LTS: Sự kiện ở Tòa Khâm sứ và gíáo xứ Thái Hà đổ ra tràn khắp các đường xá cầu nguyện, bày ảnh tượng, làm lễ, rước kiệu, loa phóng thanh,... từ cuối năm 2007 đến nay, làm cho người ta thăc mắc về kỷ luật ở Việt Nam. Những việc trái phép như thế đã xảy ra rất nhiều ngày trước khi có sự can thiệp của chính quyền. Ở xứ Mỹ từ 30 năm qua, người ta không có một đoàn thể nào có thể ngang nhiên làm như thế. Nhưng có phải tất cả người công giáo ở Việt Nam đều "tệ" như thế hay không? Xin mời đọc giả nghe qua bài viết sau đây từ trang nhà Quân Đội Nhân Dân để còn một chút hy vọng nơi Ca tô giáo.
Thực tế lịch sử đã
chứng minh những đóng góp tích cực của đồng bào các tôn giáo vào
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Để tiếp tục phát huy vai
trò của đồng bào tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán quan điểm tôn trọng tự
do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
Với hơn 20 triệu tín đồ theo các tôn giáo
khác nhau, Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo.
Từ bao đời nay, các tín ngưỡng, tôn giáo trong đó có đồng bào
theo đạo Thiên chúa ở Việt Nam luôn chung sống hòa hợp, đoàn
kết, gắn bó đồng hành cùng dân tộc. Tín ngưỡng truyền thống của
nhân dân Việt Nam là thờ cúng tổ tiên, thờ những vị có công lao
đóng góp xây dựng quê hương, đất nước... Ngoài ra, một bộ phận
không nhỏ nhân dân còn là tín đồ của các tôn giáo. Nhu cầu tâm
linh ấy của nhân dân luôn luôn được Đảng, Nhà nước Việt Nam tôn
trọng, coi đó là chủ trương, chính sách nhất quán trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng. Nhưng như thế không có nghĩa là chúng
ta chấp nhận cả những tôn giáo, những tín đồ không vì lợi ích
quốc gia, dân tộc, đi ngược lại truyền thống Việt Nam.
|
Công dân vùng đồng bào công giáo huyện Trực
Ninh, tỉnh Nam Định nô nức lên đường làm nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc đợt 2 năm 2008. (Ảnh: Anh Thu) |
Cơ sở, căn cứ để xây dựng hệ thống chính sách tôn giáo của Đảng,
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo, đặc điểm tôn giáo và
tình hình thực tiễn của cách mạng. Tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân
tộc, đó là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta.
Ngay từ khi mới ra đời, trong chỉ thị của Thường vụ Trung ương
về vấn đề thành lập Hội Phản đế Đồng minh (tháng 11-1930) Đảng
ta đã có tuyên bố về việc tôn trọng tự do tín ngưỡng của quần
chúng. Chỉ thị nêu rõ:
"... phải lãnh đạo từng tập thể sinh
hoạt hay tập đoàn của nhân dân gia nhập một tổ chức cách mạng,
để dần dần cách mạng hóa quần chúng và lại đảm bảo tự do tính
tín ngưỡng của quần chúng...". Trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng ta luôn luôn có quan điểm rõ ràng về tín ngưỡng,
tôn giáo theo lịch sử phát triển của dân tộc thể hiện ở nhiều
nghị quyết, chỉ thị... Báo cáo chính trị tại Đại hội toàn quốc
lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã khẳng định:
"Tín ngưỡng,
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và
Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng
của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa
các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân
biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành vi lợi dụng
tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn kết dân tộc, chống phá
CNXH, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân". Trong nghị
quyết hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX,
Đảng ta cũng chỉ rõ:
"Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh
thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc
trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta". Đặc biệt ngày
18-6-2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo. Sự ra đời của Pháp lệnh thêm một minh chứng
khẳng định, tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo là nguyên tắc
nhất quán trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Như vậy, có thể thấy về vấn đề tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta thể
hiện rõ quan điểm, đó là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân và đây là vấn đề còn tồn tại lâu dài trong quá trình phát
triển, đi lên của đất nước. Đảng, Nhà nước ta cũng chỉ rõ, cần
phải tôn trọng nhu cầu tinh thần, đồng thời tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Cách mạng XHCN
là sự nghiệp vĩ đại nhằm giải phóng quần chúng nhân dân thoát
khỏi mọi áp bức, nô dịch cả về vật chất và tinh thần. Bởi vậy
Đảng, Nhà nước ta xác định, trên cơ sở chính sách chung phải
thường xuyên quan tâm đến đời sống vật chất của đồng bào các tôn
giáo. Sự quan tâm ấy phải được thể hiện cả ở phần đời và phần
đạo.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp đổi mới
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng bào tôn giáo đã có những đóng
góp tích cực. Hầu hết các tổ chức tôn giáo đã xây dựng đường
hướng hành đạo, hoạt động theo đúng hiến pháp và pháp luật. Các
tôn giáo được Nhà nước công nhận đã hành đạo gắn bó với dân tộc,
tập hợp đông đảo tín đồ trong khối đại đoàn kết toàn dân, xây
dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo. Thực tiễn lịch sử đã chứng
minh, đồng bào theo tôn giáo ở Việt Nam rất giàu lòng yêu nước
thương nòi; đồng bào tôn giáo luôn gắn bó, đoàn kết với đồng bào
không tôn giáo phấn đấu vì lợi ích chung của dân tộc, của cách
mạng. Đại bộ phận các tín đồ tôn giáo là nông dân, nhân dân lao
động. Mong muốn của đồng bào là xóa bỏ áp bức, bất công xây dựng
một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Điều mong muốn của đồng
bào có đạo cũng là mục tiêu lý tưởng của sự nghiệp cách mạng do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Bởi vậy, trong suốt quá trình
lịch sử của đất nước, đồng bào tôn giáo đã có những đóng góp
xứng đáng cả về sức người, sức của. Nhiều tín đồ, chức sắc tôn
giáo đã hy sinh anh dũng, đổ mồ hôi, xương máu cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội, đẩy lui đói
nghèo, lạc hậu và bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền của Tổ
quốc.
