Tại nước ta, trong thời Sĩ Nhiếp, cách
đây 18 thế kỷ, đã có những lễ hội Phật đản. Và hiện nay tại Việt Nam, cũng đang
diễn ra một lễ hội Phật đản vô cùng đặc biệt, là lễ hội Phật đản Liên Hiệp Quốc
hay còn gọi là lễ tam hợp Vesak, kỷ niệm ngày Đức Phật ra đời, thành đạo và nhập
niết bàn theo truyền thống Phật giáo nguyên thủy, và đựơc Liên Hiệp Quốc tôn
vinh là ngày hòa bình thế giới, để vinh danh Đức Phật, một vĩ nhân văn hóa, và
vinh danh giáo pháp trí tuệ, từ bi của Ngài.
Đây là một vinh dự lớn, mà không
một giáo chủ tôn giáo nào khác trên thế giới có đựơc. Mỗi lễ hội Phật đản phản
ảnh tình trạng Phật giáo và không khí văn hóa-chính trị của thời đại. Sau
đây, qua lễ hội Phật đản ta thử nhìn khái quát thời đại Sĩ Nhiếp để tạo chất
liệu suy tư và niềm hứng khởi hành động trước những thách thức lớn lao và những
chướng ngại cao ngất trời, mà dân tộc ta đang phải đối diện, hầu khai phá một
con đừơng mới cho sự phục hưng và thăng hoa đất nước. Phật giáo đã cứu độ và đưa
dân tộc vượt thắng thời Bắc thuộc hơn 1.000 năm. Hôm nay, Phật giáo có thể giới
thiệu một sinh lộ và cống hiến một sức bật dậy thần kỳ cho Việt Nam hay không?
Giáo sư Keith Weller Taylor, một
học giả Hoa Kỳ chuyên viên nghiên cứu về lịch sử Việt Nam của đại học
Cornell, tác giả cuốn sách The Birth Of Vietnam (Sự Khai Sinh Của Việt Nam) đã
viết: "Sĩ Nhiếp là một nhà cai trị Phật giáo" - a Buddhist ruler - (1)).
Đây là một nhận xét độc đáo, vì các sử gia Việt Nam từ xưa đến nay đều coi Sĩ
Nhiếp là một nhà nho, một bậc thầy sáng lập nền Nho học ở Việt Nam (
"Nam giao học tổ"), hay tôn ông là "Sĩ Vương", dù ông không xưng
vương xưng đế gì, mà chỉ là một vị thứ sử cai trị nước ta trong thời nước ta lệ
thuộc Trung Hoa. Giáo sư Taylor viết:" Tòan thể xã hội tViệt-Hán (chỉ xã hội
Việt Nam bị người Hán đô hộ trong thế kỷ thứ hai) đã hướng về ảnh hưởng của Phật
giáo đến từ Ấn Độ bằng đừơng biển. Như vậy, vào cuối thế kỷ thứ hai, văn minh Ấn
Độ đã trở thành một sự thay thế đầy quyến rũ cho văn minh Trung Hoa đang thoái
trào, từ đó gây hứng khởi cho sự hình thành nước Lâm Ấp, và cho sự khai sinh của
Phật giáo Việt Nam. Thành quả và sự vinh quang của xã hội Việt-Hán là thời đại
Sĩ Nhiếp, thời đại mà trong suốt 40 năm, các gia đình Việt-Hán lớn đã thoát khỏi
sự kiểm soát từ bên ngoài (tức từ triều đình Trung Hoa). Điều này đã trở thành
một thời đại đáng tưởng niệm trong sự hình thành của văn minh Việt Nam" - a
memorial age in the formation of Vietnamese civilization - (2).
Một đọan khác giáo sư Taylor viết:"
Một điểm nổi bậc của văn hóa Việt Nam đã hưng thịnh trong suốt thời kỳ Sĩ
Nhiếp là Phật giáo..." (3) và "...đã có một xu hướng mạnh mẽ thiên về
Phật giáo trong không gian văn hóa của Sĩ Nhiếp: ông bảo trợ các tăng sĩ Phật
giáo, nhờ đó đã chính thống hóa sự cai trị của ông dưới mắt của mọi người dân đã
tin tưởng tôn giáo mới này. Sự thiết lập các ngôi chùa Phật giáo để thờ các vị
thần mang lại sự phồn thịnh trong nông nghiệp (ý chỉ các chùa Pháp Vân, Pháp
Vũ....) đã chứng tỏ rằng đạo Phật đã xâm nhập một cách đáng kể trong nông dân.
Như vậy, dưới cái nhìn của dân chúng, thì uy quyền của Sĩ Nhiếp đựơc củng cố bởi
vị thế của ông như là một nhà lãnh đạo Phật giáo" - Shih Hsied ' s authority
was reinforced by his posture as a Buddhist ruler -
(4).
