 |
11 tháng 1, 2008
|

Mọi người Việt Nam yêu nước, dù đang sống tại quốc nội hay tại
hải ngoại và dù cho xu hướng chính trị khác biệt nhau ra sao, cũng cần phải
cảnh giác trước thứ vũ khí văn hóa hiểm độc của chủ nghĩa đế quốc đội lốt tôn
giáo (Công giáo, Tin lành).
Dân tộc Việt
Nam đã từng đánh thắng nhiều tên xâm lược lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần về mặt
quân sự, nhưng dân tộc ta đã “thất trận” khi địch xâm lược nước ta bằng thứ vũ
khí văn hóa đội lốt tôn giáo! Chúng ta đã thất bại chủ yếu do những đoàn quân
thứ năm hùng hậu làm nội ứng cho địch. Cũng chính đạo quân thứ năm này đã là con
bài chủ lực trong chính sách “chia để trị” để kéo dài sự thống trị của chúng.
Từ đầu năm
2001 đến nay, những biến động xảy ra do người Thượng Tin lành ở Pleiku và ở miền
thượng du Việt Bắc đã thực sự là những hồi chuông báo động về mối hiểm họa Tin
lành. Kinh nghiệm Trung quốc cho thấy Công giáo phát triển rất chậm so với Tin
lành: Sau nhiều thế kỷ truyền đạo tới năm 1982 số tín đồ Công giáo Trung quốc
chỉ có 3 triệu người trên 900 triệu dân. Trong khi đó, Tin lành mới xâm nhập vào
Trung quốc từ đầu thế kỷ 20, nhưng đến năm 1982 số tín đồ Tin lành là 7 triệu
người, tức gấp hơn hai lần tín đồ Công giáo!
Hướng về tổ
quốc Việt Nam, giới trí thức hải ngoại nặng tình dân tộc không khỏi lo ngại
trước tình hình hiện nay: Dường như người Việt trong nước chưa đánh giá đúng
mức mối hiểm họa Công giáo – Tin lành. Có thể còn nhiều người vẫn lầm tưởng
Công giáo – Tin lành đồng nghĩa với “văn minh Tây phương”. Thực sự Công giáo là
thủ phạm đã tiêu diệt nền văn minh khoa học của Hy lạp trong thế kỷ 5, đàn áp
các phong trào tư tưởng tiến bộ tại Âu châu trong nhiều thế kỷ khiến cho nền văn
minh chung của nhân loại đã bị thụt lùi tới hơn một ngàn năm! Công giáo không
phải chỉ là kẻ thù của dân tộc Việt Nam mà còn là kẻ thù chung của cả loài người
chúng ta.
Tổng số
người Việt ở hải ngoại hiện nay khoảng trên hai triệu người. Số người Việt Công
giáo chỉ có khoảng 200.000 người nhưng là sở hữu chủ của phần lớn các cơ sở báo
chí và truyền thanh truyền hình. Người Việt Công giáo hải ngoại luôn luôn lớn
tiếng kết tội những người “Cộng sản vô thần” vi phạm đủ thứ nhân quyền và đặc
biệt là đàn áp tôn giáo. Nhưng trong thực tế chính họ là những người về thăm
Việt Nam nhiều nhất và mang tiền về xây nhà thờ, nhà xứ nhiều nhất. Hiện nay có
nhiều người về thăm quê hương đã phải sửng sốt ngạc nhiên thấy những thánh đường
và nhà xứ nguy nga lộng lẫy được xây cất sau 1975!
Nếu chính
quyền Việt Nam đàn áp tôn giáo, tại sao Công giáo có thể tổ chức “Lễ hội La
vang” qui tụ trên một trăm ngàn tín đồ trong năm 1999? và tại sao các giám mục
và linh mục được phép xuất ngoại nườm nượp như đi chợ?
Phải chăng chính
quyền Việt Nam đã quá tin tưởng vào sự phản tỉnh dân tộc của 7 triệu tín đồ Công
giáo nên đã quá lơ là cảnh giác và quá buông lỏng dễ dãi với họ?
