 24.7.2008
Như Hạnh
Quan điểm của Phật giáo về phụ nữ (Tặng Lê Thị Thấm Vân)
Bình đẳng giới tính (sexual equality)
và nữ quyền thuộc về những vấn đề quan trọng
nhất của thời đại mới. Trong đa số các nền văn
hoá (không cứ là văn hoá Đông phương) giới chịu
các bất công trong những bất bình đẳng về giới
tính thường tranh đấu cho nữ quyền.
Bình đẳng về giới tính một cách tổng quát xoay
chung quanh các vấn đề chính mà tôn giáo cũng có
ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp như: khái niệm
về đàn ông và đàn bà và khả năng tâm linh của
họ; quyền được học hỏi và thực hành các giáo lý;
cơ hội về các vai trò trong tổ chức; địa vị, sự
kính trọng, và quyền hành trong gia đình; bình
đẳng trong các vấn đề luật pháp như ly dị; quyền
được hưởng những phương tiện giáo dục; quyền
được theo đuổi nghề nghiệp; quyền lợi chính trị,
vân vân.
Như đã đề cập, khái niệm của tôn giáo về bản
tính của người đàn ông và nhất là đàn bà có rất
nhiều ảnh hưởng đối với tình trạng hiện thực của
người phụ nữ trong đời sống tôn giáo và xã hội.
Ngày nay, vì ưu thế của văn minh Tây phương, đa
số mọi người (kể cả người Đông phương) nuôi
dưỡng những thái độ rất nông cạn về văn hoá và
tôn giáo Đông phương. Một trong những thái độ
này là tôn giáo và văn hoá Đông phương “đè nén”
phụ nữ. Văn hoá và tôn giáo Tây phương trái lại
chấp nhận bình đẳng giới tính.
Thật ra thì “đè nén” phụ nữ hầu như là một đặc
tính chung của văn hoá nhân loại. Cũng đúng thật
phong trào nữ quyền là một hiện tượng mới và bắt
nguồn ở Tây phương. Điều này chứng tỏ rằng những
hạt giống bình đẳng giới tính cũng có hiện diện
trong văn hoá tôn giáo và trong tâm thức của
người phụ nữ. Nhưng các điều kiện thuận tiện cho
tranh đấu nữ quyền phát triển ở Tây phương nhờ ở
các thay đổi về mặt trí thức, kinh tế, chính
trị, xã hội. Những ai theo dõi vấn đề này đều
nhận thấy rằng tranh đấu nữ quyền hiện nay không
còn là một hiện tượng thuần tuý Tây phương nữa.
Những người phụ nữ tự giác (self-conscious)
ở khắp các nền văn hoá đã bắt đầu đóng góp đáng
kể cho việc xác nhận quyền lợi, phẩm tính, và
vai trò tích cực/lãnh đạo của người phụ nữ trong
đủ mọi phương diện của đời sống.
Bài viết ngắn này nhắm trình bày một cách tổng
quan những thái độ căn bản của truyền thống Phật
giáo có liên quan đến các vấn đề then chốt về
bình đẳng giới tính và nữ quyền như đã nêu ra ở
trên. Phật giáo có một lịch sử lâu dài hơn hai
ngàn năm trăm năm và trải rộng ra trong nhiều
nền văn hoá khác nhau, cho nên lập trường của
Phật giáo về bất cứ một vấn đề gì cũng hết sức
đa dạng. Nói cách khác, quan điểm và thái độ của
người Phật tử còn chịu cả ảnh hưởng của các nền
văn hoá/tôn giáo trong các quốc gia mà Phật giáo
có mặt như Ấn giáo, Nho giáo, Thiên chúa giáo,
vân vân.
Đức Phật thuyết giảng suốt gần nửa thế kỷ. Giáo
lý của ngài bao gồm các vấn đề từ triết lý, vũ
trụ quan, tâm lý học, nhận thức luận, chính trị,
xã hội, kinh tế, đạo đức, bình đẳng giới tính vô
cùng sâu rộng, vượt qua trí tưởng tượng của một
Phật tử Việt Nam bình thường. Để có thể đóng góp
một cách thiết thực cho nhân loại, để biến cộng
đồng Phật giáo thành một cộng đồng khả kính,
người Phật tử phải có nhiệm vụ tìm hiểu, suy
niệm về các khía cạnh phong phú của Phật Pháp
cũng như tạo điều kiện và phương tiện để thực
hiện những lời dạy của Đức Phật trong đời sống.
