chiếm hơn một nửa số hội từ thiện  hoạt động ở miền Nam. Riêng các hội từ thiện Công giáo, bao gồm cả các hội từ  thiện của Mỹ và các hội từ thiện của miền Nam mang tên nước ngoài như Caritas  (Bác ái), C.O.R.E.V (Điều hợp tái thiết ở Việt Nam), cũng không bao giờ hạn chế  chức năng của chúng trong các chương trình “thuần tuý từ thiện”, bề ngoài có vẻ  phi chính trị. Chúng còn phục vụ cho chính quyền Sài Gòn trong các công việc  như định cư, dinh điền, ấp chiến lược bình định, tổ chức di tản trẻ em ra nước  ngoài v.v… Vì thế, phái đoàn cao cấp đại diện hội đồng các hội từ thiện Hoa Kỳ  đến Sài Gòn hồi tháng 10 năm 1965 để kiểm tra tại chỗ hoạt động của các hội từ  thiện này, đã nhận xét: “Chương trình của các tổ chức đó tuy khác nhau, nhưng  vai trò của chúng là phải tiếp tay cho các chương trình của chính phủ”.
   Có thể nêu lên một số chương trình “viện trợ nhân đạo” để minh  hoạ cho nhận định trên.
   Các “chiến dịch huynh đệ” trong những năm 1954-1955 thể hiện qua  các dịch vụ y tế, đã kết hợp chặt chẽ với các chiến dịch tố cộng diệt cộng để  phá hoại cơ sở cách mạng, ổn định tình hình các vùng nông thôn do nguỵ quyền  kiểm soát. Các bao gạo, các thùng hàng viện trợ có in hình bàn tay xiết chặt  nhau dưới lá cờ Mỹ được đưa đến khắp miền Nam theo chương trình “lương thực vì hoà  bình” góp phần vào các chiến dịch tâm lý chiến “tranh thủ khối óc và trái tim  của nhân dân”. Từ năm 1970, khi vấn đề viện trợ kinh tế và quân sự cho Đông  Dương bắt đầu bị Quốc hội Mỹ chỉ trích và thu hẹp, thì viện trợ nhân đạo nói  chung trở thành những “ngõ ngách” tiện lợi, qua đấy chính quyền Mỹ tuồn đô la  và hàng hoá và để gia tăng ngân sách và phương tiện cho chính quyền Sài Gòn.  Cũng vì vậy, vấn đề trẻ em mồ côi, thương tật, lai Mỹ “bụi đời” được thổi phồng  để kêu gọi lòng từ thiện ở nước ngoài. Có chương trình “an ninh nhi đồng” của  Quốc hội Mỹ, với ngân sách 7 triệu đô la trong tài khoá 1973-1974. Có chương  trình “con nuôi quốc tế”, đưa 1.163 em sang Mỹ và 1.345 em sang Pháp, Đức, Bỉ,  Thuỵ sĩ, Ca-na-đa, Anh từ năm 1968 đến năm 1974, để “gây xúc động trong dư luận  phương Tây”. Trong những ngày hấp hối nguỵ quyền Sài Gòn còn được Mỹ giúp đỡ di  tản 1.400 em sang Mỹ với mục đích ngoài những cái khác, nhằm khuấy động dư luận  nhân dân Mỹ để làm áp lực cho kế hoạch đòi viện trợ cấp tốc cho chúng. Phan  Quang Đán (Phó Thủ tướng, Bộ trưởng xã hội của nguỵ quyền Sài Gòn) trong công  văn số 1388 – BXH KHLA – VN, ngày 2 tháng 4 năm 1975 gửi “Thủ tướng” Trần Thiện  Khiêm, đã nói rõ mục đích của việc di tản trẻ em đó là “nhằm xoay chuyển dư  luận Hoa Kỳ về phía Việt Nam Cộng hoà. Đặc biệt là số cô nhi xuất ngoại này,  khi sang đến Hoa Kỳ sẽ được các hãng truyền thanh và truyền hình cùng báo chí  Hoa Kỳ mục kích, tường thuật do đó sẽ có ảnh hưởng lớn lao”.
   Nói chung, các hội từ thiện Công Giáo La Mã, Tin lành v.v… đều phục vụ  đắc lực cho kế hoạch Việt Nam hoá chiến tranh của Mỹ. Đao Hu-ste-to, một cựu  nhân viên của tổ chức xã hội Tin lành Việt Nam đã nói “Chương trình của hội từ  thiện này được mở rộng một cách đáng chú ý… Tại đây, quân đội Mỹ không trực  tiếp làm việc với dân chúng. Họ giao tất cả cho các hội từ thiện tư nhân, và  các hội này rất hài lòng vì được trực tiếp nhận tiền của chính phủ Mỹ”. Và “Sự  hợp tác của các hội từ thiện lúc này còn quan trọng cho Mỹ hơn cả khi trước. Sự  kiểm soát dân chúng mà trước kia quân đội Mỹ không làm được, thì ngày nay có  thể thực hiện nhờ vào các giáo hội và các hội từ thiện”. Còn tổ chức C.O.R.E.V  do giám mục chống cộng Nguyễn Văn Thuận làm giám đốc, thì phục vụ trực tiếp cho  Kế Hoạch Bình Định lấn chiếm của Nguyễn Văn Thiệu trong thời gian sau khi Hiệp  định Paris được ký kết.
   Tóm lại, một mặt, Mỹ thông qua các giáo hội từ từ thiện và viện  trợ nhân đạo để trực tiếp nắm lấy các giáo hội địa phương và các tổ chức công  giáo làm các công tác cứu trợ, bác ái thuộc phạm vi y tế, giáo dục, xã hội, biến  họ thành công cụ phục vụ đắc lực cho chủ nghĩa thực dân mới. Còn hàng giáo phẩm  và các giáo hội địa phương của các tôn giáo thì cũng nhân đó mà lợi dụng Mỹ để  củng cố thế lực chính trị và tôn giáo, lợi dụng viện trợ Mỹ để phát triển cơ sở  vật chất của mình.
   (xem tiếp phần 2)

Tòa Tổng Giám Mục ở thành phố Hồ Chí Minh.
 
 (Phần 2)
  2. Công giáo thời Ngô Đình Diệm, một Công giáo “đắc thế” một  Công giáo Trung cổ.
   Thông qua các nhà truyền giáo, Công giáo bắt đầu ăn sâu vào nước  ta ở thế kỷ XVII. Trong thời gian thống trị gần một thế kỷ của Pháp ở Đông  Dương. Công giáo là công cụ tư tưởng của chế độ thực dân.
   Thay chân Pháp ở miền Nam, Mỹ không thể không sử dụng giáo hội  Công giáo, chỗ dựa đắc lực trước đó của Pháp, làm cơ sở chính trị và cột trụ  tinh thần cho chế độ thực dân mới. Về phần mình, đa số người trong hàng giáo  phẩm cũng muốn dựa vào ông chủ Mỹ lắm tiền, nhiều vũ khí để thực hiện tham vọng  lâu dài là Công giáo sẽ trở thành một “quốc giáo” ở miền Nam Việt Nam, một “con  gái đầu lòng” của giáo hội ở châu Á.
   Vì vậy, trong suốt 20 năm của chế độ thực dân mới, Công giáo vẫn  là tôn giáo mạnh nhất. Theo tờ Công giáo và dân tộc, số 1, ngày 10 tháng 7 năm  1975, Công Giáo La Mã lúc ấy có khoảng 1.000.000 tín đồ, 3.000 linh mục triều và  dòng, 1.200 nam tu sĩ, 6.000 nữ tu sĩ, trong 870 giáo xứ thuộc 15 địa phận. Sức  mạnh ấy lúc đầu bắt nguồn từ một hành vi tôn giáo và chính trị. Đó là ý đồ của  hàng giáo phẩm và của Ngô Đình Diệm đưa một triệu giáo dân miền Bắc di cư vào  Nam trong thời gian 300 ngày Pháp còn trụ quản ở miền Bắc, trước khi rút đi. Mỹ  đã đưa một đoàn 19 máy bay và một đoàn 41 tàu thuỷ để chuyên chở những người bị  cưỡng ép di cư này vào Nam. Mỹ đã chi cho kế hoạch di cư đó 112 triệu đô la (55  triệu cho những năm 1954-1955 và 57 triệu cho những năm 1955-1956).
   Chưa có con số thống nhất về con số giáo dân bị cưỡng ép, dụ dỗ  di cư. Theo tờ Thông tin Công giáo quốc tế, số 158, ngày 12 tháng 12 năm 1981,  có tất cả 850.026 người vượt vĩ tuyến 17, trong đấy 80% là Công Giáo La Mã (676.384  người, chiếm một nửa tổng số giáo dân miền Bắc. Cùng đi với họ có 5 giám mục,  hơn 700 linh mục (2/3 số linh mục miền Bắc), hầu hết nam tu sĩ, phần lớn nữ tu  sĩ. Tài liệu của cơ quan thông tin Công giáo Việt Nam, số 1 năm 1968 cũng nói  đến 700.000 giáo dân di cư. Một tài liệu nghiên cứu sử học đưa ra con số  400.000 người di cư trong đó có 324.030 giáo dân, 508 linh mục và 5 giám mục.
   Việc dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào Công Giáo La Mã di cư này, ngoài ý nghĩa  tôn giáo còn có những mục đích chính trị thực tiễn. Một mặt, số đồng bào này bị  nguỵ quyền sử dụng làm hậu thuẫn chính trị trong những ngày đầu còn chập chững  của chế độ Diệm. Trong các vụ đánh phá trụ sở của Uỷ ban Quốc tế, các cuộc biểu  tình tuần hành, cuộc trưng cầu ý dân để đưa Diệm lên làm Tổng thống ngày 23  tháng 10 năm 1955, cuộc tổng tuyển cử lập quốc hội riêng rẽ ngày 1 tháng 3 năm  1956, nguỵ quyền Sài Gòn đã huy động đông đảo giáo dân tham gia. Mặt khác, như  tờ Công giáo và dân tộc ở Sài Gòn đã viết: “Chúng lợi dụng đồng bào Công Giáo La Mã  bằng cách bố trí cho đồng bào định cư ở những nơi cơ quan quân sự của chúng trú  đóng như chung quanh sân bay Tân Sơn Nhất, lập khu Hố Nai để bảo vệ sân bay  Biên Hoà, dùng đồng bào Công Giáo La Mã làm núi chặn đường tiến quân của cách mạng  như vùng Cái Sắn miền Tây và nhiều vùng khác nữa”. (Công giáo và dân tộc số 33  ngày 6 tháng 3 năm 1976). Sau đó, nhiều khu dinh điền cũng được bố trí ở dọc  biên giới Việt – Miên, Việt – Lào để tạo nên cơ sở xã hội cho các hành lang  phòng thủ của chúng, chống lại sự xâm nhập của cách mạng qua các vùng này. Theo  tài liệu của chính quyền Diệm, từ năm 1957 đến năm 1963, có 289.790 giáo dân bị  đưa về 192 địa điểm dinh điền.
   Thanh niên Công Giáo La Mã di cư sẽ là nguồn bổ sung cho một đội quân  nguỵ dự kiến là 10 sư đoàn mà Mỹ - Diệm trù định xây dựng trong năm 1954-1956.  Mỹ - Diệm hy vọng rằng một quân đội gồm phần lớn là người Công Giáo La Mã sẽ có một  tinh thần chống cộng mạnh mẽ. Ngày 30 tháng 5 năm 1955, từ là mới 10 ngày sau  khi hết thời hạn tập kết chuyển quân của hau bên, Diệm ban bố lệnh “Nhà cầm  quyền quân sự có lời bố cáo cho tất cả thanh niên miền Bắc từ 18 đến 33 tuổi di  cư vào Nam phải khai trình tại văn phòng tuyển mộ trong địa phương mình cư trú  trước ngày 16 tháng 6 năm 1955”.
