Dạy khoa học cho các tín
đồ?
tia sáng 15:52:44 18/07/2007
Nhà vật lý nổi tiếng Lawrence M. Krauss rất tích cực
chiến đấu để bảo vệ thuyết tiến hóa trước sự tấn công từ
phía nhà thờ. Trong một bức thư ngỏ, ông đã từng thuyết
phục tòa thánh Vatican khẳng định lại sự chấp thuận của
Nhà thờ Thiên Chúa đối thuyết chọn lọc tự nhiên, coi nó
như một lý thuyết khoa học có giá trị.
Richard Dawkins là một nhà sinh học tiến hóa và cũng là
một cây bút tài năng. Ông cũng nhiệt tình đấu tranh
chống lại những âm mưu huỷ hoại khoa học. Tuy nhiên,
khác với Krauss, ông không tin lắm về khả năng "chung
sống hòa bình" của khoa học và đức tin tôn giáo.
Krauss và
Dawkins bảo vệ khoa học theo những cách khác nhau, sự
ứng phó của họ trước tôn giáo cũng khác nhau. Và cuộc
tranh luận bắt đầu.
Krauss: Cả
ông và tôi đều dành nhiều thời gian để lôi kéo mọi người
yêu thích và tin tưởng vào khoa học. Cho nên tôi nghĩ là
thích hợp khi đặt ra câu hỏi rằng: đứng trước tôn giáo,
nhà khoa học cần làm gì? Sử dụng sự tương phản giữa khoa
học và tôn giáo để dạy khoa học hay là cố gắng đặt tôn
giáo vào đúng vị trí của nó? Có vẻ như tôi sẽ chọn cách
thứ nhất, còn ông sẽ chọn cách thứ hai.
Tôi thường nói với các giáo viên rằng, sai lầm lớn nhất
của họ chính là việc nghĩ rằng các học sinh đang quan
tâm tới những gì họ sắp nói. Dạy học là một hành động dụ
dỗ. Mặt khác, sẽ là thiếu tính sư phạm nếu nói thẳng với
các học sinh rằng những niềm tin sâu sắc nhất của họ
thực ra là rất ngớ ngẩn và rằng họ nên nghe chúng ta để
học được những chân lý đích thực. Bởi vì làm như vậy
không phải "dụ dỗ" mà là khiến mọi người bị sốc khi cố
gắng giết chết những niềm tin của họ. Đối với tôi, khi
muốn dạy mọi người, tức là muốn dụ dỗ mọi người tin vào
khoa học, có lẽ là tôi cần phải hiểu về họ và biết được
họ từ đâu đến.
Dawkins: Trên thực tế, tôi nghĩ tôn giáo
là một khoa học tồi, trong khi đó ông lại nghĩ nó lệ
thuộc vào khoa học. Có thế đó là nguyên nhân khiến chúng
ta đi theo những hướng hơi khác nhau. Tôi đồng ý với ông
rằng, dạy học là một hành động dụ dỗ, và việc làm sốc
các thính giả là một chiến thuật dở. Có lẽ tôi có thể
nâng cao trình độ dụ dỗ của mình. Nhưng không ai lại đi
ngưỡng mộ một "kẻ dụ dỗ" thiếu trung thực, và tôi cũng
không biết ông cần phải chuẩn bị kỹ đến mức nào để "hiểu
được các thính giả". Chắc là ông sẽ không thể hiểu được
một "Flat Earther" (người tin rằng bề mặt Trái đất là
phẳng) hay một tín đồ của thuyết "Young Earth
Creationism" (Sáng thế Trẻ, cho rằng toàn bộ vũ trụ được
bắt đầu từ giai đoạn giữa thời Đá Cũ và Đá Mới.) Nhưng
có lẽ là ông sẽ hiểu được một tín đồ của thuyết "Old
Earth Creationism" (Sáng thế Già), người đó tin rằng
Chúa khởi tạo nên mọi sự vật và tác động lên quá trình
tiến hóa của chúng. Sự khác biệt giữa hai chúng ta chỉ
là về mặt định lượng. Thực ra ông cũng chỉ tìm hiểu về
các thính giả của mình sâu hơn tôi một chút thôi.
