 |
12 tháng 7, 2008
|
Ai văn của Môn đồ Pháp quyến
Trong Lễ Tưởng Niệm và Thọ Tang Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang -
Đệ Tứ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất - tại thành phố
Santa Ana vào lúc 3 giờ chiều Chủ Nhật, ngày 6 tháng 7 năm 2008

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật
Kính bạch Giác Linh Thầy,
Từ nơi xa xăm xứ người, chúng con vọng về quê hương đồi núi Nguyên
Thiều Tu Viện, thành kính đảnh lễ Giác Linh Thầy, trong giờ phút tử biệt
ngàn năm. Chúng con phủ phục vào đất, để nghe đất mẹ đang thổn thức thương
đau. Cả đất trời dường như tịch lặng, khi ngưng đập rồi một con tim vĩ đại,
băng rồi một vì sao rạng ngời, khép lại rồi, một đời người bất diệt thiên
thu.
Nghĩ đến Thầy, chúng con liên tưởng đến nhiều bài học lớn mà Thầy đã
dạy chúng con qua cuộc sống của một Đạo sư.
Một là: Xin đừng Thù hận khi phải sống giữa những người thù hận
quanh ta. Bao nhiêu năm tù trong một chế độ. Hàng chục năm dài lưu đày
trong ngôi chùa nhỏ xa xăm. Thầy không khởi tâm thù hận, sân si dù cửa
trước, ngõ sau đều có người chực chờ hăm hở, mắt nhìn Thầy, một tội đồ dân
tộc còn đây. Ai giam Thầy giữa ruộng đồng Hội Phước. Ai nhốt Thầy những ngày
tháng Phan Đăng Lưu. Ai gông Thầy trong cuộc tìm độc lập cho non sông. Ai
ném Thầy vào nhà giam vì đòi hỏi bình đẳng giữa các Tôn Giáo. Kệ, muôn vạn
lần Thầy vẫn kệ, dù người đó là ai, súng dí vào Thầy, hay trăm lời nguyền
rủa, Thầy vẫn trải lòng "Từ" đến kẻ cuồng si. Thầy đã cảm hóa nhiều người
nhìn Thầy, một kẻ thù của chế độ, và nơi Thầy, thầy chỉ thấy có vô minh mà
không có người cuồng nộ.
Hai là: Ai trói buộc ai. Bằng trí tuệ viễn chiếu, Thầy chẳng
thấy mình bị trói buộc bởi ai. Nếu được đi lại thì Thầy sống đời du hóa, độ
sanh. Nếu bị giam thì Thầy biến nhà giam thành nơi Thiền Thất, ngày đêm đọc
Đại Tạng và quán chiếu nỗi khổ của dân sinh. Hơn trăm ngàn trang kinh trong
Đại Tạng, Thầy đã đọc qua, trong những năm dài bị nhốt. Sách Thầy được
viết, Sớ Thầy được soạn giữa lúc đày ải này đây. Thầy đã thong dong trong
bốn bức tường cô lập. Trí Ngài rực sáng giữa ruộng đồng hiu quạnh, tịch
liêu. Chẳng có nhà tù cho một tù nhân bị nhốt. Chẳng trói được người dù
người bị trói ngày đêm. Thầy đã sống và thong dong trong sự sống của một tù
nhân nhiều thập kỷ.
Ba là: Xin đừng có gì cho riêng Ta. Nhiều lần Thầy khuyên dạy
chúng con. Thầy không muốn có gì riêng cho Thầy, dù đó là chùa hay tử đệ.
Thầy cho rằng, hãy dốc lòng lo cho Giáo hội và Phật pháp mà thôi. Từ tuổi
đôi mươi cho đến ngày tàn hơi thở, tiếng thác đổ trong tâm thức của Thầy là
sự tử sinh của Giáo hội. Là sự an bình của Tăng ni. Là sự vực dậy của hai
ngàn năm Phật Giáo Việt. "Đây là Kinh xin hãy học; Đây là Đạo xin hãy
sống; Đây là dân tộc xin hãy cưu mang", Thầy đã nhiều lần lập đi lập lại
thông bạch này trong nỗi đắng niềm cay. Cho đến giờ phút này, nhiều lần
huynh đệ chúng con thưa Thầy xây tháp để lúc thầy viên tịch có chỗ di quan.
Nhưng Thầy đều từ chối. Thầy dạy chúng con, xin để đời Thầy về với hai bàn
tay trắng cùng vài bộ đồ củ kỹ đơn sơ. Tháp rồi cũng mòn hư theo năm tháng,
Thầy dạy, dùng tiền ấy lo Tăng chúng tu học thì hơn. Chỉ có một khoảnh đất
nhỏ hoang sơ ven triền núi Tu Viện sẽ làm nơi an nghỉ của Thầy thiên thu.
Thầy yếu, nhưng sâm Thầy chẳng uống, Thầy sợ tốn kém của đàn na. Trời nóng,
Thầy không cho mở máy lạnh vì Thầy nói còn lắm kẻ lầm than. Đời Thầy là
vậy. Sự sống của Thầy là vậy, cho dù đương vị của Thầy như hôm nay.
Bốn là: Vì ai và cho ai? Kính lạy giác linh Thầy. Vì Đại Bi Tâm
mà Thầy gánh gồng Giáo hội. Thầy đã làm bia cho kẻ bắn, người đâm. Thầy là
bức tường để che chở cho Đạo Phật Việt Nam. Thầy không thấy có hố ngăn giữa
những màu cà sa được khoát. Vì ai? Thầy đi đảnh lễ những người đồng môn từ
Bắc vào Nam. Vì ai? Thầy đứng giữa trời quê hương, dang tay mời gọi: "Hãy
xít lại gần nhau, hỡi những người huynh đệ chúng ta". "Hãy vì Phật
Giáo Việt Nam và cho Phật Giáo Việt Nam, đừng để một thế lực nào chi phối
chúng ta". Ai có nghe chăng tiếng rống một của con Sư tử già cuối đời
vọng lên giữa ba đào nghiệt ngã.
Rồi hôm nay Thầy ra đi, Thầy còn để lại gì cho chúng con, và đây một
bài thơ, Thầy viết cách ba mươi năm trước:
Tuổi sáu mươi dư cũng đã già
Thân danh sự nghiệp chuyện ngày qua
Mai về cõi Phật lòng thanh thót
Để lại trần gian chút bóng ta.
Cái bóng mà Thầy để lại cho chúng con là Tuệ Giác nhìn xa, là vững tay
chèo giữa sóng vỗ cuồng si, là mở rộng lòng cho muôn sông cùng đổ về biển,
là đơn sơ như mảnh vụn của chiếc cà sa.
Thầy ơi, Thầy còn đó hay Thầy không còn đó, nhưng lòng con, con nghe
rõ tiếng "Gọi Về". Về đâu rồi đi đâu?
Thành kính đảnh lễ Giác Linh Thầy.
NHẤT TÂM ĐẢNH LỄ: GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT ĐỆ TỨ TĂNG
THỐNG KIÊM GIÁM VIỆN TU VIỆN NGUYÊN THIỀU THƯỢNG HUYỀN HẠ QUANG ĐẠI LÃO HÒA
THƯỢNG TÂN VIÊN TỊCH CHI GIÁC LINH.
Ontario ngày 6 tháng 7 năm 2008
Tỳ Kheo Thích Minh Dung
(Hoang Thuc An gửi 12Jul08) |