   Lời Diệm hứa với đồng bào “một con trâu và 3 mẫu ruộng” “nâng đỡ  đầy đủ về mọi phương tiện vật chất” v.v… nay không còn được nhắc nhở tới nữa. Báo  Cách mạng Quốc gia của Diệm ngày 31 tháng 3 năm 1959 viết: “Sự viện trợ của thế  giới tự do cũng chỉ có giới hạn trong thời kỳ còn chân ướt chân ráo. Nếu thỉnh  thoảng mỗi gia đình còn được chút ít thực phẩm thì cái đó nên kể là của thơm  rồi, chứ sự sống không thể trông cậy một nơi nào khác ngoài hai bàn tay và khối  ốc của mình”. Một số giáo dân di cư đã bị dồn đến các đồn điền cao su, cà phê  v.v… hay đi khai phá những vùng đất hoang, sình lầy, như Cái Sắn, Cần Guộc v.v…
   Cuộc di cư đầy máu và nước mắt của những giáo dân này được chính  quyền Diệm coi là “thắng lợi keo đầu với Cộng sản”.
   Đối với một số người Công giáo, việc Ngô Đình Diệm lên cầm quyền  cũng được coi là một thắng lợi của Công giáo sau nhiều năm cố gắng. “Từ đấy đến  chỗ “đắc thế” chỉ cách có một bước. Bước đó dường như đã được vượt qua”. Tình  hình hiện thực của Công giáo thời Diệm đã xác nhận nhận định ấy.
   Ngày 8 tháng 12 năm 1960, Giáo hoàng Gioan XXIII thiết lập hàng  giáo phẩm ở Việt Nam, chấm dứt giai đoạn các vị đã ra đi vì các vị đã bị cộng sản  bách hại, hay vì các vị đã cầm quân bách hại cộng sản? Các vị thực đã ra đi vì  con chiên đi hết, hay các vị đã tổ chức để đi với giáo dân” (Trần Tam Tỉnh –  Tôi về Hà Nội”, 1974, trang 54).
   Cũng vào năm 1974 ấy, linh mục L. H. , dòng Đa Minh đã phát biểu  với phóng viên báo Chính nghĩa bí mật vào Sài Gòn: “Anh em dòng Đa Minh chúng  tôi xưa luôn luôn tự hào về hai chữ O.P của mình. Chúng tôi còn tự hào vì ở  miền Nam này, chúng tôi có hai đức Cha và có 5 trại định cư ở Cao Xá, Lạc Lâm,  Lạc Viên, Hố Nai (2 cơ sở) cho giáo dân Hưng Yên, Phát Diệm, Bùi Chu, Xã Đoài  di cư vào ở. Nhưng hai mươi năm đã qua, bao sự thật phủ phàng diễn ra trước  mắt. Hàng vạn giáo dân di cư đã chết, bị bắt, hàng nghìn thiếu niên và thanh  niên ôm súng Mỹ và chết thay cho Mỹ. Hàng nghìn chị em phụ nữ trở thành đĩ  điếm.
   Trước Thiên chúa và dân tộc, dòng Đa Minh có phải chịu trách  nhiệm về thực trạng đó không, thiết tưởng vấn đề đã quá rõ" (Tuần báo Chính  nghĩa, Hà Nội, số 871, ngày 23 tháng 2 năm 1974).
   Có những con người cụ thể, đã phạm đủ mọi tội ác lúc ấy, và  nhờ vậy đã “huởng đủ ba nàng tiên” (đen (gái), nâu (thuốc phiện), vàng (đô la)  đến cuối cuộc đời, cũng đã biết hối tiếc một cách muộn màng: “Tôi chỉ là kẻ tội  đối với bà con xứ Quản Liêu (Nghĩa Hưng, Nam Định), đối với làng xóm, quê  hương. Chống cộng là làm tay sai cho đế quốc, hại đời, hại đạo, hại mình, là bỏ  đường quang đâm quàng bụi rậm” (Tuần báo Chính nghĩa, Hà Nội, số 877, ngày 11  tháng 4 năm 1974).
   300 năm truyền giáo ở đây để nâng nó thành một giáo hội dân tộc  có phẩm trật tòng hiến chính thức. Đây là một cải cách của Vatican sau chiến  tranh thế giới lần thứ hai, giao cho các giáo sĩ bản xứ quyền cai quản các giáo  hội dân tộc để cho giáo hội có thể “ở lại” nhưng nơi này sau khi “chủ nghĩa  thực dân cũ đã phải đội nón ra đi” và có khi phất cả lá cờ độc lập dân tộc.  Đáng chú ý là cải cách này được thực hiện ở miền Nam Việt Nam sau khi chủ nghĩa  thực dân mới đã ổn định xong bộ máy của nó. Toà thánh đã tỏ rõ sự ủng hộ và cấu  kết của nó với chế độ thực dân mới, vẫn duy trì chức khâm sứ ở đấy để nắm lấy  giáo hội, qua đó, can thiệp vào đời sống chính trị ở miền Nam Việt Nam.
   Ngày 7 tháng 12 năm 1955 Toà thánh ra thông điệp “chính thức  thừa nhận Chính phủ nước Cộng hoà Việt Nam” tức chế độ Diệm. Toà thánh ban phép  lành cho việc Hồng y giáo chủ Mỹ Ph. G. Xpen-man (Francis Spellman), Tổng giám mục Niu Oóc (New York), người  đỡ đầu cho Diệm từ khi còn ở tu viện Mê-ri-Nôn, hai lần đến thăm miền Nam Việt  Nam: lần thứ nhất ngày 5 tháng 1 năm 1955 và lần thứ hai ngày 2 tháng 1 năm  1956. Đầu năm 1959, Giáo hoàng Gioan XXIII cử Hồng y giáo chủ G. P.  A-ga-gi-a-ni-an, quyền Tổng trưởng thánh bộ truyền giáo, cầm đầu một phái đoàn  của toà thánh gồm 8 người sang chủ toạ Đại hội thánh mẫu toàn quốc ở Việt Nam  trong 3 ngày 16, 17, 18 tháng 2 năm 1959. Ngày đầu tiên, ngày 16 tháng 2 năm  1959, được gọi là ngày “Đức mẹ với giáo hội thầm lặng”. Cần chú ý rằng “giáo  hội miền Bắc, ngay từ 1956 đã được toà thánh ghi tên vào danh sách các giáo hội  thầm lặng” với cái nghĩa “không phải chỉ là giáo hội im lặng, mà còn là giáo  hội đau thương, giáo hội đang sống lại những trang sử đẫm máu của hồi mới được  khai lập”. Đến cuối năm 1959, toà thánh ban tước hiệu “Vương cung thánh đường”  cho nhà thờ chính toà Sài Gòn, một tước hiệu chỉ phong cho các nước được coi là  có “giáo hội độc lập”. Cũng trong năm 1959, toà thánh đã cử Ma-ri-o – Bri-ni  thay Giô-dép-Cap-ri-ô làm khâm sứ toà thánh ở Sài Gòn.
   Sự thiết lập hàng giáo phẩm ở miền Nam Việt Nam lúc đó cũng ứng  với tình hình của một giáo hội đã lớn mạnh thêm nhiều từ sau năm 1954, nhờ sự  ủng hộ triệt để của Mỹ-Diệm. Giáo hội có hai giáo tỉnh. Huế và Sài Gòn, gồm 8  địa phận với 1.226.300 giáo dân, 1.342 linh mục (trong số này có 177 thừa sai).  Theo con số của hãng Thông tấn Phi-de, đến năm 1963, giáo hội ấy đã phát triển  lên thành 10 địa phận với 1.337.965 tín đồ trong một dân số ước lượng là 14  triệu. Giáo hội có 54 dòng tu nam nữ, có các chủng viện thuộc các toà giám mục  và tổng giám mục, có trường Đại học Công giáo ở Đà Lạt với 500 sinh viên. Ngoài  ra, tại đây, còn có Giáo Hoàng Học Viện Pi-ô X để đào tạo linh mục. Công Giáo  Tiến Hành được thành lập năm 1957, do Giám mục Phạm Ngọc Chi phụ trách, điều  khiển hoạt động của các tổ chức ở trong cũng như ở ngoài giáo hội như Hội Bác  Ái, Hội Hướng đạo Công giáo, Thanh sinh công, Thanh lao công, Tri thức Pax Romana,  Hiệp hội giáo chức Công Giáo La Mã, Hội con Đức mẹ (cho thanh nữ), Hội Hùng Tâm Dũng  Chí (cho thiếu niên) v.v… Một Trung Tâm Công Giáo được dựng lên, có trụ sở là  một toà nhà bốn tầng giữa Sài Gòn để điều khiển các tổ chức này. Ngoài ra, Giáo  Hội còn có 12 tờ báo (không kể 2 tờ giành riêng cho linh mục), 11 Nhà xuất bản  và hiệu sách, một số giờ trên Đài phát thanh Sài Gòn. Trong một xứ công nghiệp  chưa phát triển, thì đây là một cơ ngơi rất lớn.
   Công giáo di cư là bộ phận bảo thủ và có ảnh hưởng nhất trong giáo  hội này. Họ đã khiến cho số lượng của giáo hội ấy tăng lên gấp đôi trong vòng  mấy tháng. Họ có thế lực áp đảo trong hội đồng giám mục và tại nhiều địa phận  quan trọng. Ví dụ, riêng trong 265 xứ thuộc 27 hạt của địa phận Sài Gòn lúc ấy  có 519 linh mục, trong đó chỉ có 85 linh mục là người cũ. Tất nhiên, điều này  không khỏi gây nên tình trạng ghen ghét, đố kỵ lẫn nhau, cộng với sự khó thông  cảm nhau do khác biệt về tâm lý, thói quen, lối sống v.v… Nhưng với sự ủng hộ  tích cực của Mỹ-Diệm, bộ phận di cư ấy đã lôi cuốn toàn thể giáo hội đi theo Mỹ  - Diệm và bộ lộ một lập trường chống cộng triệt để, một tinh thần “đắc thế” lộ  liễu.
   Sự “đắc thế” đó không phải chỉ bộc lộ ở những biểu hiện bề ngoài  như việc quy định vị trí trang trọng của các giám mục và linh mục trong những  ngày lễ, sự ra vào tấp nập của những áo chùng đen ở các bộ, sự can thiệp có  hiệu quả của hàng giáo phẩm khi xin viện trợ cho những người di cư, xin tha cho  những người bị tình nghi, hoặc xin đề bạt cho những người nào đấy (điều này cắt  nghĩa một phần con số 100.000 tân tòng từ năm 1951 đến năm 1960 và giáo hội  cũng biết rõ rằng những người này xin vào đạo vì quyền lợi của họ nhiều hơn là  vì lý do “đức tin”, sự có mặt của Diệm trong những buổi lễ long trọng của giáo  hội v.v… Những điều đó đã tạo nên ấn tượng Công giáo là một đẳng cấp riêng có  nhiều đặc quyền đặc lợi, công kênh nhau lên những vị trí có nhiều quyền hành và  bổng lộc nhất.