Krauss: Để tôi nói rõ hơn về chuyện tìm
hiểu. Ý tôi là, tôi đi tìm một phương pháp thật hay để
minh họa cho mọi người thấy được những nhận thức sai của
họ chứ không phải là tôi chịu nhượng bộ trước những nhận
thức sai đó. Tôi sẽ cho ông một ví dụ. Tôi đã từng có
dịp tranh luận với các tín đồ của thuyết Sáng thế
(Creationism) và những người cuồng tín tin rằng có sự
bắt cóc của người ngoài hành tinh (alien abduction). Hai
nhóm này giống nhau ở chỗ, họ đều nghĩ rằng chỉ có hai
trạng thái hiểu: hoặc là hiểu được mọi thứ, hoặc là
không hiểu gì cả. Họ cứ khăng khăng nói rằng, vào năm
1962, một nhóm người ở Mông Cổ đã từng nhìn thấy một
chiếc đĩa bay lơ lửng trên nóc một nhà thờ. Khi đó tôi
nói với họ rằng tôi không tin vì chưa từng thấy cảnh nào
như thế. Họ lập tức phản đối tôi bằng một luận điệu muôn
thuở: "Nếu ông không tìm hiểu về hiện tượng đó thì làm
sao ông có thể nói được chuyện bắt cóc của người ngoài
hành tinh là không có.
Khi đó tôi
đã tìm ra cách để buộc mỗi nhóm phải suy nghĩ về những
gì họ đang nói. Đầu tiên tôi hỏi những tín đồ của thuyết
Sáng thế: "Các anh có tin chuyện đĩa bay không?" Họ
không tránh được câu trả lời: "không." Sau đó tôi hỏi:
"Vì sao? Các anh đã tìm hiểu về nó chưa?". Tương tự như
vậy, tôi hỏi nhóm còn lại: "Các anh có tin vào thuyết
Sáng thế Trẻ không?". Họ trả lời "không", tỏ ra là những
người hiểu biết khoa học. Khi đó tôi lại hỏi: "Vì sao?
Các anh đã tìm hiểu kỹ chưa?" Tôi làm như vậy để các
nhóm này nhận ra rằng, các lý thuyết cần phải dựa trên
một số lượng lớn những bằng chứng hiện hữu, chứ không
phải chỉ căn cứ vào một tình tiết mờ ám nào đó. Kỹ thuật
"dạy dỗ" đó tỏ ra hiệu quả trong hầu hết các trường hợp.
Với kỹ thuật này, tôi chỉ "bó tay" trong trường hợp
thính giả vừa là một kẻ tin vào chuyện bắt cóc của người
ngoài hành tinh lại vừa là một tín đồ của thuyết Sáng
thế! Dawkins: Tôi thích kỹ thuật của ông. Nhưng
tôi cũng cần cảnh báo ông rằng, chuyện hiểu lầm là rất
dễ xảy ra. Trong một bài điểm sách trên New York Times,
tôi đã viết rằng: "Bạn hoàn toàn có quyền phán một người
không tin vào sự tiến hóa là dốt nát, ngu si và điên
rồ." Câu đó đã được người ta nhắc đi nhắc lại để minh
họa cho quan điểm rằng: tôi là một kẻ cố chấp, hẹp hòi
và độc đoán thái quá. Nhưng hãy đọc lại câu của tôi. Nó
không đủ khôn khéo để dụ dỗ người khác, nhưng Lawrence
à, chắc chắn ông biểt rằng đó là cách đơn giản và nghiêm
túc nhất để nói lên sự thật.
Dốt nát
không phải là một tội. Cho nên việc bảo ai đó dốt không
phải là xúc phạm hay lăng mạ họ. Tất cả chúng ta đều dốt
trước hầu hết những thứ mà chúng ta chưa được học. Tôi
hoàn toàn mù tịt môn bóng chày, và tôi dám chắc rằng ông
cũng "dốt đặc cán mai" môn cricket. Nếu tôi chỉ dùng từ
dốt (ignorant) để nói về một người vốn tin rằng thế giới
chỉ 6000 năm tuổi, thì có nghĩa là tôi cũng đang ca ngợi
anh ta vì có lẽ anh ta không phải là kẻ ngu si (stupid)
hay điên rồ (insane).