Vị thế văn hóa-chính trị này, của Sĩ
Nhiếp, như là một nhà lãnh đạo Phật giáo, đã trở thành vị thế văn
hóa-chính trị của những vị minh quân-anh hùng dân tộc Việt Nam đã khai sáng
những thời đại độc lập và vinh quang cho đất nước Việt Nam, từ Lý Nam Đế, Ngô
Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hòan đến Lý Công Uẩn, Trần Thái Tông Trần Nhân Tông, và
các chúa Nguyễn trong buổi đầu lập quốc và dựng nước ở Đàng Trong, như Nguyễn
Hoàng (chúa Tiên), Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi), Nguyễn Phúc Lan (chúa
Hiền), Nguyễn Phúc Tần (chúa Nghĩa), Nguyễn Phúc Chu ( xứng đáng để đựơc
tôn vinh là chúa Phật) , người đã đúc đại hồng chung nặng 3.285 ký ở chùa Linh
Mụ và tự tay viết lời chú nguyện tuyệt vời, đựơc khắc trên chuông, của một vị
quân vương Phật tử nhiệt thành, gương mẫu, siêu hùng, thóat tục, mở ra phương
trời giải thóat cao rộng của chính trị Phật giáo: ta không muốn gì cho ta,
cho triều đại ta, ta chỉ muốn mưa thuận gió hòa, quốc gia thái bình, nhân dân an
lạc và tất cả mọi người đều thành Phật:" Quốc Chúa Đại Việt Nguyễn Phước
Châu, nối dòng phái Thiền Tào Động chánh tông, đời thứ 30, pháp danh Hưng Long,
đúc đại hồng chung cân nặng 3.285 cân, an trí ở chùa Linh Mụ, để vĩnh viễn cung
phụng Tam Bảo, chú nguyện mưa hòa gió thuận, quốc thái dân an, chúng sanh trong
pháp giới đều thành đại viên chủng trí. Năm Vĩnh Thịnh thứ sáu, ngày Phật Đản
tháng tư năm Canh Dần (1710)" (5).
Đúng như giáo sư Lê Mạnh Thát đã khằng
định trong tác phẩm Nghiên Cứu Về Mâu Tử, từ một chân trời khác rất xa đại học
Cornell ở Ithaca, New York: từ thế kỷ thứ hai, nghĩa là cách đây hơn 1.800 năm,
Việt Nam đã có một chính quyền độc lập, và đây cũng là chính quyền mang đậm màu
sắc Phật giáo, lấy Phật giáo làm chủ đạo văn hóa-chính trị của thời đại
.
Nhiều người tưởng Sĩ Nhiếp là người
Hoa. Thật ra ông là người Việt 100%. Tổ tiên lâu đời của ông là người Tàu, gốc ở
nước Lỗ, trong thời gian Vương Mãn cướp ngôi nhà Hán, vào đầu thế kỷ thứ nhất,
mới sang Giao Chỉ lánh nạn và định cư hẳn ở nước ta, tại đất Quảng Tín, thuộc
quận Thương Ngô, như một di dân. Đến đời thân phụ Sĩ Nhiếp là sáu đời, và đến
đời Sĩ Nhiếp, vào cuối thế kỷ thứ hai, là đời thứ bảy, tổng cộng gần 200 năm.
Chỉ một đời như Triệu Đà, người Hoa 100%, thế mà vì ở lâu năm trên đất Việt, lấy
vợ Việt, bị thu hút bởi nét quyến rũ của đất phương Nam, nên đựơc Việt hóa và
thành Việt 100% về văn hóa, ứng xử. Người Tàu miệt thị gọi dân Việt là Nam di,
là người mọi rợ phương Nam, thì Triệu Đà, tức Nam Việt Vũ Đế, hay Nam Việt
Vương, một người sống thọ đến 121 tuổi và làm vua hơn 70 năm, đã tự xưng mình là
"Nam di đại trưởng lão" (6) trong thư trả lời Hán Vũ Đế. Con cái của những người
Hoa di dân này, chỉ một đời, đã thành Việt, nói gì đến đời thứ bảy, vì hầu như
tất cả người Hoa kiều đều lấy vợ Việt nên con cái của họ đựơc Việt hóa rất
nhanh. Sĩ Nhiếp đã trãi qua bảy đời như thế nên dứt khóat ông là người Việt,
cũng giống như trường hợp của Lý Bí ( tức Lý Nam Đế) hay Hồ Qúy Ly và rất nhiều
danh nhân người Việt gốc Hoa mà tổ tiên của họ đã định cư lâu đời ở Việt Nam, và
đó là lý do mà học giả Taylor đã dùng từ những "đại gia đình Việt-Hán
".
Sĩ Nhiếp tự là Uy Ngạn, sinh năm
137, mất năm 226. Cha là Sĩ Tứ thời Hán Hòan Đế (147-167) từng đựơc cử
làm thái thú quận Nhật Nam, ở miền cực Nam của Giao Chỉ. Ông là một sinh viên
xuất sắc và đựơc gởi đi du học ở Trường An, là kinh đô nhà Hán. Ở đó ông
đã dổ bằng hiếu liêm, và đựơc bổ làm thượng thư lang. Sau khi đỗ bằng mậu tài,
ông đựơc bổ làm thái thú quận Giáo Chỉ.
