 |
28 tháng 6, 2010 |
Trong thâm tâm, tôi
muốn ba hoa chích chòe rằng khoảng cách từ Hoa kỳ tới Úc gần hơn lộ
trình từ thành phố McLean của tiểu bang Virginia tới thành phố
Greenbelt của tiểu bang Maryland, nhưng bố mẹ tôi không sinh tôi ra
với cái mồm đi trước. Ngoài ra, một vài lần tôi nổ vung xích chó
rằng ăn hải sản thì phải uống rượu mạnh Cordon Bleu thay vì rượu
trắng Chardonnay, để bị bạn bè cười cho thối mũi, mà không hiểu phải
làm sao để mở rộng não bộ bẩm sinh của mình vốn quá hạn hẹp. Biết
mình phải tầm sư học đạo, tôi đã nghĩ tới lần đến dự buổi văn nghệ
kỷ niệm 50 năm cô Kiều Chinh đóng góp cho nghệ thuật điện ảnh, người
sáng chói nhất giữa vũ trường đêm 27-2-2009 ấy không phải là nữ minh
tinh Kiều Chinh, mà là ông cựu chủ biên chương trình Việt ngữ đài
phát thanh Hoa Kỳ. Tại vũ trường Mini Club bữa ấy, ông Lê Văn đã
hoàn toàn chinh phục được tôi với tài sử dụng ba tấc lưỡi như một…
“Món Quà Của Thượng Ðế” (viết hoa, mượn của ông cựu chủ
biên).
Lần nầy, khi nghe tin
buổi ra mắt cuốn ‘Tâm Tư Tổng Thống Thiệu’ (TTTTT) có trong link https://tamtutongthongthieu.com/ do diễn giả cao
cấp Lê Văn đóng vai Tô Tần, tôi gọi ngay cho nhà báo Mai Loan để
cùng đi. Một phần trăm lý do chúng tôi kéo nhau đi dự buổi ra mắt
sách là để xem tận mặt một ông cựu bộ trưởng, đậu tới văn bằng tiến
sĩ và làm giáo sư của trường đại học Howard ở thủ đô Washington DC
20059 mà tự điển Wikipedia bảo là trường dành cho Mỹ đen. Một phần
trăm thứ nhì làm chúng tôi phải có mặt vì tác phẩm quân sự và lịch
sử mới nhất của ông Nguyễn Tiến Hưng mà nhà báo lão thành Nguyễn Đạt
Thịnh đặt vấn đề, “Tôi không tin ông Hưng có thể thành công trong
nỗ lực vinh danh ông Thiệu bằng cách hạ nhục những vị anh hùng tiết
tháo, sống chết theo sự mất hay còn của đất nước”, nhưng lại
nghe tin đồn buổi ra mắt sách được tổ chức bởi một anh thư khoa bảng
địa phương, là cháu gái của tướng Nguyễn Khoa Nam đã tự sát vào ngày
30-4-1975 tại Việt Nam thay vì đào ngũ như quân nhân Nguyễn Văn
Thiệu. Chín mươi tám phần trăm sau cùng làm chúng tôi hẹn nhau bỏ
trận túc cầu giải thế giới giữa Anh và Pháp, là vì cái tên của ông
Lê Văn. Ưu tiên hơn thực vật, trời sinh ra thú vật và con người có
cái lưỡi để làm được nhiều phận sự khác nhau: lưỡi để nói, lưỡi để
hót hay hát, lưỡi để bôi nhọ và vinh danh, lưỡi để nịnh bợ, lưỡi để
chửi mắng và cầu kinh, ... và lưỡi cũng để nếm rượu
chát nữa. Cho nên, bỏ một buổi chiều, tốn xăng, để được chiêm ngưỡng
một bài thuyết pháp miễn phí, nếu là bài thuyết pháp vô tư, trung
thực, công bằng và thăng bằng, thật đáng đồng tiền bát gạo.