Phật giáo không phải chỉ là cúng kiếng cầu phước
lễ bái. Thái độ ù lì, thụ động, và giáo điều là
những gì hoàn toàn tương phản với Phật giáo.
Xin trở lại với vấn đề phụ nữ. Sự hiện diện và
đóng góp của giới phụ nữ trong cộng đồng Phật
giáo Việt Nam là điều rất hiển nhiên. Trong các
sinh hoạt tôn giáo, chúng ta thường thấy sự hiện
diện của phụ nữ đông đảo hơn nam giới. Rủi thay,
đây lại là một lý do để một số người hạ thấp
Phật giáo. Rất nhiều người nói rằng “đến chùa
chán lắm, toàn là đàn bà”. Đây là một câu nói
sặc mùi kỳ thị giới tính (sexist) cũng
như hoàn toàn vô nghĩa lý. Thứ nhất, không bao
giờ nghe ai nói “đến chùa chán lắm toàn là đàn
ông”. Thứ nhì, phẩm chất của một tôn giáo tuỳ
thuộc khả năng và đức độ của giới lãnh đạo cùng
với trình độ hiểu biết và cách hành xử của các
tín đồ của tôn giáo ấy. Phẩm chất của một tôn
giáo tuyệt nhiên không phải chỉ được qui định
bởi sự tham gia của giới tính. Cũng tựa như giá
trị của một trường đại học là ở nơi tài nguyên,
thư viện, trường sở, khả năng của ban giảng
huấn, và trình độ của sinh viên. Không có bằng
cớ khách quan nào chứng minh rằng một trường đại
học có nhiều nữ sinh hơn nam sinh là một trường
có phẩm chất kém và ngược lại.
Nói chung, hiện nay sự hiện diện của phụ nữ
trong các cộng đồng Phật giáo khắp thế giới rất
là hiển nhiên. Những phụ nữ này không chỉ tham
gia với tư cách là những tín đồ hay thí chủ mà
còn là các tu sĩ và thầy dạy. Nhưng kinh điển và
truyền thống Phật giáo mô tả người phụ nữ ra
sao? Trong lúc mà hầu hết các tôn giáo bị xem là
có tính cách phụ hệ (patriarchal), lập
trường của Phật giáo như thế nào? Giáo lý Phật
giáo có thể đóng góp những gì cho sự bình đẳng
giới tính, cho nữ quyền?
Phụ nữ trong Ấn giáo thời cổ
Phật giáo khởi thuỷ trong bối cảnh văn hoá Ấn
giáo. Trên mặt tư tưởng, Phật giáo chia sẻ với
Ấn giáo một số khái niệm nền tảng tuy rằng Đức
Phật đưa ra những lối giải thích khác. Điểm dị
biệt chính là ở chỗ Đức Phật không chấp nhận
những cơ chế nghi lễ căn bản của Ấn giáo đặt
trên nền tảng của hệ thống giai cấp. Điều này
cũng đóng góp cho quan điểm của Đức Phật về nhân
phẩm và vị trí của người phụ nữ. Do đó, muốn
hiểu thái độ của Đức Phật về vai trò của người
phụ nữ, chúng ta cần có một khái niệm căn bản về
vai trò của người phụ nữ trong Ấn giáo.
Ấn giáo cổ thời dựa trên kinh Veda
(khoảng 2000-1500 trước Công nguyên) là một thế
giới quan nhấn mạnh về nghi lễ tế tự. Theo tư
liệu có được, chúng ta biết rằng trong các thần
linh được thờ phượng có một số nữ thần; và trong
số các tác giả của những thánh thi có một số là
phụ nữ. Phụ nữ tương đối được kính trọng và được
quyền tham dự vào đời sống tâm linh. Nhưng bởi
vì Ấn giáo cổ thời nhấn mạnh vào nghi lễ và tín
niệm rằng nghi lễ là bí quyết kiểm soát vũ trụ,
cho nên dần dà (vào khoảng từ 1000-700 trước
Công nguyên) xuất hiện những kinh văn với những
chỉ dẫn phức tạp về việc thực hành nghi lễ.
