 |
14 tháng 4, 2008
|
Bầy chim sẻ lại sà xuống, xúm xít
quanh đĩa bánh mì vụn. Tiếng chíu chít làm rộn cả vườn sau như lời chào một bình
minh rạng rỡ buổi tàn xuân. Một bình trà buổi sáng mùa xuân, nắng ấm. Bầu trời
trong xanh, chỉ gợn vài đám mây mỏng. Hương thơm của nhiều loài hoa trong vườn
tỏa nhẹ. Bầy chim sẻ vô tư, không sợ hãi, vừa ăn vừa trò chuyện tíu tít, nhảy
nhót lăng xăng bên cạnh một người ngồi bất động.
Chẳng có gì mà phải sợ hãi. Tôi vẫn
thường tự nhắc mình như thế. Nhắc bằng sự ám thị, có khi bằng một câu kinh, một
đoạn kinh, hay một bài kinh ngắn. Thường xuyên nhất là một đoạn trong Bát-nhã
Tâm kinh. “Tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên
đảo mộng tưởng, cứu cánh niết-bàn…” Thực sự là chẳng có gì đáng phải sợ hãi
nếu tâm không còn vướng mắc, ngăn ngại.
Ấy thế mà trên thực tế đời sống,
vẫn còn rất nhiều điều làm cho mình phải sợ, hay đúng hơn là e ngại, muốn né
tránh, muốn được yên. Nhưng những vị thầy của tôi thì không sợ hãi.
Một thời, hàng chục triệu người
phải im hơi lặng tiếng, cúi đầu tuân phục trước bạo lực, hàng trăm ngàn người
phải bó tay trong các trại lao cải, hàng triệu người khác đã ùn ùn rời bỏ quê
hương, hoặc lặng lẽ vượt thoát trên những chiếc thuyền lớn-nhỏ, thì những vị
thầy của tôi, đứng dậy, cất lên tiếng nói của lương tri, của lẽ phải. Rồi họ đi
tù, mang án tử hình, chung thân khổ sai, hoặc nhiều năm cấm cố. Những vị thầy
khác, để bảo vệ Phật giáo, người thì cứng rắn, một mực duy trì cơ cấu và danh
xưng của tổ chức truyền thống, người thì nhu thuận chấp nhận sinh hoạt trong một
tổ chức bị giới hạn bởi thế quyền. Cứng rắn thì bị lưu đày, giam nhốt, quản
thúc; mềm mỏng thì bị lôi kéo, đẩy xô, mang tiếng nhục với đời. Cả hai thái độ,
hai cách hành xử ấy, đều nhằm mục đích bảo vệ Phật Pháp, đều là những việc khó
làm. Phải vượt qua được sự sợ hãi đối với cái chết, tù ngục, khổ nhọc thân xác
và tâm trí, cũng như nỗi đau nhục kéo dài đối với dư luận, với miệng lưỡi thế
gian mới có thể thực hiện được những điều bất khả tư nghì như thế.
Mới đây, vào tháng 9 năm 2007,
những vị thầy khác của tôi ở Miến Điện, cũng đã đứng dậy, sẵn sàng đối diện với
chết chóc và tù đày, thay mặt toàn dân nói lên tiếng nói của công bình xã hội,
của tự do dân chủ, dấy lên một phong trào đấu tranh bất bạo động lan rộng trên
một đất nước lâu năm bị khống chế dưới chế độ quân phiệt. Quả nhiên, chết chóc
và tù đày đã đến với họ, những nhà sư hiền lành áo nâu. Tiếng nói của họ bị bạo
lực dập tắt thật nhanh, nhưng âm hưởng của nó làm rung động lòng người trên toàn
địa cầu.