Đồng bào tôn giáo là một bộ phận trong đại
gia đình các dân tộc Việt Nam, là một bộ phận của khối đại đoàn
kết toàn dân. Với phương châm "tốt đời, đẹp đạo" những năm qua,
dưới sự lãnh đạo của Đảng các tôn giáo đã luôn cố kết với dân
tộc tạo nên sức mạnh tổng hợp để đẩy lùi giặc ngoại xâm, chiến
thắng giặc đói nghèo, lạc hậu. Những năm gần đây, do ngày càng
nhận thức sâu sắc về lợi ích của quốc gia dân tộc, của công cuộc
đổi mới nên trách nhiệm của đồng bào có đạo ngày càng được nâng
cao, đồng thời ý thức và tình cảm tôn giáo trong số đông đồng
bào ngày càng phát triển. Có thể nói đồng bào theo các tôn giáo
khác nhau và đồng bào không theo tôn giáo luôn đồng lòng trong
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng bào các tôn giáo đã và đang
nỗ lực cùng với nhân dân cả nước ra sức xây dựng phát triển kinh
tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh góp phần tích cực thực
hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu - nước mạnh - xã hội công bằng
- dân chủ -văn minh. Song song với tôn trọng tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng tỏ rõ quan điểm, thái
độ đối với những suy nghĩ và hành động không đúng về tôn giáo.
Nhà nước ta nghiêm cấm việc kỳ thị hoặc xúc phạm người có tín
ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời cũng nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng
tôn giáo để làm trái pháp luật gây ảnh hưởng đến an ninh quốc
gia, đến trật tự công cộng, ảnh hưởng đến sự nghiệp đại đoàn kết
dân tộc, xâm hại tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của
công dân hoặc trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo không chỉ được khẳng định ở luật pháp hay các
chỉ thị, nghị quyết mà còn được thể hiện sinh động trong cuộc
sống. Hàng chục tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận tư
cách pháp nhân. Cả nước có hàng chục nghìn chức sắc, nhà tu hành
và hàng vạn người hoạt động bán chuyên nghiệp của các tổ chức
tôn giáo. Việc đào tạo các chức sắc của các tôn giáo tiếp tục
được Đảng, Nhà nước ta quan tâm. Đặc biệt Giáo hội Phật giáo
Việt Nam hiện có ba Học viện Phật giáo với hơn 1.000 tăng ni
sinh, 30 trường trung cấp Phật học và 4 trường cao đẳng Phật học
với hơn 4.000 tăng ni sinh theo học. Giáo hội công giáo có 6 Đại
chủng viện với hơn 1.000 chủng sinh và gần 2.000 chủng sinh dự
bị. Các tôn giáo ở Việt Nam hiện có hàng trăm người đang theo
học thạc sĩ, tiến sĩ ở các nước trên thế giới. Cả nước hiện có
hơn 22.000 cơ sở thờ tự, trong đó có nhiều cơ sở đã được xây
dựng mới, xây dựng lại khang trang, đẹp đẽ và được pháp luật bảo
hộ... Đảng, chính quyền các cấp luôn quan tâm giải quyết các nhu
cầu sinh hoạt tôn giáo chính đáng của các giáo phận. Điển hình
phải kể tới là việc chính quyền tỉnh Lâm Đồng đã cấp mới cho Tòa
Giám mục Đà Lạt 13.000m2 đất; chính quyền tỉnh Quảng
Trị cấp cho Tòa Giám mục Huế hơn 20 héc-ta đất để xây dựng Trung
tâm Thánh mẫu La Vang; Chính quyền tỉnh Thái Bình cấp 2.100m2
đất cho Tòa Giám mục Thái Bình xây dựng Chủng viện... Trái với
những gì mà các thế lực thù địch đã bóp méo, xuyên tạc, thực
tiễn đã chứng minh hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đã và đang
diễn ra bình thường ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam. Thực tế đó
càng minh chứng hùng hồn, bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo là
nguyên tắc nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
QUỐC AN