(3)
MARX VÀ CHỦ NGHĨA GIÁO ĐIỀU (DOGMATISME)
Không gì xa lìa học thuyết Marx hơn là
chủ nghĩa giáo điều. Từ thiếu thời, Marx đã phá bỏ hai hình thái giáo
điều chủ nghĩa, đó là : giáo điều chủ nghĩa duy tâm của Hegel, và giáo
điều chủ nghĩa duy vật của Feuerbach. Feuerbach đảo ngược triết lý giáo
điều duy tâm của Hegel, cho rằng trong triết học Hegel, con người đã
phóng cái Lý Tưởng trong tâm thức mình ra bên ngoài mình, để làm nên
Thiên Chúa, rồi tôn thờ, chạy theo cái lý tưởng gọi là Thiên Chúa ấy. Đó
là một hiện tượng « vong thân ». Ông cho rằng thay vì đi tìm Thiên Chúa,
phải tìm lại con người, để chữa lành căn bệnh vong thân kia. Ông đảo
ngược triết lý của Hegel, nhưng vẫn giữ cái khung giáo điều của triết lý
ấy, thay thế Thần Hoc bằng một « thần học » khác, một « thần học » duy
vật. « Con người » mà Feuerbach muốn tìm lại, là một con người trừu
tượng, không thật, lơ lửng trên cái không trung của một hệ thống triết
học. Marx đem con người ấy vào xã hội, và gắn nó vào hiện thực bằng hành
động. Vì con người hành động, nên con người tham dự vào cuộc sống, và
với xã hội tính, con người có khả năng hành động tập thể. Con người hiện
hữu bằng hành động, tác động trên hiện thực, nhưng cũng bị quy định bởi
hiện thực. Gắn liền với hiện thực, bởi tương quan biện chứng, là chối bỏ
« giáo điều chủ nghĩa »..
Thật vậy, khi đề ra một lý thuyết, Marx
luôn xác định phạm vi áp dụng của lý thuyết ấy, tức cái « hiện thực »
trong đó lý thuyết này đúng, và những biến đổi cho ra cái « hiện thực »
khác sẽ phủ định nó. Thí dụ khi nói về « quy luật giá trị » (loi de la
valeur), cho rằng lao động là yếu tố duy nhất tạo ra giá trị của hàng
hóa, Marx giả định một môi trường trong đó cung và cầu đều vô hạn, và
yếu tố máy móc chỉ truyền lại chứ không can thiệp vào việc tạo ra giá
trị. Trong bối cảnh máy móc chạy bằng hơi nước ở thời ông, Marx đã ý
thức rằng quy luật giá trị sẽ trở thành sai, khi khoa học tiến bộ hơn và
can thiệp trực tiếp vào khả năng sản xuất. Ông viết : « Cùng lúc với sự
phát triển của đại kỹ nghệ, việc làm ra của cải càng ngày càng bớt lệ
thuộc vào số lượng thời gian làm việc, và càng ngày càng lệ thuộc nhiều
hơn vào hiệu năng của yếu tố cơ khí (…). Sản xuất sẽ lệ thuộc vào trình
độ tiến triển của khoa học và kỹ thuật (…). Khi mà lao động, dưới dạng
trực tiếp, không còn là nguồc gốc chính của phú hữu, thì thời gian làm
việc cũng không còn là thước đo của sự phú hữu ấy … » (Fondements de la
critique de l’économie politique, t. II). Ở một đoạn sau, Marx thêm vào
yếu tố « tổ chức sản xuất » khi viết : « mặc dù không thể thiếu được,
(lao động trực tiếp) bị thâu hẹp vào một vai trò khiêm nhượng đối với
tác động của khoa học (…) và năng lực sản xuất đến từ mô hình tổ chức
xã hội của toàn thể lực lượng sản xuất ». Quy luật giá trị trở thành
sai, dự đoán « lợi nhuận (của tư bản) luôn có khuynh hướng giảm sút »
cũng sai. Tư Bản sẽ không nhất thiết kẹt vào mâu thuẫn « càng tăng sản
xuất càng kém lợi nhuận, và càng kém lợi nhuận càng tăng sản xuất ».