Và trong thời gian tôi viết những
dòng này, những vị thầy khác của tôi ở Tây Tạng, một đất nước hiền hòa, linh
thiêng, thơ mộng, nằm trên chóp đỉnh của hành tinh, cũng đã và đang cất lên
tiếng nói và nguyện vọng chung của toàn dân, khiến cho cả thế giới chấn động,
lên tiếng ủng hộ. Bạo lực sắt máu đã đổ ập xuống những con người tay không tấc
sắt, những con người không bao giờ muốn tổn hại bất cứ sinh vật nào, dù là những
sinh vật bé xíu. Hàng trăm người chết và hàng ngàn người bị bắt giam, vẫn không
ngăn cản được bước tiến của những nhà tu và phật-tử hướng về ước mơ tự do và dân
chủ của họ.
Làm thế nào mà họ có thể làm được
những điều người khác không dám làm?
Chỉ nhờ ở nền tảng triết lý Phật
giáo rất đơn giản này: khi vượt qua được những rào cản của bản ngã, tâm họ hòa
nhập với tâm của những người khác, của số đông. Nhờ đó, họ không còn cô đơn;
tiếng nói, hành động và ước nguyện của họ không còn là của cá thể, mà là của đại
khối dân tộc, và trong nhiều trường hợp, là của toàn nhân loại.
Điều đơn giản như thế, nhưng không
phải ai cũng làm được.
Nếu vì tham vọng cá nhân hay của bè
phái thì dù mạnh dạn lên tiếng, cũng không được sự ủng hộ của số đông, không gây
ảnh hưởng lan rộng. Nếu vì quan điểm cục bộ, thiển cận, thành kiến, thiên vị mà
lên tiếng, cũng không tác động đến lương tâm của dân tộc, chưa nói đến lương tâm
của nhân loại.
Điều đơn giản thứ hai, cũng từ nền
tảng của triết lý Phật giáo, mang tính xã hội phổ quát hơn, đó là: ý nghĩ, lời
nói và hành động trung thực. Người con Phật dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng
phải giữ sự trung thực. Ý nghĩ, lời nói và hành động trung thực, không trái
ngược mâu thuẫn nhau. Thấy sai thì nói là sai; thấy đúng thì nói là đúng. Thấy
xấu thì nói là xấu, thấy đẹp thì nói là đẹp. Thấy bất công thì nói là bất công;
thấy công bằng thì nói là công bằng. Không vì bạo lực, khủng bố, danh vọng,
quyền lợi, tư kiến và tình cảm mà nói trái với sự thực.
Sống với tinh thần vô ngã, với sự
thực, là sống với tâm thức tự do cá nhân; trong tương tác xã hội, đó là sống
trong dân chủ, công bằng. Chỉ nhờ vậy mà những vị thầy của tôi vượt qua sự sợ
hãi, có thể với hai bàn tay không, đứng vững trước phong ba, bạo lực.
Thế nên, nhìn sâu vào cuộc đấu
tranh bất bạo động của người Tây Tạng, chúng ta thấy, những người biểu tình đòi
tự do cho Tây Tạng và chống xâm lăng đàn áp của Trung Hoa không phải lúc nào
cũng thuận ý với Đức Đạt-lai Lạt-ma, có khi còn mâu thuẫn rõ rệt. Trong khi ngài
luôn kiên trì chủ trương tự trị cho Tây Tạng thì nhiều người khác quyết liệt đòi
độc lập; trong khi ngài vẫn tôn trọng và chưa hề có ý phản đối việc tổ chức thế
vận hội Olympic 2008 tại Trung quốc thì nhiều người chống Trung quốc đã kêu gọi
tẩy chay. Một vài vụ ném đá từ phía người biểu tình khi bị cảnh sát và quân đội
Trung quốc tấn công tàn bạo khiến Đức Đạt-lai Lạt-ma buồn lòng. Lễ châm lửa Thế
vận tại Olympic, Hy Lạp, bị số người biểu tình phản đối. Cuộc rước đuốc Olympic
ở London và Paris cũng bị ngăn trở bởi những người ủng hộ Tây Tạng. Vài vận động
viên các nước tuyên bố tẩy chay rước đuốc. Đệ tử thân tín của Đức Đạt-lai Lạt-ma
là tài tử Richard Gere cũng kêu gọi tẩy chay Olympic 2008. Nhưng Đức Đạt-lai
Lạt-ma vẫn luôn từ bi, ôn tồn nói rằng chính quyền Trung quốc xứng đáng được ủy
nhiệm tổ chức thế vận hội, và trên một tỷ ba trăm triệu dân Trung Hoa cũng xứng
đáng được hưởng niềm vinh hạnh đón chào cả thế giới qua thế vận hội này. Dù có
những mâu thuẫn như thế, Đức Đạt-lai Lạt-ma không bao giờ chê trách, ngăn cản
hoặc ra lệnh cấm chỉ những biểu hiện yêu nước nhiệt tình của giới trẻ Tây Tạng
cũng như của những người ủng hộ ngài. Ngài và các phong trào đấu tranh cho Tây
Tạng luôn tôn trọng nhau, dù cách ứng xử và quan niệm có khác. Đó là nếp nghĩ và
hành xử văn minh của sinh hoạt dân chủ.