Nhập đề, ông Lê Văn
làm chúng tôi lo lỗ vốn, vì ông báo động là ban tổ chức chỉ cho ông
đúng 10 phút. May quá. Ông ấy chỉ nói láo làm duyên. Nếu không tính
thời gian mà tác giả cuốn sách trả lời các câu hỏi của một số thính
giả thật và thính giả cò mồi, bài nói của ông Nguyễn Tiến Hưng ngắn
hơn bài của ông Lê Văn. Thì cũng phải thôi. Ông Nguyễn Tiến Hưng
không thể gáy rằng tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng là người tài ba xuất
chúng, là người mà khi nhã ngọc phun châu thì kiến trong hang cũng
phải bò ra và tổng thống Tào Tháo tân thời cũng phải phun tất cả
chuyện riêng tư về ái ố bi hỉ nộ. Phải rồi. Luật sư thì phải cãi cho
thân chủ; trắng thì phải trắng, đen cũng phải trắng. Nghề thuyết
khách cũng thế. Hồi còn bé, tôi vẫn trốn học để la cà đứng chôn chân
hàng giờ xem mấy anh Sơn Đông mãi võ quảng cáo cao đơn hoàn tán và
thuốc nhổ răng không đau, cứ nói xong một câu, trống cầm nhịp đánh
thùng thùng, xong con khỉ phụ tá cầm cái nón rách lật ngữa đi vòng
quanh khịt khịt mũi xin tiền xu tiền hào của người xem. Cũng hồi bé
tôi nghe người lớn kể chuyện Trạng Quỳnh lột da: trạng ta nằm trong
một chiếc ghe che chắn kín mít, trên bờ khản giả sắp hàng mua vé chờ
đến lượt xuống xem con người lột da như loài rắn. Từng người lần
lượt vào xem, khi trở lên bờ, người khác hỏi “có thật là người
lột da như rắn?” – “Có thật”. Thì phải nói vậy cho đỡ ngượng,
chứ không lẽ nói thật là mình đã bị lừa, tốn tiền để xem Trạng Quỳnh
cỡi hết áo quần, trần truồng như nhộng và ngạo nghễ nằm cười? Và cứ
thế, người đi trước thấy và biết sự thật, khi lên bờ chỉ nói ra một
nửa sự thật cho người theo sau. Hôm dẫn xác tới xem show của
ông bầu Jimmy Hứa Chấn Minh, chúng tôi cũng nghe những ông trạng tân
thời nói chuyện lột da. Ra về, chúng tôi thà nhìn nhận rằng mình bị
mắc lừa, và xin nói ra nửa sự thật còn lại mà ông Lê Văn không nói.
Xin chỉ kể ba trong
nhiều chuyện chung quanh cuốn ngụy sử mà dư luận đã nhanh chóng đặt
cho cái tên “Ngũ Tê”.
▻ Quốc lộ 19 và Tỉnh lộ 7B
Ở sách ‘TTTTT’
trang 52, sau khi viết “Trong cuốn ‘The Palace File’ (Hồ Sơ Mật
dinh Độc Lập – HSMDĐL) xuất bản năm 1986 khi tất cả mọi nhân chứng
còn sống chúng tôi cũng đã ghi lại: (7)”, tác giả thụt vào nửa
inch và trang trọng ghi:
“TT Thiệu ra lệnh
cho Tướng phú rút lui khỏi Pleiku và Kontum để tái chiếm Ban Mê
Thuột. Ông cũng ra lệnh cho Bộ TTM phải ‘theo dõi và giám sát’
(suivre et surveiller) cuộc hành quân triệt thoái nầy.” Nhưng thay
vì gọi Tướng Phú về Sài gòn để cùng Bộ TTM thiết kế chương trình
triệt thoái, ĐT Viên chỉ lưu ý cảnh giác Tướng Phú (tại cuộc họp Cam
Ranh) về những nguy hiểm của cuộc di chuyển nầy (theo QL7B). Ông đưa
ra thí dụ của quân đội Pháp năm 1954: quân đội Việt Minh đã tiêu
diệt chiến đoàn lưu động 100 (Groupe Mobile 100) của Pháp hồi tháng
6 năm đó khi họ cũng rút lui trên con đường nầy.
