Có lẽ đó là từ gần
đúng nhất (dù vẫn chưa đủ mạnh) để nói về hiện tình Giáo Hội Hà Lan! Đất nước
nầy ngoài những chuyện như cho phép sử dụng cần sa (ma túy ‘nhẹ’), những ổ mại
dâm có đăng ký, còn đi tiên phong trong việc hợp pháp hoá hôn nhân đồng tính, an
tử. 41% dân chúng một đất nước mà mới cách nay mấy thập niên còn rất Kitô giáo,
nay không còn tin vào đạo nào. 58% dân Hà Lan không còn biết chính xác Noel là
gì. Có năm như năm 1968 không có lấy một linh mục được truyền chức. Trong khi
đó, với làn sóng nhập cư, với 900.000 người theo đạo Hồi, nhà thờ Hồi giáo mọc
lên mau lẹ, rất nhiều và ở khắp nơi. Kèm theo đó là nguy cơ giới trẻ sẽ sa vào
thuyết tương đối vốn đang chi phối Tây Phương.
Tất cả những điều
nầy không thể không có nguyên do và không thể không có người chịu trách nhiệm.
Giáo Hội Công giáo Hà Lan phải đấm ngực ăn năn và nhận hết thiếu sót vô cùng to
lớn về mình. Hai thế hệ dân Hà Lan, cũng là hai thế hệ Kitô hữu bị bỏ quên, đánh
mất. Hẳn không ai quên được con số 100 linh mục Hà Lan đã cởi áo dòng ngay sau
Công Đồng Vatican II, đòi hủy luật độc thân linh mục, gây náo loạn trong toàn
Giáo Hội. Trách nhiệm ở các giám mục Hà Lan. Trách nhiệm không kém nặng nề là ở
các tu sĩ hai Dòng Đa Minh và Dòng Tên, những ‘ngọn đuốc đức tin” nay trở nên
bóng tối che phủ đức tin của giáo dân Hà Lan còn trung thành với Giáo Hội.
Họ chế ra những
thánh lễ không cần có linh mục cử hành hay chủ sự, mà chính cộng đoàn hiện
diện, kể cả những người ngoài Kitô giáo, cùng nhau ‘thánh hiến”. Bí tích không
còn nữa. Mới đây, một trong những người đã gây ra không ít sai lầm, nhà thần học
Dòng Minh Edward Schillebeeckx, qua đời ở tuổi 95, nghĩa là vị nầy có đủ thời
gian để chứng kiến và nghiền ngẫm những hậu quả do những người [của Giáo Hội -
ecclésiatique ] như vị ấy gây ra.Lươn bò để nhớt lại! Hối bất cập! Đây là một
bài học cho các Giáo Hội địa phương : những gì đã xảy đến cho Giáo Hội Hà Lan,
hoàn toàn có thể xảy đến cho từng Giáo Hội ở mọi quốc gia.
Ở HÀ LAN, KHÔNG CÒN CHỖ CHO CHÚA HÀI NHI GIÊSU.
HOẶC, NGƯỢC LẠI, LÀ CÓ.
Những thánh đường không còn là những thánh đường nữa, mà chỉ
là những bất động sản, những cửa hàng hoặc những nhà thờ Hồi giáo. Một đạo Công
giáo có nguy cơ biến mất. Tường thuật ở Amsterdam và phỏng vần Đức Hồng Y
Simonis : “Chúng ta phải bắt đầu lại từ số không”.
Sandro Magister
Mới cách đây một nửa thế kỷ, Đạo Công giáo Hà Lan và xứ
Flamand tỏ ra mạnh mẽ, giàu truyền thống, tích cực trong các hoạt động truyền
giáo. Một trong các biểu tượng là Cha Josef Damiaan de Veuster (1840 – 1889), vị
tông đồ các bệnh nhân phong cùi trong một hòn đảo Thái Bình Dương, được Đức Giáo
Hoàng Biển-Đức XVI tôn vinh hiển thánh ngày 11.10.2009
Cách đấy mấy hôm, trước lễ Giáng Sinh, một biểu tượng lớn
khác của đạo Công giáo nầy qua đời ở Nimégue, thọ 95 tuổi : nhà thần học Dòng Đa
Minh Edward Schillebeeckx, người Hà Lan gốc Flamand.