Sự đào luyện các chuyên viên về nghi lễ càng trở
nên cần thiết. Chương trình đào luyện này đòi
hỏi nhiều thời gian và ở những trung tâm xa nhà
với các chuyên gia, cho nên chỉ đàn ông trong
giai cấp tu sĩ mới được hưởng đặc quyền này. Một
trong các nghi lễ quan trọng nhất của Ấn giáo là
tang lễ. Con trai được xem là thiết yếu trong
việc thi hành tang lễ để giúp vong linh người
cha đạt được cõi trời. Chính vì thế mà nảy sinh
ra các nghi lễ để ngăn chặn việc sinh con gái,
bởi vì con gái bị xem như gánh nặng cho gia đình
cho đến khi đi lấy chồng – nhiệm vụ chính yếu
của người phụ nữ. Vai trò của người phụ nữ là
làm vợ và sinh đẻ (làm mẹ). Người vợ phải hoàn
toàn phục tùng chồng và cha mẹ chồng. Mặc dù
trong các kinh Upanisads (khoảng
700-200 trước Công nguyên), các kinh thư nhấn
mạnh kinh nghiệm huyền bí (mystical) và
khổ hạnh, chúng ta thấy có đề cập đến một vài
phụ nữ khổ tu, thế nhưng khổ tu vẫn được xem là
đặc quyền của nam giới. Một tâm lý thường tình
là các nhà khổ hạnh (hầu như của tất cả mọi tôn
giáo) đều xem phụ nữ là những “cám dỗ” cần tránh
xa.
Đến khi Phật giáo và Kỳ-na Giáo (Jainism)
xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ năm trước Công
nguyên, như một thành phần của nỗ lực củng cố cơ
chế Ấn giáo, các tu sĩ Ấn giáo bắt đầu soạn thảo
ra các kinh thư (được gọi chung là
dharmasastras, đại khái là các sách về qui
luật tôn giáo) qui định đời sống xã hội dựa trên
các phép tắc mà họ soạn ra. Do đó, địa vị của
phụ nữ càng bị thấp đi. Theo những kinh thư kia,
nhất là các bộ có ảnh hưởng nhất xuất hiện vào
khoảng 100 năm trước Công nguyên, phụ nữ không
được phép đọc kinh Veda, không được thi
hành nghi lễ hay tế tự ngoại trừ với tư cách phụ
trợ cho đàn ông.
Nếu bảo rằng những kinh thư này (hay là Ấn giáo
nói chung) chỉ toàn đưa ra những quan điểm tiêu
cực có tính cách kỳ thị phụ nữ thì cũng không
công bình lắm. (Bởi vì suốt lịch sử Ấn giáo, cho
đến hiện nay, lúc nào cũng có sự hiện diện của
các nữ thần và các thầy dạy đạo (guru)
phái nữ được các tín đồ thuộc cả nam lẫn nữ giới
tôn sùng). Một cách hết sức vắn tắt, các kinh
thư này hàm chứa những quan điểm đa dạng về phụ
nữ. Chẳng hạn, cũng có nhiều đoạn nhấn mạnh về
tầm quan trọng của nghi lễ không thể được thi
hành hoàn hảo nếu không có sự trợ giúp của người
vợ, vân vân. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận
định rằng theo quan điểm chung của các kinh thư
này thì địa vị của người phụ nữ vẫn hoàn toàn
dưới nam giới. Đại khái là người phụ nữ luôn
luôn cần được cha, chồng, hay con trưởng “bảo
vệ”. Không bao giờ nên để cho người phụ nữ được
độc lập. (Ở đây chúng ta không khỏi liên tưởng
đến quan niệm “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phu tử tòng tử” của nhà Nho). Nói tóm, các
nhiệm vụ của người phụ nữ chỉ là phục dịch chồng
và chăm sóc nhà cửa. Người phụ nữ phải luôn luôn
vâng lời và kính trọng chồng dù là người chồng
bê tha hoang đàng. Người đàn ông có quyền ly dị
vợ, người phụ nữ lại không hề được phép ly dị
chồng. (Đức Phật, trái lại, luôn luôn nhấn mạnh
sự hỗ tương. Người vợ có bổn phận đối với chồng.
Người chồng cũng có những bổn phận tương đương
đối với vợ).
Thái độ của Phật giáo
Lúc Phật giáo xuất hiện thì khái niệm nghiệp
(karma) đã mang những tầng lớp ý nghĩa đa
dạng và sâu đậm hơn là ý nghĩa “hành động nghi
lễ” trong Ấn giáo thời cổ. Một trong ý nghĩa của
khái niệm “nghiệp” mà Phật giáo nhấn mạnh là
trách nhiệm cá nhân của con người về hành động
của mình. Nói tóm, theo quan điểm của Phật giáo
thì định mệnh của một người sau khi chết (hay
trong kiếp sau) là do nơi “nghiệp” (có nghĩa là
các hành động có ý chí và các hậu quả
của các hành động này, tức là nghiệp riêng) của
người ấy cùng với sự trợ lực của các “nghiệp” có
tương quan với những người khác (tức là nghiệp
chung), chứ không giản dị được qui định bởi sự
thực hành tang lễ đặc biệt dựa trên vai trò của
con trai trưởng như trong Ấn giáo thời cổ. Có lẽ
phần nào vì quan điểm này (biểu lộ đa dạng trong
các nền văn hoá khác nhau), cùng với các dữ kiện
kinh tế, xã hội, cho nên đến tận ngày hôm nay đa
số người ta vẫn vui mừng khi sinh con trai hơn
là con gái, hay là cảm thấy chưa trọn vẹn nếu
chưa có con trai.
