|  
 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|  
 |  
●   Bản rời      
 Vũ Duy Phú viết: Làm gì có yếu tố tôn giáo nào ở đây? 
Subject: Duyên cớ c ủa cuộc vi ễn chinh, đó là các giáo sĩ... .! Re: Tại sao Mỹ đổ quân vào Miền Nam ? Các Giáo Sĩ Trích từ “Bước Mở đầu của sự Thiết lập Hệ thống   (trang 84 - 91)  Nguyễn Xuân Thọ https://sachhiem.net/TONGIAO/tgN/NguyenXTho.php       Linh mục Pellerin Chúng tôi vừa phác họa qua loa  những nét lớn về tình trạng tinh  thần và những phản ứng sau hiệp  ước 1862 của ba thành viên tham  gia vào cuộc viễn chinh và vào  hiệp ước: Pháp, Tây Ban Nha và  Việt Nam.  Còn có một thành viên thứ tư, ít nhất cũng quan trọng ngang  với 3 thành viên kia, mà chúng  ta không thể bỏ quên trong bóng  tối.  Duyên cớ của cuộc viễn chinh, đó là các giáo sĩ.  Trong hiệp ước, một phần quan  trọng của các điều khoãn thì  liên hệ đến các vị giáo sĩ và  đến cái tự do tuyệt đối mà họ  phải có trong việc truyền bá  Kitô giáo. Trong mỗi một ngày  quan trọng, trong mỗi một hành  vi chính trị, và dĩ nhiên mỗi  hành động tôn giáo, người ta đều  thấy ở bình diện thứ nhất, hoặc  rất tích cực đằng sau sân khấu,  là các giáo sĩ. Họ cho rằng họ  phải có mặt ở mọi nơi, họ cần  phải nói tiếng nói của họ mọi  nơi, họ phải được người ta đặt  cho họ lên hàng đầu ở mọi nơi.  Thực tế là họ có mặt trong mọi chuyện rối ren phức  tạp, trong mọi tình huống căng  thẳng giữa nước Pháp và nước  Việt Nam. Các giáo sĩ có thể thỏa mãn với  hiệp ước đã ký, trong đó mọi yêu  cầu của họ đã được chấp nhận.  Trong một nước Nam kỳ trở thành  thuộc địa Pháp, họ chắc chắn có  thể vào sâu mọi hang cùng ngõ  hẻm, thực hiện đưa được nhiều  người theo đạo Kitô.  Nhưng mặc dù họ được thỏa nguyện, họ lại hầu như ngay lập  tức, tìm được một cơ hội chỉ  trích: Đô Đốc Bonard dám tổ chức  lại công việc hành chính bằng  cách cắt bỏ các sĩ quan Pháp  hoàn toàn không hiểu gì về phong  tục tập quán Việt Nam ấy khỏi  các trách nhiệm dân sự mà coi  như họ đã đảm nhiệm mấy lâu nay  sao? Ông ta không dám tuyên bố  công khai rằng người Việt Nam sẽ  trở lại điều hành công việc của  họ, chỉ cần các sĩ quan phụ  trách “công việc bản xứ” giám sát từ trên mà thôi sao?  Hơn nữa, chẵng phải ông ta đã đích thân tỏ ra muốn có một  đường lối chính trị theo Nho  giáo? các giáo sĩ đã nổi giận.  Một vị phát ngôn của các giáo  sĩ, là linh mục Launay, tuyên  bố: Vậy là đối với họ, vốn  quen thói áp đặt quan điểm của  mình trên kẽ khác, và  coi mọi thứ lễ nghi trước khi họ  đặt chân sang đều như không có.  Họ thấy đó là một nguy  cơ cho sự nghiệp truyền đạo của  họ, và là điều quan  trọng hơn tất cả. Đây không còn là câu chuyện truyền đạo nữa. Họ đã  cố tình vượt ra ngoài khuôn  khổsứ mệnh tôn giáo của họ để đi  vào linh vực chính trị.  Họ hoạt động nhằm nô lệ  hóa dân tộc Việt Nam, áp đặt tôn  giáo của họ vào Việt Nam, [đồng  thời] loại trừ mọi tôn giáo  khác.  Các giáo sĩ cho rằng địa vị của họ là ở tất cả mọi nơi,  rằng họ được quyền lo lắng mọi  sự, được quyền ra lệnh và khuyên  nhủ mọi người. Họ hiến mình cho  sự nghiệp tinh thần cũng như vật  chất.. Chúng ta đã thấy một giám mục, Pigneau de Behaine,  không những trở thành đặc phái  viên toàn quyền của ông vua  ngoại đạo, tuyễn mộ một số quân  tình nguyện nhằm ngăn cản cái mà  ông ta coi như một sự bất lực  của chính phủ Pháp, mà còn trở  thành đích thực một “chiến  sĩ” không phải nhằm đánh  đuổi quân ngoại đạo, mà nhằm đặt lên ngôi vàng Việt  Nam một kẻ ngoại đạo do mình lựa  chọn.   