[hết trích]
Theo hướng dẫn của
tác giả, chúng tôi tìm tới ghi chú số 7 [của chương 2] ở trang 681
thì thấy chỉ dẫn: “7. Nguyễn Tiến Hưng và Jerold Schecter, The
Palace File, trang 267.”
Mở trang 267 của cuốn
The Palace File, ấn bản 1986 của Nhà Xuất Bản Happer & Row,
New York, chúng tôi đọc thấy:
“Thieu ordered Phu
to withdraw his troops from Pleiku and Kontum and redeploy them to
retake Ban Me Thuot. In French, Thieu commanded the JGS, ‘Suivre et
surveiller’ (Follow and supervise) the withdrawal. Then Thieu
explained his new strategy to truncate the South and sketched on a
map the areas he expected General Phu to hold. The II Corps was to
redeploy its forces as rapidly as possible to reoccupy Ban Me Thuot
at all costs. Pleiku and Kontum were to be abandoned; the troops
were to form in convoys and proceed to Tuy Hoa on the coast, where
they would regroup for the campaign to retake Ban Me Thuot.(9)”
Tìm tới chú thích số
9 ở trang 512 của sách The Palace File, ông Hưng tự cho mình
là nguồn của câu văn được trích: “Cuộc đối thoại của Hưng với
Nguyễn Văn Thiệu, Luân đôn, ngày 4-3-1978”. Nguyên văn: “Hung
conversation with Nguyen Van Thieu, London, March 4, 1978”. Thật
ngang tàng. Ghi footnote để dụ độc giả tới phần giải thích,
khi tới đó, ông Hưng bảo “Vậy đó. Tin hay không mặc xác quý vị.
Nhưng đó là điều tôi nghe ông Thiệu nói với tôi bên Luân đôn ngày
4-3-1978”. Huề tiền!
Trước khi phân tích
sự ngay thẳng của tác giả trong thủ thuật đưa bóng vờn quanh từ sách
nầy qua sách khác, chúng tôi xin tạm dịch để tiện so sách với bản
dịch của chính tác giả khi dịch sách do chính mình viết:
“Ông Thiệu ra lệnh
cho ông Phú rút quân khỏi Pleiku và Kontum và tái phân bố để tái
chiếm Ban Mê Thuột. Dùng tiếng Pháp, ông Thiệu chỉ thị BTTM phải
‘Suivre et surveiller’ (theo dõi và giám sát) cuộc triệt thoái. Sau
đó ông Thiệu giải thích chiến lược mới của mình nhằm cắt bỏ miền Nam
rồi vạch trên bản đồ các khu vực mà ông trông đợi Tướng Phú phải
giữ. Quân đoàn II phải điều quân càng nhanh càng tốt để tái chiếm
Ban Mê Thuột bằng tất cả mọi giá. Phải bỏ Pleiku và Kontum; binh sĩ
phải theo đội hình của các đoàn công voa và tiến về Tuy Hòa ở duyên
hải, từ đó họ sẽ tái thành lập đơn vị cho chiến dịch tái chiếm Ban
Mê Thuột”.
Nếu tạm coi nội dung
bản tiếng Anh của ông Hưng đứng tên chung với Jerold Schecter là Chủ
biên chuyên về Ngoại giao của tuần báo Time, kiêm phụ tá tham vụ báo
chí Tòa Bạch Ốc, vừa là phát ngôn viên của Hội đồng An ninh Quốc gia
từ 1977 đến 1980 – có cơ sở để chúng ta dùng làm nền tảng, chúng ta
rút ra được mấy điểm:
- Khi viết bản tiếng
Anh và khi dịch con đẻ của mình ra tiếng Việt, ông Hưng đã để cho
con ghẻ và con đẻ chửi bố nhau, do trình độ tiếng Việt thấp kém, hay
do dụng ý gì khác chúng ta chưa có bằng chứng, vì cuốn sách nầy được
thai nghén và chào đời gần với thời điểm ông Hưng về Hà Nội với cuốn
sách ‘Economic Development of Socialist Vietnam’ (Phát triển Kinh
tế của Việt Nam Xã hội Chủ Nghĩa). Ngoài ra, ông Hưng thừa biết
là ông Jerold Schecter chẳng bao giờ đọc bản tiếng Việt của một ông
tiến sĩ ăn nước mắm, nên đến khi xuống mồ cũng không thể biết mình
bị ông Hưng chơi khăm.
