VĂN HÓA TÔN GIÁO

Trí Hải

Gửi bài này cho bạn bè 22 tháng 3, 2008

 

LTS: Nếu bỏ đi những nhận xét có thể chủ quan về các tổ chức hay nhân vật tôn giáo được đề cập, dẫn dụ trong bài, ý chính còn lại của bài viết có giá trị thực tế và văn hóa như chính một tôn giáo Á Đông phải là như thế. Thật ra danh từ "tôn giáo" rất "tôn giáo" của Tây phương không thể áp dụng cho đạo Phật, một nghệ thuật sống, một triết lý văn hóa nơi nó được nảy nở. Sách hiếm xin giới thiệu bài viết sau đây của tác giả Trí Hải trong khung cảnh phác họa như trên. (SH)


 

Mỗi đất nước, xã hội, nhóm người có một nội dung và hình thức sinh hoạt riêng gọi là văn hóa. Cũng tương tự như thế, các tôn giáo có một lý thuyết về đời sống tâm linh, về cách uốn nắn rèn luyện và một hình thức thờ phụng nguyện cầu riêng gọi là “Văn Hóa Tôn Giáo.”

Đạo Phật, đạo Chúa, đạo Hồi, đạo Ấn, đạo Thờ Phụng Tổ Tiên… đều có một lối nhìn vũ trụ và một cách thế ứng xử với con người và xã hội nhân sinh riêng nên tôn giáo nào cũng có một quy ước văn hóa riêng của mình. Thậm chí, có những hiện tượng tôn giáo nhất thời như những “ông đạo” hay “bà đạo” tiểu xảo mượn từng mảnh lý thuyết của các tôn giáo nổi tiếng để khâu vá thành một chiếc áo tôn giáo “vá chằng vá đụp” riêng của mình thì vẫn có một hiện tượng “văn hóa tôn giáo” riêng của họ. Như một thí dụ điển hình của văn hóa tôn giáo là Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam.

Đạo Phật Việt Nam được truyền thừa và phát triển trong một dòng chảy chung của Phật giáo thế giới. Tuy nhiên, đạo Phật Việt Nam (ĐPVN) hiện nay, sau hơn hằng chục thế kỷ du nhập và tương tác với đời sống hiện thực của đất nước và con người Việt Nam, đã định hình riêng một hiện thể đặc thù, có một nền văn hóa riêng: Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam.

Thử nhìn quanh hiện trạng Phật giáo thế giới. Có thể nói rằng, đạo Phật Việt Nam có một nét đặc trưng hiếm hoi giữa lòng thế giới là đã thể hiện một tinh thần vừa mềm dẻo, lại vừa cứng rắn; vừa dang tay đón nhận, lại vừa nắm giữ nét độc đáo cho riêng mình. Không có hệ thống hay bộ phái Phật giáo nào trên thế giới mà ba nhánh chính của toàn bộ lý thuyết và hành đạo nhà Phật là Thiền Tông (tiểu thừa), Tịnh Độ Tông (đại thừa) và Mật Tông lại kết hợp uyển chuyển hài hòa như trong đạo Phật Việt Nam. Chỉ trong một bài kinh ngắn thường nhật như Tịnh Độ, Cầu An thôi, thì cũng đã có đủ Đại Bi, Bát Nhã, Thần Chú và Diễn Kệ kết hợp nhau trong một trình tự đầy chiều sâu của tâm linh và tư tưởng. “Mới tới: Đại Bi… Sắp đi: Bát Nhã!” là một tinh thần nhập thế cầu nguyện cứu độ diễn ra đồng thời với tinh thần xuất trần giải thoát căn bản nhất của tín lý Đại thừa.

Khi một đất nước hay một quần thể xã hội nào đó xuống cấp hay suy vong thì hậu quả trực tiếp tất nhiên là khung cảnh văn hóa làm nền cho tập thể đó cũng suy đồi theo.

Nhìn lại Phật giáo Việt Nam trong 50 năm qua, bên cạnh sự phát triển về chiều rộng, chiều sâu đáng tán thán trong nội bộ thì rõ ràng sự xuống cấp văn hóa đang sụt lở ngày một trầm trọng. Nguyên nhân chủ lực có tác động trực tiếp làm cho Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam suy thoái trong vòng 50 năm qua và đang tới hồi “cao điểm” như hiện nay là do sự lẫn lộn nhập nhằng giữa tôn giáo và chính trị; giữa giáo quyền và thế quyền. Những người có thẩm quyền trong đạo Phật đã để cho tôn giáo mình bị hạ thấp ngang tầm với chính trị mà vẫn cứ mang ảo tưởng là đường tu của mình đang tiến, đang được “nâng cấp” bởi sức mạnh phàm tục thế quyền.