Chúng ta đã thấy một ông giáo sĩ khá kỳ quặc, là một tay du  lịch bốn phương trời, linh mục Huc, không ngần ngại  viết thư cho Napoleon III để nhắc Hoàng đế nhớ rằng  nước Pháp cần chiếm đóng Việt  Nam. Một điều cần chú ý  là ông linh mục này chưa hề đặt  chân lên đất Việt Nam bao giờ,  [ông] không biết một chút gì về  xứ sở này. Nhưng có sao đâu!  Không những ông ta tự coi mình  là kẻ đủ tư cách bàn bạc chuyện  đó, mà bởi ông ta là linh mục,  cho nên cuộc vận động của ông đã  được hoàng đế xem như một đề  nghị tối quan trọng; nếu đề nghị  ấy do một người khác đưa ra thì  chắc chắn là chẵng bao giờ được  chuyễn đến tay Hoàng đế.  Dĩ nhiên là khi một giáo sĩ bình thường mà cũng tự cho mình  có tư cách đề đạt những chính  kiến lên với Hoàng đế thì tập  thể những giáo sĩ ở Việt Nam  ngại ngùng gì mà không quấy  nhiễu các ông đô đốc cầm quyền,  về bất cứ chuyện gì và bất cứ  lúc nào? Những ông đô đốc cầm quyền này  là những kẻ ngoan đạo, ai cũng  biết bắt đầu họ đã cố gắng sống  hòa hợp với những vị đồng hương  mang một sứ mệnh tinh thần cao  cả ấy. Họ cũng tranh thủ  lợi dụng các giáo sĩ để có được  những thông tin về nội bộ nước  Việt Nam, về những phong trào  này nọ, về các tài nguyên v.v... nhưng thường là những chỉ  dẫn thiếu chính xác; đã nhiều  lần, các ông đô đốc phải khẳng  định rằng các giáo sĩ không thể  làm những nhân viên do thám có  thể tin cậy được.  Trong công cuộc bình định của họ, không những các đô đốc  cầm quyền không thể dựa vào các  giáo sĩ được mà còn phàn nàn một  cách chua chát về thái độ cư xử  của họ và những khó khăn họ  thường gây ra cho các nhà chức  trách quân sự và dân sự.  Ngay từ ngày 25/12/1859, Đô đốc Page đã viết cho  Bộ trưởng Hải quân: “Những  năm đầu mới lên ngôi, vua Tự Đức  có một thái độ đối xử khá ân cần  với họ (các giáo sĩ). Nhà vua đã  ra lệnh cho các quan lại địa  phương có thái độ khoan dung,  rộng rãi với họ trong những  chuyện làm trái pháp luật, những  vụ phạm pháp nhỏ. nhưng  rồi các giáo dân, do các giáo sĩ  lãnh đạo đã ngày càng xấc xược  ngạo mạn đến mức độ họ không  thèm biết đến cả chính quyền địa  phương. Họ công khai  nổi loạn; họ tuyên bố  người Kitô giáo không thể vâng  lời những kẻ theo một tôn giáo  khác (...)“Đâu đâu cũng loạn ly. Họ (các giáo  sĩ) cưỡng ép bắt đi những em bé,  những thiếu nữ ra khỏi gia đình  để được Kitô hóa. Do những hành  động và những phản ứng ấy (tôi  tóm tắt lại trong hai từ này tất  cả những lời buộc tội)  các giáo sĩ nghiễm nhiên trở  thành người lãnh đạo, hoặc bao  che cho tất cả những cuộc nổi  loạn này: tất nhiên họ  tham gia vào tất cả những hoạt  động bí mật chống lại nhà vua,  kể cả những hoạt động khủng  khiếp nhất: sự sụp đổ của nhà  nước và của non sông đang có  nguy cơ xảy ra dưới ảnh hưởng  một tình thế như vậy. “Để giữ gìn an ninh trật tự tại Sàigòn, tôi đã phải thiết  lập một tòa thị chính. Ngạc  nhiên biết bao khi ngày hôm sau,  các giáo sĩ đã tới gặp tôi và  tuyên bố rằng giáo dân Annam  không thể tuân phục một chính  quyền ngoại đạo. Chính những  “từ” mà họ dùng.“Sao, không tuân phục, kể cả đối với  cơ quan cảnh sát của thành phố?  Nhằm ngăn chặn bọn trộm cắp lưu  manh và bọn phiêu lãng cướp bóc  thành phố hay sao?“Và tôi lấy làm xấu hổ mà phải thú  nhận với ngài Bộ trưỡng rằng  những nguyên lý ấy được các giaó  sĩ thuyết giãng công khai! “Thực tình tôi không muốn nói thêm  những chi tiết khác, do những  người nhất thời có địa vị to lớn  trong nước khẳng định với tôi.  Tôi chỉ muốn tin khi nào tôi  được đích thị chứng kiến. Ngoài  ra không một người công  giáo Việt Nam nào là không xin  được đăng ký dưới lá cờ của  chúng ta. ông vua ngoại đạo của  Nam kỳ không phải vua của họ!“Bây giờ thì ngài Bộ trưỡng đã hiểu  vì sao cả nhà vua, lẫn các quan  lại, đều coi các giáo sĩ Kitô  như những kẻ thù...”  