   Sự “đắc thế” đó cũng không phải chỉ biểu hiện ở chỗ quên rằng  mình chỉ chiếm chưa đầy 1/10 dân số, không đếm xỉa gì đến “cái ý thức về người  khác” trong việc tổ chức những cuộc rước sách ầm ỹ ngoài đường phố khiến cho  chính những người Công Giáo La Mã cũng phải khó chịu và tự hỏi rằng liệu những người  tổ chức ấy có nghĩ đến chuyện có thể làm cho giao thông tắc nghẽn, hay họ cho  rằng đường phố là sở hữu riêng của giáo hội (xem Người Công Giáo La Mã trước vấn đề  đức tin, Tuần lễ nghiên cứu và hội thảo Công Giáo La Mã Sài Gòn, 10-16 tháng 1 năm  1962); hoặc Bộ Thông tin của chính quyền Diệm bắc loa phóng thanh phá các buổi  lễ Phật giáo cho quân đội làm cổng chào đón Hồng y Xpen-man những năm  1955-1956, hoặc đón rước linh đình Ngô Đình Thục khi đến nhận chức Tổng giám  mục ở địa phận Huế, ngày 12 tháng 4 năm 1961 v.v…
   Sự “đắc thế” đó có những biểu hiện trầm trọng hơn nhiều. Không  những giáo hội lúc ấy đã ràng buộc chặt số phận của nó với số phận của Diệm –  điều này gây nhiều lo ngại trong giáo hội – đôi lúc nó còn hoà lẫn tôn giáo với  chính trị một cách không phân biệt, vì vậy đã gây nên sự phản ứng rộng khắp, kể  cả trong một số trí thức, linh mục và giám mục Công giáo. Hiện tượng này biểu  hiện nổi bật ở con người của Ngô Đình Thục vừa là anh ruột của Ngô Đình Diệm  vừa là người cao tuổi nhất trong giáo hội, vừa là Tổng giám mục nhưng làm cả  chức năng cai trị, mật vụ và đại sứ lưu động một cách không chính thức. Điều đó  cắt nghĩa vì sao dưới áp lực của dư luận, có lúc chính Diệm đã phải ra lệnh  buộc các chủng viện phải đệ trình giáo án trước khi giảng dạy, các nhà thờ  không được treo cờ đạo ở ngoài giáo đường. Nhưng ngay những lệnh này cũng không  được thi hành theo mức mà Diệm mong muốn.
   Một ví dụ khác: Diệm có chính sách 3Đ để sử dụng, đề bạt cất  nhắc cán bộ, đó là đạo, đảng, địa phương. Đạo ở đây là Công giáo. Đảng là Đảng  Cần lao nhân vị do Ngô Đình Nhu tổ chức và linh mục Bửu Dưỡng thảo ra chính  cương, điều lệ đầu tiên 80% sĩ quan và đa số công chức cao cấp thời Diệm đều ở  trong đảng này. Địa phương tức là “đồng hương” với Diệm.
   Thứ Công giáo “đắc thế” nói trên cũng là một thứ Công giáo trung  cổ. Khẩu hiện của nó là “Chúa trên hết”, “Thà mất nước còn hơn mất chúa”, chúa  ở đây được hiểu theo nội dung thần học trung cổ, như là một định đề siêu  nghiệm, xuất phát điểm của một dãy nhân quả thần bí tạo thành thế giới con  người. Chúa là nguyên lý và là mục đích mà mọi vận động của tự nhiên và xã hội đều  phải đối chiếu với nó.
   Vì thế, đối với những người Công giáo ấy, Thiên Chúa là ở trên  tổ quốc, “nước chúa” là ở trên quốc gia. “Tuy tổ quốc là cao quý, nhưng Tổ quốc  không phải là cứu cánh. Nên sinh ra làm người không phải chỉ để phụng sự tổ  quốc. Nếu tổ quốc có một sứ mệnh thì sứ mệnh đó là để giúp cho công dân thực  hiện sứ mệnh riêng của nhân vị mình”. Và “quốc gia không phải là một cứu cánh  tuyệt đối mặc dầu là một tổ chức thiết yếu. Vì sao? Vì quốc gia là một tổ chức  có thể thay đổi hình thức như mọi tổ chức khác, còn bản chất con người vẫn phải  tồn tại mãi. Vì quốc gia có thể qua đi, những công cuộc của quốc gia xây dựng  có thể rồi điêu tàn, nhưng con người không bao giờ qua đi, vì cứu cánh của con  người là ở nơi vĩnh viễn”.
   Chúa của thần học đó cũng là Chúa của thần quyền. Chúa được coi  là nguồn gốc của mọi quyền lực, là bảo đảm thiêng liêng của mọi trật tự trần  gian. Giáo hội đã từng nhân danh cái nguyên lý này của các Giáo hoàng Grê-goa  VII và I-nô-xăng III (Gregory VII, Innocent III) để chi phối các nhà nước. Thông qua Nhà nước mà thực hiện  tham vọng của nó. Và ngày nay, mặc dù nguyên lý ấy đã lạc hậu hàng thế kỷ, giáo  hội miền Nam Việt Nam trong lúc “đắc thế” của nó đã cố làm sống lại “Công giáo  nhìn nhận nguồn gốc của quyền bính là tại nơi Thiên chúa. Bản chất, cứu cánh của  mọi người là giống nhau. Người này quyền trên người kia là do khế ước, nhưng  còn do Thiên chúa uỷ quyền bính cho. Giáo hội đã để mọi quốc gia lựa chọn hình  thức chính phủ, vì “lợi ích chung”. Nếu lệnh chính phủ trái với luật Thiên  Chúa, người Công Giáo La Mã không được thi hành”.
   Đó cũng là Chúa của “mười điều răn” về đạo đức, coi mọi hành vi  nào là “tội” là do Chúa muốn thế, và uỷ nhiệm cho giáo hội độc quyền giáo dục  đạo đức ấy “một cách tuyệt đối việc giáo dục thuộc về giáo hội, do danh nghĩa  thuộc phạm vi siêu nhiên mà Chúa đã uỷ thác cho và chỉ uỷ thác cho một mình  giáo hội. Giáo hội có quyền trực tiếp trong việc đào tạo luân lý cho các người  đã được rửa tội. Đáng chú ý là dưới thời Diệm, Công giáo đã có 2 trường đại  học, 163 trường trung học. 1060 trường tiểu học, tất cả có 26 vạn học sinh.  Nhiều linh mục đã được bổ nhiệm làm viện trưởng các trường đại học hoặc hiệu  trưởng các trường trung học. Cho đến năm 1963 số đông giáo sư triết học ở bậc  trung học đều xuất thân từ đại học thần học Đà Lạt.
   Điều này có những nguyên nhân sâu xa:
   Trước hết, Công giáo được đưa sang Việt Nam là một Công giáo  Trung cổ, truyền bá theo khuôn khổ và kỷ luật của công đồng Tren-te  (1545-1563), là công đồng nhấn mạnh đến tính liên tục của giáo lý, đối lập với  mọi sự cải cách. Đây là quan niệm chung và cũng là thất bại chung của các hội  truyền giáo ngoại quốc trừ dòng Tên, một quan niệm chỉ coi tư tưởng Hy La (tức  là Hy lạp và La Mã cổ đại – P.H) kết hợp với tư tưởng Công giáo, thể hiện thông  qua nền văn hoá một số nước châu Âu, mới là “văn minh” và coi mọi nền văn hoá  của các dân tộc khác là ngoại đạo và nghịch với đạo Công giáo. Quan niệm về một  tín ngưỡng “không mang tỳ vết dị giáo này” để giữ được một niềm tin “tỉnh ròng”  chính là một thái độ “đế quốc” đối với người được truyền giáo, bằng cách hắt họ  phải theo lối sống đạo của chính quốc và tiêu diệt mọi giá trị bản xứ. Nó gắn  liền với thuyết “châu Âu là trung tâm” và với giai đoạn bành trướng của chủ  nghĩa tư bản đế quốc châu Âu, với tư cách là khía cạnh ý thức hệ bổ sung và  phục vụ cho sự xâm lược quân sự và bóc lột kinh tế của các nước đế quốc này.
   Việc truyền giáo ở Việt Nam do các thừa sai Dòng Tên tiến hành  từ năm 1615. Đến năm 1665 việc truyền giáo, đó lại được chuyển sang cho các  thừa sai thuộc Hội truyền giáo ngoại quốc ở Paris. Đến lúc này, những quan niệm  trên còn bị làm cho sai lạc thêm bằng một quan niệm khác, cho rằng để truyền  đạo ở những miền bị coi là “kém văn minh” như châu Á – Phi, chỉ cần thiện chí  và một ít kiến thức bình thường là đủ. Quan niệm ấy ảnh hưởng đến việc chọn  người để đào tạo thành những người truyền giáo. “Các thừa sai là con những gia  đình nông dân, một phần lớn ở tận xứ Bxơ-ta-nhơ (Bretaine) một vùng lạc hậu nhất của Pháp.  Hội khỏi nôi, người ta đã đem họ ra khỏi gia đình để nuôi trong các chủng viện  và để chuẩn bị chu đáo cho ngày mai của họ. Họ không liên lạc với xã hội. Họ  không biết gì về xã hội. Học thức của họ hết sức giới hạn. Họ không biết gì về  lịch sử văn minh và sự tiến bộ qua các thời đại. Người ta luôn luôn nhồi vào  đầu óc họ những gương hy sinh về những cuộc bách hại trong những buổi đầu của  Đức tin, và người ta làm cho họ tưởng rằng tử vì đạo là hạnh phúc tột độ”. Thử  hỏi với những thừa sai chỉ biết một ít thần học và một ít tiếng la tinh để làm  lễ, ngoài ra không có kiến thức gì về khoa học, kỹ thuật, văn hoá chung, lại mù  tịt về lịch sử, phong tục, tín ngưỡng Việt Nam, làm sao họ không bắt giáo dân  phải chấp nhận không những các tín điều mà cả lối diễn và sống đạo ở châu Âu  nữa.
   Mặt khác, sau 300 năm truyền giáo, như tờ Thông tin Công giáo  quốc tế số 188, ngày 15 tháng 3 năm 1963 (tr.25) đã viết: “Một giáo hội như  giáo hội Việt Nam, không còn quá trẻ để không phải mang vác một sức nặng truyền  thống giáo sĩ nào đó: lại không quá già, tức là khá tự tin, để tự cho phép xét  lại các truyền thống ấy. Về mặt này, người ta có thể ghi nhận rằng tuổi trung  bình của các giám mục Nam Việt Nam (56 năm 2 tháng), vượt quá nhiều tuổi trung  bình của các giám mục Phi châu”. Cần nói thêm rằng các giám mục này đều xuất  thân từ Đại học La Mã từ trước năm 1945. Sau đó, họ cũng “không theo nổi các  trào lưu canh tân về kinh thánh, tín lý, phụng vụ, giáo mục đã bánh trướng  trong vòng hai mươi năm nay, nhất là ở Tây Âu. Các phong trào này ban đầu bị  nghi kỵ ở La Mã”.
   Một số đông các giám mục ấy đã đi dự công đồng Vatican II. Nhưng  họ đi họp với một “tinh thần cũ”. Và họ cho rằng: “Âu – Mỹ canh tân là để vớt  vát lại số người “bỏ đạo”, “lỡ đạo” quá đông. Ở Việt Nam không cần và không  thích hợp”.
   Các linh mục và tu sĩ cũng được đào tạo theo tinh thần ấy. Nói  chung, từ lúc 10 tuổi, họ đã vào các chủng viện để được đào tạo trong một khung  cảnh hoàn toàn xa cách với cuộc sống bên ngoài. Lớn lên, làm linh mục, giám  mục, họ luôn luôn sống trong tháp ngà, trong điều kiện không phải lo lắng gì về  phương diện vật chất. Mặt khác, họ được đào luyện theo tinh thần tôn trọng  tuyệt đối các giáo lý. Người tu sĩ, nam cũng như nữ, chỉ cần nhớ và thực hiện  các lệ luật trong nhà dòng của mình. Các giáo sĩ chỉ cần nhớ các giáo luật,  nhiệm vụ và quyền hạn linh mục, bổn phận với giáo dân trong xứ hạt và bề trên  trong địa hạt. Quyền hạn, nhiệm vụ, bổn phận ấy không ngoài các việc trong đạo,  giữ phần hồn v.v… Người giáo sĩ tốt nhất, trong điều kiện ấy, là người biết  vâng lời không điều kiện, người nhớ các đoạn trong Tân Ước, Cựu Ước…
   Chính thứ Công giáo Trung cổ ấy, trong cơn “đắc thế” của nó thời  Diệm đã nuôi tham vọng muốn làm “quốc giáo” ở Việt Nam và giữ vai trò lãnh đạo  chế độ miền Nam Việt Nam. Nó tự coi: “Công giáo hơn hẳn Phật giáo, Khổng giáo ở  tính chất trường cửu, tính chất quốc tế, lý thuyết duy nhất, tổ chức duy nhất”,  và “mác xít”, nếu không có vũ khí yểm trợ, thì ngang sức hay thừa sức Công  giáo” (1).