- Ông Hưng xác nhận
chính ông Thiệu là người ra lệnh “Phải bỏ Pleiku và Kontum; binh
sĩ phải theo đội hình của các đoàn công voa và tiến về Tuy Hòa ở
duyên hải…” [bằng Tỉnh lộ 7B]. Điều nầy được tác giả xác nhận
lần nữa ở trang 59, “TT Thiệu nói là ông vẫn còn thắc mắc tại sao
Công binh đã không làm xong cái cầu nổi này trong vài ngày như đã
nói với ông?”
- Thiếu kiến thức
quân sự và địa lý phổ thông, ông Hưng gọi Tỉnh lộ 7B là Quốc Lộ 7B,
chẳng khác gọi một xã ấp là thị trấn hay thành phố.
- Ông Hưng viết, “Ông
[Thiệu] đưa ra thí dụ của quân đội Pháp năm 1954: quân đội
Việt Minh đã tiêu diệt chiến đoàn lưu động 100 (Groupe Mobile 100)
của Pháp hồi tháng 6 năm đó khi họ cũng rút lui trên con đường nầy.”
Đoạn nầy rất quan
trọng. Nếu điều ông Hưng kể là thật, thì người nào nói Chiến đoàn
Lưu động 100 [ông Hưng không viết hoa] của Pháp bị quân đội Việt
Minh tiêu diệt khi cũng rút lui trên con đường nầy, nếu là quân nhân
thì đáng giáng cấp xuống binh Nhì, nếu là dân thường thì phải cưỡng
bức tới lớp bình dân giáo dục.
Ông Lê Văn thân mến:
tỉnh lộ 7B và quốc lộ 19, cũng như đoàn quân và dân của tướng Phú
thừa lệnh của TT Thiệu rút về Tuy Hòa bị phục kích ở Sông Ba, đầu
nguồn của sông Đà Rằng, và đoàn quân xa của Chiến đoàn Lưu động 100
của Pháp (gọi tắt là GM 100) hành quân bị phục kích ở cầu Dak Ayun
trên quốc lộ 19 vào tháng 6-1954 là hai địa điểm khác nhau.
Bao lâu ông Hưng chưa
chứng minh được câu nói mù lòa trên là của TT Thiệu, tôi vẫn coi đó
là lời cáo buộc vô ý thức của ông Hưng gắn cho một nguyên thủ quốc
gia. Không cần phải là một tiết độ sứ như Cao Biền, cưỡi diều giấy
trên không phận Quân khu II mới tránh khỏi việc nhổ râu ông nọ cắm
cằm bà kia. Chỉ cần đi lơ xe đò Việt Nam độ một tháng, ông Hưng sẽ
vỡ lẽ rằng quốc lộ 19 nối liền từ ngã ba Phú Tài ở phía bắc Qui Nhơn
đi Pleiku nơi 56 năm về trước Việt Minh phục kích xa đoàn Groupe
Mobile 100, còn tỉnh lộ 7B bắt đầu ở Tuy Hòa tới ngã ba Thuần Mẫn
trên quốc lộ 14 từ Pleiku xuôi nam xuống Ban Mê Thuột, nơi Trung
đoàn 45 đóng quân cho đến ngày 3-3-1975, khi đơn vị nầy rời công sự
phòng thủ để di chuyển tới Thanh An.
Nếu tỉnh lộ 7B nơi
ông Thiệu nướng hàng trăm ngàn sinh mạng quân và dân được người Mỹ
đặt tên “convoy of tears” (đoàn xe nước mắt) thì trận đánh đèo An
Khê được người Pháp gọi là “Điện Biên Phủ thứ Nhì”. Thật ra, trận
đánh được thực hiện ở đèo Mang Yang gần An Khê, nên tới nay sử sách
quen gọi bằng nhiều tên khác nhàu: trận đánh đèo Mang Yang, hay trận
đánh đèo An Khê.