Trong một bức thư khác đề ngày  24/7/1862 viết cho đại bản doanh  Pháp ở Sàigòn và cho ông Bộ  trưởng Bộ Hải quân, người kế  nhiệm của Page, đô đốc Bonard cũng xác nhận những  điều sai trái ấy.  ...”Chính  là từ phía các giáo sĩ mà các vụ  rắc rối nghiêm trọng nhất có thể  xảy ra nếu người ta không tự  giới hạn mình trong việc bảo đảm  che chở cho họ một cách công  bằng, và nếu người ta không dựa cớ tôn giáo để đỡ họ  trong những âm mưu chính trị lật  đổ chính phủ hiện hành, những âm  mưu, trong đó không may, nhiều  giáo sĩ đã bị lôi cuốn tham gia,  mà chẵng thấy ai từ chối!  Nâng đỡ họ trên một đường lối  như vậy sẽ là nguy hiểm, bởi vì họ sẽ trở thành những kẻ  phiến loạn thực sự, chứ không  phải những kẻ tuẫn tiết vì đạo.“Sư đánh giá tình hình trên đây của  tôi, thưa Bộ trưởng, đã được căn  cứ trên những nhận xét dưới đây:“Cuộc chiến tranh Nam kỳ, không ai  có thể phủ nhận được rằng nó đã  được gây ra do những yêu sách  của các giáo sĩ Tây Ban Nha và  Pháp phàn nàn kêu ca trước những  sự khủng bố bất côngcủa triều  đình Huế, mà đối tượng chính là  họ.“Thực ra, cách tổ chức và trạng thái  tinh thần của các vị giáo sĩ đó  như sau:“Đất Nam kỳ được chia thành nhiều  địa phận, mỗi địa phận do một  giám mục lãnh đạo. Tất cả các  giám mục đó có thể chịu – đây là  điều mà tôi không được biết – sự  lãnh đạo chung của trung tâm  truyền giáo tại Châu Âu. Nhưng  mỗi giám mục trong địa phận mình  hầu như làm gì tùy ý, và rất đối  kỵ không muốn cho một giám mục  địa phận láng giềng can thiệp,  dù trong một việc nhỏ nhoi không  đáng kể, vào nội bộ cái địa phận  mênh mông mà họ coi như  mình có  trách nhiệm phải cai trị về mặt  tinh thần. Tất cả đều ôm ấp ước  mơ sẽ trở lại thời kỳ mà bất cứ  việc gì nhất nhất đều phải thi  hành theo lời khuyên nhủ hoặc sự  cho phép của ông ta.“Để đạt được mục đích ấy, họ đã dùng  những biện pháp sau đây:“Trong bọn họ, người nào cũng thấy  các ông vua kế ngôi vua Gia Long  không tuân theo đúng nguyện vọng  của họ, nên họ đã phản đối tính  chất chính thống của các vua  trên, và tìm cách đề cử  một người khác có khả năng bảo  đảm cho họ đạt tới mục đích hơn,  nếu như người đó lật đổ được ông  vua đương vị.“Một số trong bọn họ, nhằm mục đích  chiếm ngôi, đã viện cớ rằng vua  Gia Long đã chỉ định kế ngôi  mình, không phải người con trai  đầu lòng mà là người con trai  thứ hai – như thông thường các  triều đại viễn đông vẫn làm. Các  giáo sĩ vùng Hạ Nam kỳ theo xu  hướng này. Các giáo sĩ vùng đất  của vương quốc Annam, lân cận  Huế, nằm trung gian giữa Bắc kỳ  với Nam kỳ, còn đi xa hơn nữa  trong việc phản đối tính chất  chính thống của chi nhánh hoàng  gia đang trị vì. Ngay cả Gia  Long, họ cũng coi như một kẻ  tiếm vị, và họ đã tìm một người  con cháu nhà Lê, mà các vua biến  chất thành hạng “vua lười”, đã  bị một ông thừa tướng lật đổ.“Tôi nghỉ rằng các tu sĩ dong  Dominicain Tây Ban Nha, còn hăng  hái và cực đoan hơn cả những  giáo sĩ Pháp, đều đã liên quan  với những phe đảng ấy. “Một người con cháu nhà Lê, thật  hay giả, đã được đón nhận tại  các nhà dòng Trung quốc, và sau  khi đã giày vò hành hạ anh ta  trăm đường đến mức bắt cả anh ta  làm người gác cổng của nhà dòng; các giáo sĩ cấp trên ấy  dự định dựng anh ta lên ngôi vua,  vì tin tưởng họ vẫn có một ảnh  hưởng sâu sắc đối với anh ta,  một khi họ thực hiện được dự  định. “Trong tình thế hiện nay, và dựa  trên những lời nói và việc làm  của các tầng lớp giáo sĩ Pháp  vùng Nam kỳ, họ đang cố gắng từ  bỏ những tham vọng chính trị của  họ, vì họ hy vọng rằng dưới ảnh  hưởng sự chiếm đóng và sở hữu  thuộc địa của chúng ta, tuy chưa  mang đến cho họ cái quyền uy  tuyệt đối của giám muc Adran, ít  ra cũng cho phép họ tỏ ra hài  lòng trong giai đoạn trước mắt.  