Từ quan điểm của Phật giáo, nhu cầu phải có con
trai ít ra không còn là một thiết yếu nghi lễ
nữa. (Do đó, chúng ta nên lưu ý rằng trong các
quốc gia mà phần đông dân số theo Phật giáo,
chẳng hạn như Việt Nam, tinh thần trọng con trai
hơn con gái có thể được giải thích như sau: một
là vì nhu yếu chung của các xã hội nông nghiệp,
cần con trai để có nhiều bắp thịt cày bừa. Hai
là ảnh hưởng của Nho giáo, một thế giới quan
chúa trọng nam khinh nữ. Người đàn bà vì lý do
gì không biết không sinh được con trai bị xem là
một món hàng khiếm khuyết, cũng là cái cớ để ông
chồng mừng rỡ đi lấy vợ khác “kiếm đứa con
trai”. Cái thái độ “phải có con trai” này tuyệt
nhiên không quan hệ gì với thế giới quan Phật
giáo cả). Một ví dụ cụ thể trong kinh Phật là
khi vua Pasenadi buồn vì vợ ông là hoàng hậu
Mallika – người sau này dẫn dắt chồng vào Phật
giáo – sinh con gái, Đức Phật đã trách nhà vua
rằng buồn phiền vì vợ sinh con gái là một thái
độ hết sức sai lầm, bởi vì một người con gái có
trí tuệ và đức hạnh không những không kém mà còn
ưu việt hơn con trai.
Nói tóm lại, với sự xuất hiện của Phật giáo,
người phụ nữ được nhiều kính trọng hơn và được
xem là những cá nhân (chứ không phải chỉ là
những món đồ sở thuộc đàn ông). Họ được nhiều
độc lập hơn, tự do hơn để tự theo đuổi nếp sống
mà họ lựa chọn. Phật giáo nguyên thuỷ không xem
người phụ nữ giản dị như một công cụ sinh đẻ, và
mục tiêu duy nhất của người phụ nữ không phải
chỉ là hôn nhân. Người phụ nữ có quyền chọn
không lập gia đình (mà người khác không nên dè
bỉu) và được quyền trở thành tu sĩ, nghĩa là
theo đuổi đời sống tâm linh. Một tập tục của Ấn
Giáo là sati, hiện vẫn còn lưu hành
trong một số cộng đồng tín đồ, theo đó thì cách
hành xử cao thượng nhất của người vợ khi chồng
chết là chịu chết theo chồng trên giàn hoả. Goá
phụ không được phép tái giá và bị xem là “điềm
gở”. Phật giáo trái lại cho phép goá phụ được
tái giá.
Có một số tôn giáo xem hôn nhân như một nhiệm vụ
tôn giáo, một thánh lễ (sacrament). Hôn
nhân có nghĩa là người đàn ông và người đàn bà
được Thượng đế kết hợp, cho nên chết sống gì
cũng cứ phải ở với nhau. Ly dị là một tội lỗi.
Thái độ của Ấn giáo cũng thế, hôn nhân là một
nhiệm vụ của tôn giáo, không phải là cơ hội để
“lãng mạn”. (Ví dụ như đi quân dịch là một nghĩa
vụ trong một quốc gia có chiến tranh. Những
người đi quân dịch đâu cần thiết phải thật sự
yêu nghề lính!) Chính vì thế mà trong xã hội Ấn
Độ có tập tục hôn nhân được gia đình dàn xếp,
chứ không phải do hai người liên hệ tự quyết
định. (Nếu xem hôn nhân là một nhiệm vụ tôn giáo
thì tập tục này chưa hẳn đã là chậm tiến!)
Phật giáo xem hôn nhân như một khế ước
(contract) giữa người đàn ông và người đàn
bà. (Vì thế mà hôn lễ không phải là một nghi lễ
tôn giáo trong truyền thống Phật giáo. Gần đây
có một số Phật tử làm hôn lễ trong chùa. Điều
này cũng không có gì là sai quấy, nhưng chúng ta
phải hiểu rõ lý lẽ đằng sau). Do đó, Phật giáo
tuy không khuyến khích (bởi vì Phật
giáo nhấn mạnh từ bi, tôn trọng sự hài hoà xã
hội, hiểu rằng ly dị không phải là một biến cố
vui mừng) nhưng cho phép ly dị. Hơn nữa, Phật
giáo còn cho quyền đàn bà ly dị đàn ông.