Nhưng một biểu tượng không phải của sự triển nở, mà là của
sự điêu tàn gây ấn tượng mà Giáo Hội Hà Lan và xứ Flamand biết đến trong hạ bán
thế kỷ vừa qua.
Sự biến hoá nầy, Schillebeeckx đã phản ảnh nó trong cuộc
đời là thần học gia của mình. Trong những năm Công Đồng Vatican II và những năm
đầu hậu Công đồng, ngài đã là một ngôi sao tiếng tăm khắp thế giới, một nhà vô
địch của thần học mới hoà hợp với nền văn hoá chi phối nầy. Nhưng rồi tiếp sau
đó ngài gần như bị lãng quên, ngay cả với những người Công giáo trước đó từng vỗ
tay ca ngợi ngài.
Sự lãng quên mà ngài rơi vào, đi đôi với sự lãng quên,
trong khoảng thời gian đó, đánh dấu Đạo Công giáo Hà Lan, ngày càng lãng quên
chính mình, ngày càng bị tục hoá, ngày càng có nguy cơ biến mất.
Cuộc điều tra dưới đây cho thấy diện mạo hiện tại của Giáo
Hội Công giáo ở Hà Lan. Một đất nước mà ngày nay 41% dân số nói là họ không tin
đạo nào và 58% không cón biết Noel là gì. Một Giáo Hội trong đó các tu sĩ Dòng
Đa Minh và Dòng Tên hình dung trong đầu và đem ra thực hành những thánh lễ không
có linh mục cũng không có bí tích Kitô giáo, do chính các tín hữu hiện diện
‘thánh hiến” tập thề, chung quanh “một cái bàn cũng được mở ra cho những người
thuộc các truyền thống tôn giáo khác nhau”.
Tất cả những điều đó, trong khi cùng lúc, một thành phố như
Rotterdam bị Hồi giáo hoá rộng rãi, như trang web chiesa đã cho thấy trong một
bài viết gây sốc cách nay ít tháng.
Cuộc điều tra sau đây là của Marina Corradi, được đăng ngày
23.12 trong ‘Avvenire”, tờ nhật báo thuộc về HĐGM Ý. Cuộc điều tra tập trung
trên Amsterdam.
Tiếp theo đó là bài phỏng vấn ĐHY Adrianus Simonis, TGM danh
dự Utrecht.
Ở AMSTERDAM, CÒN LẠI NHỮNG GÌ CỦA LỄ NOEL?
Amsterdam đang vào lễ hội trong thời kỳ Noel nầy. Những ánh
đèn tráng lệ chiếu sáng con đường Damrak và quảng trường Dam, những đường trượt
patin nhung nhung đám thánh niên cười nói, những Ông Già Noel, nhạc “Jingle
Bells” phát ra từ các nhà hàng lớn đấy ắp thực khách. Nhưng cón lại gì của Giáng
Sinh trong đất nước nầy, một trong những đất nước bị tục hoá nhất Châu Âu và ở
đó, theo một thăm dò, 58% dân chúbg không biết chính xác điều gì diễn ra trong
ngày đó? Trong đất nước có 900.000 người Ả rập nhập cư trên 16 triệu dân và chỉ
tính riêng Amsterdam đã có 20 nhà thờ Hồi giáo?