Tại Việt Nam, kể từ sau năm 1975, nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã đối trị với Phật giáo như đương đầu với một thế lực vọng động và nguy hiểm. Đây là một phản ứng chẳng có gì đáng ngạc nhiên bởi vì từ triết lý nền tảng của triết học Mác-Lênin, tôn giáo là một đối thể tinh thần bạc nhược, ru ngủ quần chúng cản đường cách mạng cần phải khống chế, trấn áp hay lý tưởng nhất là loại bỏ. Mỉa mai thay, hơn 30 năm sau, vẫn còn có người vô tư hay vô tình đến độ ngây ngô khi cố đòi hỏi “tự do tín ngưỡng” thật sự tại Việt Nam theo tinh thần dân chủ pháp trị phương Tây. Một sự đòi hỏi và hy vọng nghịch lý chẳng khác gì kêu đòi nước phải chảy trong lửa!

Thực tế là ngay từ những ngày đầu tiên thiếp lập quyền lãnh đạo trên toàn đất nước, chính quyền CSVN đã kết hợp chặt chẽ cả 3 mặt gồm Uỷ Ban Tôn Giáo trung ương, Mặt Trận Tổ Quốc và Công An để đưa các tu sĩ và tín đồ Phật giáo nói riêng và tất cả các tôn giáo tại Việt Nam nói chung vào một cái khung “tập trung học tập cải tạo” vô hình về mặt sinh hoạt xã hội nhưng lại cực kỳ chặt chẽ về mặt tổ chức và lãnh đạo. Sách lược cổ điển nhất của thời kỳ khủng bố Trung Cổ và Gulac ở Liên Xô sau cách mạng 1917 lập tức được áp dụng là: “Lấy phản động diệt phản động, lấy thần quyền diệt thần quyền!” Dẫu là người vô tình nhất cũng thấy được cái vòng tròn lẩn quẩn về hiện tượng các tu sĩ tôn giáo bị phân loại, bị bắt, bị giảm lỏng, bị tập trung rồi được thả ra, được o bế, được trọng dụng hay bị bắt lại… đã xẩy ra liên tục tại Việt Nam suốt 30 năm qua. Tất cả chỉ là sự biểu hiện sách lược tạo mâu thuẫn, xung đột “lấy thần quyền diệt thần quyền” chứ chẳng có gì mới mẻ. Lại mỉa mai thay, có người bị chóa mắt bởi trò xiếc chính trị mà tin như là sự thật giữa đời! Tội tình thay cho những tu sĩ các tôn giáo, cứ mãi đem cái nhìn thánh thiện, cái tâm nhân ái, cái tình chân thật của… đạo mà “đương đầu – và cũng đồng nghĩa với chìm đắm” trước thực tế ngập tràn ma vương quỷ sứ nầy.

Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại cũng không thoát khỏi cái “quán tính chính trị” ma vương từ trong nước dội ra. Đời sống thực dụng và kinh tế chiếm lĩnh mọi giá trị nhân sinh, kết hợp với sức hút văn hóa nặng tính cá nhân chủ nghĩa phương Tây đã bày ra một thử thách rất mới và rất lớn đối với các tu sĩ Phật giáo Việt Nam. Trong khi các tu sĩ đạo Chúa may mắn có được chỗ dựa vững chắc của giáo hội mang tầm cỡ quốc tế, vừa có thực lực về kinh tế, vừa có sức mạnh về tổ chức thì các tu sĩ Phật giáo vẫn còn mơ màng với “truyền thống” – Con ai đem bỏ chùa nầy – trên vùng đất mới. Các ngài chỉ trang bị độc nhất một tấm lòng từ bi và một lý tưởng nương mình nơi cửa Phật. Nhưng thực tế đáng ưu tư là những “cửa Phật” đó, phần lớn lại do người phàm cầm vận mệnh đóng và mở. Nếp tu hành nơi vùng đất mới lại bị chi phối bởi những người cầm quyền đóng và mở “cửa Phật” như thế. Vô hình chung, cái lồng chính trị vẫn không buông tha nếp sống tu hành.