L.B. Horner, một trong hai vị phụ nữ tiên phong
trong việc truyền Phật giáo qua Tây phương, một
người có công lớn với Phật giáo, tóm lược những
điểm chính của quan điểm bình đẳng giới tính
trong các kinh điển của Phật giáo nguyên thuỷ
như sau:
Đức Phật đạt giác ngộ là vì sự hữu ích cho các
tăng, ni, nam cư sĩ, và nữ cư sĩ; ngài đã dạy
Pháp cho tất cả bốn nhóm này – trong thuật ngữ
Phật giáo gọi là “tứ chúng”. (Đó là nhìn từ
khuôn khổ nội tại của lịch sử Phật giáo. Từ một
viễn cảnh rộng hơn, chúng ta có thể nói rằng Đức
Phật đạt giác ngộ vì lợi ích cho chúng sinh
thuộc tất cả mọi giới tính, cho cả người xuất
gia lẫn người tại gia).
Đức hạnh hay thói xấu của “tứ chúng” có ảnh
hưởng tương tự đối với sự tồn tại hay diệt vong
của trí tuệ và tu tập Phật giáo. Nói cách khác,
một vị tăng, ni, nam cư sĩ, hay nữ cư sĩ, có trí
tuệ, giới luật, tự tin, thực hành Pháp đều có
thể làm rạng rỡ cả cộng đồng Phật giáo.
Phụ nữ có cùng những giới hạn và khả năng tâm
linh giống như đàn ông.
Ni có thể phát triển tâm linh giống như tăng.
Đức Phật nói rằng mục tiêu của ngài là làm sao
cho tăng, ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ hiểu thấu,
phân tích, và giải thích Pháp một cách rành
mạch.
Đức Phật luôn luôn dạy những giáo lý tương tự
cho cả đàn ông lẫn đàn bà, đôi khi ngài còn nỗ
lực một cách đặc biệt để dạy giới phụ nữ.
Đức Phật công nhận rằng phụ nữ có thể đạt được
các thành quả tâm linh cao. Bằng chứng là trong
nhóm các tín đồ của Đức Phật có hàng trăm phụ nữ
đạt được những thành quả tâm linh khác nhau.
Đức Phật nói rằng đời sống tâm linh ngài thiết
lập sẽ không hoàn hảo nếu không có phụ nữ tu tập
giáo pháp.
Phụ nữ và việc xuất gia
Phật giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên
có giáo đoàn cho ni giới (đại khái là nữ tu sĩ).
Giáo đoàn này được thành lập năm năm sau khi Đức
Phật thành đạo. Hầu như người Phật tử nào cũng
biết nguồn gốc của giáo đoàn ni giới này là từ
bà Maha-prajapati Gotami, dì và cũng là kế mẫu
của Đức Phật. Sau khi Đức Phật thành đạo, bà
Gotami trở thành một trong những đệ tử đầu tiên
của ngài. Bà đi theo Đức Phật khắp mọi nơi, cần
mẫn tu học, nổi tiếng là người có trí tuệ và đức
hạnh rất cao. Có rất đông phụ nữ luôn luôn theo
bên cạnh Gotami để học đạo.
Theo kinh điển Phật giáo nguyên thuỷ thì bà
Gotami đến gặp Đức Phật để xin được chấp nhận
cho phụ nữ xuất gia. Bà xin ba lần, ba lần đều
bị từ chối. Thế rồi Gotami và nhóm phụ nữ theo
bà cạo đầu, đắp y vàng để tỏ ý thành khẩn và
quyết tâm đến xin Đức Phật. Lần này họ gặp cả
Ananda, thí giả của Đức Phật. Ananda nói hộ cho
Gotami ba lần, lại cũng đều bị từ chối. Ananda
thay đổi “chiến thuật” và hỏi Đức Phật rằng nếu
phụ nữ xuất gia tu tập những lời của chính Đức
Phật dạy, họ có khả năng thành tựu tâm linh hay
không. Đức Phật trả lời có và cho phép Gotami và
nhóm phụ nữ theo bà được xuất gia trở thành tu
sĩ. Đối thoại giữa Ananda và Đức Phật khẳng định
một điểm quan trọng là Đức Phật luôn luôn công
nhận rằng phụ nữ cũng có khả năng tâm linh chẳng
khác gì nam giới.