Ở kinh sư Trường An, ông học với thầy
Lưu Đào, người đất Dĩnh Xuyên, chuyên nghiên cứu về Tả Thị Xuân Thu. Sau thành
tài trở về quê nhà xứ Việt, đựơc bổ nhiệm đứng đầu quận Giao Chỉ, là quận đông
dân nhất, quan trọng nhất, ở vị thế trung tâm của toàn cỏi Giao Chỉ bộ, mà
Thương Ngô, nơi ông sinh ra và Nhật Nam, nơi cha ông từng làm thái thú, là hai
vùng ngoại biên, phụ thuộc và quy hướng về. Không những là một nhà cai trị cao
cấp, ông còn là một học giả và tác giả tên tuổi:' Việc quan chút rảnh, liền
xem thơ truyện, Xuân Thu Tả Thị truyện lại càng luyện cứu tinh vi....nghe các
học giả cổ và kim văn ở kinh đô cãi nhau phải trái quyết liệt, nay muốn liệt kê
trường nghĩa của Thượng Thư và Tả Thị để dâng lên..." (7). Ông đã xuất hiện
như một quân vương-triết gia ( philosopher-king), một lý tưởng lâu đời của chính
trị Tây phương.
Như thế, ta thấy Sĩ Nhiếp đã đựơc tiếp
thu nền học vấn chính quy, tinh hoa từ thủ đô Trung Hoa và đạt đến mức cao cấp
của nền giáo dục Nho học này. Không những thế ông còn nghiên cứu sâu rộng về học
thuật, tư tưởng, lịch sử, chính trị Trung Hoa, và viết sách diễn giảng, bình
luận những vấn đề triết học, lịch sử, chính trị đương thời. Xem như thế đủ rõ là
vào thế kỷ thứ 2, thứ 3, người Việt đã đến đến trình độ học vấn, bằng cấp, trí
tuệ không thua kém gì người Hán, cũng như đã có khả năng và đựơc cử vào những
chức vụ cao cấp. Trước Sĩ Nhiếp, đã có Lý Tiến, một người Việt, đựơc cử làm thứ
sử Giao Chỉ bộ, Lý Cầm đựơc cử làm quan tư lệ hiệu úy, Trương Trọng làm thái thú
Kinh Thành...(8).
Sĩ Nhiếp là nhà lãnh đạo thành công
nhất ở nước ta trong thời Bắc thuộc. Theo truyện Sĩ Nhiếp của Ngô Chí thì:"
Nhiếp tính khoan hậu,…., sỹ nhân Trung Hoa đến tỵ nạn lên đến số trăm"
(9). Theo Mâu Tử thì vào cuối thế kỷ thứ hai, sau khi Hán Linh Đế băng hà năm
189 :"Thiên hạ nhiễu lọan, chỉ Giao Chỉ tạm yên, người tài phương Bắc đều đến
đó ở" (10). Không những là một nhân tài về học vấn, tư tưởng, Sĩ Nhiếp còn
là một người đức độ, đến nổi tiếng tăm ông vang dội đến Trung Hoa, và khi Trung
Hoa rơi vào cảnh hổn lọan thì những nhân tài Trung Hoa, mà Mâu Tử gọi là những
"Bắc phương dị nhân", vốn sẵn ngưỡng mộ, có giao du hay chỉ nghe tiếng,
đã vượt ngàn dặm xa xôi, đến nước ta để hưởng cảnh thái bình, thịnh trị. Không
những thế, ông còn xây dựng Giao Chỉ thành một xứ tự chủ, yên ổn giữa cảnh đại
lọan trên tòan đế quốc Trung Hoa.
Viên Huy, trong báo cáo gởi cho thượng
thư lịnh Tuân Hoặc của thừa tướng Tào Tháo đã ca ngợi:" Sỹ phu quân của Giao
Chỉ (tức Sĩ Nhiếp) học vấn đã ưu bác, lại thành công trong tùng chính, ở trong
đại lọan, bảo tòan một quận, hơn 20 năm, cương trường vô sự, dân không thất
nghiệp, bọn người lệ thuộc đều đựơc nhờ ơn tuy Đậu Dung giữ Hà Tây há hơn đựơc
ư?....Đương thời quí trọng, chấn phục trăm Man, Úy Đà không đủ
hơn...."(11).