Krauss: Tôi phải nói rằng, tôi hoàn toàn
đồng ý với ông về điểm này. Với tôi, chuyện dốt là một
vấn đề vẫn thường tồn tại, và sự dốt nát là dễ nhận xét
nhất. Không phải là xấu khi bảo ai đó dốt vì họ không
hiểu những vấn đề khoa học. Dawkins: Để
đáp lễ, tôi cũng vui lòng đồng ý với ông rằng, tôi có
thể, và có lẽ nên ăn nói khôn khéo hơn. Tôi nên thuyết
phục người khác một cách có nghệ thuật hơn. Nhưng chuyện
này cũng cần có những giới hạn của nó. Tôi nghĩ là ông
không nên nói theo kiểu như sau: "Các tín đồ của thuyết
Sáng thế Trẻ thân mến, tôi rất tôn trọng niềm tin của
các bạn về một thế giới 6000 năm tuổi. Tuy nhiên, tôi
xin đề nghị rằng, nếu các bạn đọc một trong những cuốn
sách về địa chất, cách đo tuổi bằng đồng vị phóng xạ, vũ
trụ học, khảo cổ học, lịch sử, hoặc động vật học, có thể
bạn sẽ thấy rất thú vị (giống như quyển Kinh thánh mà
các bạn đã đọc), và có thể bạn sẽ thấy tại sao hầu hết
những người có học, kể cả những nhà thần học cũng đều
nghĩ rằng tuổi của thế giới được tính bằng hàng tỷ năm,
chứ không phải hàng nghìn năm." Cho tôi được đề xuất một chiến thuật dụ dỗ mới. Thay vì
giả bộ tôn trọng những quan điểm ngu muội, tôi nghĩ ở
đây nên áp dụng một chút phương pháp "yêu cho roi cho
vọt" ("tough love"). Cần nói rõ cho những tín đồ của
thuyết Sáng thế Trẻ thấy được sự khác nhau quá lớn giữa
niềm tin của họ và niềm tin của những nhà khoa học:
"6000 năm là khác xa so với 4,6 tỷ năm. Các tín đồ thân
mến, nếu các bạn cứ khăng khăng rằng tuổi của thế giới
là 6000 năm thì chả khác nào các bạn nói rằng khoảng
cách từ New York đến San Francisco là 7,8 thước Anh chứ
không phải 3400 dặm."
Krauss: Tôi
không nghĩ chiến thuật của ông là "yêu cho roi cho vọt."
Có những người luôn luôn mê muội và bất chấp thực tế,
nên không thể thuyết phục được họ. Đối tượng mà chúng ta
có thể thuyết phục được là một số lượng lớn những người
chịu nghe khoa học và vấn đề đối với họ chỉ đơn giản là
thiếu hiểu biết hoặc chưa bao giờ được tiếp xúc với bằng
chứng khoa học. Về điều này, tôi có thể đưa ra một câu
hỏi khác: "Khoa học có thể củng cố đức tin tôn giáo hay
không, hay khoa học phải luôn luôn huỷ hoại nó?"
Câu hỏi này nảy sinh bởi vì gần đây tôi được mời đến một
trường Công giáo để nói chuyện về chủ đề khoa học và tôn
giáo. Có vẻ như người ta đã xem tôi là một nhân vật muốn
dung hòa hai lĩnh vực này. Sau khi nhận lời đến nói
chuyện, tôi phát hiện ra rằng, họ đã gắn cho tôi danh
hiệu: "Nhà khoa học Củng cố Đức tin." Lúc đầu, tôi cảm
thấy rất băn khoăn, nhưng càng nghĩ tôi lại càng thấy
cái danh hiệu ấy là có lý. Tôi không nghĩ là chúng ta
nên rũ bỏ tính nhân văn của niềm tin tôn giáo, cũng như
tính nhân văn của tình yêu lãng mạn, và nhiều những lĩnh
vực khác, tuy phi lý nhưng lại là những điều căn bản
trong cuộc sống tinh thần của con người.
Dawkins:
Nhưng tình yêu lãng mạn, thơ ca hay những cảm xúc con
người là những vấn đề tích cực của tính phi lý. Còn sự
mê tín dị đoan lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Việc
chấp nhận nó như một phần không thể thiếu được trong bản
chất của con người hiển nhiên là không đúng, đối với cả
ông, tôi, và thậm chí cả với hầu hết đồng nghiệp của
chúng ta. Tôi không tin là không có cách giải thoát con
người khỏi sự mê tín.
Krauss: Tôi thì lại không đủ tự tin để
nói rằng tôi có thể rũ bỏ những niềm tin phi lý, ít nhất
là những niềm tin phi lý về chính bản thân tôi. Nhưng
nếu đức tin tôn giáo là một phần trung tâm trong trải
nghiệm cuộc đời của nhiều người thì vấn đề được đặt ra
không phải là chúng ta từ bỏ thế giới của Thượng đế như
thế nào mà là khoa học có thể điều chỉnh niềm tin này
tới mức nào để loại bỏ những khía cạnh phi lý và có hại
nhất của nó. Đây chắc chắn là một cách để khoa học có
thể củng cố được niềm tin tôn giáo.