   Để tự áp đặt trước dân tộc và trước các tôn giáo khác, Công giáo  thời ấy đã lựa chọn con đường chống cộng, cấu kết với chính quyền Diệm và phục  vụ cho chính quyền ấy.
   (xem tiếp phần 3)

  (Phần 3)
  3 – Công giáo thời Diệm cấu kết và phục vụ cho chính quyền Ngô  Đình Diệm
   Năm thiết lập hàng giáo phẩm ở miền Nam Việt Nam cũng là năm mà  giáo hội triệu tập Hội nghị Giám mục miền Nam (tháng 3 năm 1960). Tham dự hội  nghị này có bốn giám mục ngoại quốc và 6 giám mục Việt Nam, gồm những người  chống Cộng nổi tiếng như Ngô Đình Thục, Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, Trương Cao  Đại v.v… Hội nghị ra Thư Mùa Chay năm 1960, nhắc lại Thư chung của Hội nghị  Giám mục Đông Dương (từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 11 năm 1951) dưới quyền chủ  toạ của khâm sứ Đu-lây (John Dooley): “hãy đề phòng nạn Cộng sản duy vật, một nguy cơ trầm  trọng nhất thời nay”. Thư mùa chay vu cáo cộng sản nhiều hơn Thư chung và nhắc  lại rằng người Công giáo nào cộng tác dưới bất cứ hình thức gì có thể giúp đỡ  cộng sản nắm chính quyền đều, đều có thể bị khai trừ khỏi giáo hội”.
   Thư chung năm 1951 và Thư mùa chay năm 1960 là cương lĩnh chống  cộng của giáo hội miền Nam Việt Nam. Hai thư đó đã ràng buộc lương tâm, đè nặng  lên số phận của phần đông linh mục, tu sĩ, giáo dân Công Giáo La Mã. Những người này  “đã coi chống cộng như một bổn phận của Công Giáo La Mã, và để chống cộng có thể đi  với ngoại bang chống lại dân tộc mình”.
   Lập trường chống cộng của giáo hội miền Nam thời Diệm xuất phát  từ thông điệp Chúa cứu thế ngày 19 tháng 3 năm 1937 của Giáo hoàng Pi-ô XI, từ  chối chính sách “chìa bàn tay” của các đảng cộng sản, mở đầu cho một thời kỳ  chống cộng quyết liệt nhất của giáo hội, và từ chỉ thị của Bộ Thánh vụ ngày 1  tháng 7 năm 1949, được ban bố trong hoàn cảnh “chiến tranh lạnh”, nhằm “đặt một  hàng rào ngăn cách giữa đức tin Công Giáo La Mã và cộng sản vô thần”. Nó cũng xuất  phát từ hoàn cảnh đấu tranh dân tộc và giai cấp hiện thực ở miền Nam và sự lựa  chọn chính trị của giáo hội trong cuộc đấu tranh ấy. Vì vậy, lập trường chống  cộng này vừa dứt khoát, triệt để, lại vừa mang tính chất “thánh chiến”, “tử vì  đạo”,   “đến giọt máu cuối cùng”.
   Giáo hội đã tổ chức hai đại hội thánh mẫu toàn quốc, một, năm  1959 ở Sài Gòn; và một năm 1961 ở La Vang. Cả hai đại hội đó đều mang ý nghĩa  chống cộng. Trong ngày đầu tiên của ba ngày đại hội lần thứ nhất, ngày 16 tháng  2 năm 1959, được gọi là ngày “Đức mẹ với giáo hội thầm lặng” ấy, Hồng y G.  P.A-ga-gi-a-ni-a đã phát biểu trong dịp lễ đón tiếp tại nhà thờ chính toà Sài  Gòn như sau: “Ta tưởng nhớ tới công cuộc phát triển giáo hội Việt Nam trong ba  thế kỷ vừa qua, từng được đánh dấu bằng bao nhiêu hy sinh, đau khổ, thiếu thốn  và đã thấm máu bao nhiêu người tử vì đạo. Tri ta còn vượt qua giới tuyến, tưởng  nhớ tới phần nửa đất nước Việt Nam ở miền Bắc, là nơi các giáo sĩ và tín hữu  đang sống trong đau khổ và bách hại. Trong ba ngày đại hội chúng ta sẽ cùng với  Đức thánh cha đặc biệt cầu nguyện cho toàn thể giáo hội thầm lặng, toàn thể  giáo hội đang bị bách hại”.
   Lời phát biểu ấy đã phản ánh một trong những cố gắng của giáo  hội miền Nam trong mấy năm đó: trình bày cộng sản là kẻ đang “bách hại” công  giáo, nuôi dưỡng chiến dịch vu cáo nhà cầm quyền miền Bắc là “phá đạo”, “triệt  các linh mục”, đánh thuế đồ thờ và những người hay đi lễ nhà thờ, v.v… Trên cơ  sở ấy gợi lại việc hơn 100.000 giáo dân, gần 1.000 giáo sĩ đã bị giết hại trong  những năm cấm đạo thời phong kiến.
   Mặt khác, giáo hội nhắc lại lời trong kinh thánh “ai không theo  ta là kẻ nghịch cùng ta” để lên án những giáo dân nào nói đến “bắt tay với cộng  sản”, “đối thoại”, “cộng tác” với cộng sản, “dung hoà đức tin Công giáo với lý  thuyết cộng sản”. Giáo hội tuyên bố rằng những tín đồ nào hoạt động cho lý  tưởng dân chủ cộng sản, muốn công bằng xã hội như cộng sản là “trái với đường  lối của giáo hội”. Chưa nói đến những tín đồ “ở trong chương trình cộng sản,  thi hành theo phương pháp cộng sản, chịu sự lãnh đạo của cộng sản thì phải được  loại trừ ra ngoài hàng ngũ Công giáo”.
   Đại hội thánh mẫu toàn quốc lần thứ hai được tổ chức năm 1961,  tại nhà thờ La Vang. Hạng giáo phẩm lúc ấy muốn có một Đức mẹ riêng, tượng trưng  cho tinh thần chống cộng riêng của nó. Đó là Đức Mẹ La Vang. Ngày 8 tháng 12  năm 1961 giám mục Huế đã về tận đây làm lễ trước 20.000 tín đồ lần đầu tiên gọi  “Đức mẹ La Vang, mẹ của nước Việt Nam”. Linh mục Trần Hữu Thanh viết “Đứng cách  vĩ tuyến 17 chỉ có 20 cây số, lớn nhất trong vùng từ Bến Hải trở vào, đền thờ  La Vang hiện lên giữa núi đồi như một tháp canh một đồn ải án ngữ sức nam tiến  của làn sóng đỏ. Tôi tin chắc Mẹ hiện ra đây là vì cả nước ta, cả dân tộc ta…  Đây phải gọi là “Đức mẹ vĩ tuyến 17”. Các Hồng y Xpen-man và A-ga-gi-a-ni-an  trong những chuyến sang thăm Việt Nam, đều có đặt chân đến đây. Hội nghị giám  mục miền Nam, tháng 3 năm 1960, gọi đền thờ Đức Mẹ La Vang là đến thờ quốc gia,  và xin toà thánh ban tước hiệu “Vương cung thánh đường bậc nhì” cho đền thờ  này. Báo chí của giáo hoàng ngày 22 tháng 8 năm 1961 đã chấp thuận lời xin đó.  Và “La Vang đã trở nên một trung tâm tượng trưng cho sự sống còn của giáo hội  và của đất nước”. Bức hoạ chính thức về Đức mẹ thân quay về Nam, mặt ngoảnh về  Bắc hiện ra trên bản đồ Việt Nam và đứng trên vĩ tuyến 17. Đại hội thánh mẫu  toàn quốc lần thứ hai được tổ chức ở đây xác nhận thêm ý đồ của hàng giáo phẩm  muốn biến La Vang thành “cái đập ngàn lần sóng đỏ vô thần”, đồng thời là nơi  hành hương của “đoàn quân thánh chiến chống cộng”. Đoàn quân này đã thực sự  nhúng vào máu những người yêu nước trong các chiến dịch khủng bố tàn ác, tố  cộng, diệt cộng của chính quyền Diệm, được giáo hội hậu thuẫn.
   Thật vậy, như cơ quan thông tin Công giáo Việt Nam số 1 năm 1968  viết “Việc thành lập đệ nhất Cộng hoà Việt Nam với Tổng thống Ngô Đình Diệm đã  lôi kéo được cảm tình và sự hợp tác chân thành của đoàn thể Công Giáo La Mã”. Cơ quan  thông tin đó không tiếc lời ca ngợi Ngô Đình Diệm là “một vị tổng thống lỗi  lạc”. Ngô Đình Nhu là “một bậc chính trị có thể gọi là thượng thặng”. Cho đến  tên hung thần miền Trung Ngô Đình Cẩn, kẻ đã bị hội đồng tướng lĩnh lật đổ Diệm  xử bắn năm 1961, cũng được gọi là “một nhà chính trị lỗi lạc kiểu Á Đông”. Một  số chính sách đầy tội ác của chính Diệm như “ấp chiến lược”, “khu dinh điền”,  “khu trù mật” v.v… cũng được coi là “những nét vàng son trên đường xây dựng xứ  sở”. Cũng vì thế “suốt chín năm, Công giáo hoạt động chính trị bằng cách tham  gia triệt để vào guồng máy chính quyền”.
   Trong số 14 bộ trưởng của chính quyền Diệm, chỉ có hai là công  giáo. Nhưng đó chỉ chỉ là bề ngoài, vì đây là một chính quyền gia đình trị, mọi  quyền hành đều do Diệm, Nhu nắm giữ.
   Đội ngũ sĩ quan của Diệm từ chỗ chỉ có 6.400 người do Pháp để  lại năm 1954 – không kể 1526 người đã bị Diệm sa thải, thanh trừng cho đến năm  1960 – đã phát triển thành 12.513 người năm 1960 và 22.853 người năm 1964,  trong đó 21% cấp tá, 15% đại uý, 12% trung uý và thiếu uý là người Công Giáo La Mã.
   Trong số 10 sư đoàn và một Liên đoàn dù mà Mỹ - Diệm xây dựng  với quân số là 23.000 người năm 1960 (trong số ấy có 162.000 người là chính  quy) thì sư đoàn 7 – sư đoàn con cưng của Diệm do Nguyễn Văn Thiệu là sư đoàn  trưởng – gồm 90% là người Công giáo Bùi Chu – Phát Diệm, sư đoàn 1 và 2 có từ  60% đến 75% là người Công giáo. Nói chung số binh sĩ Công Giáo La Mã trong quân đội  Diệm khoảng 30%. Ở trường đào tạo sĩ quan Đà Lạt, việc học thần học và giáo lý  chiếm ¼ tổng số giờ học. Còn ở các quân trường, việc học này chiếm 1/10 thời  gian luyện tập, với 57 bài chính trị được soạn theo lập trường Công Giáo La Mã chống  cộng.