Đậu Dung là một nhân vật đặc biệt, ông
là Phật tử, một lãnh tụ Phật giáo đầu tiên ở Trung Hoa, ông đã xây chùa
lớn chứa đựơc ba ngàn người, và nhân mùa Phật đản, đã làm tiệc đãi dân chúng dài
trên 10 dặm đừơng. Còn Triệu Đà là người cha khai sáng nước Nam Việt, bao gồm
tòan cõi Lĩnh Nam của Việt tộc, từ hồ Động Đình ở Hồ Nam đến Phù Nam, và đã làm
cho đế quốc Trung Hoa phải khiếp sợ cầu hòa. Viên Huy so sánh Sĩ Nhiếp với Triệu
Đà. Đây là một nhận dịnh chính trị quan trọng trên hai điểm: - Triệu Đà đã xây
dựng một nước Nam Việt độc lập, tự chủ đối với đế quốc Trung Hoa và - Triệu Đà
đã xây dựng một quốc gia riêng biệt, cường thịnh, uy thế lẫy lừng. Đây cũng là
hai đặc tính nổi bật của chính quyền Sĩ Nhiếp và của nước ta trong thời đại Sĩ
Nhiếp.
Tuy chỉ giữ chức thái thú đứng đầu
quận Giao Chỉ, nhưng thật ra Sĩ Nhiếp, qua các người em đã làm chủ tòan bộ cõi
Lĩnh Nam, lãnh thổ truyền thống đã hình thành từ hàng ngàn năm trước đó của Việt
tộc. Theo truyện Sĩ Nhiếp trong Ngô Chí :"...Thứ sử Giao Châu Chu Phù bị giặc
mọi giết chết. Châu quận nhiễu lọan, Nhiếp dâng biểu xin cho Nhất (Sĩ Nhất, em
Sĩ Nhiếp) giữa chức thái thú Hợp Phố, em kế Từ Văn Lịnh Vỹ giữa thái thú Cửu
Chân, và em Vỹ là Vũ giữa thái thú Hải Nam “(12). Đây là toàn bộ lãnh thổ
của nước Nam Việt thời Triệu Đà, bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây. Và đây cũng
chính là vùng "Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta" trong thời khởi
nghĩa của Hai Bà Trưng. Mãi đến thời Tôn Quyền mới đổi Giao Chỉ thành Giao Châu,
và tách Quảng Đông, Quảng Tây ra khỏi đất Việt Nam và đặt tên mới là Quảng Châu,
từ đó Quảng Đông, Quảng Tây bị nuốt trọn vào đế quốc Trung Hoa. Tuy nhiên đến
ngày nay nhiều người ở Lưỡng Quảng vẫn gọi vùng này là Việt Đông, Việt
Tây.
Điểm đặc biệt là dù đã du học và thành
đạt rực rỡ ở kinh đô nhà Hán, và dù giao du, tiếp xúc thân tình với những
"Bắc phương dị nhân", những nhân tài ưu tú nhất của Trung Hoa, nhưng cách
sống, cách cai trị của Sĩ Nhiếp, một người Việt đã đựơc Việt hóa đến bảy đời,
khác hẳn văn hóa, tập tục nhà Hán, cũng không giống các thứ sử, thái thú trước
đó hay sau này. Trái lại, rất gần gủi phong thái của Triệu Đà, của các quân
vương Việt Nam như Lê Đại Hành. Và có thêm một đặc điểm nữa mà không một vị vua
nào ở vùng Đông Á (Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản) có đựơc, vì phong thái của
ông phảng phát phong thái của những vị quân vương Phật giáo của các xứ Đông Nam
Á đã đựơc Ấn Độ hóa và Phật hóa.
Ngô Chí đã ca ngợi, tôn vinh Sĩ Nhiếp
tuyệt đỉnh, nhờ đó ngày nay ta mới có một tư liệu rất quý về Phật giáo thời Sĩ
Nhiếp:" Anh em Nhiếp đều là người hùng các quận, làm trưởng một châu, riêng ở
10.000 dặm, uy tôn vô thượng ( không có ai cao hơn). Ra vào đánh chuông
khánh, đầy đủ uy nghi, kèn sáo cổ xuy, xe, ngựa đầy đừơng. Người Hồ theo sát xe
đốt hương, thường có mười mấy người. Thê thiếp đi xe màn, đệ tử theo lính kỵ.
Đương thời quý trọng, chấn phục trăm mọi. Úy (Triệu) Đà cũng không đủ hơn”
(13). Người Hồ là người Ấn Độ, thật sự đây là những vị sư Ấn Độ đến truyền bá
đạo Phật và định cư ở Việt Nam. Người Hoa thời đó chưa biết nhiều đến Phật giáo
và chưa thấy tăng sĩ Phật giáo nên chỉ gọi các nhà sư là người Hồ. Và điểm lầm
lẫn quan trọng khác là họ diễn tả một cảnh rước Phật trong ngày lễ Phật đản,
nhưng họ lại tưởng là một chuyến xuất hành của Sĩ Nhiếp.