Thêm vào đó, Tư Bản còn có thể tạo ra những thị trường mới tùy khả năng
sản xuất của mình, hay có thể nhận được từ chính quyền những giúp đỡ,
trực tiếp hay gián tiếp, v.v… Những tuyên bố cường điệu kiểu như « Tư
Bản Chủ Nghĩa đang dãy chết » trở thành vô nghĩa.
Sang một vấn đề khác. Người ta thường nói
đến năm giai đoạn Lịch Sử được Marx nêu ra : cộng sản nguyên thủy, nô
lệ, phong kiến, tư bản, và cộng sản văn minh. Trong thư trả lời
Michailovski năm 1877, Marx chống lại những người đã « biến hóa sơ đồ mà
tôi (Marx) đã vẽ lên để mô tả sự hình thành của Tư Bản Chủ Nghĩa tại Tây
Âu, và biến sơ đồ ấy thành một lý thuyết lịch sử và triết học có tính
phổ quát , áp dụng một cách tất yếu cho toàn thể mọi dân tộc, bất chấp
những điều kiện lịch sử của các dân tộc ấy … ». Trong Lời Cuối của Tư
Bản Luận ấn bản thứ hai, năm 1873, Marx trích dẫn một tạp chí Nga (Le
Messager Européen), như sau : « … người ta nói rằng các quy luật của đời
sống kinh tế luôn nhất quán, luôn bất biến : chúng áp dụng cho hiện tại
cũng như cho quá khứ. Đây chính là điểm mà Marx chống lại : theo ông,
các quy luật trừu tượng không có thật … Ngược lại, mỗi giai đoạn lịch sử
có những quy luật riêng của giai đoạn ấy ».
LÝ THUYẾT NHÀ NƯỚC CỦA MARX
Trong « Critique de la Philosophie de
l’Etat de Hegel » (1843) Marx đã vạch ra thực chất của cái Nhà Nước Đức
Phổ mà Hegel coi như cao điểm của Lý Trí. Hegel cho rằng Nhà Nước là
nguồn gốc của xã hội công dân (hay dân sự), do ở tính tiêu chuẩn, nền
tảng, tượng trưng cho Lý Trí, của nó. Marx, ngược lại, khẳng định xã hội
công dân cho ra Nhà Nước. Xã hội công dân (hay dận sự), là sự tập hợp
của những quyền lợi kinh tế và xã hội. Nó cho ra Nhà Nước. Vậy Nhà Nước
đến từ những quyền lợi kinh tế xã hội. Nhà Nước không đại diện cho một
Lý Tưởng trừu tượng, mà đại diện cho quyền lợi kinh tế xã hội của thành
phần ưu thắng. Theo phương pháp luận của Feuerbach, thì việc người dân
cho ra xã hội công dân, cho ra Nhà Nước, đặt nó lên đầu mình, rồi phục
vụ nó, bị nó cai trị, chỉ huy, là một hiện tượng vong thân (một lý luận
tương tự như với khái niệm Thiên Chúa). Giải pháp được Marx đề ra là một
nền dân chủ thực thụ (tức “tìm lại người dân”, như “tìm lại con người”
nói ở trên), phá bỏ tư tưởng mù quáng cho rằng Nhà Nước là hiện thân của
một Lý Tưởng, là “đỉnh cao của Trí Tuệ” …
Một Nhà Nước toàn trị, tập trung, càng
ngày càng can thiệp vào mọi lãnh vực của đời sống, là một quan điểm hoàn
toàn trái ngược với học thuyết Marx. Mặc dù vậy, người ta vẫn thường hay
đồng hóa mô hình Nhà Nước cồng kềnh, chỉ huy kinh tế, với Cộng Sản, với
học thuyết Marx. Trong “Chỉ trích các chương trình Gotha và Erfurt” ,
Marx và Engels (đồng tác giả), viết rằng : “Với sự hình thành của xã hội
Xã Hội Chủ Nghĩa, Nhà Nước sẽ tự nó tan rã và biến mất”.