   Ngày 7 tháng 7 năm 1956, Diệm ký sắc lệnh tổ chức và điều hành  ngành tuyên uý. Bộ phận tuyên uý Công Giáo La Mã chính thức thành lập do một giám mục  phụ trách (giám mục Trương Cao Đại từ năm 1956 đến năm 1958, giám mục Lê Hữu Từ  từ năm 1958 đến năm 1966). Bốn mươi linh mục được cử làm tuyên uý, vừa để động  viên tinh thần quân đội chống cộng, vừa để tham gia cuộc chiến tranh tâm lý.  Các tuyên uý này được cử đi huấn luyện ở các trường sĩ quan Đà Lạt, Thủ Đức,  hoặc ở Mỹ. Ba mươi nhà thờ đã được dành riêng để phục vụ cho quân đội.
   Ngày 9 tháng 2 năm 1957, Diệm ký sắc lệnh ngành chiến tranh tâm  lý trong quân đội (sau khi đã đổi Nha tác động tinh thần thành Nha chiến tranh  tâm lý thuộc Bộ thông tin, ngày 25 tháng 9 năm 1956). Ngành này có 1.000 người  lúc đầu và tăng lên 2.000 người năm 1961. Ta hiểu rằng ở đây, giống như trong  các ngành cảnh sát, mật vụ, thành phần người Công Giáo La Mã rất đông đảo và là bộ  phận nồng cốt, tin cẩn.
   Các đảng phái chính trị đa số là người Công Giáo La Mã như Tập đoàn  công dân của Trần Văn Lắm, Phong trào tranh thủ tự do của Bùi Văn Thịnh, Phong  trào cách mạng quốc gia của Trần Chánh Thành, đều làm hậu thuẫn đắc lực cho  chính quyền Diệm. Hầu hết tri thức Công Giáo La Mã tham gia hoặc phục vụ bằng cách  này hay cách khác cho chính quyền Diệm.
   Chế độ Diệm sụp đổ cũng chấm dứt luôn thời kỳ “đắc thế” quá lộ  liễu của giáo hội Công giáo ở miền Nam. Tất nhiên, không có nguỵ quyền nào có  thể tồn tại được ở Sài Gòn nếu không dựa được vào hay không có sự đồng loã của  bộ phận chống cộng nhất, báo thủ nhất và có thế lực nhất của giáo hội. Nhưng dù  sao, tình thế đã đổi khác. Và giáo hội cũng phải tìm cách thích ứng với tình  thế ấy.
    4 – Công giáo thời Nguyễn Văn Thiệu, một Công giáo La Mã được tăng  cường, một Công giáo theo Mỹ chống cộng
   Phải nhận rằng cùng với cái chết của Diệm, giáo hội Công giáo  miền Nam Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề, uy tín giảm sút, các tổ chức chính  trị có nòng cốt Công Giáo La Mã như Đảng Cần lao Nhân vị, Phong trào Cách mạng Quốc  gia v.v… đều tan rã. Mặc dù thế, những người Công Giáo La Mã chống Cộng không hề từ  bỏ tham vọng lãnh đạo chế độ, chi phối nguỵ quyền: “Trong hiện tình đất nước,  chiến tranh và hậu chiến, người Công Giáo La Mã không những phải có mặt mà còn hơn  nữa, phải lãnh trách nhiệm tiên phong và điều khiển. Lý do là vì đoàn thể công  giáo Việt Nam tuy thiểu số nhưng có sẵn học thuyết xã hội vững chắc, có sẵn tổ  chức từ cấp họ đạo lên đến cấp toàn quốc rất chặt chẽ, có đủ nhân tài trong mọi  cấp để làm tiên phong và hướng dẫn cuộc cách mạng xã hội”. Và “sau những ngày bồng  bột của Cách mạng 1 tháng 11 năm 1963 và các phong trào tranh đấu Phật giáo,  người ta đã tỉnh ngộ, tìm phương cứu vãn quốc gia, xã hội. Người ta chỉ còn  trông vào phần tử Công giáo”.
   Nhờ sự giúp đỡ của Mỹ, Công giáo nhanh chóng khôi phục được ưu  thế chính trị cũ. Mỹ đã trao quyền cho một người Công giáo: “tổng thống” Nguyễn  Văn Thiệu. Nhiều tướng lĩnh và bộ trưởng khác cũng là Công Giáo La Mã. Phần lớn các  tỉnh trưởng “nằm trong tay” các giáo sĩ địa phương. 30% binh lính của quân đội  chính quy Sài Gòn là người Công giáo, đặt dưới sự chăm sóc “phần hồn” của các  tuyên uý. Trong nhiệm kỳ 1967-1971, người Công Giáo La Mã chiếm 40 trong số 60 ghế ở  “Thượng nghị viện”, 40 trong số 135 ghế ở “Hạ nghị viện”. Sau năm 1972, họ  chiếm đa số trong cả hai viện. Những chức vụ “tin cẩn” trong bộ máy chiến tranh  của Mỹ như phiên dịch, tình báo v.v… đều được dành cho người Công Giáo La Mã.
   Mặt khác, những linh mục khét tiếng chống cộng như Hoàng Quỳnh,  Trần Du… lại thành lập những tổ chức chính trị như Lực lượng Đại Đoàn Kết  (1972), Mặt trận nhân dân chống Cộng Sản xâm lăng (1972) và Đảng Dân chủ do  Nguyễn Văn Thiệu đích thân làm Chủ tịch. Công giáo vẫn chi phối Hội đồng Công  giáo (1965) sau đổi là Hội đồng hỗn hợp cứu trợ phòng vệ và tái thiết quốc gia  và còn đưa người của họ luồn vào các đảng phái chính trị đã có từ lâu. Chính  một dân biểu Công Giáo La Mã đã viết: “Chế độ Sài Gòn giờ đây còn mang nhiều tính  chất Công Giáo La Mã hơn so với chế độ Ngô Đình Diệm v.v… Giáo hội của chúa Kitô là  chỗ dựa duy nhất của chế độ này, vì sự nâng đỡ của người Mỹ tuy rất cốt yếu,  rất hữu hiệu, thì cũng phần lớn phụ thuộc vào thái độ của giáo hội Việt Nam”.
   Cùng với việc khôi phục lại uy thế chính trị, giáo hội tăng  cường cơ sở vật chất. Từ năm 1963 đến năm 1975, Công giáo lập thêm 5 địa phận  mới (Đà Nẵng, Buôn Ma Thuột, Xuân Lộc, Phú Cường, Phan Thiết) cộng với 10 địa  phận cũ thành 15 địa phận trực thuộc hai giáo tỉnh Huế và Sài Gòn. Theo số liệu  năm 1973, giáo hội có 2 tổng giám mục, 18 giám mục, 2.036 linh mục (gấp đôi năm  1955), một con số gấp đôi như vậy các nam tu sĩ (trong 15 dòng tu nam) và nữ tu  sĩ (trong 20 dòng tu nữ) cùng 1.849.252 tín đồ. Đông đảo trí thức Công Giáo La Mã  hoạt động náo nhiệt torng lĩnh vực chính trị, văn hoá, xã hội. Còn giáo dân thì  được tổ chức vào 10 hội đoà, do 4 uỷ ban điều khiển. Giáo dân di cư vẫn chiếm  hơn một phần ba tổng số giáo dân này.
   Giáo hội đã xây dựng được 1.400 nhà thờ (trong đó có 30 nhà thờ  hạng A, mỗi cái trị giá 50 triệu đồng Sài Gòn lúc ấy), 150 nhà thờ hạng B (mỗi  cái trị giá 10 triệu đồng), 125 tu viện (trong đó có 25 tu viện hạng A), có 4  bệnh viện và nhiều cơ sở từ thiện, có 2 học viện (1 ở Đà Lạt, 1 ở Sài Gòn) với  4.000 sinh viên Công Giáo La Mã và ngoài Công Giáo La Mã, 2/3 số trường trung học và tiểu  học tư thục là do Công Giáo La Mã nắm, chiếm một nửa tổng số học sinh. Về kinh tế,  giáo hội có những đồn điền rộng lớn. Riêng địa phận Sài Gòn có khách sạn  Caraven và Ngân hàng Đại Nam. Rõ ràng dưới chế độ Thiệu, Công giáo đã được tăng  cường về nhiều mặt so với trước.
   Có 4 giám mục và khoảng 1/5 linh mục cố gắng lôi kéo số công  giáo đã được tăng cường ấy đi theo con đường chống cộng cực đoan, tán thành và  hỗ trợ cho chiến tranh xâm lược và chế độ thực dân kiểu mới của Mỹ. Họ tuy  thiểu số nhưng rất có thế lực, bởi vì các giám mục này có nhiều ảnh hưởng trong  Hội đồng Giám mục, còn các linh mục chống Cộng cũng là những người hoạt động  tích cực trong các tổ chức chính trị và xã hội. Họ nắm được những người công  giáo di cư, đa số các cơ quan thông tin, giáo dục Công Giáo La Mã. Họ được sự ủng hộ  mạnh mẽ của Mỹ Thiệu.
   Những người Công giáo theo Mỹ chống Cộng này đã công khai tỏ rõ  lập trường của họ như sau: “Người Công Giáo La Mã chấp nhận người Mỹ và ủng hộ việc  Mỹ giúp Việt Nam chống cộng… Công giáo chấp nhận sự hiện diện của quân đội Mỹ  trên đất nước Việt Nam để giúp chúng tôi chiến đấu với cộng sản”. “Chúng tôi  sẵn sàng hợp tác với quân đội Mỹ, thách thức giúp người Mỹ thực hiện chiến lược  của họ”. “Chúng tôi biết ơn người Mỹ, sẽ cắn cỏ ngậm vành, có thể làm thân trâu  ngựa để đền nghĩa lớn”.
   Như vậy, một lần nữa, chủ nghĩa cuồng tín, cộng với những đặc  quyền, đặc lợi do đế quốc Mỹ đem lại, đã khiến cho những người Công Giáo La Mã ấy lôi  kéo giáo hội của mình chạy theo một thứ chủ nghĩa chống cộng mù quáng, ủng hộ  một cuộc chiến tranh xâm lược diệt chủng, chống lại chính dân tộc của mình. Vẫn  theo lời tố cáo trong Thư của người Việt Nam Công Giáo La Mã gửi đức thánh cha Phao  lô đệ lục (10 năm 1970) đã trích dẫn ở trên những người Công Giáo La Mã chống cộng đó  còn tự biện hộ cho thái độ cấu kết và tiếp tay cho đế quốc Mỹ của mình bằng một  sự nguỵ biện thần học, cho rằng phải bảo vệ bất kỳ chế độ nào cũng hộ công  giáo, dù cho chế độ ấy thối nát thế nào. Mặt dầu về điểm này, có người công  giáo đã phê phán một cách sâu sắc: “Các giáo hội tại Việt Nam đã sai lầm một cách  nghiêm trọng khi quan niệm có thể bánh trướng giáo hội bằng các cơ sở vật chất,  các phương tiện trần thế, các thế lực chính trị, do đó, đưa đến những kết quả  tai hại như tự biến mình thành các thế lực chính trị, hoặc trở thành khí cụ cho  các phái chính trị, đặc biệt là các âm mưu chính trị của đế quốc. Từ đó, ý  nghĩa tôn giáo chỉ là một chiêu bài để nguỵ trang cho những tranh chấp man trá,  thô bỉ mà thực chất chỉ là quyền lợi”. Nói cách khác những người Công Giáo La Mã  chống cộng ấy đứng về phía Mỹ xâm lược, không phải xuất phát chủ yếu từ việc sợ  bị mất đạo mà chủ yếu là từ việc sợ mất những mối lợi có được nhờ có đế quốc  Mỹ. Thái độ gắn bó với các quyền lợi vật chất đã chiếm hữu được chính là cơ sở  kinh tế của thái độ chính trị, bảo vệ, phục vụ cho đế quốc Mỹ. Còn Mỹ thì sẵn  sàng dán nhãn hiệu Công Giáo La Mã lên trên quyền lợi của Mỹ, và lợi dụng giáo hội để  thu lợi. Sự cấu kết giữa đế quốc Mỹ và những người Công Giáo La Mã chống cộng là một  sự cấu kết có tính chất chính trị - kinh tế, trong đó, hai bên vừa nương tựa vào  nhau và vừa lợi dụng lẫn nhau.