Qua những điểm nêu trên, có thể
nhìn thấy một vài sai khác nào đó giữa người phật-tử Tây Tạng và Việt Nam trong
cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ của xứ sở mình.
Vị lãnh đạo tinh thần của Phật giáo
Tây Tạng và những người Tây Tạng lưu vong, suốt 59 năm đất nước bị Trung quốc
xâm chiếm, vẫn thường vận động tổ chức các hội đoàn, tổ chức, công khai hoặc
ngấm ngầm thực hiện các chương trình văn hóa, giáo dục, từ thiện xã hội, nhằm
bảo vệ nền văn hóa truyền thống Tây Tạng, đối kháng trường kỳ với chủ trương
Hán-hóa của Trung quốc. Cuộc đấu tranh gian lao, khổ nhọc, phải đổi nhiều xương
máu và nước mắt, nhưng những vị thầy của tôi nơi xứ sở ấy vẫn theo gương Đức
Đạt-lai Lạt-ma, luôn giữ gìn lòng từ bi, chủ trương đấu tranh bất bạo động,
không những bất bạo động trong hành xử và lời nói, mà còn ngay trong ý niệm: vẫn
xem người Trung quốc nhiều tham vọng, bất hảo, là “những người anh em” trong
cộng đồng nhân loại. Đối với Trung quốc, Đức Đạt-lai Lạt-ma vẫn giữ niềm tôn
trọng, chưa hề khởi tâm sân hận, chưa hề nguyền rủa hoặc nặng lời phê phán,
huống chi là đối với đồng bào của ngài, cho dù giữa các thế hệ già-trẻ trước-sau
có những sai biệt về quan điểm và phương thức hành động. Trong khi đó thì người
phật-tử Việt Nam vẫn thường có khuynh hướng loại trừ, phân liệt, không chấp nhận
nhau; có khi không còn xem nhau như là anh em, đồng đạo; những ai không suy nghĩ
giống mình, không hành động và phát ngôn như mình, thì đẩy hết về phía đối
nghịch, nghĩa là đồng hóa họ với những người mà mình cho là kẻ thù.
Không những khác với phật-tử Tây
Tạng, phương cách đấu tranh cho tự do dân chủ của phật-tử Việt Nam cũng khác với
tín đồ của tôn giáo bạn. Chúng ta mưu cầu phúc lạc cho toàn dân, nhưng thường
khi lại chẳng quan tâm đến số đông, chỉ nhìn thấy cái xấu-ác của thiểu số. Những
cơ hội tốt đẹp có tính cách quốc tế, rộng mở, thì chúng ta cục bộ, khép chặt,
chống đối, ngăn trở. Những chương trình dài hạn, cần từng bước xây dựng, un đúc,
khai triển, thì chúng ta phá đổ, san bằng, cố tình bóp chết không cho khởi phát.
Như một con bệnh mê sảng, chúng ta sẵn sàng đánh đổ bất cứ ảnh tượng nào vừa
xuất hiện. Chúng ta không có viễn kiến. Chúng ta chỉ nhìn được cái gì tức
thời, ở trước mắt.