Xã hội thực dụng và mang nặng bản chất cá nhân chủ nghĩa là một trở ngại lớn cho một nếp sinh hoạt tự quản tăng đoàn, tự viện. Các tu sĩ Phật giáo chỉ dựa vào nhau thời gian đầu chân ước chân ráo mới ra nước ngoài. Về sau, hầu hết các tu sĩ trẻ tuổi cũng như cao niên đều có khuynh hướng lập chùa riêng, lên làm trụ trì. Hậu luận không tránh được là tập thể tín đồ phò Thầy hay Sư Cô xây dựng cơ sở chùa chiền, tự viện nghiễm nhiên trở thành thế lực nòng cốt. Khác xa với những ngôi chùa truyền thống Việt Nam, chùa chiền phương Tây là một “con nợ” đeo đẳng thường xuyên và phần lớn là suốt đời đối với tu sĩ và Phật tử sinh hoạt trong chùa. Đã có một vị Thượng Tọa trụ trì ở Mỹ làm thơ tự thán rằng:

Tu hành không biết đọa hay siêu,

Đêm ngủ nằm mơ chỉ thấy “biêu.” (bills - giấy đòi nợ)

Tiền điện, tiền ga… e nghẹt thở,

Thuế nhà, thuế đất… sợ tiêu diêu!

Trong một hoàn cảnh bức bách như thế, muốn sống còn, tu sĩ phải chiều theo thế tục. Trong nhiều trường hợp, chánh kiến tu hành phải nhường bước cho vọng kiến chính trị.

Thực tế đáng buồn đã cho thấy rằng, trong nước cũng như ngoài nước, lý tưởng giải thoát cao thâm lâu dài của Phật giáo Việt Nam đang bị hạ thấp xuống ngang tầm với phương tiện thô bạo và thủ đoạn của những trò đấu tranh chính trị nhất thời.

Khi một khi đạo Phật đã bị hạ thấp thành chính trị như vừa trình bày thì chùa chiền sẽ trở thành pháo đài phục vụ cho những sách lược đấu đá nhau của các thế lực chính trị. Đồng thời nhà tu sẽ sẽ biến thành phương tiện sai khiến trong gọng kềm của những bàn tay hoạt đầu chính trị.

Sau năm 1975, một tổ chức Phật giáo được thành lập năm 1981 trong nước có tên là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Tổ chức này tự nhận là một giáo hội đại diện chính thức cho toàn thể Phật Giáo Việt Nam. Đấy là một sự cường điệu danh nghĩa thiếu sự tôn trọng tính văn hóa tôn giáo, vì thực chất đây chỉ là một tập hợp tu sĩ Phật giáo: Có người tự nguyện, có người bị áp đặt hoặc là tạm thời “nhắm mắt giả dại để qua ải”. Nhưng tất cả đều không thoát ra khỏi sự khống chế của nhà cầm quyền. Vì vậy, tổ chức giáo hội Phật giáo Việt Nam đang trở thành một công cụ tôn giáo trang trí cho thế quyền hơn là một cơ chế tôn giáo chân chính đúng nghĩa.

Một cơ chế khác lâu đời hơn, đó là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, được thành lập ngay sau thời kỳ Phật giáo tranh đấu 1963, quy tụ nhiều danh tăng Phật giáo đương thời. Nhưng tinh thần “thống nhất” đã bị phân hóa ngay sau khi các tu sĩ trong hàng giáo phẩm liên tục đưa đạo Phật xuống đường và kéo đạo Phật vào quỹ đạo chính trị vào những năm 60. Sau 1975, giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất chỉ còn là một biểu tượng lương tâm của Phật giáo Việt Nam không chấp nhận Cộng sản. Hai vị danh tăng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ trở thành hai nhân vật tượng trưng cho tâm bồ đề kiên cố của hàng Phật tử xuất gia trước hoàn cảnh đổi thay. Nhưng đã trải qua hơn 30 năm, thực chất đấu tranh của giáo hội PGVN Thống Nhất trong nước không tạo được một tác dụng tích cực trong công cuộc chấn hưng và xây dựng đạo pháp vì thực lực quá mỏng manh và hoàn toàn bị nhốt trong chiếc lồng sắt của “bạo lực cách mạng.”