Ngay tử buổi đầu du nhập, khỏang thế
kỷ thứ ba trước Tây lịch, Phật giáo đã trực tiếp đến Việt Nam từ Ấn Độ bằng
đừơng biển và hoàn tòan mang màu sắc của Phật giáo Ấn Độ thời Đức Phật, hay Phật
giáo nguyên thủy, như các quốc gia khác ở Đông Nam Á như Miến Điện, Thái
Lan, Miên, Lào. Pháp Hiền, trong Phật Quốc Ký, đã ghi cảnh rước xe hoa, tượng
Phật tại thành Pataliputra như sau:" Hàng năm thường vào ngày mùng tám tháng
hai thì hành tượng. Làm xe bốn bánh...hình nó giống như một chiếc tháp...đều có
Phật ngồi, bồ tát đứng hầu. Có thể có đến 20 xe...Vào ngày đó, đạo (tức tăng sĩ)
tục (tức nam, nữ Phật tử và dân chúng) trong nước đều tập hợp lại ca hát nhảy
múa, cúng dường hương hoa"(14).
Xe hoa có hình Đức Phật thì rõ ràng
đây là xe hoa trong ngày Phật Đản. Pháp Hiền tả ngày lễ Phật Đản tại Vu Chân như
sau mà thời đó gọi là ngày hành tượng (diễn hành tượng Phật):" Từ ngày mùng
một tháng tư, trong thành quét tưới đừơng sá, trang hòang các đừơng xóm...Vua
rất kính trọng nên trước hết để hành tượng thì cách thành ba bốn dặm, làm một
chiếc xe bốn bánh, cao hơn ba trượng, hình thù giống như hành điện, trang hòang
bảy báu, treo phan lộng có dệt hình, để tượng Phật đứng trong xe, hai bồ tát
đứng hầu, làm hình chư thiên theo hầu...Tượng Phật cách cửa thành một trăm bộ,
vua cất vương miện, thay mặc áo mới, đi chân không, cầm hoa hương, có người theo
sau, ra thành đón tượng Phật, đầu mặt lạy xuống, rải hoa, đốt hương. Tượng Phật
vào thành rồi, trên lầu cửa thành, phu nhân thể nữ rải các thứ hoa, lững lờ bay
xuống....Mỗi chùa hành tượng Phật một ngày, bắt đầu từ ngày mồng một đầu tháng
đến ngày 14 thì hành tượng Phật mới xong" (15).
Thật là rõ ràng, đây đúng là hình ảnh
lễ Phật Đản ở Huế, với lễ rước xe hoa chở hình Phật từ chùa Diệu Đế đến chùaTừ
Đàm, năm nay dọc hai bên đừơng dài bốn cây số, đã đựơc trang hòang hàng vạn lá
cờ Phật giáo, 50 ngàn chiếc lồng đèn hoa sen và năm nay có đến 70 chiếc xe hoa
diễn hành trên con dường tâm linh và lịch sử này. Đây cũng là lễ Phật Đản của
thời Lý Trần với lễ rước tượng Phật từ chùa Dâu, tức chùa Pháp Vân, về ngôi chùa
lớn nhất, lừng danh nhất của kinh thành Thăng Long với tháp Báo Thiên vĩ đại,
hùng tráng soi bóng hồ Gươm, là chùa Báo Thiên ( bị cố đạo Puginier cấu kết với
thực dân Pháp và chính quyền Việt gian tay sai, phá hủy, cưỡng chiếm năm
1883 để xây thành nhà thờ Lớn Hà Nội ngày nay).
Phật đản trong thời đại Phật giáo Lý
Trần không thua kém , mà lại có phần huy hòang hơn các quốc gia Phật giáo
khác ở Đông Nam Á, nơi mà Phật giáo là quốc giáo. Văn bia tháp Sùng Thiện Diên
Linh đã mô tả đại lễ Phật đản đời Lý một cách trang trọng, diễm lệ như sau:"
Nhà vua thân ngồi xe ngọc, đến mở tiệc chay. Hương hoa bày hình thức kỳ an,
bồn chậu đặt lễ nghi tắm Phật...tạo đội ngũ thiên vương ở bốn phương, nâng khí
cụ bồi hồi nhảy múa...Khói trầm đàn như mây tỏa khắp sơn khê, bóng cờ phướng như
ráng phô đầy các ngõ. Chuông trống vang ầm, khánh tiu rộn rã. Phía trước xe mây
Tam Bảo, đằng sau kiệu báu thánh hòang. Dốc nghiêng xanh tía sáu cung, về hết
trẻ già muôn nước. Điện hoa vắt ngang phía trước, chùa Phật mở rộng bên trong.
Hội tăng ni trai khiết, diễn Giác Đế chân kinh. Hoàng đế nghiêm trang, đọc kệ
đọan cúi đầu tạ lễ. Cung nga khép nép, nghe kinh xong dâng sữa múa ca. Thổi cơm
chay trắng muốt, thết khách đói qua đừơng, phát tiền qúy ùn ùn, cấp dân nghèo
khắp chốn. U hiển đều về, thiên long cùng đến, đem lực công tối thượng, phúc đức
vô lường, ca ngợi hòang cương vững bền như trời đất. Cầu mong bảo vận vằng vặc
như trăng sao, sớm sinh thái tử, nối mãi mệnh trời. Mong gốc ngành muôn thủa,
cầu xã tắc muôn năm. Cỏ lướt nhiều phương, quỳ nghiêng muôn nước"
(16).