   Kiên trì một lập trường theo Mỹ chống cộng một cách cực đoan  nhất, những người Công Giáo La Mã chống cộng đó đã phụ hoạ với Mỹ, VU CÁO NHỮNG NGƯỜI  CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ “XÂM LƯỢC” NGAY TRÊN CHÍNH ĐẤT NƯỚC CỦA NGƯỜI VIỆT NAM  [quan điểm vu cáo này là quan điểm coi chiến tranh Việt Nam là “nội chiến” (chú  thích của người tường thuật)]. Bất chấp tinh thần thích nghi với thời đại của  công đồng Vatican II giám mục Nguyễn Khắc Ngữ đòi ghi mấy chữ “chống cộng sản  vô thần” vào trong nghị quyết của đại hội các giám mục Á châu, tháng 11 năm  1970. Linh mục Trần Du tỏ ý không tán thành lời kêu gọi hoà bình ở Việt Nam của  Giáo hoàng Phaolô VI. Hội nghị bốn bên vừa hợp ở Pari, những người Công Giáo La Mã  chống cộng ấy đòi phát động một phong trào di cư sang Úc và Nam Mỹ và làm áp  lực buộc một giám mục phải rút lui lời tuyên bố “Người Công Giáo La Mã Việt Nam ở lại  đất nước Việt Nam, bất kể tình huống nào”. Linh mục Nguyễn Viết Khai, một người  đã từng “chống cộng cực đoan đã bị giám mục chống cộng Nguyễn Văn Thiệu cách  chức vì muốn “hoà hợp dân tộc”. Giáo xứ Vinh Thanh của linh mục Khai cũng bị  giám mục Thiệu phạt “vạ tòng sở” – nghĩa là cấm không một linh mục nào được làm  lễ hay làm bất cứ một phép bí tích nào trong xứ Vinh Thanh – vì đã đấu tranh  chống áp bức bóc lột địa phương.
   Như vậy, những người chống cộng cực đoan đó, trong một số mặt  nào đấy, thậm chí đi ngược lại cả sách lược công khai rất tinh vi và xảo quyệt  của toà thánh.
   5 – Bộ mặt thứ hai của giáo hội
   Tuy nhiên, trong hàng giáo phẩm cũng như trong giáo dân ở miền  Nam Việt Nam, càng ngày càng có nhiều người nhận thức được điều nguy hiểm cho  giáo hội và cho bản thân – cả trước mắt, cả lâu dài sau này – nếu cứ theo đuổi  mãi một thứ chủ nghĩa chống cộng cực đoan hiếu chiến và ràng buộc chặt chẽ số  phận của giáo hội Công Giáo La Mã với số phận của Mỹ - Thiệu. Mỹ - Thiệu càng thất  bại thì nhận thức đó càng phát triển.
   Mặt khác, giáo hội miền Nam Việt Nam cũng là một bộ phận của  giáo hội thế giới. Nó không thể ít ra là về mặt công khai, đi ngược mãi và một  cách quá lộ liễu với sách lược “thích nghi với thời đại” của cộng đồng Vatican  II do khâm mạng toà thánh Pi-nhơ-đô-li truyền đạt cho giáo hội miền Nam Việt  Nam năm 1966. Nhất là khi phái viên toà thánh, Pi-e-rô-Ghê-đo, trong bản phúc  trình mật ngày 30 tháng 12 năm 1973 đã viết: “Thật là dễ hiểu để thấy trước  rằng cuộc xung đột tại Việt Nam sẽ phải có một giải pháp chính trị thay vì quân  sự. Tiếc thay, người Công giáo không làm gì để chuẩn bị cho một giải pháp chính  trị đó. Nhiều người Công Giáo La Mã cứ tỏ vẻ tiếp tục ủng hộ Tổng thống Thiệu. Theo  con thì đó là một chiến thuật tự sát”. Vì vậy, trong giáo hội miền Nam đã hình  thành một xu hướng chống cộng ôn hoà hơn. Những người này chiếm đa số, nhưng do  nhiều nguyên nhân và trong nhiều việc cụ thể họ vẫn bị nhóm chống cộng cực đoan  lấn át.
   Lúc này, một số người Công Giáo La Mã ấy muốn chối bỏ, ít ra là bề  ngoài, thái độ công khai cấu kết với Mỹ, để tuyên bố “không để cho mình bị ràng  buộc về chính trị” để kêu gọi hoà bình chung chung: “Hãy thương thuyết và tương  nhượng”, “muốn có hoà bình hãy hành động cho công lý”. Một số linh mục có một  bộ mặt khác của giáo hội, bộ mặt “giáo hội của người nghèo”, “của tương lai”,  “của giới trẻ”.
   Tại sao một số người Công giáo muốn tạo ra “bộ mặt thứ hai” ấy  cho Giáo hội? Một giáo sư chống cộng ở Sài Gòn, đã thú nhận: “Bộ mặt của công  giáo Việt Nam hơn một trăm năm nay đã gắn liền mãi với bom đạn ngoại bang rồi.  Bây giờ hàng giáo phẩm tưởng đã đến lúc tìm ra được một bộ mặt khác, hiền hoà  hơn, vẫn giúp cho người Công giáo nắm được quyền binh – có kèm theo sự thủ đắc  tài sản to lớn do sự viện trợ đổ vào – mà không phải chia sớt uy tín dưới mắt  dân chúng đối với một tập thể chống đối nào hết, trong cũng như ngoài giáo  hội”.
   Mặt khác, những người Công giáo ấy thấy phải làm sao nắm chặt  lấy giáo dân trong mọi tình hình, cũng như phải chuẩn bị lực lượng trong cuộc  đấu tranh chính trị với đối phương một khi hoà bình được lập lại. “Hoàn cảnh  ngày nay tuy lắng dịu, nhưng viễn ảnh ngày mai rất đen tối. Thế nào cũng phải  tranh đấu quyết liệt bằng chính trị với đoàn thể cộng sản. Nên mọi người đều  mong mỏi một quyết định, một sự thôi thúc của hàng giáo phẩm để tổ chức hàng  ngủ, huấn luyện cán bộ và quần chúng, không thể nào để nước đến chân mới nhảy  được”. “Canh tân” giáo hội, khiến cho bộ mặt của nó không còn dính chặt như  bóng với hình với chủ nghĩa thực dân mới và tay sai, ít ra là về bề ngoài, theo  những người Công Giáo La Mã này, là cách tốt nhất cho việc chuẩn bị nói trên.
   Chính theo tinh thần ấy, các giám mục miền Nam trong một thư  chung (tháng 3 năm 1974), lần đầu tiên đã nhắc đến tệ nạn tham nhũng của chính  quyền Thiệu. Ngày 18 tháng 6 năm 1974 đã công bố bản Tuyên ngôn của 301 linh  mục, tiếp tục lên án tệ nạn nói trên. Sau đấy, Phong trào nhân dân chống tham  nhũng để kiến tạo hoà bình ra đời. Người đứng đầu phong trào ấy là linh mục  Trần Hữu Thanh, kẻ tự nhận “đã chống cộng từ năm 1945” đã “ba mươi năm tranh  đấu cho lập trường chống Cộng”. Nhưng linh mục đó cho rằng chống cộng sau khi  Hiệp định Pari được ký kết, không còn là đánh cho đến viên đạn cuối cùng như  trước, “bởi vì đạn càng ngày càng ít, làm sao đánh cho thắng”. Chống cộng, lúc  ấy – vẫn theo linh mục Thanh – là “chấp nhận họ về sống chung hoà bình với phe  quốc gia để cùng nhau đấu tranh chính trị”. Đứng trong quan niệm ấy, Trần Hữu  Thanh cho rằng muốn thắng cộng sản trong đấu tranh chính trị thì phải “chống  lãnh đạo thối nát, chống tham nhũng”, vì tham nhũng “làm suy yếu tiềm lực quốc  gia, làm mất lòng dân”.
   Như vậy, động cơ thúc đẩy phong trào chống tham nhũng không phải  là “Phúc Âm”, mà là chống cộng trong điều kiện mới. Phát động chống tham nhũng  với động cơ đó, phong trào đã nhằm những mục đích rất cụ thể: “xì hơi” để mị  dân, “rửa mặt” cho Công giáo vốn mang tiếng “đi đêm với chính quyền”, hy sinh  Thiệu để cứu vãn chế độ. Mục đích ấy quy định phương thức hoạt động của phong  trào, như là “dấn thân bất bạo động”, đóng khung trong hình thức cầu nguyện và  nếu có xuống đường thì cũng sẽ “không làm rơi một cái lá” và coi đây là một  cuộc “tập dượt quần chúng để nhằm, chuẩn bị tranh đấu với cộng sản chứ không  phải để chống chọi với cảnh sát của chế độ quốc gia đương quyền”.
   Tình thế biến chuyển quá mau lẹ. Những mưu tính trên đây nhanh  chóng trở nên lỗi thời. Trước thắng lợi không thể đảo ngược của cách mạng, tổng  giám mục ở Sài Gòn, Nguyễn Văn Bình tuyên bố: “Chúng ta đã sống với chế độ quốc  gia. Nếu ngày nào đó có sự thay đổi chế độ thì chúng ta tiếp tục sống với chế  độ khác”.
   Tất nhiên, không thể hiểu một lời tuyên bố như thế đơn thuần chỉ  là do sự áp đặt của tình hình khách quan. Nó còn bắt nguồn từ đòi hỏi sâu xa  của đông đảo tín đồ Công Giáo La Mã. Những người này vẫn bị cai quản chặt chẽ cả phần  xác lẫn phần hồn, vẫn bị cột chặt vào một “đức tin” tuyệt đối và gắn bó với xứ  đạo, địa phận, giáo khu của mình. Nhưng đa số họ là người lao động và giống như  những người lao động khác, họ cũng là nạn nhân của một chế độ hà khắc, tham  nhũng. Họ cũng phải đi phu, đóng thuế, con trai của họ cũng bị bắt lính và có  người chết trận hoặc trở thành ác ôn, con gái của họ cũng lâm vào cảnh đĩ điếm.  Thực tế bi đát ấy, đi đôi với đặc quyền đặc lợi lộ liễu và sự thối nát của một  số người chăn dắt phần hồn của họ, đã mở mắt cho họ, làm thức tỉnh những tình  cảm và ý chí chống đối Mỹ - nguỵ và chống một số “bề trên” của họ đã cấu kết  với chúng. Mặt khác, thực tiễn ngày càng phơi bày bột mặt xảo quyệt tàn ác của  đế quốc Mỹ và nguỵ quyền của bọn phản động cầm đầu các tổ chức Công Giáo La Mã, thực  tiễn ngày càng làm sáng tỏ chính sách chính sách, tinh thần “tốt đời, đẹp đạo”  của cách mạng Họ cũng dần dần giác ngộ về thân phận bị lợi dụng và bị hy sinh  cho những mưu đồ phản dân tộc và trái với tinh thần Công Giáo La Mã. Họ muốn cho giáo  hội của họ “tìm về dân tộc”. Đây là một hiện tượng có ý nghĩa rất lớn đối với  tiền đồ của giáo hội miền Nam Việt Nam.