Oude Kerk, thánh đường cỗ nhất thành phố, được xây dựng năm
1309, vươn lên ở trung tâm thành phố.. Chung quanh, có Red Light District, một khu
phố nóng. Trong những quầy kính nơi họ phơi mình, những cô gái mại dâm đến từ
Nam Mỹ và Đông Âu gõ vào kính để lôi kéo sự chú ý của người qua lại. Một số
trong đó đội mũ Ông Già Noel. Hãy nhìn họ và hãy thử tưởng tượng câu chuyện đã
dẫn họ tới đây. Họ mỉm cười, gợi cảm. Nhưng hàng ngàn ánh đèn sáng rực của thành
phố tạo ra một cơn say phủ lên sự vui vẻ giả dối của những đường phố nầy. Hãy đi
xa hơn nữa. Neuwe Kerk, thánh đường nơi các vua chúa Hà Lan được trao vương
miện, nay là một bảo tàng. ‘nhà thờ’ duy nhất của thành phố đầy người là nhà thờ
Khoa Luận giáo (Scientology), sáu tẩng ở ngay tâm thành phố. Người ta có thể
đọc được bảng niêm yết phía bên trong : “Viện công nghệ tôn giáo”.Những cuộc
kiểm tra stress miễn phí được mời chào. Rất đông người.
Thật lạ lùng, dãy thánh đường không còn là những thánh
đường nữa, mà là những bất động sản nhà ở, những hộp đêm, những nhà thờ Hồi giáo.
Hãy nhìn những người hốt rác, những cônh nhân gìn giữ đường phố, những người
phục vụ tiệm bánh pizza : hầu hết họ là người Maroc hoặc Thổ Nhĩ Kỳ. Gần 1 triệu
người. Và ngay cả nếu những người nhập cư đến từ các quốc gia Kitô giáo cũng
đông gần như vậy, thì người Hà Lan sợ tất cả những người theo đạo Hồi nầy. Đảng
cánh hữu dân túy (populiste) của Gert Wilders đứng thứ nhì về con số những ý
kiến thuận và những cuộc bầu bán sẽ diễn ra trong ít tháng tới. Hai trên ba
người Hà lan cho là có aú nhiều dân nhập cư. Ở vùng ngoại ô, những khu phố như
Slotervaart là những khu nhà ổ chuột hoàn toàn là dân theo đạo Hồi, những nơi
hầu như không thể bắt gặp một người Hà Lan nào : họ đã bỏ đi tất cả. Và
Rotterdam, nơi tỷ lệ người theo đạo Hồi còn cao hơn nữa và thị trưởng là tín đồ
đạo Hồi, được một nhật báo Hoa Kỳ gọi là “Cơn ác mộng Âu - Ả rập” [Eurabie le
cauchemar]. Thực ra, có ít phụ nữ đội khăn ở trung tâm các thành phố Hà Lan hơn
là trogn một số khu phố ở Milan. Mặc dù những vụ ám sát van Gogh và Fortuyn đã
làm dân chúng Hà Lan chấn động và mặc dù có những lãnh tụ Hồi giáo cực đoan, đa
số người theo đạo Hồi dường như muốn được làm việc và sống trong hoà bình.
[Eurabia : thế giới Ả Rập thống trị Châu Âu. ND]
Quả thực nỗi lo sợ Âu - Ả Rập dường như chỉ là một kết quả
của một huện tượng còn riệt để hơn nữa : sự tục hoá gần như hoàn toàn của một
quốc gia vốn cho tới thế chiến thứ II, vẫn là Công giáo hoặc Tin Lành, nhưng sdù
sao vẫn là Kitô giáo. Một sự sụp đổ : ngày nay chỉ còn 7% người Công giáo đi lễ
ngày Chúa Nhật và 16% trẻ em được rửa tội. Hà lan là một quốc gia đi tiên phong
trong các hôn nhân đồng tính và an tử. Gaío sư Wim Peeters, dạy ở chủng viện
giáo phận Haarlem- Amsterdam nói : “ sau Công Đồng Vatican II, Giáo Hội Hà-Lan
đã gặp một cơn khủng hoảng sâu xa. Thế hệ thập niên 1950 đã ra đi và đã quên
giáo du6c con cái”. Việc dạy đạo đã bị bãi bỏ trong các trường học vào năm 1964.