Hãy nhìn về phía tôn giáo bạn: Đức
Giáo hoàng John Paul II tiền nhiệm đã từng viếng thăm Ba Lan năm 1979, một năm
sau khi đăng ngai, và hai mươi năm sau, đã chính thức viếng thăm Cuba vào tháng
01 năm 1998. Sau khi Đức Giáo hoàng viếng thăm hai nước cộng sản này, một nước
đã được chuyển hóa, thay đổi, và một nước vẫn còn trơ lì với thứ chủ nghĩa thối
trào, lạc hậu. Thay đổi hay không thay đổi khó lòng tiên liệu được, nhưng không
phải vì vậy mà ngài không đến. Cũng không ai vì việc Đức Giáo hoàng viếng thăm
các nước cộng sản mà lên án, chống đối, cản ngăn hay chụp mũ, xuyên tạc. Dù ông
Fidel Castro và chính phủ Cuba có thu được những lợi ích nào đó về mặt ngoại
giao, tháo gở được phần nào những bế tắc về kinh tế, cấm vận, hoặc chứng minh
giả tạo về tự do tôn giáo ở nước họ, nhưng lợi ích tinh thần cho hàng trăm ngàn
con chiên và hàng chục triệu người dân của đất nước đói khổ triền miên và thiếu
tự do vẫn là điều Đức Giáo hoàng nhắm đến. Người Thiên Chúa giáo, hay
không-Thiên-Chúa-giáo, chẳng ai chống đối việc Giáo hoàng thăm viếng các nước
cộng sản, trái lại, còn vui mừng, tán trợ, và nuôi hy vọng nào đó. Nếu nay mai,
Đức Giáo hoàng đương nhiệm Benedict XVI hoặc khâm sứ Tòa thánh thăm viếng Cuba,
Bắc Hàn, Trung quốc hay Việt Nam, người ta cũng sẽ có thái độ tôn trọng, gián
tiếp hoặc trực tiếp ủng hộ. Không ai có lý do thích đáng nào để cản ngăn người
khác mang ánh sáng vào nơi tăm tối.
Phật giáo không có giáo hoàng, cũng
không có vị lãnh đạo tối cao đại diện Phật giáo đồ khắp thế giới. Vậy thì, Đại
lễ Vesak Liên Hiệp Quốc (Lễ Tam Hợp - kỷ niệm Đức Phật Đản Sinh, Thành Đạo và
Niết Bàn trong cùng tháng 5 dương lịch) có thể nói là ánh sáng của Đức Phật,
chuyên chở lý tưởng hòa bình, tinh thần từ bi và khoan dung của Phật giáo đến
với bất cứ quốc gia nào đăng cai. Ai cũng biết, Lễ Vesak Liên Hiệp Quốc trở
thành sinh hoạt văn hóa quốc tế chính thức kể từ năm 2000, bước vào thiên kỷ thứ
ba của nhân loại. Đây là niềm vinh hạnh của phật-giáo đồ khắp năm châu. Không có
quyết định của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc về lễ quốc tế Vesak, phật-giáo đồ
khắp thế giới sẽ tiếp tục tổ chức lễ Phật Đản riêng biệt của từng quốc gia.
Thông qua Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc, phật-giáo đồ các nước có cơ hội chung
lòng tưởng niệm, vinh danh Đức Phật trong cùng một địa điểm, một thời gian, công
bố thông điệp hòa bình và khoan dung của Phật giáo đến khắp thế giới.
