|
01 tháng 5, 2011
|
Cuộc Khủng Hoảng Lạm Dụng Tình Dục
Làm Bùng Lên Cuộc Tranh Luận Về Di Sản
Của Giáo Hoàng Gioan Phaolồ II
(Tập Sách Ngoại)
Pope John Paul II đọc diễn từ về những vụ quấy nhiễu tình dục trong giới tu sĩ
ngày 23 tháng 4, 2002 Ảnh trong video clip của CNN |
La Mã – Giáo hoàng
Gioan Phaolồ II là một vị giáo hoàng (nổi tiếng) như ca sĩ nhạc
rock, là một vị đại sứ hiệu quả về niềm tin tôn giáo trong một thời
đại có khuynh hướng thế tục. Thế mà vài năm sau khi ông ta chết vào
tháng Tư năm 2005, đã có một trào lưu ngầm nghi ngờ và quan tâm (an
undercurrent of doubt and concern) đến cách ông xử lý vấn đề
Linh mục lạm dụng tình dục, vốn là cuộc khủng hoảng trầm trọng nhất
đã làm rung chuyển Công giáo trong nhiều thế kỷ qua.
Nhà bình luận Maureen Dowd
của nhật báo New York Times gần đây đã đúc kết lời tuyên án của
những người chống đối vị Giáo hoàng quá cố nầy bằng một câu hỏi: “Làm
sao bạn có thể trở thành một vị thánh nếu bạn không che chở nỗi những trẻ em
vô tội ?”.
Dù cuộc tranh cãi về vai
trò của Giáo hoàng trong cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục có lẽ sẽ không
tác động nhiều đến con người thiêng liêng hay thành quả cao lớn của ông ta,
thì (cuộc khủng hoảng đó) cũng sẽ trở thành một giai đoạn không tránh được
trong lịch sử của Gioan Phaolồ, tiêu biểu cho câu hỏi duy nhất và lớn nhất
trong ngày Chủ nhật phong chân phước sắp tới, vốn là bước cuối cùng trước
khi trở thành một vị thánh.
Những người chỉ trích (việc phong thánh) đã vạch ra các chánh sách lẫn những trường hợp cụ thể mà
họ tin rằng dưới triều Gioan Phaolồ đã chứng tỏ có một mô hình tìm cách
chối bỏ những lạm dụng nầy (a pattern of denial on John Paul’s
watch).
Dưới triều Giáo hoàng
Gioan Phaolồ 2, trong một vài trường hợp hiếm hoi khi có các giám mục địa
phương tìm cách chính thức trục xuất những kẻ lạm dụng (tình dục) ra khỏi
tập thể linh mục, trong một quy trình gọi là thế tục hóa (laicization),
các giám mục nầy thường bị Vatican yêu cầu phải cẩn trọng - không phải để
tha thứ cho hành động lạm dụng mà để bảo vệ hàng giáo phẩm linh mục.
Những viên chức chính yếu
trong giáo triều Gioan Phaolồ cũng dè dặt về các chánh sách đòi hỏi phải báo
cáo với cảnh sát hành động lạm dụng.
■ Một Hồng y người
Colombia, mà Gioan Phaolồ dự định bổ nhiệm làm trưởng một văn phòng phụ
trách các vấn đề Linh mục là ông Dario Castrillón Hoyos, đã từng viết cho
một giám mục người Pháp vào năm 2001, để khen thưởng ông giám mục Pháp nầy
đã từ chối không phúc trình (congratulate him for
refusing to report) một linh mục phạm tội lạm dụng tình dục.
Hồng y Castrillón cũng
chính là viên chức đứng đàng sau lá thư nổi tiếng năm 1997 (dưới triều Gioan
Phaolồ II) của Vatican gửi cho các giám mục Ái Nhĩ Lan để chống lại
chánh sách “bắt buộc phải báo cáo” (cho cảnh sát) của các giám mục nầy.
■ Trường hợp của linh mục đã mất người Mễ Tây Cơ tên là Marcial Maciel
Degollado, sáng lập viên dòng tu Legionaries of Christ thường
được các phe chỉ trích giáo hoàng trưng dẫn. Theo đó, năm 2006, dòng tu nầy
đã xác nhận rằng linh mục Maciel đã phạm tội lạm dụng tình dục các cựu thành
viên của dòng tu, cũng như có con vô thừa nhận với nhiều người đàn bà mà ông
đã quan hệ lâu dài.
Linh mục Maciel, trong nhiều năm, đã là một người được Gioan
Phaolồ ưa thích (a favorite of John Paul) nhờ lòng trung
thành với La Mã và nhờ thành công trong việc xiễn dương lòng ham thích làm
linh mục.
■ Một trường hợp tương tự như thế liên quan đến Hồng y Hans Hermann
Groer, mất năm 2003, tại thủ đô Vienna của nước Áo. Hồng y Groer từ chức năm
1995 sau khi phải đối diện với những lời tố cáo về lạm dụng tình dục, nhưng
ông đã không bị Giáo hội trừng phạt gì cả.
Vào tháng 5 năm 2010, người thay thế ông Groer làm Hồng y ở Vienna là
Hồng y Christoph Schonborn đã cho biết rằng một viên chức cao cấp của Gioan
Phaolồ đã ngăn chận cuộc điều tra (blocked the
investigation). (Hồng y Schonborn sau đó xin lỗi vì đã công khai khiển
trách một hồng y đồng nhiệm, nhưng ông vẫn không chịu rút lui lời buộc tội).