Hai thế hệ người Hà Lan đã quên những điều căn bản nhất về Kitô giáo. Trên sổ bộ
chủng viện Haarlem, con số linh mục được truyền chức rơi mạnh cuối thập niên
1960. Vào năm 1968, không có lấy được một tân linh mục! Ông Peeters nói :” T6oi
cho rằng chúng ta chẳng có gì phải sợ hãi đạo Hồi, nếu như chúng ta là Kitô hữu.
Người ta thường có cảm tưởng rằng ngày nay người Hà Lan sợ đủ thứ : sợ trẻ em,
sợ người nhập cư. Nhưng sự sợ hãi chính là cái đi ngược với đức tin”.
Nếu người ta còn tìm kiếm Noel, thì có ở 40, Oudezijds
Voorburgwal, trong Khu Red Light, một cái cổng nhỏ. Ở đó, trên tầng cuối Viện
Bảo Tàng Amstelking, người ta tìm thấy một ngôi nhà thờ, một ngôi nhà thờ lén
lút, có niên đại từ thời bách hại do [phái Tin Lành] Calvin khi ấy cấm việc
phượng tự của Công giáo. Dưới mái nhà, một bàn thờ, một cây phong cầm, 10 ghế dài
nơi các tín hữu Công giáo lén lút đến. Nhà thờ có tên là “Ons’Loeve Heer op
Solder”, Đức Chúa yêu dấu của cái vựa. Chúa Kitô ở vựa - người ta tự hỏi – có
phải nay Noel ở Amsterdam là như thế?
Nhưng là vậy đó…Ngày nay có 45 chủng sinh ở chủng viện
Haarlem – Amstredam, điều nầy cũng phản ảnh một sự hiện diện mạnh mẽ của tân
tòng. Giám mục giáo phận, ĐGM Josef Punt, giải thích rằng ngày nay một cái gì đó
đã thay đổi so với cuộc khủng hoảng gay gắt nhất cách nay 20 hoặc 30 năm. Năm
1968, không có một linh mục nào đi ra từ chủng viện nầy, nhưng “hiện nay 15 tân
linh mục được truyền chức mỗi năm trong toàn đất nước Hà Lan, điều nầy giúp duy
trì quân số ở một mức ổn định. Trong giáo phận nầy, hằng năm có vài trăm người
xin chịu phép rửa tội. Người ta nhận thức một đòi hỏi mới, phát sinh từ một sự
cảm thấy trrống rỗng. Đã hẳn, đó là những con số yếu kém, Chúng ta là một Giáo
Hội thừa sai. Tất cả đều phải bắt đầu lại từ số không. Trong hững tu viện ở
ngoài thành phố, chúng ta lập ra những trung tâm truyền giáo cho những người đã
xa rời đức tin, nay muốn tái khám phá lại đức tin. Trong trường học Công giáo
Haarlem của chúng ta, chúng ta không thỏa mãn tất cả mọi lời xin đăng ký. Tôi có
cảm giác các bậc làm cha làm mẹ nầy, nếu không còn tin nữa, cũng bị chiáng ngợp
vì vẻ đẹp của Kitô giáo và ước ao có được nó cho con cái họ”.
Phải có đức tin để tin vào điều đó, trong thành phố nầy nơi
mà, trong những tháp chuông nhà thờ nay không còn là những nhà thờ nữa, những
cái chuông vang lên những điệu nhạc Noel êm ái. Hàng ngàn Ông Già Noel và không
có lấy một hang đá máng cỏ. Ngoại trừ một cái, nhỏ xíu, trong những trụ sở của Đội
Quân Cứu Thế (Armée du Salut), gần Ga Trung Tâm, nơi người ta phụ vụ các bửa ăn
cho người nghèo. Hai chục kẻ vọ gia cư chết cóng vì lạnh, những bình thủy khổng
lồ chứa cà phê nóng và máng cỏ bé xíu nầy. Cũng có một căn nhà nghèo ở 147
Eglentinstraat, gần như là ở ngoại ô. Người ta rung chuông, một nữ tu Dòng Mẹ
Têrêxa ra mở cửa. Có bốn nữ tu ở đây. Nơi nầy, mỗi sáng đều có thánh lễ và buổi
tối có kinh chiều. Một nhà nguyện không trang trí gì, hai nữ tu đang thờ lạy.