Ngay từ thời Sĩ Nhiếp, Phật đản đã là
một quốc lễ, theo nghĩa đây là lễ hội của một số rất đông dân chúng, trên nhiều
vùng, miền của đất nước, và có sự tham dự của người lãnh đạo cao nhất. Sĩ Nhiếp
cũng đã bảo trợ, hộ trì Phật giáo như những vị quân vương Phật tử sau này. Cụ
thể dưới thời ông, Phật giáo nước ta đã xây bốn ngôi chùa là các chùa Pháp Vân,
Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Nhưng dự lễ Phật đản, và hổ trợ cho Phật giáo chưa
đủ để Sĩ Nhiếp đựơc ca ngợi là một "nhà lãnh đạo Phật giáo". Để trở thành
một minh quân Phật giáo đúng nghĩa, người lãnh đạo quốc gia phải có đủ 6 điều
kiện sau: - tự mình tu tập và sống theo Phật pháp, - tôn trọng các quyền tự do,
phẩm giá và quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân, - điều hành đất nước với
lòng nhân từ, khoan dung, công bằng chính trực- phục vụ dân chúng với tinh thần
vô ngã, vị tha, quên mình vì người, - trị quốc trên nền tảng giáo lý trí tuệ, từ
bi, khai phóng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, - và bảo vệ, hổ trợ tòan diện Phật
giáo như là một chủ đạo văn hóa-chính trị của quốc gia.
Sĩ Nhiếp đã có đủ ít nhất là ba trong
sáu điền kiện trên: dưới thời của ông dân chúng đựơc quyền đọc, nói và viết,
đúng như Tổng thống Hoa Ky Jefferson đã nói một cách ngắn gọn và rõ ràng:" Let
us dare to read, to speak and to write" (Chúng ta hãy dám đọc, dám nói và dám
viết). Nhờ đó đã xuất hiện những tác phẩm giá trị của giới trí thức Việt Nam, cụ
thể là tác phẩm "Lý Hoặc Luận"của Mâu Tử, phê bình phá hủy tan tành nền móng của
văn hóa đại Hán và văn hóa Nho giáo. Ông tuyên bố Trung Hoa không phải là trung
tâm của thế giới và ông nói Nho giáo như đuốc, Phật giáo như mặt trời "cũng
như người chỉ thấy sông, suối mà chưa thầy biển mới thấy ánh sáng của đuốc, chưa
thấy ánh sáng mặt trời" khi so ánh Khổng Mạnh với Phật giáo (17). Ông còn so
sánh đạo Phật với đạo Khổng, đạo Lão của Trung Hoa như sau:" Đạo Phật giống
như giếng trời, Khổng, Lão giống như hang, khe, đạo Phật giống như mặt trời,
Khổng, Lão chỉ là ngọn đuốc, đạo Phật là trái, là quả, Khổng Lão chỉ là hoa,
lá...(17). Đập vỡ tư tưởng bá quyền Trung Quốc là nước trung tâm của thế
giới, Mâu Tử dỏng dạc viết:" Ấn Độ mới thật là nằm giữa trời đất, và có địa
vị trung hòa, vì vậy Phật đã ra đời nơi đó." (19).
Lý Hoặc Luận đựơc viết tại nước ta vào
khỏang cuối thế kỷ thứ hai, đầu thế kỷ thứ ba. Đây là tác phẩm Phật học và tôn
giáo đối chiếu đầu tiên ở Đông Á. Chính trong không khí thời đại đựơm nồng hương
sắc Phật giáo, nhà cai trị Phật giáo Sĩ Nhiếp lẫy lừng, người sống thọ đến 90
tuổi, với tinh thần tự do, khoan dung, khai phóng của đạo Phật, đã mở ra một cõi
trời an lạc trên nước ta, giữa cảnh đại lọan của đế quốc Trung Hoa.
Với tinh thần "Chúng ta hãy dám
đọc, dám nói và dám viết" nhà trí thức anh tài Việt Nam là Mâu Bác hay Mâu
Tử, đã ngồi yên, trầm tư sâu thẳm và trầm hùng viết lên tác phẩm Lý Hoặc
Luận, bẽ gãy những sự tấn công, xuyên tạc, ngộ nhận về Phật giáo, phê bình phá
hủy tận gốc và tòan diện tư tưởng đế quốc Đại Hán và học thuyết Khổng, Mạnh, và
tán dương, tuyên xưng đạo Phật đến cực điểm, một sự cúng dường cao quý, một sự
cống hiến tuyệt vời, không những cho Phật giáo Việt Nam, mà còn cho tổ quốc Việt
Nam, đang dốc hết trí tuệ, tâm lực và cả sinh mạng để mưu cầu độc lập tự
do. Đây là một trận đánh văn hóa và một trận chiến thắng văn hóa vĩ đại, mở
đừơng cho những trận đánh và những trận chiến thắng về quân sự-chính trị sau
này, ròng rã trong suốt cả gần hai ngàn năm.