Bấy giờ, lo ngại về
một trận thảm khốc như Điện Biên Phủ ngoài Bắc, tham mưu trưởng quân
đội Pháp ra lệnh triệt thoái cấp tốc khỏi những đồn bót địa phương.
Ngày 24-6-1954, GM 100, một thành phần tinh nhuệ của Đạo binh Viễn
chinh Pháp, được lệnh tập họp lại để bỏ ngỏ doanh trại ở An Khê, rút
quân theo đội hình của một đoàn công voa ngược lên Pleiku, trên một
khoảng cách 80 km trên quốc lộ 19 (lúc ấy còn mang tên Route
coloniale 19). GM 100 là đơn vị cơ động được thành lập với khả năng
tự bảo vệ theo kiểu Mỹ trong Thế chiến thứ Hai. Thông thường, một
chiến đoàn lưu động là thành phần kết hợp của ba tiểu đoàn bộ binh
với một tiểu đoàn pháo, cộng thêm thành phần thiết vận xa và xe
tăng, công binh, truyền tin và quân y, với cấp số từ 3 đến 3 ngàn
rưỡi người.
Khi vừa tới cột cây
số 15, đội hình Pháp đã bị Trung đoàn 803 Việt Minh phục kích và
tiêu diệt gần như trọn vẹn. Chịu tổn thất nặng nề, binh sĩ sống sót
đã tập họp lại để tìm cách chọc thủng vòng vây. Ngày 28 và 29 tháng
6, phần còn lại của GM 100 được GM 42 và Lữ đoàn 1 Nhảy dù nhập
chung, mở đường máu dọc 55 cây số quốc lộ, và bị Trung đoàn 108 Việt
Minh chận đánh nữa ở khe Dak Ya-Ayun. Những người sống sót sau cùng
mãi tới hôm cuối tháng mới tìm về được thành phố Pleiku.
Trong 5 ngày giao
tranh, GM 100 tổn thất 85% xe cộ, 100% pháo binh, 68% dụng cụ truyền
tin và phân nửa tổng số vũ khí. Trong số 222 quân nhân của Bộ Chỉ
Huy Đại đội, chỉ còn 84 người thoát chết; các đơn vị Binh đoàn 43
Thuộc địa, Tiểu đoàn 1 và Tiểu đòan 2 Đại Hàn (rút từ chiến trường
Triều Tiên về) với quân số 834 mỗi cánh, nay còn lần lượt đếm được
452, 497 và 345 tay súng. Lữ đoàn 2 của Sư đoàn 10 Pháo binh Thuộc
địa sau khi mất sạch súng ống và quân số 475 quân nhân giảm xuống
còn 215, đã phải cải biên thành một đơn vị bộ binh, trong khi đại tá
Barrou cùng nhiều sĩ quan, binh sĩ khác bị bắt làm tù binh. Phía
Việt Minh, Trung đoàn 96 có hơn 100 bộ đội chết bỏ xác tại chỗ.
Nhưng đại họa của
cánh quân Pháp nầy vẫn chưa dứt. Ngày 29-6, phần còn lại của Tiểu
đoàn 1 Đại Hàn được lệnh tham dự vào cuộc hành quân Forget-Me-Not
để khai thông đường 14 đi Ban Mê Thuột, cách Pleiku ngót 100 km.
Hôm 17-7, đội hình Pháp bị phục kích ở đèo Chu Dreh. Trong tổng số
452 tay súng khi xuất hành, chỉ có 107 người sống sót về tới Ban Mê
Thuột ngày hôm sau, trong đó có 53 người bị thương và mất 47 quân xa
các loại.
Cuộc phục kích và
tiêu diệt GM 100 được coi là trận đánh cuối cùng trong Cuộc chiến
Đông Dương Giai đoạn 1. Ba ngày sau trận phục kích ở đèo Chu Dreh,
lệnh ngừng bắn được tuyên bố theo tinh thần Hiệp định Geneve.