Trên trang
nhà Giao Điểm (giaodiem.com và
giaodiem.net) tháng
3-2003 có đăng bài viết tựa đề: “Việt Nam phải cẩn thận về một tập đoàn
cực kỳ hiếu chiến”, hai tác giả của bài viết này là Đào duy Toàn và
Hồng Hà Lý trọng Võ đã khẩn thiết lên tiếng kêu gọi chính quyền Việt Nam cần
đặc biệt quan tâm đến vấn đề cấp bách là phải diệt trừ tham nhũng để không cho
đạo quân thứ năm của địch xâm nhập các cơ cấu chính quyền để lũng đoạn. Hai
tác giả bày tỏ nỗi niềm tha thiết của mình đối với mối lo chung của cả dân tộc:
“Đây là lời cảnh báo chí tình của những người Việt xa quê!”.
Trong tháng
2/2003, trang nhà Giao Điểm có đăng bài tham luận rất giá trị mang tựa đề: “Đối
trị với sách lược của Vatican”
của Nhật Nam và Phạm phú Bổn. Hai tác giả nhấn mạnh đến tính chất đế quốc bất
biến của Vatican là luôn
luôn xâm lăng văn hóa chính trị trên toàn cầu và Việt Nam là kẻ thù lịch sử của
Vatican.
Theo hai tác giả
thì Giáo hội Công giáo có bốn thuộc tính:
1. Luôn luôn khống
chế thế quyền để phát triển giáo quyền.
2. Tu sĩ cũng như
giáo dân Công giáo luôn luôn tìm cách “mở mang nước Chúa” dù phạm tội ác.
3. Trong hiện tại,
Công giáo VN có thể lợi dụng các cánh tay nối dài của Tây phương (như Kinh tế
thị trường, thông tin đại chúng) để khuynh loát chính quyền nhằm tạo lợi thế.
4. Giáo hội Công
giáo VN là đạo quân thứ năm (của Vatican) có tính
chất chuyên nghiệp, bản địa. Đây là một lực lượng chính trị quần chúng có tổ
chức chặt chẽ và có lãnh đạo quy mô. Trong trường hợp có biến động, lực lượng
tiềm ẩn này sẽ nối kết chặt chẽ với Công giáo VN hải ngoại thành một thế “nội
công ngoại kích” nguy hiểm.
Để kết thúc bài
tham luận trên, hai tác giả đưa ra một số biện pháp để đối trị với sách lược của
Vatican, tôi đặc
biệt quan tâm và nhiệt liệt tán thành hai biện pháp sau đây:
Thứ nhất:
Trong đoản kỳ, chúng ta chấp nhận sự hiện diện của Giáo hội Công giáo VN như một
thành phần dân tộc. Nhưng chúng ta cần phải ý thức dứt khoát rằng: Bảy triệu
tín đồ Công giáo VN là một loại ung thư cực kỳ nguy hiểm trên cơ thể quốc gia,
do đó cần phải tìm cách cô lập chặt chẽ để giới hạn tối đa sức bành trướng của
nó và hạn chế tối đa sức công phá để kéo dài cuộc sống của nó.
Thứ hai:
Cần có một chính sách thích đáng đối với Công giáo VN đặt trên cơ sở giáo dục
nhằm giúp họ phản tỉnh để sớm trở về với dân tộc. Đồng thời cần phải giới hạn
tối đa mọi liên hệ giữa họ với Vatican để dần
dần đi tới sự hình thành giáo hội Công giáo VN tự trị.
Hai điều nói
trên rất xác đáng nhưng đã được nêu lên như những nguyên tắc tổng quát có tính
cách chỉ đạo. Tôi viết bài viết này với mục đích đề xuất một số đề nghị cụ thể
và chi tiết để góp ý với các giới chức có trách nhiệm về tôn giáo ở Việt Nam
trong vấn đề khó khăn hiện nay là vừa phải đối phó với sách luợc của
Vatican, vừa phải
đối phó với những cụ biến loạn do những người Tin lành gây ra.
Các Emails của Hòa Bình
|