Lễ Vesak do Liên Hiệp Quốc chủ
trương và chính phủ Việt Nam đăng cai, sẽ được tổ chức tại Hà-nội vào tháng 5,
2008, qui tụ ít nhất là 600 phái đoàn với hàng ngàn đại biểu đến từ 90 quốc gia
trên thế giới. Đối với Liên Hiệp Quốc, Vesak là cơ hội để giới thiệu, cổ súy lý
tưởng hòa bình, giá trị đạo đức và văn hóa của Phật giáo đến với thế giới đầy
những bạo động, chấp tranh, khủng bố, kỳ thị; đối với phật-giáo đồ khắp năm
châu, là cơ hội để vinh danh Đức Phật, hoằng truyền chánh pháp, trao đổi và học
hỏi kinh nghiệm hành đạo, đóng góp các nguyên lý thực tiễn của Phật giáo đối với
những vấn nạn của môi trường hành tinh và đời sống nhân loại, trình bày bản sắc
văn hóa của mỗi quốc gia ảnh hưởng Phật giáo, kết chặt mối tương giao của người
con Phật khắp nơi; đối với phật-tử Việt Nam, là cơ hội để trình bày nền văn hóa
sáng đẹp của Phật giáo vốn đã song hành với dân tộc gần hai mươi thế kỷ, tạo sự
đoàn kết hòa hợp của mọi hệ phái, giáo hội đang hành hoạt trong lẫn ngoài nước,
vực dậy niềm tin và trí tuệ của phật-giáo đồ cả nước để trùng hưng nền Phật giáo
Việt Nam; đối với nhân dân trong nước nói chung, là cơ hội để đất nước mở cửa
đón chào những quan khách đại diện tầng lớp tinh hoa của Phật giáo từ các nước,
trực tiếp hoặc gián tiếp trình bày về đời sống thực của xã hội Việt Nam qua văn
hóa, tôn giáo, kinh tế, văn mỹ nghệ, kiến trúc, ẩm thực, v.v…; và đối với nhà
nước Việt Nam, chủ nhà đăng cai tổ chức, là cơ hội để chứng tỏ sự rộng mở về mặt
ngoại giao quốc tế, chứng minh chính sách khoan dung và thiện chí giúp đỡ đối
với tôn giáo.
Mục tiêu mà các tập thể, tổ chức nhắm
đến qua Lễ Vesak Liên Hiệp Quốc, có nhiều điểm tương đồng, tất nhiên cũng có
nhiều điểm dị biệt. Đi sâu vào chi tiết, đối với cá thể mà nói, còn có những mục
đích nhỏ hẹp hơn, chẳng hạn lợi nhuận thu được qua một dịp lễ quốc tế suốt gần
một tuần lễ đối với các công ty du lịch, khách sạn, nhà hàng, các tiệm buôn bán,
xe cộ vận chuyển của công ty hay tư nhân, v.v... Sau một đêm dài, bình minh rực
rỡ sẽ thúc đẩy mọi người, mọi loài thức dậy, theo nhu cầu và mục đích của mình
mà tiếp nhận ánh sáng mặt trời; nhờ ánh sáng mà dễ dàng thực hiện những việc họ
muốn làm. Có thể có sự lợi dụng hay hậu ý nào đó của nhà nước đối với Vesak
2008. Nhưng xét cho cùng, tất cả đều mong cầu lợi ích, nhiều hay ít, tinh thần
hay vật chất, trong một lễ hội qui mô quốc tế do chính Liên Hiệp Quốc chủ
trương, kêu gọi.
Ánh sáng từ bi trí tuệ của Phật giáo
không thể vì lý do gì mà không chiếu rọi đến những nơi tăm tối, nơi mà hàng mấy
chục triệu người đang cố gắng ngoi mình dậy từ hậu quả chiến tranh, nghèo đói,
bất công, đạo đức băng hoại... Phật tử Việt Nam không thể vì hai triệu đảng viên
mà bỏ quên tám chục triệu người dân. Đức Đạt-lai Lạt-ma cũng không vì 60 triệu
đảng viên cộng sản mà chối bỏ 1 tỉ 240 triệu người dân Trung Hoa. Đức Giáo Hoàng
John Paul II cũng không vì 700 ngàn đảng viên mà không quan tâm đến 10 triệu
người dân Cuba. Nói theo cách của Đức Đạt-lai Lạt-ma, trên một tỉ người dân
Trung Hoa, “xứng đáng được làm nước chủ nhà của cuộc tranh tài Thế Vận Hội,”
thì trên 80 triệu dân Việt Nam bao gồm 60 - 70% là phật-tử, xứng đáng được làm
nước chủ nhà cho Lễ Vesak 2008 của Liên Hiệp Quốc. Những người đấu tranh vì tự
do dân chủ cho Tây Tạng và Việt Nam có quyền ở nơi bất cứ diễn đàn nào, phản đối
chính sách đàn áp và kiểm soát tôn giáo, vi phạm nhân quyền, độc tài và bất
công, của các nhà cầm quyền cộng sản; nhưng hãy tôn trọng cơ hội và ý nguyện của
số đông, của quần chúng thầm lặng đối với các lễ hội quốc tế hãn hữu xảy ra trên
đất nước của họ. Hãy tiếp tục lên án, chống lại sự xấu-ác, nhưng đừng bao giờ
ngăn cản những cơ hội cho lẽ thiện bừng tỏa. Không thể vì việc nhỏ mà trùm lấp
hết việc lớn. Không thể vì cái hạn cuộc nhất thời mà che chắn sự tỏa chiếu của
ánh sáng vô hạn, vô biên.