Như thế trận phục
kích đèo Mang Yang là một Điện Biên Phủ thu nhỏ, ai ai cũng biết. Vì
thế, nếu có vấn đề lầm lẫn trong câu nói “Ông đưa ra thí dụ của
quân đội Pháp năm 1954: quân đội Việt Minh đã tiêu diệt chiến đoàn
lưu động 100 (Groupe Mobile 100) của Pháp hồi tháng 6 năm đó khi họ
cũng rút lui trên con đường nầy” thì lầm lẫn ấy không thể do cửa
miệng của một người lính như ông Thiệu được, mà chỉ là hành động gắp
chữ của mình bỏ vào miệng người của ông Hưng. Cũng may là ông Hưng
chỉ để lộ sự lẫn lộn của mình về QL19 và TL7B trong cuốn sách, mà
mua xong sách mang về nhà biết mình mua nhằm ngụy sử, độc giả không
thể trả lại hay mắng vốn. Ông Lê Văn cứ hình dung ông vào tiệm ăn,
ngồi bàn 19, mà thằng lõi chạy bàn bưng thức ăn của khách hàng bên
bàn 7B tới cho ông, liệu ông sẽ cho tiền “pour boire”, hay
thằng bồi sẽ mất việc?
Sau khi lầm lẫn quốc lộ với tỉnh lộ, lạc lối
giữa 19 với 7B ở Quân Khu II, xoay qua bàn chuyện nhà binh ở Quân
Đoàn I, ông tiến sĩ kinh tế lại chứng tỏ mình không biết gì về cầu
và đường ở tỉnh Thừa Thiên, mặc dù ông ấy là người chọn nguyên Sư
đoàn 1 Bộ Binh làm “con đỡ đầu” (nguyên văn chữ của ông Hưng
mà tôi thâu âm được trong bài thuyết trình ở buổi ra mắt sách ở
Houston hôm 12-6-2010). Ở trang 94, tác giả TTTTT viết:
“Bây giờ trên đường triệt thoái từ Huế (ngày
25 tháng 3) về Đà Nẵng thì lại một cái cầu nổi khác gây thảm họa. Đó
là cái cầu nổi giữa cửa Từ Hiền và đường bộ.”
Cầu nổi giữa cửa Từ Hiền và đường bộ? Câu trả
lời có ngay cho ông Hưng, là nếu bắt được cầu nổi từ phần đất xã
Vinh Giang của quận Vinh Lộc (nay đã gộp vào huyện Phú Lộc) băng qua
cửa Tư Hiền nối vào phần đất xã Lộc Thủy thì tìm đâu ra “đường
bộ” như tác giả TTTTT viết?
Như tôi đã ghi trong câu hỏi số 3 của 12 câu
hỏi mà tôi được tác giả mời đặt ra [trong email ngày 24-5-2010 rồi
ông thả nổi, không trả lời], cửa Tư Hiền là cửa biển nằm giữa phần
đất của quận Vinh Lộc nhìn qua mũi núi Vĩnh Phong của xã Lộc Thủy,
quận Phú Lộc. Khi Huế thất thủ vào ngày 26-3, binh sĩ các binh chủng
và phần lớn TQLC còn lại được lệnh rút ra ‘đảo’ Vinh Lộc – nằm giữa
Thái Bình Dương và đầm Cầu Hai, với hai đầu là hai cửa biển Thuận An
và Tư Hiền – là một quyết định vừa đúng vừa duy nhất. Trong bản tin
tình báo quân sự dài 12 trang lượng định tình hình đe dọa của địch
đề ngày 10-4-1975, Cơ quan Tùy viên Quốc phòng (DAO, Defense Attache
Office) ghi nhận:
“Nói tóm lại, trong ba tháng vừa qua, Hà Nội
đã điều khoảng 48.000 bộ đội vào Nam Việt Nam là những đơn vị đầy đủ
quân số chưa tính các đơn vị phòng không cũng như 92.000 tay súng
thâm nhập được kể là bổ sung quân số, cộng chung là trên 140.000
người. Ngày 19-3, các đơn vị cộng sản tựa vào sự yếu kém về phòng