Thay thế bằng cái gì ? Ở thời ông, Marx
chỉ có một thí dụ bộc phát trước mắt, đó là Công Xã Paris. Marx và
Engels rút tỉa ra từ thí dụ ấy, những ưu điểm mà người ta có thể tóm
lược như sau : một chế độ tự quản, một hình thái Dân Chủ trực tiếp, và
một sự tản quyền rộng rãi có thể đưa đến chế độ liên bang nếu Công Xã
Paris thành công trong việc lan ra trên toàn nước Pháp.
VAI TRÒ CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG
“Đảng lãnh đạo” là một khẳng định phản
lại học thuyết Marx. Đối với Marx, Đảng là môi trường của ý thức chứ
không phải là nơi tập trung quyền lãnh đạo. Nếu không thì Đảng cũng sẽ
rơi vào một trường hợp vong thân. Người lao động phóng ước vọng của mình
ra ngoài mình, thành ra Đảng lao động , rồi cắm cúi phục vụ nó, chính là
vong thân, là để cho một thành phần của tâm trí mình, mà mình đã đánh
mất, quay lại chỉ huy, đàn áp mình, như đã nói ở trên với Thiên Chúa và
Nhà Nước. Marx viết : “Chúng ta không thể (…) đi cùng đường với những kẻ
tuyên bố rõ ràng rằng người lao động không đủ kiến thức để có thể tự
giải phóng mình và cần được giải phóng từ bên trên” (thư gửi Brake, 17
tháng 9 năm 1879).
Marx cũng chống lại sự độc tôn của Xã Hội
Chủ Nghĩa trong giai cấp cần lao. Ông viết : “Vai trò của (đệ nhất) Quốc
Tế (Cộng Sản) là tổ chức, phổ biến, điều hành, những cao trào tự phát
của giai cấp thợ thuyền, chứ không phải là chỉ huy hay áp đặt bất cứ hệ
thống tư tưởng nào”.
MARX VÀ THUYẾT “KHÔNG TƯỞNG” (UTOPIE)
Người ta thường nói học thuyết Marx là Xã
Hội Chủ Nghĩa “khoa học”, đối nghịch lại với những Fourier, Saint Simon
v.v… là Xã Hội Chủ Nghĩa “hoang tưởng”. Như đối với nhiều triết gia đi
trước ông : Hegel, Feuerbach, Fitche, Moses v.v… và cả Epicure, Marx
không dấu diếm ảnh hưởng của các nhà xã hội tiền phong trên tư tưởng của
ông, mặc dù trên một số khía cạnh, ông chỉ trích họ. Engels nói : “Chúng
ta, những người Xã Hội Đức, hãnh diện vì nguồn gốc của chúng ta không
những đến từ Saint Simon, Fourier và Owen, mà từ cả Kant, Fichte, và
Hegel”.
MARX VÀ CÁC TRIẾT HỌC DUY TÂM, DUY VẬT
Bị gọi là “duy tâm duy ý chí” là một sỉ
nhục đối với người Cộng Sản. Thật ra, duy tâm và duy vật liên hệ với
nhau bằng một tương quan biện chứng. Như đã nói ở trên, giữa những
tương lai khả hữu, con người hướng đến một tương lai được coi như “tốt”,
như “lý tưởng". Đó là một quan điểm duy tâm. Marx không chống lại thái
độ ấy, mà đem nó vào thực tại, qua trung gian của hành động. Hành động
là ảnh hưởng trên những yếu tố cụ thể của thực tại. Qua hành động con
người bắt buộc phải chịu « quy luật » của thực tại. Sáng tạo của « con
người hành động » không thể không bị ảnh hưởng bởi những điều kiện cụ
thể. Điểm then chốt của học thuyết Marx là Hành Động. Một thái độ Lý
Tưởng duy tâm có thể là một khởi điểm cho Hành Động, và như thế, nó trở
về với thực tại, để thể hiện tương quan nền tảng của học thuyết
Marx giữa một bên là sáng tạo tự do, bên kia là thực tế quy định. Cần
nhớ là Marx không chỉ đơn thuần định nghĩa Xã Hội Chủ Nghĩa qua những
phương tiện của nó, kiểu như những hình thái sản xuất này nọ (tức những
điều chỉ có giá trị ở một thời và một chỗ), mà ông cũng định nghĩa Xã
Hội Chủ Nghĩa qua cứu cánh của nó, qua mục đích đem lại cho con người sự
nảy nở toàn diện, để « một em bé mang tài năng của Mozart hoặc của
Raphael, có thể thực sự trở thành Raphael hoặc Mozart »
(4). Đó là một lý tưởng, là duy tâm, và lý tưởng ấy là khởi điểm của
triết học Hành Động của Marx …
Hegel là hiện thân của triết học Duy Tâm. Thế mà
Marx nói về Hegel như sau : « Liện hệ giữa tôi và Hegel rất đơn giản.