Vậy, người ta có thể, bằng một  chính sách vừa mềm dẻo, vừa cứng  rắn, buộc họ phải nằm yên trong  những giới hạn hợp lý hợp tình  của cái uy tín mà họ đang mong  có được.“Các giáo sĩ vùng lân cận Huế còn  lâu mới chịu chấp nhận biện pháp  giãng hòa này. Một vài vị tán  thành một cách uể oải, nhưng đại  đa số thì qua những chuyện bất  hòa, qua hành động có chiều  hướng muốn chứng minh rằng họ  chưa khước từ những tư tưởng cực  đoan của mình. Giám mục, cùng  với một vài người cộng sự thông  minh nhất, tiếp thu lời tôi  khuyên không nên vội vàng trong  bất cứ vấn đề gì, còn ở lại Nam  kỳ và sẽ hành động khôn ngoan,  một khi họ trở lại địa phận của  họ, sau khi hòa bình đã được  củng cố vững vàng.“Nhưng, những người sôi nổi hăng hái  đều đã ra đi, tay làm  dấu thánh giá, theo sau họ là  những lũ cướp thật sự.  “Từ thái độ ấy có thể xảy ra nhiều khó khăn nếu người ta  không biết hành động một cách  thận trọng. Với tư cách là người  Pháp hoặc người công giáo, họ  chắc chắn sẽ yêu cầu được bảo  vệ, một khi họ bị dính  líu vào những mưu đồ chính trị,  bất chấp những lời khuyên bảo  chí tình chí lý của tôi.Còn những tu sĩ Dominicains người  Tây Ban Nha, thường hay ở vùng  Thượng du Bắc kỳ, họ còn khó cai  trị hơn gấp mấy lần: hăng hái và  cuồng nhiệt đến mức độ tột cùng,  một số lớn xuất thân từ những  đảng du kích và những phần tử  Carlistes (phái quân chủ chuyên  chế theo Don Carlos), đã rời bỏ  Tây Ban Nha ra đi, tự nguyện, với thanh kiếm, khẩu  súng, cùng với cây thập tự trên  tay, tham gia bằng cả tâm hồn  lẫn thể xác vào những cuộc nổi  loạn đang làm điêu đứng  xứ Bắc kỳ.(8)   Sau bức công hàm, Bonard ghi  thêm mấy lời tái bút nhấn mạnh  với ông Bộ trưởng rằng nước Pháp  sẽ chịu phải nhiều tai họa nếu  tiếp tục nâng đỡ các giáo sĩ. Và  ông chứng minh một cách hùng hồn  trách nhiệm của các giáo sĩ tại   “P.S. Tôi  vừa nhận được những thông tin  mới, và vội vàng chuyển tới cho  Bộ trưởng. Tôi trân trọng yêu  cầu ngài đặc biệt quan tâm một  cách nghiêm túc những ý kiến  đánh giá trên đây của tôi. Bởi  vì qua lời nói và việc  làm của các giáo sĩ ở Nam kỳ,  có thể thấy rõ ràng họ đang tìm  cách đưa chính phủ vào con đường  tai họa mà họ đang đeo duổi: sự  lật đổ vua Tự Đức. “Bất chấp mọi lời cảnh cáo của tôi,  mặc dù tôi đã bảo họ phải kiên  trì chờ đợi những ý kiến của  chính phủ Hoàng Đế về việc chuẩn  y hòa ước (5/6/1862) và hậu quả  của nó, họ vẫn không ngừng gởi  đi về vùng Huế những phái viên  mang nặng những ý đồ xấu xa và  tinh thần xảo trá.“Tôi đã dứt khoát từ chối không cấp  thông hành cho họ đi về ngã ấy  (Huế), cho đến lúc nào tôi nhận  được chỉ thị từ Pháp. Họ không  màng quan tâm gì đến và chắc hẳn  Ngài đã nhận được nhiều khiếu  nại của họ về vấn đề này, bởi vì  họ đi hành quân, bất chấp những  lời khuyên răn thường xuyên của  tôi, họ không giấu ý đồ của họ  và thái độ coi thường của họ đối  với các điều khoản của hiệp ước.  Đây là một mối nguy cơ tôi mà  nêu lên lại với Ngài không phải  là thừa sai bởi vì nếu không  cảnh giác trước những bản báo  cáo của các giáo sĩ đó, thì họ  sẽ không lùi trước một thủ đoạn  nào để đi tới mục đích bằng cách  lôi kéo cả chính phủ vào con  đường tai hại cho những lợi ích  chân chính của nước Pháp.”