Giữa đất trời thơm phức không khí
hương trầm của các lễ hội Phật giáo, vang vọng tiếng chuông, tiếng trống, tiếng
mõ, tiếng khánh, vừa hào hùng, vừa thần bí này, những nhà trí thức ưu tú Việt
Nam, như Mâu Tử, Tăng Hội , Sĩ Nhiếp, từ những vị trí, vai trò khác nhau, đã
cùng đóng góp hết mình cho một sự nghiệp chung của dân tộc, trên một nền tảng
chung là Phật giáo, đó là sự nghiệp giải phóng Việt Nam, về văn hóa cũng như về
chính trị, khỏi sự thống trị của đế quốc Trung Hoa.
Không khí thời đại khoa dung, khai
phóng, với sự ngự trị đầy quyến rũ của chủ đạo văn hóa-chính trị Phật giáo đã
đưa Việt Nam thời Sĩ Nhiếp đạt đến một thành tựu lớn, đó là hình thành kỷ nguyên
tam giáo đồng nguyên đầu tiên ở Đông Á, một kỷ nguyên mà cả ba tôn giáo lớn tại
Đông Á là Nho, Phật, Lão cùng phát triển, hưng thịnh, mà trong đó Phật giáo đóng
vai trò trung tâm và chủ đạo. Như một quy luật, chỉ khi nào Phật giáo hưng thịnh
và có ưu thế, thì khi đó mới xuất hiện nền văn hóa tam giáo đồng nguyên. Do tính
khoan dung, rộng mở, các nhà lãnh đạo Phật giáo đã xử dụng Nho giáo như một kỷ
thuật học, một môn quản trị công quyền và công dân giáo dục để phát triển đất
nước theo mô hình kiểu mẫu của Đông Á trước khi Tây phương xuất hiện, là mô hình
Trung hoa, nhưng vẫn giữ thế chủ động, sáng tạo đặc thù của Việt Nam, và không
để cho Nho giáo trở thành linh hồn, quốc đạo của Đại Việt. Ngược lại, trong
những thời Nho giáo có ưu thế, thì Phật giáo bị kỳ thị, đàn áp, văn hóa tam giáo
đồng nguyên sụp đổ, và đất nước rơi vào cảnh suy yếu, lọan lạc. Thời đại Phật
giáo Lý Trần và sự hưng thịnh tòan diện của đất nước là một bằng chứng, và thời
đại Nho giáo Lê, Nguyễn với sự độc tôn của Nho học và sự lụn bại, tan rã của
Việt Nam trong các thế kỷ 16,17,18,19 là một thí dụ rõ ràng.
Sĩ Nhiếp vừa cho mở trường dạy chữ Nho
và Nho giáo, mà chính ông là một người thầy có hàng ngàn học trò theo học, vừa
khoan dung và khuyến khích Lão giáo, đồng thời lại sùng mộ Phật giáo, cho xây
chùa thờ Phật, trọng dụng giới tăng lữ. Đất Luy Lâu ở Thuận Thành, Hà Bắc, cũng
là thủ phủ của quận Giáo Chỉ và của tòan cõi Giao Chỉ bộ, trở thành một trung
tâm trí thức, học thuật, văn hóa, thương mãi lớn với nhiều ngọai kiều đến cư
ngụ, buôn bán, truyền đạo (19). Ngòai ra Luy lâu còn là trung tâm Phật giáo lớn
nhất, lâu đời nhất ở Đông Á. Nước ta lại càng thêm hấp dẫn đối với giới trí thức
Trung hoa. Theo Bác Vật Chí, sĩ phu và dân chúng Trung hoa "vượt biển sang
Giao chỉ không bao giờ dứt"(20).
Cuộc đời Sĩ Nhiếp thật là hào hứng.
Đây cũng là không khí chính trị, văn hóa, tôn giáo của thời đại tự do và
khoan dung này: thời đại trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng, mà nổi bật là
Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo. Chính trên sự tranh đua với những tinh
hoa sáng chói nhất của văn hóa Trung Hoa mà sự hưng thịnh của Phật giáo mới có
một ý nghĩa đặc biệt, đó là sự vượt thắng sau những thử thách, cọ xát với những
học thuyết, ý hệ đối nghịch do sức mạnh tự thân, chứ không phải là do sự thiên
vị hay ân huệ của người lãnh đạo.
Sĩ Nhiếp và nhân dân Việt của thời đại
ông tôn vinh, quy phục Phật giáo, không phải như một tôn giáo truyền thống của
ông bà tổ tiên để lại và ta phải mù quáng tôn thờ, hay tôn giáo đựơc áp đặt một
cách độc tôn, độc đóan, tướt bỏ sự chọn lựa tự do, mà ngược lại họ đã so sánh,
đối chiếu và đã quyết định lựa chọn Phật giáo như một đạo lý mới, một niềm tin
mới, một sự cứu độ mới, có khả năng dung hóa với tín ngưỡng truyền thống, có sức
mạnh vượt thắng văn hóa Trung Hoa và có sứ mạng đánh đổ sự thống trị văn hóa của
đế quốc phương Bắc và xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và hưng
thịnh.