Việc Đức Phật thoạt đầu ngần ngại không chấp
nhận lời yêu cầu của Gotami không thể được giải
thích là ngài có thái độ kỳ thị giới tính. Những
lý do mà Đức Phật từ chối lúc đầu hết sức là
phức tạp. Chỉ xin đưa ra một lý do: Đó là 2500
năm trước đây, thuở sơ khởi Đức Phật và các đệ
tử của ngài sống như những nhà tu khổ hạnh
“không nhà”. Lang thang trong rừng, đêm đến ngủ
dưới gốc cây. Rừng rú lại đầy dã thú và đạo tặc,
không thuận lợi lắm cho giới phụ nữ. Kinh điển
Phật giáo còn ghi lại một số trường hợp các vị
ni bị đạo tặc hãm hiếp. Một số kinh điển cũng
ghi rằng sau khi chấp thuận cho Gotami xuất gia,
Đức Phật đặt thêm tám giới luật đặc biệt cho ni
giới. Cũng có kinh ghi lại lời “tiên tri” rằng
vì có phụ nữ gia nhập giáo đoàn mà Phật Pháp sẽ
bị “giảm thọ” mất 500 năm. Trong khuôn khổ của
bài viết ngắn này, không tiện đi sâu vào chi
tiết, tôi chỉ xin vạch ra rằng đó là những thêm
thắt sau này của các tác gia Phật giáo có đầu óc
kỳ thị giới tính.
Tuy rằng Đức Phật không hẳn là nhà sáng lập tôn
giáo duy nhất và đầu tiên chấp nhận cho phụ nữ
xuất gia, nhưng đó là một hành động rất cách
mạng vào thời đó. I.B. Horner nhận định rằng
những gì mà Đức Phật làm cho giới phụ nữ “rạng
rỡ như một ngọn đèn sáng trong lịch sử của tự
do.” Điều mỉa mai là I.B.Horner và giới phụ nữ
có đầu óc tiến bộ hôm nay có thể cảm kích hành
động của Đức Phật, nhưng truyền thống Ấn giáo
lại chỉ trích ngài là phá hoại trật tự xã hội.
Bởi vì theo quan điểm này, vai trò cao cả nhất
của phụ nữ là làm vợ và làm mẹ. Cho phép phụ nữ
độc lập theo đuổi đời sống tâm linh thì còn ai
để phục dịch đàn ông, rửa chén, nấu bếp, sinh
đẻ?
Trong kinh điển Phật giáo nguyên thuỷ có bộ
Therigatha, ghi lại một số bài thơ, kệ tụng
về kinh nghiệm tâm linh của những người phụ nữ
Phật giáo ưu tú đầu tiên. Những bài kệ tụng này
vẫn được tụng đọc, nghiên cứu như những gương
sáng cho các thế hệ Phật tử đời sau. Những người
phụ nữ Phật giáo đầu tiên này thuộc đủ tầng lớp:
Từ những người quí tộc có học, cho đến các nhà
tu khổ hạnh, goá phụ, nội trợ, những người bị
chồng hắt hủi, cho đến cả các kỹ nữ. Mỗi người
một kinh nghiệm riêng, mỗi người một hoàn cảnh
riêng, một tâm tư riêng, nhưng họ đều chia sẻ
một điểm chung: tin nơi Phật Pháp và khả năng
tâm linh của chính mình như là người phụ nữ.
Vị trí của phụ nữ trong truyền thống
Phật giáo
Những thái độ tích cực căn bản của Phật giáo về
phụ nữ trên thực tế cũng được phản ánh trong các
quốc gia Phật giáo. Trong tất cả các quốc gia
Phật giáo, không có sự cách biệt
(segregation) giới tính. Trong nhiều tôn
giáo lớn hiện nay phụ nữ vẫn không được phép gia
nhập tăng lữ giới (priesthood). Trong một số xã
hội, phụ nữ thậm chí còn bị cấm không cho vào
các nơi thờ phượng. Trong các quốc gia Phật
giáo, người phụ nữ có quyền công khai đi lại và
tham gia vào mọi sinh hoạt tôn giáo và xã hội
chứ không bị kiểm soát gò bó, chẳng hạn như
trong các quốc gia Hồi Giáo. Theo một số bộ luật
truyền thống của Tích Lan (một quốc gia Phật
giáo), đàn bà được phép ly dị và lấy chồng sau
khi ly dị. Goá phụ cũng được phép tái giá và
không có sự kỳ thị đối với goá phụ.