(9)  Thái độ chống đối của các vua,  các quan lại và của nhân dân  Việt Nam không nhằm vào lý tưởng  tôn giáo nào, mà nhằm vào cái ý thức bạo động và thống  trị của những kẻ phụng sự nhà  thờ Kitô giáo. Thái độ  chống đối ấy được chứng minh là  đứng đắn, do sự phá hoại chính  quyền quốc gia một cách chậm  rãi, dần dà, và sự xâm lấn lần  lần lãnh thổ Việt Nam mà chúng  ta chứng kiến và công cuộc thực  dân hóa hoàn toàn Việt Nam, của  nước Pháp. Công cuộc  truyền giáo và chủ nghĩa thực  dân đi đôi với nhau. Tại hội đồng quốc gia, phiên họp  ngày 22/5/1804, Napoleon I đã  định nghĩa vai trò của các nhà  truyền giáo trong cuộc thực dân  hóa như sau:  “Ý định  của ta là ngôi nhà các hội  truyền giáo đối ngoại phải được  thiết lập trở lại. Những tu sĩ  ấy sẽ rất có ích cho ta tại châu  Á, châu Phi và châu Mỹ. Ta sẽ gởi họ đi thăm dò  tin tức về tình hình các nước.  Chiếc áo thầy tu của họ sẽ bảo  vệ cho họ và dùng để che dấu  những ý đồ chính trị và thương  mại. Bề trên của họ sẽ  không ở La Mã nữa mà ởParis.  Giới giáo sĩ được mãn nguyện và  tán thành việc cải cách này. Ta  sẽ cấp cho họ một số tiền trợ  cấp đầu tiên là 15.000 Franc.  Người ta đã rõ sự lợi ích của  các tu sĩ dòng Lazaristes của  các hội truyền giáo trong tư cách mật vụ của phái đoàn tại Trung quốc,  Nhật Bản và cả châu Á.. Tại châu  Phi và tại Syrie nữa cũng có.  Không phải mất nhiều tiền cho  họ. Họ được dân dã man trọng  vọng, lại họ không có một cương  vị gì chính thức, nên họ không  làm ảnh hưởng gì đến chính phủ,  cũng chẵng gây cho chính phủ tai  tiếng gì bất lợi. Nhiệt tình tôn  giáo chan chứa trong lòng các  linh mục khiến họ làm được những  công việc và coi thường hiểm  nguy mà các nhân viên dân sự khó  lòng vượt nổi. Các giáo  sĩ có thể phục vụ cho những ý đồ  thực dân của ta tại Ai  Cập và trên các bờ biển của châu  Phi...” (10)    Nguyên văn tiếng Pháp:  Séance du 22 Mai 1804.   « Mon intention est que la maison des Missions étrangères soit rétablie; ces religieux me seront très-utiles en Asie, en Afrique et en Amérique; je les enverrai prendre des renseignements sur l'état du pays. Leur robe les protége et sert à couvrir des desseins politiques et commerciaux. Leur supérieur ne résidera plus à Rome, mais à Paris. Le clergé est satisfait et approuve ce changement; je leur ferai un premier fonds de quinze mille francs de rente. On sait de quelle utilité ont été les lazaristes des Missions étrangères comme agents secrets de diplomatie,en Chine, au Japon et dans toute l'Asie. Il y en a même en Afrique et dans la Syrie; ils coûtent peu , sont respectés des barbares, et n'étant revêtus d'aucun caractère officiel, ils ne peuvent compromettre le gouvernement , ni lui occasioner des avanies; le zèle religieux qui anime les prêtres leur fait entreprendre des travaux et braver des périls qui seraient au dessus des forces d'un agent civil.    « Les missionnaires pourront servir mes vues de colonisation en Egypte et sur les côtes d'Afrique. Je prévois que la France sera forcée de renoncerà ses colonies de l'Océan. Toutes celles d'Amérique deviendront , avant cinquante ans, le domaine des États-Unis; c'est cette considération qui a déterminé la cession de la Louisiane : il faut donc se ménager les moyens de former ailleurs de semblables établissements. Je veux aussi rétablir les sœurs de la charité, et que leur installation se fasse avec une grande solennité. Leur supérieure générale résidera à Paris ; toute la corporation sera ainsi sous la main du gouvernement. Je les ai fait remettre déja en possession de leurs maisons. Je crois qu'il faudra également, quoi qu'on en dise, rétablir les frères ignorantins. »   Privat Joseph Claramont Pelet, comte Pelet de la Lozère, est un homme politique français né à Saint-Jean-du-Gard (Gard) le 12 juillet 1785 et mort à Villers-Cotterêts (Aisne) le 9 février 1871.   