Người phật-tử, dù ở bất cứ quốc gia
nào, hoàn cảnh nào, thời gian nào, nên sung sướng hãnh diện về một lễ hội Vesak
do Liên Hiệp Quốc đề xướng nhằm tôn vinh con đường hòa bình và giáo lý thậm thâm
vi diệu của Đức Phật. Và nếu cần phải nói lên một sự thực, có thể nói rằng, dù
tham dự hay không tham dự lễ Vesak, dù tán đồng hay bất đồng với nhà nước đăng
cai, chúng ta, những người con Phật, trên khắp thế giới, đều thấy vinh hạnh và
cảm động khi lễ hội ấy được Liên Hiệp Quốc chấp thuận tổ chức ngay trên quê
hương mình.
Con đường hòa bình của Phật giáo là
con đường như thế nào mà Liên Hiệp Quốc cần đến, cần tôn vinh và truyền rộng cho
toàn cầu? – Là trung đạo. Là con đường mà trải hơn hai mươi lăm thế kỷ,
phật-giáo đồ đã kinh qua trong việc hành trì và truyền bá để đem lại niềm an lạc
và hạnh phúc chân thực cho mình và cho người. Là con đường tránh xa các cực
đoan; vượt trên những quá khích, cuồng vọng, bảo thủ, bạo hành, cuồng tín; vượt
trên tham lam, sân hận, si mê; vượt khỏi những giới hạn của bỉ-thử, nhân-ngã.
Chỉ có con đường ấy, qua kinh nghiệm của lịch sử nhân loại, mới chứng minh được
tính cách hòa bình, nhân ái, khoan dung, khả dĩ cứu vãn sự sống còn của hành
tinh, của nhân loại trước viễn ảnh ngày càng xung đột, bất an, biến động thật
trầm trọng khởi sinh từ tham vọng và cố chấp của những thế lực chính trị hoặc
tôn giáo cực đoan trên thế giới. Chỉ có con đường ấy mới giúp nhân loại không
còn bị sợ hãi, khủng bố.
Phật-tử Việt Nam, các giáo hội Phật
giáo tại Việt Nam, nhà nước Việt Nam, hãy thành tâm thể hiện đúng mức tinh thần
từ bi, khoan dung và hòa bình của Phật, trước, trong và sau Lễ Hội Vesak Liên
Hiệp Quốc. Như vậy sẽ xứng hợp với vai trò của những người thuộc nước chủ nhà
đăng cai tổ chức. Và được như vậy thì đất nước và dân tộc chắc chắn có thái bình
an lạc thực sự.
Hãy chắp tay cầu nguyện cho sự thành
công tốt đẹp của Lễ Vesak tại Việt Nam, hay tại bất cứ quốc gia nào được ủy
nhiệm tổ chức. Và xin mượn lời nhà thơ Nhất
Hạnh, “Chắp tay cầu nguyện cho
bồ câu trắng hiện.”
California, ngày 10 tháng 4 năm 2008.
Các bài về tôn giáo
|