Tôi là một đệ tử của Hegel, và những điều bá láp của những tên hậu sinh
nghĩ rằng đã đến lúc có thể đem chôn nhà tư tưởng vĩ đại này, đối với
tôi, hoàn toàn khôi hài »
(2). Engels nói, trong lời mở đầu ấn bản 1874 của sách « la Guerre
des Paysans », rằng : « nếu trước đó không có trết học (duy tâm) Đức
Quốc, nhất là triết học Hegel, thì Xã Hội Chủ Nghĩa khoa học đã không
thể nào hiện hữu được ».
Mặt khác, Marx không phải là một nhà Duy Vật giáo
điều, mặc dù ông đã tiếp nhận di sản của các nhà Duy Vật trước ông, đặc
biệt là Feuerbach. Trong thư gửi Feuerbach ngày 11 tháng 8 năm 1844,
Marx viết : « ông đã đem lại cho Xã Hội Chủ Nghĩa (…) nền tảng triết
học ». Engels thì nói : « Tất cả chúng tôi, một thời, đều đã từng theo
Feuerbach »
(3).
Duy vật giáo điều cho rằng cái thực tại mà ta cảm
nhận thấy có một sự hiện hữu tự thân. Thực tại trở thành « sự thật tuyệt
đối », thành tiêu chuẩn, thay thế cái Lý tưởng, hay Ý Niệm của trường
phái Duy Tâm. Thực ra, thực tại mà ta nhận biết chỉ là một sự thật tương
đối, được tâm trí chúng ta tạo thành qua sự hiểu biết, qua kinh nghiệm,
qua tâm lý, qua những phương tiện quan sát và thực nghiệm mà khoa học kỹ
thuật ở thời đại chúng ta cho phép. Con người tìm biết thực tại bằng giả
thuyết và thực nghiệm. Bước đường tìm biết thực tại như thế, là vô cùng
tận. Ở mỗi chặng đường, con người vẽ lên một bức tranh tạm thời hình
dung thực tại, và đề ra những giả thuyết, những dự phóng về thực tại,
cần được kiểm chứng qua hành động, qua thực nghiệm. Duy vật giáo điều
quan niệm sự vận động của sự vật hiện hữu một cách tự thân, « tuyệt
đối », quy định Lịch Sử và cho ra một tương lai tất yếu. Lịch Sử đã được
viết sẵn. Học thuyết Marx, ngược lại, quan niệm nhiều giả thuyết về
thực tại, và nhiều tương lai khả hữu. Sang trường phái Duy Tâm thì chính
sự vận động của Ý Niệm trên con đường vạch ra bởi biện chứng pháp, mang
vai trò quy định Lịch Sử. Tuy nhiên, con người không tiếp cận với sự vật
tự nhiên cũng như với những phạm trù ý niệm một cách trực tiếp, mà phải
qua trung gian của đời sống, đời sống cá nhân, gia đình, và xã hội. Vì
thế, với Marx, sự vận động của vật chất cũng như sự vận động của ý niệm
đều phải hội nhập vào đời sống, qua triết lý Hành Động, để trở thành sự
vận động của Lịch Sử.