Dưới bàn thờ là một máng cỏ của hang đá.
Nhưng nếu ý nghĩa của Noel là một đòi hỏi, một sự chờ đợi,
thì người ta còn gặp được nó trong các đường phố thành phố nầy. Đó là chiếc ủng
trống rỗng mà trẻ em đặt trong lò sưởi đêm Thánh Nicolas, 05.12, với hy vọng có
quà. Đó là những người vô gia cư và nếu ta nhìn vào mắt họ, thì có cả những cô
gái mại dâm trong những quầy kính Khu Red Light. Đó là những cụ già ngập ngừng
bước đi trong tuyết, sợ bị ngã và bị đưa vào nhà thương trong tình trạng tàn phế
và bị coi như những gánh nặng. Đó là những cô thiếu nữ ngồi ở bàn một tiệm bánh
pizza Ý phía sau cái Đập (Dam), nắm tay nhau hát :”I wish you a merry Christmas
and a happy new year” Đúng vậy, một năm hạnh phúc. Giáo sư Wim Peeters nói với
chúng ta : “Dù gì đi nữa, lời cầu xin có được hạnh phúc và do vậy có được Thiên
Chúa luôn ở trong tim con người”.
__________
”HAI THẾ HỆ ĐÃ MẤT ĐI”
Phỏng vần Đức Hồng Y Adrianus Simonis
Đức TGM danh dự giáo phận Utrecht, Hồng y Adrianus
Simonis, 78 tuổi, là “Ông Cố” cũa Giáo hội Hà Lan. Ngài được biết đến và yêu mến
trong đất nước nầy, kể cả những người theo đạo Hồi. Ngài vừa cười vừa giải thích
: ” Có lẽ do tôi đã nói là những người theo đạo Hồi trung thành với Chúa sẽ lên
trời ở những tấng cao nhất Thiên Đàng”.
Nhưng vị hồng y nầy, hiện sống trong một ngôi làng ở
Brabant, Nieuwkuijk, tỏ ra kém lạc quan hơn về nước Hà Lan của Ngài. Ngài nói :
“ Đúng thế, có thể có những dấu chỉ một xu hướng mới, nhưng
đó là những con số rất yếu. Còn đó 58% người dân Hà Lan không còn biết chính xác
Noel là gì. Có những người bị bối rối bởi con số những nhà thờ đạo Hồi ở Hà Lan.
Tọi có thể hiểu điều đó, nhưng ở đây vấn nạn thực sự có trước việc nhập cư : đó
là chúng ta ta đã để bị lạc mất.. Chúng ta đã đánh mất căn tính Kitô hữu của
mình. Nếu căn tính nầy mà mạng mẽ, thì việc gì chúng ta phải sợhãi người theo
đạo Hồi. Đúng vậy, có một vấn đề chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo ở Hà Lan, nhưng đa
phần dân hập cư không gắn bó hoặc tham gia vào đó. Còn hơn cả chủ trương nguyên
vẹn (sát nhập Giáo Hội và nhà nước), điểu làm tôi bận tâm lo lắng nơi các thế hệ
trẻ theo đạo Hồi, ấy là sự tục hoá đang tiến phát triển. Tôi e rằng cuối cùng họ
sẽ theo tôn giáo đang thật sự chi phối Tây Phương : Thuyết tương đối”.