Trong nhiều trường hợp, khoa học có thể trực tiếp chống
lại những diễn giải xấu về kinh thánh, chẳng hạn như
quan niệm cho rằng, phụ nữ chỉ là những đồ vật sở hữu.
Và Sinh học đã đạp đổ quan niệm đó khi chứng minh rằng,
vai trò sinh học cũng như những khả năng trí tuệ của phụ
nữ và đàn ông là bình đẳng với nhau. Galileo đã từng lập
luận rằng, Thượng đế sẽ không ban cho con người bộ não
nếu "ông ấy" không muốn con người sử dụng nó để nghiên
cứu tự nhiên. Và nói một cách "logic", Thượng đế thực sự
muốn con người nghiên cứu khoa học, bởi vì khoa học có
thể củng cố niềm tin tôn giáo. Còn một người nữa, giống như cả tôi và ông, không phải
là một tín đồ trung thành, nhưng cũng đã chứng minh được
một cách thuyết phục rằng khoa học có thể đem lại lợi
ích cho tôn giáo, đó là Carl Sagan.
Tuy nhiên, trong các bài giảng năm 1985 ở Scotland về
khoa học và tôn giáo, ông đã chỉ ra rằng, những gì mà
tôn giáo xây dựng nên thực ra vẫn còn quá thiển cận và
quá hạn hẹp. Vật lý lý thuyết và các kính thiên văn đem
đến cho chúng ta một cảm nhận về vũ trụ bao la và kỳ vĩ
hơn nhiều so với cảm quan tôn giáo. Cho nên tôi phải nói
thêm rằng, việc củng cố niềm tin tôn giáo là khác xa so
với việc đem lại những bằng chứng thuyết phục cho niềm
tin ấy. Về điểm này, tôi tin rằng khoa học không thể
đem lại những bằng chứng để chứng minh cho niềm tin tôn
giáo.
Dawkins: Tôi cũng thích nhắc đến Sagan.
Trên bìa cuốn sách tập hợp các bài giảng của Sagan có in
lời giới thiệu của tôi: "Carl Sagan
có phải là một tín đồ tôn giáo không? Ông ấy còn hơn cả
một tín đồ. Ông ấy đã vượt lên trên cái thế giới lạc
hậu, nhỏ nhặt, kém cỏi của hệ thống tôn giáo cũ, vượt
lên trên tất cả sự nghèo nàn về trí tuệ cũng như năng
lực tinh thần của các nhà thần học, linh mục, giáo sỹ.
Ông vượt lên trên họ bởi vì ông hiểu tôn giáo sâu sắc
hơn họ. Trong đầu của họ chỉ có những chuyện hoang đường
từ thời đồ đồng, những chuyện mê tín dị đoạn từ thời
trung cổ, và những suy nghĩ hão huyền kiểu trẻ con." Tôi
không thể bổ sung thêm điều gì cho việc trả lời câu hỏi
của ông rằng liệu khoa học có thể củng cố niềm tin tôn
giáo hay không. Theo ý ông và Sagan thì câu trả lời là
có. Nhưng tôi rất không muốn điều đó bị hiểu lầm thành
sự ủng hộ tôn giáo. Krauss: Tôi
muốn nêu ra một vấn đề cốt lõi trong các cuộc tranh luận
của những nhà khoa học về tôn giáo, đó là: Có phải tôn
giáo vốn là một thứ xấu hay không? Ở đây, tôi phải thú
nhận là, những quan điểm của tôi đã thay đổi dần dần sau
nhiều năm, mặc dù ông có thể trách rằng tôi đã trở nên
nhu nhược hơn. Đã có hàng loạt bằng chứng cho thấy, tôn
giáo phải chịu trách nhiệm trước nhiều hành động tàn ác.
Tôi và cả ông vẫn thường nói rằng, không ai lại sẵn sàng
lao cả chiếc máy bay vào những tòa cao ốc nếu trong đầu
họ không có niềm tin rằng Thượng đế đang đứng về phía
họ.
Là một nhà khoa học, tôi cảm thấy nhiệm vụ của tôi là
phải đấu tranh chống lại những biểu hiện tiêu cực của
tôn giáo khi nó nhồi nhét vào đầu mọi người những điều
sai trái. Ở đây, tôi cho rằng, ta chỉ nên tôn trọng
những tình cảm tôn giáo như những lý thuyết suông siêu
hình không hơn không kém. Và đặc biệt, ta không nên tôn
trọng chúng khi chúng sai. Sai ở đây nghĩa là chúng
không đúng một cách hiển nhiên so với bằng chứng thực
nghiệm. Cái chúng ta cần phải loại bỏ không phải là đức
tin tôn giáo, mà là sự dốt nát của nó.