Vài tháng trước khi ông qua đời, tôi có viết cho
Trần Đức Thảo một bức thư trong đó có đoạn như sau :
« Bác đã trích dẫn Lénine để cho rằng : « không
có trình độ thấp nhất của vậy chất », tức vật chất không có cái gì được
nhìn nhận là đầu tiên để mà quy định mọi bước tiến hóa khác. Bác cũng
cho rằng thế giới là « vật chất vô hạn đương vận động ». Tựu trung, ta
có thể hiểu, như Lénine, rằng : « Thiên Nhiên trong tất cả các bộ phận
của nó không có gì đầu tiên và cũng không có gì kết thúc ». Cái « vật
chất » không có hạn chế và cũng không biết từ đâu ra như
thế có còn là vật chất hay không ? Chấp nhận sự hiện hữu của vật chất
như vậy có còn thực sự là « duy vật biện chứng » nữa hay không ? Vì đến
một lúc nào đó, ở chỗ vô hạn , hay ở chỗ khởi thủy không hiện
hữu, sẽ không còn cái điểm tựa vật chất để mà biện chứng nữa, và sẽ
chỉ còn là vận động khái niệm thuần túy, tức là duy tâm ».
Trả lời vấn nạn này rất đơn giản. Lénine,
cũng như Marx, không lý luận như những nhà duy vật giáo điều, tức không
bàn đến giới hạn hay khởi điểm của vật chất tự thân, mà của vật chất
được nhận biết được bởi con người. Sự tìm hiểu vật chất, Thiên Nhiên,
cũng như Thế Giới, Vũ Trụ, là vô cùng tận, khám phá ra cái này nó lại
lòi ra cái khác, mỗi giả thuyết khi áp dụng vào thực nghiệm lại đặt ra
một số vấn đề, một số trục trặc, thúc đẩy người ta tìm ra những giả
thuyết, những phát minh mới … « Vật chất được nhận biết bởi con người »
được coi là vô hạn, vì con đường tìm biết môi trường vật chất là một con
đường vô hạn.
MARX VÀ TÔN GIÁO
Người ta thường thu tóm quan điểm của
Marx về tôn giáo trong câu : « tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng ».
Marx viết câu ấy vào năm 1843, lúc ông 25 tuổi, trong tác phẩm
« Critique de la Philosophie du Droit de Hegel ». Trong cùng một đoạn
văn, ông cũng nói : « Tôn giáo một mặt phản ảnh sự cùng khổ của con
người, mặt khác là sự đối kháng chống lại sự cùng khổ ấy ». Tức là tôn
giáo cũng có thể là mầm mống của cách mạng……
Như đã bàn đến nhiều lần ở trên, mọi quan
điểm của Marx đều phải được đăt trong bối cảnh Lịch Sử trong đó quan
điểm ấy có thể áp dụng được. Marx chống lại tôn giáo ở thời ông, vì tôn
giáo, vào lúc đó, đóng vai trò thành trì của các lực lượng bảo thủ,
chống lại mọi sự thay đổi trong một xã hội đầy dẫy áp bức, bất công.
Trên mặt triết lý, tôn giáo, theo mô hình mà Marx chứng kiến, là một
hiện tượng vong thân. Con người phóng ra ngoài mình những ước vọng, sợ
sệt, lý tưởng, rồi hệ thống hóa thành Thiên Chúa, để chạy theo thờ
phượng (vong thân là đánh mất những gì của mình và bị những thứ ấy thống
trị ngược lại). Không những thế, với Hegel, người ta còn quan niệm Lịch
Sử như một con đường dẫn đến Thiên Chúa, thông qua nhà nước Đức Phổ và
xã hội tư sản. Tôn giáo trở thành « nút chặn » đối với sự vận hành của
Lịch Sử. Nếu chúng ta là những người Ky Tô Hữu sống ở thời Marx, rất có
thể chúng ta cũng chia sẻ một số nhận định của Marx về tôn giáo ?