Tuy thế, chúng ta cũng không thể chối bỏ được sự
hiện diện của các thành tố phụ hệ và thái độ kỳ
thị giới tính trong các xã hội Phật giáo ngày
nay. Điều này là bởi vì đặc tính phụ hệ của các
xã hội mà Phật giáo du nhập (không có nghĩa là
các xã hội mà Phật giáo không du nhập thì không
như thế). Đức Phật nói rằng đàn ông và các cộng
đồng Phật giáo của những xứ này cũng bị rập theo
khuôn mẫu đó. Do đó, quan điểm triết lý chung
của Phật giáo là phụ nữ và nam giới là bình đẳng
và họ đều có khả năng tâm linh như nhau, trên
thực tế vẫn có những kỳ thị giới tính.
Điều này cho chúng ta thấy rằng lý tưởng và thực
tại không phải bao giờ cũng đi đôi với nhau. Đức
Phật công nhận phụ nữ bình đẳng với nam giới.
Thế nhưng trên thực tế, xã hội có cho người phụ
nữ quyền bình đẳng hay có đủ điều kiện và phương
tiện để người phụ nữ thực hiện lý tưởng này hay
không lại là một chuyện khác. Quyền bình đẳng
của phụ nữ không phải chỉ giản dị được thực hiện
bằng một lập trường triết lý hay tâm linh mà còn
tuỳ thuộc vào những điều kiện xã hội, chính trị,
văn hoá, tập tục, và tâm lý con người nữa, và
nhất là nỗ lực tích cực hữu thức của người Phật
tử. Nói tóm lại, những lý tưởng Phật giáo không
phải tự nhiên được thành tựu (do quyền năng của
chư Phật, Bồ-tát) mà phải do chính các Phật tử
thực hiện những lý tưởng ấy. Để có thể làm được
như thế, người Phật tử phải nỗ lực tạo ra những
điều kiện và phương tiện thuận lợi. Cũng tựa như
những phát minh khoa học, nếu như không hội đủ
hoàn cảnh thuận tiện, thiếu những hỗ trợ tài
chính, những phát minh ấy cũng chỉ mai một đi
trong ngăn tủ của nhà khoa học mà thôi.
Do đó, tuy rằng Đức Phật cho phụ nữ thụ giới
xuất gia hoàn toàn (nghĩa là trở thành tu sĩ),
giáo đoàn ni giới được truyền từ Ấn Độ sang Tích
Lan vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, giáo
đoàn ni giới Tích Lan, vì chiến tranh và các rối
loạn chính trị, không còn khả năng truyền giới
nữa vì không có đủ số ni để làm việc này. Thế
rồi cũng không nó nỗ lực để tái thiết lập truyền
thống này nữa.
Ngày nay truyền thống truyền giới toàn phần cho
phụ nữ chỉ còn ở các xứ theo Phật giáo Đại Thừa
như Đài Loan, Đại Hàn, Nhật Bản, Trung Hoa, và
Việt Nam chứ không còn ở các quốc gia theo
truyền thống nguyên thuỷ (hay Theravada mà Phật
tử Việt Nam thường gọi một cách không chính xác
là “Tiểu Thừa”). Ở các quốc gia này, phụ nữ chỉ
được thụ giới “bán phần” thôi. Ngay cả ở Tây
Tạng, phụ nữ không thể vượt qua được giai đoạn
“tập sự” (thuật ngữ Phật giáo gọi là sa-di-ni).
Một số phụ nữ ở các quốc gia này thường lý luận
rằng họ chỉ muốn trở thành Phật tử chứ không cần
phải là phụ nữ Phật tử. Vấn đề bình đẳng hay
giới tính hoàn toàn không liên hệ gì đến sự
thành tựu tâm linh. Họ chỉ quan tâm đến tâm linh
chứ không tranh giành “bình đẳng” hay địa vị gì
cả. Lý luận này thoạt nghe có vẻ như bày tỏ một
thái độ không chấp trước. Phân tích kỹ, chúng ta
sẽ thấy nó không vững vì những lý do như sau:
Một là trên thực tế vẫn có rất nhiều phụ nữ muốn
được thụ giới xuất gia làm ni. Lối suy nghĩ của
những phụ nữ này hết sức chính xác, bởi vì một
giáo đoàn Phật giáo mà thiếu sự hiện diện của
phụ nữ là một giáo đoàn không thể hiện được một
xã hội bao gồm cả “tứ chung” như lý tưởng mà Đức
Phật đề ra. Hai là lý luận trên biểu lộ một thứ
thái độ chịu đựng tiêu cực kết quả của một tâm
thức bị đè nén. Phụ nữ trong một số cộng đồng
Phật giáo, kể cả cộng đồng Phật giáo Việt Nam,
thường được khuyến khích nuôi dưỡng những hình
ảnh tiêu cực về chính mình. Đại khái như sinh ra
là đàn bà là kết quả của những nghiệp xấu. Lối
tu tập duy nhất dành cho đàn bà là tụng niệm,
cầu xin, chịu đựng, phục dịch, để hy vọng kiếp
sau được tái sinh làm đàn ông.