   Điều mà những giáo dân lao động đó mới chỉ cảm thấy và hành động  theo sự giác ngộ trực tiếp của họ thì đã được một số linh mục trí thức và giáo  dân Công Giáo La Mã cấp tiến đặt thành vấn đề một cách công khai, vấn đề đi tìm một  đức tin mới, bám rễ được vào đời sống chính trị và văn hoá của dân tộc và cách  mạng. Đây là một tầng lớp Công Giáo La Mã khác, nói chung sống ở thành phố thuộc tầng  lớp trên và làm thay đổi phần nào cơ cấu xã hội của giáo hội, vốn trước đó chủ  yếu mang bộ mặt nông thôn. Nhiều người là những chủng sinh và trí thức trẻ, đã  được gửi đi học ở các trường đại học trong nước và ngoài nước. Một số trong họ  đã chứng kiến sự “canh tân” của các giáo hội ở nước ngoài. Họ đã phát biểu ý  kiến của mình trong các tuần lễ hội thảo Công Giáo La Mã tháng 1 năm 1962, tháng 2  năm 1963, trong tuần lễ kinh thánh ở Đà Lạt tháng 3 năm 1962, hoặc trên các tạp  chí xuất bản ở Sài Gòn, Paris, Canada, như tờ Sống đạo, Đối diện, Chọn, Công  giáo và dân tộc, Thế hệ v.v… Họ chỉ là một số rất nhỏ trong giáo hội miền Nam,  và hầu như không có tác động gì đối với thực tiễn của giáo hội ấy. Nhưng trong  lúc hàng giáo phẩm vẫn kiên trì đường lối theo Mỹ chống cộng giữa một sự phát  triển của tình hình càng ngày càng chứng tỏ tính chất sai lầm của đường lối đó,  thì sự “đối thoại ở trong lòng giáo hội” của họ có vai trò “thức tỉnh” nhất  định, nhất là trong giới trẻ, tu sĩ cũng như tín đồ.
   Chúng ta hãy xem xét một số luận điểm của cuộc “đối thoại” ấy.
   Trước hết, những người trí thức Công Giáo La Mã ấy hô hào các tín hữu  của mình hãy “trở về với dân tộc”. Như có người đã viết: “Đức Giêsu không làm  chính trị một cách trực tiếp và không có tham vọng thế quyền. Nhưng ngài từng  thương khóc dân tộc và đã muốn giành ơn cứu độ cho dân tộc ngài trước hết”.  Nhìn sang phương Tây, các giáo hội trưởng thành đều mang tính dân tộc sâu sắc,  và đều gắn bó với số phận của dân tộc. Ngay các giáo sĩ thừa sai cũng không vì  truyền đạo mà sao lãng cái mà họ gọi là “nhiệm vụ đối với dân tộc” của họ. Vậy  thì – họ tự hỏi – tại sao một người Việt Nam theo đạo Công Giáo La Mã lại phải hy  sinh dân tộc, sống ngoài lề dân tộc mới bảo vệ được tín ngưỡng của mình.
   Hãy “giật mình tỉnh giấc”: đó là tiếng kêu chung của những người  trí thức Công Giáo La Mã này. Như thư của 20 linh mục trong nước và ngoài nước ngày  20 tháng 5 năm 1969 đã nói rõ: “Người Công Giáo La Mã chân chính là người phải yêu  dân tộc, phải hy sinh tất cả cho dân tộc”.
   Thứ hai, họ cũng kêu gọi các tín hữu của họ không nên chỉ biết  lạy Chúa, mà không làm những điều Chúa dạy. Theo họ, giữa người Công giáo và  người không Công Giáo La Mã chỉ có một miếng đất chung là cõi đời này, là dân tộc và  xã hội này. Vì vậy, không phải chỉ cần “cầu nguyện” và “hãm mình chịu khổ” mà  còn phải hoà mình vào cuộc sống đấu tranh cho độc lập dân tộc và công bằng xã  hội. Có thế mới thực hiện được tinh thần Phúc Âm. Như có người đã viết: “Tin  mừng chỉ có trong hành động của giáo sĩ và tín đồ để phục vụ dân tộc, phục vụ  nhân dân. Nếu không, tin mừng đó chỉ là “tin vịt”. Nó không cứu độ, không giải  thoát gì hết, trái lại chỉ là một trường ru ngủ nô lệ”.
   Thứ ba, để có thể trở về với dân tộc, với Phúc Âm, họ kêu gọi  các tín hữu của họ hãy triệt để thanh toán những nọc độc chống cộng vô thần.
   Một mặt, họ thừa nhận rằng nhiều tín điều của đạo Công giáo rất  khó chấp nhận trong phạm vi lý trí loài người như là những mầu nhiệm về Ba  Ngôi, Chúa xuống thế làm người, các phép bí tích, nhất là phép thánh thể, giải  tội v.v… Rõ ràng, những tín điều ấy xuất hiện như là một cái gì vô lý hoang  đường đối với người Công giáo. Vì vậy, chính không tin mới là điều tự nhiên.
   Mặt khác, vẫn theo họ, chủ nghĩa vô thần không phải do cộng sản  sinh ra mà chính là con đẻ của xã hội cộng giáo châu Âu “vỏ xanh mà ruột rỗng”,  và nảy sinh ngay từ trong lòng Giáo hội như là một phản ứng đối với thứ “thần  mê hoặc của đạo thuốc phiện”. Chính vì thế, một số người cách mạng châu Âu “đã  chọn con đường vô thần vì thấy rõ trong lịch sử, con đường hữu thần đã tỏ ra  bất lực trước cảnh buôn người, người bóc lột người, nhiều phen lại a tòng với  thực dân”.
   Hơn nữa, như có người đã nói, chống Cộng sản vì Cộng sản là vô  thần là sai, vì ở Việt Nam có bao nhiêu người vô thần sao không chống lại, chỉ  chống cộng sản. Vì vậy, chống Cộng sản vô thần, nếu đứng về phía dân là chiêu  bài che giấu sự đàn áp những người muốn giải phóng đất nước, thì về phía một số  người Công Giáo La Mã, là bình phong che giấu sự cấu kết với thực dân. Thái độ của những  người Công Giáo La Mã chống cộng vô thần ấy chủ yếu không phải bắt nguồn từ lý do tôn  giáo, mà chính là sợ mất những quyền lợi ưu đẳng có được nhờ chủ nghĩa thực  dân. Họ biến mâu thuẫn giữa họ với Cách mạng thành mâu thuẫn giữa “hữu thần” và  “vô thần” trong khi đường ranh giới ngăn cách con người ở đây thực tế không  phải là Hữu thần hay Vô thần mà là yêu nước và cướp nước, Cách mạng và phản  động. Vì vậy, người yêu nước và Cách mạng, dù Hữu thần hay Vô thần đã và vẫn  cùng nhau đoàn kết và hành động cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. (hết tường  thuật).

  FACEBOOK MINH THẠNH  THÔNG BÁO. THÔNG BÁO NÀY LÀ MỘT PHẦN NỘI DUNG BÀI VIẾT:
  Facebook Minh Thạnh hoàn toàn không chịu trách nhiệm đối với nội  dung các bình luận phản hồi, nội dung thể hiện ngoài bài viết dưới mọi hình  thức: văn bản, âm thanh, ký tự, ký hiệu, hình ảnh, video và những hình thức  tương tự khác gồm cả do bạn đọc gởi đến, hay do Facebook hiển thị từ trích dẫn  nguồn trong bài. 
Hoàn toàn không chịu trách nhiệm đối với mọi hình thức đăng tải  lại, khai thác, sử dụng, trích dẫn bài viết và những hình thức tương tự khác,  dù trong những trường hợp không hạn chế những việc trên. Bạn đọc chịu trách  nhiệm nếu sửa chữa, thay đổi nội dung, hình thức diễn đạt của bài viết khi đăng  tải lại, khai thác, sử dụng, trích dẫn bài viết.
Hoàn toàn không chịu trách nhiệm đối với những suy đoán, rút ra  kết luận, liên hệ chủ quan, riêng tư, tùy tiện, cá biệt và những hình thức  tương tự khác không căn cứ chính xác vào nội dung ngôn từ bài viết. 
Hoàn toàn không chịu trách nhiệm liên hệ đến những danh từ riêng  không được nói đến trong bài. Hoàn toàn không chịu trách nhiệm về các câu trả  lời đối với những câu hỏi được nêu ra trong bài viết. 
Hoàn toàn không chịu trách nhiệm về những nội dung thông tin,  bình luận, dữ liệu, số liệu, tư liệu, trích dẫn nêu trong bài có tựa đề đặt dấu  hỏi, hoặc nêu trong câu hỏi, hoặc kèm từ dùng để hỏi hoặc dưới dạng câu hỏi  hoặc kèm những hình thức thể hiện nghi vấn khác. Những thông tin có dấu hỏi sau  từ, sau cụm từ, cuối câu có thể là thông tin chưa được kiểm chứng, thông tin  tồn nghi, thông tin chưa được xác nhận, thông tin còn cần phải tìm hiểu thêm,  nên không phải tin giả, cũng không phải là thông tin thật chắc chắn đúng.
Hoàn toàn không chịu trách nhiệm đối với những nội dung giả  định, dùng từ “nếu” hoặc các từ, cụm từ khác thể hiện việc giả định.
Hoàn toàn không chịu trách nhiệm về nội dung sách, tư liệu được  Facebook Minh Thạnh đề cập tới trong các bài giới thiệu sách, tư liệu. Nội dung  sách và tư liệu gồm văn bản, file âm thanh, file hình ảnh, file video..., nhiều  trường hợp là sách và tư liệu được giới thiệu với nội dung phê phán, do tác giả  sách, tác giả tư liệu chịu trách nhiệm. 
Hoàn toàn không chịu trách nhiệm đối với việc bạn đọc sử dụng  kiến thức, kỹ năng... được hướng dẫn trên Facebook Minh Thạnh vào các việc  riêng, cụ thể của bạn đọc.
Facebook Minh Thạnh sử dụng phương pháp câu hỏi Socrate, nên nội  dung câu hỏi giả định, giả thiết có thể được đặt với nội dung sai, nhằm kích  thích tư duy phản biện ở bạn đọc. Do sử dụng phương pháp câu hỏi Socrate,  Facebook Minh Thạnh không chịu trách nhiệm đối với chính nội dung câu hỏi (có  thể là câu hỏi nêu sai một cách cố ý theo phương pháp câu hỏi Socrate). Như vậy,  các bài viết đăng trên Facebook Minh Thạnh không hề đưa ra quan điểm riêng của  người viết, mà chỉ nêu những câu hỏi để người đọc tự hình thành quan điểm riêng  cá nhân qua việc tự tìm câu trả lời cho bạn đọc.
Bài đăng trên Facebook Minh Thạnh là các bài nghiên cứu khoa học  xã hội, do đó, có thể đưa ra những nhận định, quan điểm, kết luận mới, giả  thuyết, dưới dạng câu hỏi nghi vấn, không chịu trách nhiệm khẳng định. Facebook  Minh Thạnh sẵn sàng đăng các ý kiến phản biện của bạn đọc viết thành bài trong  phần bài viết để khẳng định bản chất giả thuyết, tồn nghi, ngoài trách nhiệm  khẳng định.
Hoàn toàn không chịu trách nhiệm đối với cách hiểu, cách lý giải  từ, câu, đoạn văn có sử dụng các hình thức chuyển việc nhận thức nghĩa cho bạn  đọc, không phải có nghĩa theo từ điển (thí dụ dùng dấu ngoặc kép (“), dùng dấu  chấm hỏi trong ngoặc đơn (?) hoặc dùng gạch nối giữa các từ, các cụm từ (-),  dùng các từ “sáng tạo”, “tự làm phát sinh nghĩa cá biệt”... (như “phó hòa  thượng”, “đỏ mắt”...), việc hiểu nghĩa là do riêng từng mỗi bạn đọc.