thủ của Không quân VNCH và tình hình hoảng hốt của dân chúng, đã mở
cuộc tấn công qua ranh giới ngừng bắn ở Quảng Trị và gần Huế. Các
lực lượng địa phương quân đã chống trả yếu kém và rút lui, bỏ ngỏ
Quảng Trị. Các nỗ lực của VNCH nhằm thiết lập tuyến phòng thủ mới ở
phía bắc Huế thất bại nên vào ngày 24-3, quyết định bỏ Huế đã hình
thành. Ở phía nam, dọc theo các cao điểm trông xuống QL1 trong quận
Phú Lộc, các đơn vị BĐQ và SĐ1BB được một lữ đoàn TQLC hỗ trợ đã
chống trả cuộc tấn công của SĐ324B. Khi SĐ325 Cộng sản đến tham
chiến vào ngày 21, phía VNCH đã cầm chân đơn vị nầy bằng những trận
đánh quyết liệt ngay quận lỵ Phú Lộc [thị trấn Cầu Hai – ghi chú
của người trích], tuy nhiên tới tối 22-3, QL1 đã bị cắt đứt và
các đơn vị VNCH đã phân tán nhỏ để phản công có kết quả. TQLC đã rút
lui về đèo Hải Vân, trong khi phần lớn binh sĩ BĐQ và SĐ1BB tiếp tục
bảo vệ mạn tây của con đường quốc lộ đã bị cắt. Tướng Trưởng đã chọn
giải pháp di tản các lực lượng VNCH còn lại bằng đường bộ và một lữ
đoàn TQLC bằng đường thủy; tuy nhiên, áp lực của hai sư đoàn BV vào
cuộc di tản đã tạo ra tình trạng vô tổ chức đưa tới hậu quả nhiều
đơn vị rã ngũ và rất nhiều quân nhu quân cụ đã bị bỏ lại, chỉ trừ
cánh TQLC.” (tài liệu sao chụp lưu trữ tại Trung tâm & Văn khố
Việt Nam của Viện đại học Texas Tech ở Lubbock, Texas).
Đã trở thành thói quen tùy tiện khi viết lịch
sử, ông Hưng lại để nhiều kẽ hở và tinh thần cẩu thả như khi viết
“Sau nầy tập hồi ký của Mérillon có tiết lộ thêm rằng…” (trang
218) trong khi cựu đại sứ Pháp không bao giờ viết hồi ký; như khi
dịch câu “he asked the CIA’s Timmes to see to it that Thieu was
sent into exile” ở trang 395 thành “…ông Minh yêu cầu (tướng
Timmes) là người của CIA phải làm cách nào để ông Thiệu đi lưu đày”
– ông Hưng không phân biệt được sự khác biệt giữa “đi lưu
vong” và bị “lưu đày” như một tội phạm.
Như thế, sau khi QL1 bị cắt, quân còn lại rút
qua ‘đảo’ Vinh Lộc như một đầu cầu để sau đó thoát ra biển bằng tàu
hải quân vào Đà Nẵng là điều tất yếu. Ở cửa biển như Tư Hiền trong
điều kiện chiến tranh vừa là nơi không có đường sá lưu thông từ bờ
nam xuyên qua núi Vĩnh Phong và cánh đồng trống dài hơn 10 km cho
tới khi gặp lại QL1 ở chân đèo Phước Tượng xã Lộc Thủy (Nước Ngọt)
mà tác giả viết “một cái cầu nổi khác gây thảm họa. Đó là cái cầu
nổi giữa cửa Từ Hiền và đường bộ”, thật bất hạnh cho SĐ1BB khi
có ông bố bộ trưởng với kiến thức về giao thông trong vùng hoạt động
của “con đỡ đầu” mình hạn hẹp như thế. Giá như Hải quân không
vì trở ngại sóng gió mạnh vào những ngày nghiệt ngã ấy và đã đánh
chìm được vài ba chiếc tàu để thay cầu nổi, là để lính trên bờ lội
ra tàu thủy thả neo ngoài chỗ nước sâu, chứ không phải có sẵn đường