Những người binh vực cho Gioan Phaolồ II thường đưa ra hai luận điểm:
● Thứ nhất, họ nói rằng Giáo hội đang trong quá trình học hỏi (learning
curve) cách đối phó với hiện tượng lạm dụng tình dục của linh mục cho
nên phê phán Gioan Phaolồ bằng những tiêu chuẩn hôm nay là không công bằng (unfair
to judge John Paul by today’s standards).
Thực ra, chính Gioan Phaolồ II là người phát động quy trình cải cách giáo
hội vào năm 2001 qua việc ban hành một số điều lệ nhằm tập trung trách nhiệm
(giải quyết) cuộc khủng hoảng vào Bộ Tín lý Đức tin của Vatican, một cơ quan
về giáo lý đầy quyền lực lúc bấy giờ do Hồng y Joseph Ratzinger, mà bây giờ
là Giáo hoàng Benedict XVI, chủ trì. Gioan Phaolồ cũng chấp thuận một thủ
tục nhanh chóng nhằm đưổi các linh mục lạm dụng ra khỏi chức linh mục.
Nếu những biện pháp đó bị trì trệ từ năm 2001 đến 2005 là chủ yếu có thể
giải thích do Giáo hoàng bị bệnh Parkinson kéo dài – đó là giai đoạn mà
những đóng góp của ông không còn có tính điều hành nữa (no longer
governance), ngoài chuyện trình bày cho thế giới một tấm gương chịu
đựng đau đớn một cách có phẩm giá.
● Thứ nhì, những người ngưỡng mộ Giáo hoàng Gioan Phaolồ II cho rằng phải
hiểu cuộc khủng hoảng tình dục nầy trong bối cảnh của cuộc cải cách Linh mục
của Giáo hoàng. Vào năm 1978, khi Gioan Phaolồ được bầu lên, hơn
45,000 linh mục đã cởi áo tính từ Công đồng Vatican 2 (1962-1965).
Gioan Phaolồ đã đảo ngược được tình thế, trình hiện một tấm gương cá nhân
về đời sống linh mục và gợi hứng cho một thế hệ mới sẵn sàng đứng lên “qua
con người của đấng Giêsu”. Những người binh vực Gioan Phaolồ cho rằng những
linh mục nào nắm bắt được nội dung đó thì sẽ ít cơ may phạm tội lạm dụng (less
likely to commit abuse).
Theo người viết tiểu sử các giáo hoàng George Weigel thì nếu chỉ nhắm vào
những trường hợp cá nhân (tội lỗi) như linh mục Mễ Tây Cơ Maciel mà không lý
đến toàn bộ cách tiếp cận đời sống linh mục của Giáo hoàng Gioan Phaolồ là “bất
cân xứng một cách lố bịch dù đứng từ quan điểm lịch sử nào”.
Chúng ta không có lý do để tin rằng cuộc khủng hoảng lạm
dụng tình dục của Công giáo sắp đến hồi kết. Chỉ mới mấy ngày trước đây,
một quan tòa liên bang tại tiểu bang Oregon (Mỹ) đã yêu cầu Vatican trao
những tài liệu trong một vụ án liên quan đến một Linh mục bị tố cáo lạm dụng
tình dục nhưng đã chết từ năm 1992. Đây là lần đầu tiên một tòa án Mỹ ban
hành một án lệnh như vậy, và động tác nầy có thể sẽ dẫn đến một cuộc tranh
luận ngoại giao (diplomatic row) vì Vatican là một quốc gia có
chủ quyền theo công pháp quốc tế.
Loại động thái như vậy sẽ có thể làm cho cuộc thảo luận về di sản của
Giáo hoàng Gioan Phaolồ còn sống mãi trong tâm trí của các nạn nhân, các
luật sư, những nhà viết sử và các học giả.
Tuy nhiên, ít nhất cho đến nay, cuộc tranh luận đó hình như không tạo nên
rạn nứt gì trong mối nhiệt tình của quần chúng đối với vị cố giáo hoàng nầy.
Một cuộc thăm dò của trường Cao đẳng Marist và tổ chức Knight of Columbus
trong tuần nay cho biết 74% người Mỹ, và 90% tín đồ Công giáo Mỹ, xem Gioan
Phaolồ II l à một ứng viên xứng đáng cho việc phong thánh.
Tại La Mã, người ta cho rằng sẽ có hơn hai triệu người tham dự vào những
hoạt động liên hệ đến phong thánh trong tuần nầy; và cả một kỹ nghệ ăn theo
gồm sách, tài liệu, lịch, chùm chìa khóa, và những đồ kỷ niệm khác để lưu
niệm Gioan Phaolồ II.
Tòa thánh Vatican luôn luôn nhấn mạnh rằng tuyên bố một giáo hoàng trở
thành thánh không có nghĩa là phê chuẩn những chọn lựa chính sách của triều
đại vị đó. Ngược lại, điều đó có nghĩa là dù vị Giáo hoàng đó có nhiều thất
bại gì chăng nữa, tận cùng, ông ta là một người thánh thiện (despite
whatever failures occurred, he was at bottom a holy man). Đối với trường
hợp của Gioan Phaolồ II, rất nhiều người hình như sẽ sẳn sàng nói “Amen!”