Pelet de la Lozère a rédigé un très intéressant ouvrage à partir de notes prises durant les séances du Conseil d'Etat présidées par Napoléon Ier auxquelles il a assisté sous le titre Opinions de Napoléon sur divers sujets de politique et d'administration recueillies par un membre de son Conseil d'État (1833).  On lui doit aussi un Précis de l'histoire des États-Unis d'Amérique depuis leur colonisation (1845) et un recueil de Pensées morales et politiques (1873).  | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Còn việc các giáo sĩ can thiệp vào các vấn đề quân sự và dân sự của nước Pháp thì một bức thư của đô đốc Rigault De Genouilly, viết cho bộ trưởng Hải quân, từ Đà nẵng, ngay 29/1/1859 đã miêu tả rõ ràng:
“... Điều mà ngài Bộ trưởng khó lòng tin được là cuộc viễn chinh Sàigòn cách đây một tháng, yêu cầu bởi giám mục Pellerin, giám mục Biblos, đến đây chỉ với tư cách là một người phiên dịch, về phía vị giáo chủ ấy, ngay từ khi nó được giải quyết, đã là mục tiêu những cuộc tấn công mảnh liệt nhất, những lời đả kích sôi động nhất.“Bị linh mục Gaentza mua chuộc, linh mục bề trên của các tu sĩ Dominicains (Tổng tuyên úy các đội quân Tây Ban Nha) dĩ nhiên là người chỉ mơ ước chiếm Bắc kỳ và phất cờ Tây Ban Nha tại đó một cách đắc thắng, vị giám mục đó đã công khai giảng thuyết trong phòng ăn của các sĩ quan trên tàu biển chông lại những dự định của tổng chỉ huy quân đội, trái với ý định của ông ta và thông báo rằng tôi không biết gì về những ý đồ của chính phủ, rằng ông ta là người được chính phủ gởi gắm tâm tư, và rằng tôi phải chịu trách nhiệm về hạnh kiễm của tôi.“Tình thế căng thẳng đến mức độ suýt nữa tôi đã cho bắt giám mục Pellerin dẫn sang Hồng Kông. Tuy nhiên trước khi quyết định một sự việc tai tiếng rất bất lợi cho một cuộc viễn chinh, mà mục đích chủ yếu là tôn giáo, và sẽ gây một tiếng vang lớn tại Pháp như vậy, tôi đã cố gắng thông qua các giáo sĩ đồng nghiệp của ông và qua linh mục Pelletier, tuyên úy trung đoàn, là người có một ảnh hưởng nhất định đối với giám mục Pellerin, thuyết phục cho ông ta nhận ra rằng ông đã có thái độ không ai chịu nổi, và điều tốt nhất cho ông ta lúc này là qua Hồng Kông.“...Tin giám mục Pellerin sắp đi đã xoa dịu được những lời đả kích của đại tá Lanzarote (chỉ huy đội quân Tây Ban Nha). Và cũng có lý do để nghỉ rằng những đội quân viễn chinh ấy bị kích động do tinh thần năng động và trầm tư của linh mục Gaentza là người trong thực tế đã chi phối giám mục Pellerin, hơn là chịu giám mục Pellerin chi phối.“Ngài Bộ trưởng đã thấy rõ những khó khăn nhiều mặt mà tôi đang vấp phải trong công tác của mình.”(11)
Cả người Tây Ban Nha cũng đã bao nhiêu lần phàn nàn những hành động quá khích của các giáo sĩ. Chính Palance, khi thông báo việc ký kết hiệp ước 1862 cho chính phủ, đã viết về các giáo sĩ như sau:
“...Hiệp ước thỏa thuận rằng người ta không được bắt buộc ai phải theo đạo.“Đôi khi một hành vi nhiệt tâm có thể đẩy người ta vượt qua giới hạn của sự vừa phải và dẫn đến những hậu quả tai hại, làm cớ cho chính phủ Annam thực hiện các biện pháp quyết liệt. Các giáo sĩ Nam kỳ được coi như là những kẻ xúi giục dân nổi loạn, và như những tên mật vụ chính trị của một triều đại nào đó, đang tìm cách làm sụp đổ triều đại hiện đang thống trị, và như một mối đe dọa đối với an ninh trật tự chung... Một vài giáo sĩ và giám mục Nam kỳ có ý đòi hỏi những quyền được miễn sai dịch và các đặc lợi đặc quyền quá đáng cho bản thân họ và cho cả giáo dân; để đạt những yêu sách trong đó lợi ích chính trị lẫn lộn lợi ích tôn giáo...”(12)
Những tư liệu chúng tôi vừa dẫn đã được chọn lọc từ bao nhiêu tư liệu khác, bởi vì những tư liệu này không thể để cho ai nghi ngờ rằng mang nặng những thành kiến hoặc khuynh hướng chống lại tôn giáo. Tự nó nói lên sự thật một cách hùng hồn.