Dawkins: Tôi
nghĩ, ở điểm này thì chúng ta có thể đồng ý với nhau khá
nhiều. Gần đây, tôi có cuộc gặp gỡ trên truyền hình với
một cựu chính trị gia người Anh tên là Tonny Benn, cựu
bộ trưởng bộ khoa học. Ông ấy tự nhận mình là một tín đồ
Cơ-đốc. Nhưng ông ấy không hề tỏ ra quan tâm đến chuyện
liệu những niềm tin vào Cơ-đốc giáo có đúng hay không.
Ông ấy thực ra chỉ quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo
lý gắn với những niềm tin ấy. Benn phê phán khoa học vì
cho rằng khoa học không có những bài học đạo đức. Khi
tôi bảo ông ấy rằng những răn dạy về đạo đức không phải
là nội dung của khoa học thì ông ấy lập tức vặn ngay:
thế tác dụng của khoa học là gì?
Nhiều người vẫn nghĩ rằng chuyện đúng sai của những niềm
tin tôn giáo không quan trọng bằng những sức mạnh tinh
thần thiêng liêng mà tôn giáo mang lại cho họ, chúng
mang lại cho họ mục đích của cuộc sống. Cả tôi và ông
đều không có quyền phản đối cuộc sống riêng tư của người
khác. Nhưng tôi vẫn phải nói rằng, đạo đức và giá trị
nâng đỡ tinh thần của tôn giáo, bằng cách này hay cách
khác, cần phải được tách biệt khỏi việc đánh giá đúng
sai về nó. Cụ thể hơn, tôn giáo có thể đem lại cho bạn
một cuộc sống tinh thần, nhưng như thế không có nghĩa là
nó đem lại cho bạn những cái nhìn đúng đắn về thế giới.
Tôi thường xuyên gặp khó khăn khi cố gắng thuyết phục
các tín đồ hiểu được điều đó. Và như vậy, những kẻ "dụ
dỗ khoa học" như chúng ta vẫn cần phải cố gắng thật
nhiều nữa để có thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình.
T.T. dịch
từ Scientific American
Lawrence
M. Krauss là giám đốc Trung tâm Đào tạo Nghiên cứu Vũ
trụ và Thiên văn ở Đại học Case Western Reserve. Ông là
tác giả của 7 cuốn sách phổ biến khoa học và hàng tá
những bài phát biểu trên các hệ thống truyền thông. Các
bài giảng của ông bao quát nhiều lĩnh vực khoa học và cả
những chính sách xã hội. Ông là người duy nhất đồng thời
được nhận những giải thưởng cao quý nhất của cả ba hội
vật lý Mỹ. Trong thời gian rỗi, ông tham gia trình diễn
tác phẩm The Planets (Tổ khúc giao hưởng Những hành tinh
của Gustav Holst) cùng Dàn nhạc Giao hưởng
Cleveland,
làm thành viên ban giám khảo của Liên hoan phim Sundance
và viết các bài báo cho Scientific American.
Richard Dawkins
là một giáo sư nổi tiếng của Đại học Oxford. Là tác giả
của 9 cuốn sách, ông đã nhận được các học vị tiến sỹ
danh dự về văn học và khoa học. Ông là hội viên của cả
hai Hội Hoàng gia Khoa học và Văn học. Ông đã nhận nhiều
giải thưởng lớn như Giải Cosmos Quốc tế, Giải Nakayama
cho Khoa học Loài người, Giải Shakespeare
vì những đóng góp xuất sắc cho văn hóa Anh. Những chính
sách trong trường học ở Anh thường khuyến khích các học
sinh sinh viên noi theo tấm gương của những người như
Galileo, Darwin và Dawkins khi tham gia tranh luận về
khoa học và thuyết Sáng thế.
Carl Sagan
(1934-1996), nhà thiên văn sinh học rất nổi tiếng người
Mỹ, người khởi xướng ngành sinh học ngoài Trái Đất
(exobiology) và tham gia phát triển Chương trình Tìm
kiếm nền Văn minh ngoài Trái đất (SETI). Sagan từng
nhiều lần bị bắt giữ vì tham gia rất quyết liệt phong
trào phản chiến đòi hòa bình cho Việt Nam và chống thử
nghiệm vũ khí hạt nhân.
người gửi
"to lam"
|