Ở một giai đoạn Lịch Sử khác, Marx và
Engels không ngần ngại đề cao vai trò của tôn giáo trong công cuộc đấu
tranh chống bất công xã hội. Trong « Contribution à l’Histoire du
Christianisme Primitif », Engels gọi các cộng đồng Ky Tô Giáo nguyên
thủy là là những tổ chức Xã Hội Chủ Nghĩa đầu tiên. Ông cũng nhấn mạnh
đến vai trò khai phóng của của Ky Tô Giáo trong xã hội Cổ La Mã đang
trên đà rữa nát, mặc dù ước vọng về một sự đổi mới, trên nguyên tắc, sẽ
chỉ thành sự thật sau sự sụp đổ của cái thế giới cùng khổ này, ở một
« đời sau » tốt đẹp và hạnh phúc. Đến thế kỷ 16, nhà thần học Thomas
Munzer quan niệm lời Chúa, Ý Chúa, không phải tìm ở bên ngoài, mà ở
trong chính nội tâm con người. Vấn đề « vong thân” trong điều kiện đó
không đặt ra nũa, và Engels gọi Munzer là « đấng Tiên Tri của Cách
Mạng ». Vì Ánh Sáng của Thiên Chúa soi chiếu nội tâm của mỗi người, giàu
cũng như nghèo, quý phái cũng như cùng đinh, nên Thần Học của Munzer đưa
đến bình đẳng, chống áp bức, bất công. Khi tham gia một cuộc nổi dậy của
nông dân, ông viết trên lá cờ hiệu hàng chữ sau : « Lạy Chúa, xin hãy
ủng hộ Công Lý của Ngài ». Engels cho rằng « Nước Chúa, đối với Munzer,
là một xã hội không có giai cấp, không có tư hữu, và không có Nhà
Nước ». Thử hỏi có bao nhiêu người Công Giáo thành thực nghĩ rằng Nước
Chúa là một xã hội giai cấp, tư hữu, cai trị bởi một guồng máy Nhà
Nước ?
Marx và Engels cũng thừa nhận ảnh hưởng
của Joachim de Flore, một tu sĩ sống ở thế kỷ 12, trên Xã Hội Chủ Nghĩa.
Lý thuyết của ông này dựa trên sách « Apocalypse», tức quyển sách cuối
cùng của Thánh Kinh Tân Ước. Joachim de Flore cho rằng giai đoạn một
ngàn năm được nói đến trong Apocalypse, trong đó Đức Ky Tô sẽ trở lại
ngự trị trên thế giới, chính là một sứ điệp hy vọng, một Tin Mừng theo
nghĩa gốc của chữ Evangile (evagellion tiếng Hy Lạp là tin mừng). Đó
cũng là một thôi thúc đấu tranh, liền trong hiện tại, cho sự hình thành
của Nước Chúa, với Tình Yêu ngự trị trên mọi tương quan xã hội. Tư tưởng
này đem tương lai vào hiện tại, và, như học thuyết Marx, nó có khả năng
làm quay lại bánh xe Lịch Sử bị bế tắc. Thần học của người tu sĩ Joachim
de Flore đã ảnh hưởng trên những nhà cách mạng sau đó, từ Jan Hus, qua
Thomas Munzer, đến Marx và Engels.
Trước tính áp bức bất công của Nhà Nước
Đức Phổ, gắn liền với Ky Tô Giáo ở thời ông, Marx nói trong «la Question
Juive » : « Nhà Nước tự nhận là Ky Tô Giáo thật ra chỉ là sự phủ nhận Ky
Tô Giáo của Nhà Nước ấy, và hoàn toàn không phải là sự thể hiện của Ky
Tô Giáo trong chính trị ». Ông chủ trương đạt đến một xã hội trong đó
« nền móng không phải là Ky Tô Giáo, mà là nền tảng nhân bản của Ky Tô
Giáo »
(5).
Ngày nay, tôn giáo, đặc biệt là Ky Tô
Giáo, trong đại đa số trường hợp, không còn là công cụ của áp bức nữa,
mà ngược lại, thường đứng về phía kẻ bị áp bức. Những chính quyền đàn áp
tôn giáo đều là những chính quyền bảo thủ và ở nhiều nơi trên thế giới,
tôn giáo chính là niềm hy vọng chủ yếu, nếu không phải là duy nhất,
trong việc chuyển đổi những thể chế tệ hại, tham nhũng, bất công, bóc
lột …
Đức Gioan Phao Lồ đệ nhị nói, năm 1995 :
« Tư Bản phải phục vụ cho lao động, không phải lao động phục vụ cho Tư
Bản », tóm lược những ý tưởng đã được Ngài đề ra trong Sứ Điệp
Centesimus Annus (1991), đưa đến nhận xét khôi hài của Benoit Duquesne :
« Đức Gioan Phao Lồ đệ nhị là người Marxiste cuối cùng !»