Các đô đốc Pháp thời đó chắc phải có những tình cảm buộc một chính phủ và những nhà vua thấm nhuần tư tưởng Kitô giáo phải chấp nhận những tư liệu trên đây: mỗi lần báo cáo là họ báo cáo với ông bộ trưởng cấp trên trực tiếp của họ bằng những lời lẽ cụ thể, rõ ràng sự bất đồng tình của họ đối với các giáo sĩ nói trên.
Hầu như không ai có thể tưởng tượng được ràng một đại tá quân đội của “Đức Vua ngoan đạo”, mà sau này sẽ được phong thống chế, tức là được sự tín nhiệm hoàn toàn của triều đình, dù có dùng lời lẽ khôn khéo đến bao nhiêu đi nữa khi đề cập tới vấn đề mà ông ta muốn phê phán, trong một bức công hàm, lại dám đưa ra những lời phê phán đối với các linh mục Tây Ban Nha bao giờ!
Lâu nay, khi nói về các giáo sĩ ấy ở Việt Nam, phần lớn các nhà sử học và các nhà văn chương Tây đều đã giới thiệu họ như nạn nhân những cơn thịnh nộ khủng khiếp của các vua, quan. Theo họ, nhiều giáo sĩ đã ngã xuống như những vị “thánh tử vì đạo.” Người ta không muốn nói lên đúng sự thật; không một ai muốn tiết lộ những điều sai trái mà các giáo sĩ đã làm và những lý do thực mà tòa án Việt Nam thời đó đã kết tội họ một cách rất phải lẽ.
Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và chính phủ của họ đã không lầm khi họ có cùng một ý nghĩ như Lamartine (nhà thơ Pháp đứng đầu chính phủ lâm thời của Pháp năm 1848 – LND) tuyên bố ngày 3/8/1844:
“Trong tư tưởng của tôi, tôi thấy sự phồn vinh của tất cả mọi loại Hội tôn giáo đều tai hại, nguy hiểm và gây sạt nghiệp cho quốc gia va gia đình.”
Họ có lý, khi họ cũng kết luận, giống Guizot (nhà sử học và nhà hoạt động chính trị Pháp): “Quốc gia phải mang tính chất thế tục,” hoặc với Cavour (nhà hoạt động chính trị Ý – thế kỷ XIX): “Quốc gia phải thật sự tự do.” Đó là biện pháp duy nhất hiệu nghiệm để tiến lên giải phóng dân tộc Việt Nam.
_____________________________________
CHÚ THÍCH:
(6) F. Chesneaux. “Contribution à l’histoire de la nation vietnamienne”, Paris, 1955. trang 115.
(7), (8), (9) “Hồi ký và tư liệu Á châu” (Mémores et documents Asie), quyển 27, trang 426-434, và quyển 28, trang 85-88. (Tài liệu chưa xuất bản).
(10) “Opinions de Napoléon”, Bá tước Pelet, Paris, 1833.
(11) Lưu trữ quốc gia, Paris, loại BB, quyển 769.
(12) Tài liệu ngoại giao Tây Ban Nha, Madrid.
Trích dịch từ trang 84 đến 96 của tác phẩm Les Debuts de l’Installation du Système Colonial Francais au Viet Nam (1858 – 1897) của Nguyễn Xuân Thọ, xuất bản năm 1995.
Nhận định về tác phẩm nầy:
GS Hoàng Xuân Hãn (Paris 26/12/91):“Sự sụp đổ của Điện Biên Phủ, ngày 7 tháng 5 năm 1954, giữa tiếng nổ vang tan tành của các loại vũ khí, loan báo cho thế giới biết răng xứ sở nhỏ bé này mới vừa tự giãi thoát, trong máu đào, khỏi ách thống trị của thực dân, áp đặt trên toàn dân, từ gần một thế kỷ nay (1858-1954).“Bằng cách đưa vào cuốn sách này những văn kiện ngoại giao, mà phần lớn chưa được tiết lộ, tác giả cố gắng góp phần vào sự xác định một số giai đoạn của lịch sử những buổi đầu trong sự thiết lập hệ thống thuộc địa Pháp ở Việt Nam.“Công tác rất có giá trị...“Bản thảo này quả là độc đáo, hơn hết các công trình nghiên cứu của các sử gia khác.”