Trong tinh thần chặt chẽ trong việc tự biên tập, tự kiểm duyệt  theo hướng tuân thủ những quan điểm của các quy định mới về an ninh mạng,  Facebook Minh Thạnh hạn chế tối đa việc nêu các danh từ riêng cơ quan, tổ chức,  cá nhân; hạn chế tối đa việc đưa đường dẫn, hạn chế tối đa việc đăng hình cá  thể người, hạn chế tối đa việc đăng lại trực tiếp nội dung cần trích dẫn mà  thay bằng tường thuật gián tiếp (không đòi hỏi tuyệt đối chính xác, hạn chế tối  đa việc nêu chính xác tài liệu trích dẫn mà để bạn đọc tự tra cứu…).
Tác giả Minh Thạnh tự xác định là người không tôn giáo. Cho nên,  bài đăng trên Facebook Minh Thạnh không phải là bài của người theo tôn giáo này  viết về tôn giáo khác, mà là bài nghiên cứu tôn giáo của một người không tôn  giáo cố gắng giữ sự khách quan, không phải viết từ điểm nhìn của một tôn giáo  nào. Facebook Minh Thạnh không phục vụ cho lợi ích của tôn giáo nào, mà chỉ  phục vụ lợi ích của dân tộc và cộng đồng xã hội.
Trường hợp Facebook Minh Thạnh thể hiện các danh từ riêng nhưng  không xác định danh từ riêng cụ thể bằng cách viết tắt bằng chữ cái đầu tiên,  hoặc chữ cái bất kỳ là phù hợp với cách thức, tập quán được các cơ quan bảo vệ  pháp luật Việt Nam sử dụng (qua việc viết tắt danh từ riêng khi công bố các bản  án).
Không chịu trách nhiệm liên hệ đến danh từ riêng mà bài viết  dùng các ký tự mà luật pháp quy định không thể hiện tên người, tên đất như #  (dấu thăng), * (dấu hoa thị), ... (dấu ba chấm), x (dấu nhân) ...
Không chịu trách nhiệm liên hệ đến những danh từ riêng mà sự kiện  trong bài là việc thật, nhưng các danh từ riêng đã được thay đổi.
Trong các bài đăng trên Facebook Minh Thạnh, nếu nhân vật không  được thể hiện tên đầy đủ, chính xác, thì đề nghị bạn đọc trước hết hiểu là nhân  vật hư cấu. Nhân vật hư cấu không có thực, mà chỉ là nhân vật giả tưởng được  tác giả Minh Thạnh xây dựng, chế tác, tưởng tượng để thể hiện, phản ánh các nội  dung chung của cục diện tôn giáo, của xã hội toàn cầu. Nhân vật hư cấu được gọi  bằng các cụm từ như: “ai đó”, “người này”, “người đó”, hoặc viết tắt ông X, bà  Y, anh 4.0, chị@, hoặc ngài #... (theo pháp luật, các ký hiệu không thể hiện  tên người). Nhân vật hư cấu trên Facebook Minh Thạnh phản ánh hiện thực xã hội  nhưng không phải lấy y nguyên nguyên mẫu từ đời sống xã hội. Tính cách nhân vật  hư cấu trên Facebook Minh Thạnh được sáng tạo, tưởng tượng, hoặc chỉ có một nét  tính cách riêng rẽ tách rời từ hiện thực, hoặc nhân vật hư cấu có tính cách cắt  ghép hoặc tổng hợp từ các nguyên mẫu khác nhau từ hiện thực xã hội. Cũng như  các nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết, kịch nghệ, thơ ca tự sự, truyện ngắn…  những nhân vật hư cấu trên Facebook Minh Thạnh cũng có tính cách nhân vật, ngôn  ngữ nhân vật, hành động nhân vật… Nhân vật hư cấu được xây dựng trong bối cảnh  nhất định. Nhưng những điều đó không làm mất đi tính chất hư cấu của các nhân  vật hư cấu trên Facebook Minh Thạnh.
Các cụm từ như “giáo hội”, “giáo chủ”, “quan chức tôn giáo”,  “tôn giáo trị sự”, “tôn giáo chủ tịch”... đề cập đến tôn giáo nói chung, không  nói riêng một tôn giáo nào. Cụm từ “các hệ phái Phật giáo” không chỉ khái niệm  gộp chung là Phật giáo, đạo Phật, không liên hệ đến tổ chức Phật giáo nào. Cách  hiểu riêng liên hệ một tôn giáo, một tổ chức tôn giáo nào đó là do nơi bạn đọc,  Facebook Minh Thạnh không chịu trách nhiệm.
Trường hợp Facebook Minh Thạnh đăng hình ảnh được công bố trên  truyền thông đại chúng (internet), kết quả tìm kiếm của Google, Google thông  báo hình ảnh có thể có bản quyền, không xác định rõ bản quyền có hay không, thì  đối với hình ảnh đã đăng có bản quyền và có điều kiện đăng, xin vui lòng liên  hệ riêng để chỉ đăng lại sau khi đã thỏa thuận. Tất cả hình ảnh được đăng trên  Facebook Minh Thạnh đều chỉ có tính chất minh họa, trang trí mà thôi. Nếu ảnh  không có lời chú thích trong bài viết, ảnh không liên hệ nội dung bài viết.  Hình ảnh luôn luôn được đăng bên ngoài bài viết.
Trường hợp Facebook Minh Thạnh đăng lại ảnh chụp các trang mạng  xã hội như Facebook, YouTube, mà trên các trang được chụp toàn phần có nhiều  hình ảnh, dẫn đến việc hiển thị các hình ảnh ngoài ý muốn, bất khả kháng thì  đương nhiên Facebook Minh Thạnh không chịu trách nhiệm.
Trường hợp Facebook Minh Thạnh đăng lại ảnh chụp sách, báo, tạp  chí in giấy để giới thiệu nội dung sách, tin, bài đăng báo; bài đăng tạp chí,  thì ảnh chụp chỉ là bìa sách, một vài trang sách có nội dung liên hệ, ảnh một  phần tin, bài đăng báo hoặc tạp chí. Trong bài Facebook, tác giả Minh Thạnh sẽ  có lời giới thiệu mua sách, báo, tạp chí in giấy để đọc trọn vẹn. Nếu nhà xuất  bản sách, toà soạn báo, tạp chí hoặc các tác giả liên hệ không đồng ý, xin vui  lòng thông báo để tháo ảnh, không đăng ảnh chụp tương tự nữa trên Facebook Minh  Thạnh.
Cảnh báo có Facebook Minh Thạnh giả, dùng chân dung của tác giả  Minh Thạnh.
Cảnh báo về trường hợp tấn công tin học vào Facebook Minh Thạnh  làm biến động nội dung và kỹ thuật trình bày như đã xảy ra. Mong bạn đọc hỗ trợ  bằng cách thông tin khi phát hiện những vấn đề bất thường, nhất là ở những bài  viết cũ. Trường hợp có tấn công tin học, tác giả Minh Thạnh không chịu trách  nhiệm về những biến động nội dung (gồm bài viết, hình ảnh, video, âm thanh...).  Cá nhân, đơn vị tổ chức tấn công tin học chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp  luật.
Bài viết có thể có những lỗi chính tả khi đánh máy. Một số lỗi  chính tả do đánh máy có thể làm lệch lạc ý nghĩa từ vựng, câu, đoạn văn ngoài ý  muốn của tác giả. Sẽ rất cảm ơn nếu được bạn đọc giúp phát hiện, thông tin để  kịp thời chỉnh sửa.
Trường hợp bạn đọc tự liên hệ, kết nối nội dung những bài viết  riêng rẽ, tách rời trên Facebook Minh Thạnh thì đó là do nơi bạn đọc, Facebook  Minh Thạnh không chịu trách nhiệm. Trên Facebook Minh Thạnh, các bài viết nếu  không được đánh số thuộc về một loạt bài, thể hiện là những bài tiếp theo, thì  dù có tựa đề như nhau, gần như nhau, giống nhau, tương tự, thì vẫn là những bài  viết độc lập, cách riêng.
Đối với những bài Vatican học – Vaticanology, vì Vatican là một  nhà nước độc lập, có chủ quyền, có tư cách quốc gia quan sát viên tại Liên hiệp  quốc, có quan hệ ngoại giao với 183 quốc gia, nên Vatican được đề cập trước hết  và chủ yếu trong tư cách một nhà nước (Vatican state), có từ “chính quyền”  trước danh từ riêng Vatican, nếu không có là do thiếu sót, đề nghị bạn đọc luôn  luôn hiểu theo nghĩa chính quyền Vatican, tức là theo nghĩa một nhà nước.  Nguyên thủ, các quan chức của Chính quyền Vatican đương nhiên được Facebook  Minh Thạnh đề cập ở khía cạnh lãnh đạo, quan chức một bộ máy nhà nước xác định,  ở khía cạnh các chính khách, công chức của một quốc gia, không phải trong tư  cách những nhà tu hành tôn giáo.
Các bài Vaticanology sẽ có ngoặc đơn: “[Vaticanology  (Casarolism)]” thể hiện việc Facebook Minh Thạnh tập trung nghiên cứu, tìm hiểu  Học thuyết Casaroli, do Hồng y cựu Thủ tướng Vatican Casaroli triển khai từ  thập niên 1950 và ảnh hưởng mạnh mẽ, sâu sắc trong bí mật đối với Chính quyền  Vatican đến hiện nay. Do đó, nội dung phê phán (nếu có) đối với Hồng y  Casaroli, Học thuyết Casaroli, không phê phán Chính quyền Vatican?
Trong tiến trình nghiên cứu học thuật, trên Facebook Minh Thạnh,  một số thuật ngữ được đề xuất. Các thuật ngữ không mang tính chất biểu cảm.  Người đề xuất thuật ngữ không chịu trách nhiệm về những cảm nhận chủ quan về  thuật ngữ nơi người đọc.
Nhận định tôn giáo nào tại Việt Nam đang thiểu số hoá, đa số  hoá, Facebook Minh Thạnh căn cứ vào số liệu thống kê nhà nước từ các cuộc Tổng điều  tra Dân số và nhà ở (2009, 2019).
Hoan nghênh ý kiến phê bình, đóng góp, xây dựng từ bạn đọc, từ  các cơ quan quản lý nhà nước đối với việc sử dụng mạng internet và sẽ tích cực  tự điều chỉnh, tự biên tập hoặc điều chỉnh biên tập lại theo đề xuất. Do Facebook  Minh Thạnh có thể chỉ được người đăng bài kiểm tra theo chu kỳ tuần, mỗi tuần  cập nhật một lần, nên nếu quý bạn đọc hoặc cơ quan chức năng về an ninh mạng  phát hiện thấy đột xuất có những phản hồi mang nội dung không thích hợp trong  phần bình luận, cần phải loại trừ, xóa bỏ lập tức, xin vui lòng điện thoại báo  ngay theo số ghi ở cuối bài viết. Xin chân thành cảm ơn (Đã có trường hợp phát  hiện chậm việc kẻ gian dùng Facebook Minh Thạnh giả, lấy ảnh chân dung tác giả  Minh Thạnh đăng những lời phản hồi có nội dung tiêu cực, gian dối...)
Facebook Minh Thạnh có thể xoá bình luận, tạm ngưng hoạt động  phần bình luận của bạn đọc trong những trường hợp cần thiết.
Thông báo này là một phần của nội dung bài viết, vì vậy TÁC GIẢ BÀI VIẾT  KHÔNG CHỊU TRÁCH NHIỆM NẾU PHÁT SINH VIỆC KHỞI KIỆN, KHIẾU NẠI, TỐ CÁO, TỐ  GIÁC... đối với bài viết trong những trường hợp đã nêu ở trên.
  
 
Bài viết đến đây là hết.
   Minh Thạnh 
 (vinasat1.132@gmail.com, 0915553610).
  
 Nguồn @cusiminhthanh, ngày 9 tháng 8, 2025: Phần 1, Phần 2, Phần 3.