(Quả thật, khi nhìn thấy những thanh niên Maroc trong các
cửa hàng McDonald’s ở Amsterdam và chị em họ trong những chiếc quần bó sát
người, người ta tự hỏi liệu các thế hệ ngưồi Hồi giáo mới nầy chẳng phải đang
sao chép chúng ta về mọi quan điểm hay sao).
H. Thưa ĐHY, phải chăng kỳ thị chủng tộc, bài ngoại
không phải là những vấn nạn ở đây?
Đ. Tôi không cho là vậy. Người Hà Lan là một dân tộc
bao dung. Tôi không nhìn thấy xuất hiệnlàn sóng kỳ thị chủng tộc
H. Ở Haarlem, ĐGM nói rằng người ta bắt đầu nhận
thức nơi giới trẻ một cảm nhậh sự trống rỗng, thiếu cái đã bị lang quên.
Đ. Đúng như thế. Rất đông trong họ cảm thấy một sự
trống rỗng.Nhưng họ không biết đi xa hơn. Họ không biết yêu cầu gì và yêu cầu
ai. Họ đã không được đào tạo để nhận biết và nhận thức đưộc khát vọng của con
tim. Với ý nghĩa nầy, tôi tin chắc, như Đức Cha Punt, rằng Giáo Hội Hà Lan thưự
sự được kêu gọi trở thành truyền giáo. Hai thế hệ đã bị [hư] mất. Phải phát xuất
lại từ số không, trong lòng một nbền văn hoá dững dưng với Kitô giáo, với những
phương tiện truyền thông không thân thiện.
H. ĐHY đã 78 tuổi. Khi xảy ra chiến tranh, Ngài còn
là một cận bé. Vào thời kỳ đó, chẳng phải Hà Lan là một quốc gia rất Kitô giáo đó
sao? Việc gì đã xảy ra sau đó?
Đ. Đó có thể là một Kitô giáo quá mang nặng dấu ấn
một chủ nghĩa duy luân lý quá khô cứng. Từ đó đã là nguyên do một cuộc nỗi loạn
triệt để, cũng triệt để như tính cách vốn có của người Hà Lan. Họ không có khả
năng chỉ tin ‘một chút” vào một điều gì. Hoặc là tất cả hoặc chẳng tin gì. Họ
trở nên cái đối lập với những gì họ đã là”.
H. Nhưng ngày nay có 45 chủng sinh ở chủng viện
Haarlem và mỗi năm có mấy trăm người lớn xin chịu rửa tội. Ở Amsterdam, con đã
thấy các nữ tu Dòng Mẹ Têrêxa thờ lạy trước Ảnh Chuộc Tội. Ở đây người Công giáo
tuy ít, nhưng mạnh.
Đ. Quả đúng vậy. Điều rõ ràng là trong một tình hình
như tình hình chúng ta đang sống, thì muối – tôi phải nói thế nào nhỉ? - phải
trở nên mặn hơn…
H. Ngày Lễ Noel, ĐHY định nói gì với giáo dân?
Đ. [Tôi sẽ nói với họ] rằng có lẽ họ đã quên mất sự
việc là Kitô hữu, điều cốt lõi của sự việc ấy : Thiên Chúa đã làm người. Người
đã đến ở thế gian trong nghèo khó, khiêm hạ và mỏng manh yếu đuồi như một trẻ sơ
sinh, vì yêu thương chúng ta.
H. Thưa ĐHY, Ngài có biết rằng cách nay một thời
gian ngắn, trong một ngôi làng gần đây, Drunen, con đã thấy khoảng một trăm em bé
đi ra khỏi nhà thờ Công giáo nơi cửa diễn ra một nghi lễ Noel, chăng?
Đ. Đó có lẽ là một linh mục trẻ vừa mới đến mới chịu
cực đánh vật như thế…
Một lần nữa, lịch sử đang bắt đầu lại.
Đề nó bắt đầu lại, chỉ cần khuôn mặt của một Kitô hữu.
www. Chiesa, 30.12. 2009
BTGH chuyển ngữ và giới thiệu