Maurice Beaumont, thành viên Hàn Lâm Viện Pháp, Giáo sư danh dự Đại học Sorbonne (Ngày 15/11/1966)“Về phương diện trí thức, ông [Nguyễn Xuân Thọ] đã bắt đầu sưu tập ở Pháp và ở Tây Ban Nha (cũng gọi là Y Pha Nho), tư liệu cho một luận án Tiến sĩ, mà ông đã thuyết trình và bảo vệ tại Đại học Sorbonne, vào tháng 7 năm 1956, về "Cuộc viễn chinh Pháp – Tây Ban Nha tại Nam bộ Việt Nam (mà người Pháp gọi là Cochichine) nam 1858-1862". Cuộc sưu tập ấy đã tỏ cho thấy như công trình của một sử gia đủ tư cách, cả về mặt chính xác của phương pháp, lẫn về mặt tao nhã của hình thức (cách trình bày). Lúc ấy, tôi là một thành viên trong ban khảo thí, có trách nhiệm sát hạch và đánh giá luận án đó, luận án đã được xếp hạng "Très Honorable" (Tối Ưu).“Và ông Thọ đã tiếp tục công trình của ông, bằng cuộc nghiên cứu này, về sự thâm nhập của người Pháp vào Việt Nam (1858-1897). Công trình này, trong đó, ông Nguyễn Xuân Thọ đã dành một phần lớn cho các tài liệu chính thức, phần nhiều là chưa được tiết lộ, giúp chúng ta hiểu rõ hơn, một số giai đoạn trong lịch sử những liên hệ giữa Pháp và Việt Nam vào thế kỷ vừa qua. Đồng thời, công trình này cũng soi sáng chúng ta về tấn thảm kịch đang chia cắt mảnh đất đau khổ này của Á Châu, trên cả hai bình diện chính trị và tôn giáo.”
| Đó đây | 
|  2025-10-29 - Phái đoàn BT BCTr Mỹ sắp thăm VN-Mã-Hàn-Nhật an ninh hàng hải Biển Đông-Tt HQ Hùng Cao - 2025-10-24 - Bức Tượng Bán Nước Từng Dựng Trước Nhà Thờ Đức Bà SG - 2025-10-22 - Bolsa bem nhau!NNL: Hậu duệ VNCH THUA hậu M ôn CS! VNCH là tay sai! Ăn bám Mỹ! Trốn lính ?Chửi om ! - 2025-10-19 - Hơn 2.500 cuộc biểu tình phản đối  TT Donald Trump được lên kế hoạch vào thứ Bảy 18/10/2025  - trên tất cả 50 tiểu bang trong vòng thứ hai của cuộc biểu tình "No Kings", nhằm mục đích bác bỏ rộng rãi những gì mà ban tổ chức mô tả là chương trình nghị sự "độc đoán" của Trump.
 2025-10-19 - Hàng triệu người biểu tình phản đối Trump tại các cuộc biểu tình "Không có Vua" trên khắp nước Mỹ,   - những người tổ chức cho biết. Đây là lý do tại sao những người biểu tình nói rằng họ đã tham dự.
 2025-10-19 - Biểu tình phản đối Trump "No Kings" trên khắp nước Mỹ  - Các đợt huy động quần chúng biểu tình "No KIngs", lần thứ ba kể từ khi Trump trở lại Nhà Trắng, diễn ra trong bối cảnh chính phủ đóng cửa.
 2025-10-17 - Toang! Bolsa rung lắc … 1 vụ lùa gà lớn nhất! Ba que xỏ lá đi lừa đảo 1400 gia đình VN - 2025-10-17 - Khí thế cách mạng rực cháy trong tim. - Xin thành thật chia buồn cùng gia quyến, nhà văn Doãn Quốc Sỹ mất ngày 16-10-2025, hưởng thọ 103 tuổi. ---------------- Gia đình ông là một cơ sở cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương tại làng Cót, do đồng chí Vũ Oanh phụ trách. Bố ông là Doãn Hưu, nhiệt tình ủng hộ cách mạng nên căn nhà riêng từng là nơi tổ chức nhiều cuộc họp bí mật. Người anh Doãn Quốc Sỹ của ông cũng là đoàn viên Đoàn Thanh niên cứu quốc thành Hoàng Diệu. 2025-10-13 - Sốc! Cựu VNCH cương ẩu, quơ tay, tấn-công võ mồm Cảnh Sát Mỹ. CS Mỹ đế võ thật Tiễn-Vong ! - Ông Vũ Thanh Lịch, sinh 1953 gốc Bùi Chu Phát Diệm. Sang Mỹ 1975. Ngày 27 tháng 10, 2024, nhiều lần vi phạm luật giao thông, đôi co chống lại Cảnh sát khi được mời ra tòa. Và cái kết... 2025-10-11 - Một giám mục có 17 người tình bí mật, bị vạch trần sau khi ông vô tình gửi ảnh cho người dọn dẹp.  - Ciro Quispe López, 51 tuổi là giám mục ở Juli, Peru (Nam Mỹ) hiện đã nộp đơn từ chức lên Đức Giáo hoàng Leo. Vatican đã phỏng vấn ba người tình và người giúp việc của ông.
 
 | 
Trang Sách Hiếm
| ©2012 |