Học giả Keith Taylor đã công bình,
trung thực khi gọi Sĩ Nhiếp là một nhà lãnh đạo Phật giáo. Ông đã mở ra một thời
đại tự do, khai phóng, đa nguyên và đầy khoan dung. Ông đã là người tiền phong
cho những vị quân vương-Phật tử sau này hình thành chủ đạo văn hóa chính trị
Phật giáo, một quốc đạo mới, đưa Việt Nam vượt thắng 1.000 năm Bắc thuộc,
và khai sinh thời đại Phật giáo Lý Trần vinh quang.
Đất nước hôm nay, trong thời kỳ mở cửa
với thế giới và hiện đại hóa tòan diện, đang có những nét tương đồng với thời
đại Sĩ Nhiếp, và dĩ nhiên cũng có rất nhiều điểm khác biệt. Những bài học của Sĩ
Nhiếp, một "nhà lãnh đạo Phật giáo" đã thành công rất xuất sắc, rất vẻ vang, có
đóng góp gì cho sự phục hưng của Phật giáo Việt Nam hôm nay? và cho cuộc cách
mạng phát triển mới của Việt Nam trong kỷ nguyên tòan cầu hóa? Quốc lễ Phật Đản
Liên Hiệp Quốc năm 2008 là một cơ hội lớn để để nhìn lại, làm mới lại và
ứng dụng di sản tâm linh, văn hóa vô giá có bề dày lịch sử hơn 2.000 năm, và
đựơc thế giới văn minh, tiến bộ ngày nay ngưỡng mộ, tôn vinh, đồng thời cũng là
một cơ hội lớn khai phá một chủ đạo văn hóa-chính trị mới cho Việt Nam.
Việt Nam đang đứng trước ngã tư đừơng,
trên đống gạch vụn đổ nát của các ý thức hệ bất khoan dung đến từ Âu Châu, và
dưới cái bóng khổng lồ ngày càng lớn của đế quốc Trung Hoa. Việt Nam có thể phát
triển nhanh và bền vững trên nền tảng của quốc đạo truyền thống hay không? Và
Phật giáo có thể trở thành chủ đạo văn hóa -chính trị mới của Việt Nam trong 10
năm tới hay không? Đó là công án thời đại đặt ra cho tất cả Phật tử Việt Nam và
cho tất cả người Việt ứơc mong một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, vẹn tòan lãnh
thổ, thống nhất lòng người, phát triển tòan diện và hưng thịnh vinh
quang.
Lý Khôi Việt
(Câu Lạc Bộ Phật Giáo Thăng
Long)
địa chỉ email:
phatgiaothanglong@yahoo.com.
(Xin đón đọc bài thứ hai: Lễ Phật
Đản Liên Hiệp Quốc 2008 Và Chủ Đạo Văn Hóa-Chính Trị Mới Của Việt
Nam).
Chú thích:
1) Keith Weller Taylor:
The Birth of Vietnam, University of California Press, 1983, t 85.
2) K.W Taylor,
sđd, t 70.
3) K.W Taylor, sđd, t 80.
4) K.W Taylor, sđd, t 85.
5) Lý Khôi Việt,
Phật Giáo Và Quốc Đạo Việt Nam, Việt Phật, Hoa Kỳ, 1995, t 17, trích từ Nguyễn
Hiền Đức, Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong, NXB TP Hồ Chí Minh, 1993, t 131.
6) Trần
Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Miền Nam, Sài Gòn, 1971, t 32.
7) Lê Mạnh Thát,
Nghiên Cứu Về Mâu tử, q 1, Tu Thư Vạn Hạnh, Sài gòn, 1982, t 152-153.
8) Trần
Trọng Kim, sđd, t 42.
9) Lê Mạnh Thát, sđd, t 272.
10) Lê Mạnh Thát, sđd, t 272.
11) Lê Mạnh Thát, sđd, t 266.
12) Le Mạnh Thát, sđd, t 270.
13) Lê Mạnh
Thát, sđd, t 272.
14) Lê Mạnh Thát, sđd, t 156-157.
15) Lê Mạnh Thát, sđd, t
166.
16) Thích Thanh Thắng, Quốc Lễ Phật Đản Và Tâm linh Dân Tộc, huongsenviet,
tháng 5,2008.
17) Nguyễn Lang, Phật Giáo Việt Nam Sử Luận, q 1, Nhà Xuất Bản Văn
Học, Hà Nội, 1992, t 70-74.
18) Nguyễn Lang, sđd, t 70-74.
19) Nguyễn
Lang, sđd, t 76-77.
20) Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam, Lịch Sử Việt Nam, q 1,
NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1971, t.
242-243.
|