Nhưng như chúng ta đã thấy, người phụ nữ bị đè
nén, kỳ thị, và luôn luôn phải chịu đựng những
thiệt thòi là hậu quả của những khía cạnh chậm
tiến bất công của một số xã hội Đông phương.
Chúng ta không thể dùng triết lý Phật giáo để
biện bạch hay chấp nhận tệ trạng này. Điều may
mắn là đa số phụ nữ hiện thời, nhất là phụ nữ
Tây phương theo Phật giáo (đa số có giáo dục
cao), hiển nhiên không chấp nhận nuôi dưỡng
những hình ảnh tiêu cực về người phụ nữ. Trái
lại, họ tiếp tục tìm hiểu, giải thích quan điểm
Phật giáo về phụ nữ và tạo điều kiện để thực
hiện quan điểm này trong đời sống. Điều này
chứng tỏ như Đức Phật đã nói những người Phật tử
có trí tuệ, giới luật, tự tin làm rạng rỡ cho
Phật giáo. Chúng ta có thể nói thêm rằng, ngược
lại những người Phật tử thụ động, thủ cựu, bạc
nhược chỉ làm cho Phật giáo chậm tiến thôi.
Những nghiên cứu về Phật giáo hiện đại cho thấy
rằng trên toàn thế giới, giới phụ nữ trong Phật
giáo (cả tu sĩ lẫn cư sĩ) không còn cam tâm chấp
nhận những bất công nữa. Họ tham gia tích cực
vào nhiều phạm vi sinh hoạt. Sự đóng góp của họ
nằm trên mọi lãnh vực từ học thuật, tu tập cho
đến các hoạt động xã hội. Họ không ngừng khai
phá lại, xác định lại vai trò của người phụ nữ
trong Phật giáo. Họ không hài lòng chỉ làm những
người đi theo, mà còn can đảm nhận cả vai trò
lãnh đạo. Họ đã đem lại những thay đổi cho nhiều
thái độ và lối suy nghĩ.
Kết luận
Nếu như chúng ta có thể dùng một loại suy luận,
như đã sử dụng ở trên, một cộng đồng tôn giáo
cũng như một đại học. Người Phật tử Việt Nam thử
đặt câu hỏi là chúng ta có thư viện phong phú
không? Ban giảng huấn có khả năng không? Trình
độ sinh viên có cao không? Quan sát những thực
tại Phật giáo Việt Nam khó lòng cho phép chúng
ta trả lời là có.
Không thể nói là trong giới phụ nữ Phật giáo
Việt Nam không có người học cao. Nhưng mà khi
quay về Phật giáo thì, cũng y như nam giới, đa
số không có ý chí tìm hiểu để vượt qua một vài
khái niệm lỗi thời giam nhốt Phật giáo vào trong
một mớ nghi lễ mòn mỏi. Tệ hại nhất là ngay cả
những phụ nữ có học và độc lập cũng chấp nhận
những hình ảnh rất tiêu cực về phụ nữ. Nhiều
người thậm chí còn xem việc khinh thường vị trí
và thân xác đàn bà là một đức hạnh.
Những thái độ trên chỉ là hậu quả của sự hiểu
biết hạn hẹp, thiếu xót về Phật giáo của chính
những Phật tử. (Đề tài này sẽ được phân tích
trong những bài viết khác). Cộng đồng Phật giáo
Việt Nam cần tạo điều kiện để huấn luyện cho
người phụ nữ hiểu thêm về Phật giáo cũng như vai
trò và tiềm năng của họ như những người phụ nữ
Phật giáo.
Trong số những phụ nữ đang đóng góp rất tích cực
trong các cộng đồng Phật giáo thế giới hiện nay
bao gồm các phụ nữ thuộc rất nhiều quốc gia từ
Đông sang Tây. Có điều đáng tiếc là hình như
chưa thấy có người nào thuộc cộng đồng phụ nữ
Phật tử Việt Nam cả.
© 2008 talawas
|