Các vị tu sĩ Phật giáo ra ngoài nước trong hơn 25 năm qua đã cố gắng tập hợp nhau lại dưới cơ chế Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hải ngoại – tức là Văn Phòng 2 Viện Hóa Đạo – nhưng có vẻ như “lực bất tòng tâm”. Sau một thời gian dài hàng chục năm hoạt động với bao nhiêu sự thay đổi nhân sự. Cụ thể là sự tham gia năng nổ và sự rút lui âm thầm của nhiều Tăng, Ni cao danh và cao niên trong một thời gian dài trắc nghiệm nhưng chưa mang lại được một kết quả cụ thể nào đáng kể. Sinh hoạt Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại căn bản vẫn là tinh thần tự phát và tự quản của quần chúng Phật Tử theo từng đơn vị chùa chiền riêng. Người ta có thể không đồng ý với nhận định của Cư sĩ Liên Hoa Tâm trên báo Học Phật số 72 - Xuân Mậu Tý 2008, nhưng người ta không thể phủ nhận trước một thực tế quá rõ ràng như vị Cư sĩ nầy đã viết: “Hoàn cảnh tôn giáo đặc thù của Âu Mỹ ngày nay đã tạo nên hiện tượng là mỗi ông Mục Sư là một vị Giáo Hoàng trong phạm vi nhà thờ giáo phái của mình; và mỗi vị Trụ Trì chùa là một đức Tăng Thống trong phạm vi ngôi chùa của mình. Lý do đơn giản là vì mỗi nhà thờ Tin lành hay mỗi chùa Phật giáo ở hải ngoại là một đơn vị tự quản về tài chánh, về lễ nghi, về nội dung hành đạo…”

Gần đây nhất, có một số quý vị tu sĩ Phật giáo muốn tách riêng ra khỏi những quỹ đạo mang xu hướng chính trị tổ chức đại hội ở Canada lấy tên là “Về Nguồn.” Nhận định Về Nguồn ra ngoài giới hạn của bài viết nầy.

Sau ngày nội bộ Phật giáo Việt Nam thống nhất bị dao động sau “Giáo Chỉ số 9” thì một số tu sĩ cựu thành viên trong GHPGVN Thống Nhất phản ứng chống lại bằng cách họp đại hội ở Nam California, nước Mỹ để thành lập một tổ chức khác có tên gọi là “Cộng Đồng Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại.”

Với người Phật tử nói chung thì tổ chức tôn giáo nào cũng tốt, miễn là duy trì được tinh thần “tùy duyên bất biến” và xứng hợp với các tiêu chí của Tam Pháp Ấn cơ bản trong đạo Phật. Dẫu là một tổ chức Phật giáo mà còn phải bị phiền não của sự chấp trước về danh từ, về quyền lực, về phân biệt nhị nguyên thì vẫn còn là phi Phật giáo.

Trong thời gian vừa qua, văn hóa Phật Giáo trong và ngoài nước đã bị sự xâm lấn của những thế lực phi Phật giáo vào trong nội bộ Phật giáo. Cụ thể là sự tôn xưng quá đà những chức danh, công đức không có thật hay sự chụp mũ bừa bãi, ném rác vô tội vạ trên môi trường truyền thông đại chúng. Sự chống báng các nhân vật Phật giáo khởi từ những nguồn vọng động vô minh và nặc danh là hành động đi ngược lại với tinh thần Từ Bi, Trí Tuệ tinh túy của đạo Phật. Thực tế đã chứng minh rằng, gió chướng dẫu đến từ phía nào thì cũng không thể biến trầm hương thành gỗ mục được. Nên dẫu cho trước mắt có những hiện tượng hý luận nhẹ nhàng hay thô bạo ném qua ném lại với dụng ý quy chụp các tu sĩ, Phật tử với Cộng sản thì cũng chẳng vì thế mà những cánh sen tinh khiết phải vấy bùn.

Mong rằng, dù ở vào bất cứ v ị thế nào – Là chính quyền Việt Nam đương nhiệm, là hàng chức sắc Phật giáo, là tu sĩ thầm lặng, là Phật tử bình thường, là người đứng ngoài ủng hộ hay chống báng Phật giáo... – thì mỗi người trong chúng ta đều muốn thấy, muốn tiếp cận một Đạo Phật thực sự để biết chân dung đạo đó như thế nào trước khi có thái độ -- dẫu là thái độ nhẹ nhàng như khen chê hay thái độ quyết liệt muốn đạp đổ -- Muốn được nhìn một đạo Phật thật sự thì xin hãy nhìn qua lăng kính Văn Hóa Phật Giáo. Nghĩa là dùng phương tiện đối thoại, phê phán, chia sẻ… công bằng, xứng hợp với văn hóa tôn giáo. Đem phương tiện và nội dung phi tôn giáo để bàn về tôn giáo là tự mình cố tình bịt mắt để đi sai đường chứ không phải tôn giáo không có đường đúng để khách ghé đến thăm.

Trí Hải

Mãn Nguyệt Am 3-08

Email: Mannguyetam@yahoo.com

 

Trang Tôn Giáo