(6)
CHỜ ĐỢI GÌ NƠI HỌC THUYẾT MARX ?
Vào tháng 10 năm 2002, trang nhà của tự
điển bách khoa danh tiếng Encyclopedia Britanica đăng một tài liệu của
Peter Hudis về Marx (Marx trong toàn cầu hóa - Marx in the mirror of
globalisation), gọi Marx là « vị tiên tri của Toàn Cầu Hóa ». Hudis
trích dẫn John Micklethwait và Adrian Wooldridge, hai nhà biên tập của
tạp chí « The Economist », phát biểu trong tác phẩm « A future perfect :
the challenge and hidden promise of globalisation », cho rằng quan điểm
của Marx về « liên hệ toàn cầu giữa các quốc gia » đã mô tả những vấn đề
đặt ra bởi toàn cầu hóa, từ cách đây 150 năm ! John Cassidy trong một
bài báo năm 1977 “The Return of Karl Marx” (New Yorker) gọi Marx là «
Nhà tư tưởng vĩ đại của tương lai » (the next big thinker), và trích dẫn
một nhà tài phiệt cao cấp của Wall Street, như sau : « Càng kinh doanh
lâu năm ở Wall Street, tôi càng vững tin rằng Marx có lý ». Francis
Wheen, trong “Karl Marx, a life”, phát biểu rằng : « Càng nghiên cứu
Marx, tôi càng nhận ra tính chất hợp thời một cách không thể tưởng tượng
được của ông. Những chuyên gia hay nhà chính trị thời nay thường tự hào
là những nhà tư tưởng tiền phong khi không bỏ lỡ cơ hội nào để bàn đến
vấn đề thời trang « toàn cầu hóa », mà không biết rằng Marx đã phân tích
đề tài này từ năm 1848 »..
Thật ra, có lẽ không nên nhìn những phân tích của
Marx từ năm 1848, mà nên nhìn phương pháp phân tích của ông. Áp dụng học
thuyết Marx, ờ thế kỷ 21, không thể là sao chép những gì Marx đã đề ra
vào cuối thế kỷ 19. Áp dụng học thuyết Marx, ở thế kỷ 21, là nối tiếp
công trình nghiên cứu của Marx, là ứng dụng linh động phương pháp phân
tích thực tại của ông, và từ đó đề ra những dự kiến vượt lên thực tại,
để, qua Hành Động, làm chuyển vận trở lại bánh xe biện chứng bị ngưng
trệ, ngõ hầu tham gia một cách ý thức và sáng tạo vào Lịch Sử.
Bạn có thể tự hỏi : « Tai sao tôi lại bỏ công phu
tìm tòi biện hộ cho Marx ? » Tôi cũng tự hỏi như vậy. Và, một buổi sáng
nọ, tôi đã tìm ra câu trả lời, đó là : ở một trình độ rất khiêm nhượng,
tôi có một cái gì chung với ông. Thật vậy, cũng như Marx, tôi không phải
là người Marxiste !
(7)
Nguyễn Hoài Vân
7/4/2004
nguồn:
http://pagesperso-orange.fr/nguyen.hoai.van/Marx-nhung-ngo-nhan.htmm
(1)
www.decroissance.org
(2) Tu Bản Luận
(3) Marx et Engels – Etudes Philosiophiques –Ed
Sociales
(4) Idéologie Allemande – Ed Sociales
(5) La Question Juive
(6) Benoit Duquesne - La France en Direct -
Antenne 2 :15/1/1996
(7) Marx nói với Lafargue : «Tôi, Karl Marx,
không phải là người Marxiste » – Thư Engels gửi Berstein - 3/11/1882