lộ ở bờ bên kia để xuôi nam – trừ phi kéo nhau đi dọc bờ biển để làm
bia bắn cho súng đạn địch, rồi còn phải qua một cửa sông ở mũi Chân
Mây (xã Lộc Tụ) và lội một cửa đầm Lăng Cô ở xã Lộc Hải, trước khi
bị núi Hải Vân với đường đèo dài 21 km chắn ngang đã bị cộng sản cắt
đứt. Nói cách khác, nếu quân lính có vượt được cửa Tư Hiền sang bờ
phía nam bằng cái cầu nổi mà ông Hưng gợi ý, bất quá trong trường
hợp bị đánh, cánh đồng cát trống rỗng khoảng 100 cây số vuông giữa
đèo Phước Tượng và đèo Phú Gia chỉ là nơi có thể dàn mỏng quân để
tránh tổn thất thay vì bị nhốt cứng trên ‘đảo’ Vinh Lộc quanh núi
Túy Vân. Rất tiếc, cánh đồng nầy vẫn còn cách Đà Nẵng một khoảng
cách tới 60 km với hai đèo Phú Gia và Hải Vân. Do đó, nói rút quân
về ‘cửa Tư Hiền để dùng phương tiện Hải quân rút về Đà nẵng’
là đúng, nhưng tưởng tượng ra cây cầu nổi bắt qua cửa Tư Hiền như
một trở ngại phát sinh thảm họa và gắn trách nhiệm làm chết vô số
quân và dân trên bãi biển kéo dài từ cửa Thuận An tới cửa Tư Hiền
cho tướng Trưởng và tướng Thoại nhằm chạy tội cho TT Thiệu thì
không.
▻ Bản đồ “tái phối trí” của TT Thiệu
TT Thiệu từ chức ngày 21-4-1975, và trốn khỏi
Sài Gòn đêm 25-4-1975. Trong cuốn TTTTT xuất bản kỳ nầy, tác
giả Nguyễn Tiến Hưng in một tấm bản đồ ở trang 42, sau khi “tự ý
đục bỏ” những ghi chú nguyên thủy của người vẽ, để thêm ngay
trên đầu trang hàng chữ in đậm “7 Tuyến về kế hoạch ‘tái phối
trí’ của TT Thiệu”.
Độc giả sẽ hỏi, có phải đấy là tấm bản đồ mà
ông Nguyễn Văn Thiệu dùng để hoạch định các phương án chống trả cuộc
tiến quân của phía cộng sản? – Thưa không. Đơn giản là vì ông Hưng
gian mà không khôn: để tiết kiệm, tác giả cuốn TTTTT không
mướn người vẽ bản đồ để diễn dịch tâm tư TT Thiệu khi trăn trở về
các bước chuyển quân vá víu và chụp giựt của mình, mà chỉ vồ một tấm
bản đồ của người nước ngoài vẽ sau ngày 30-4-1975, khi ông Thiệu đã
tẩu vi thượng kế qua Đài Loan.
Ở cuốn The Palace File, khi ông Hưng
chọn đăng ở trang 3 và đăng lại lần nữa ở trang 265, rồi thêm lần
thứ ba ở trang trong của bìa sau tấm bản đồ với ghi chú nguyên thủy
bởi người vẽ là ‘The Fall of South Viet Nam, January-April, 1975’
thì không có gì sai. Nhưng khi đăng lại ở trang 42 của cuốn
TTTTT, ông Hưng tẩy xóa câu tựa đề ‘The Fall of South Viet
Nam, January-April, 1975’ cùng tất cả ghi chú khác ở góc trái
phía trên về cách đọc bản đồ, để người đọc tưởng là tấm bản đồ nằm
trước mặt ông Thiệu khi Ngài còn nắm quyền sinh sát cả một nước. Vẫn
chưa hết, ở trang 48, tiến sĩ Hưng nhắc lại, “Độc giả lưu ý là:
Tổng Thống thiệu đã vẽ cái tuyến thứ sáu trong kế hoạch ‘tái phối
trí’ là từ Tây Ninh tới Nha Trang (xem bản đồ)”. Làm thế, không
những ông Hưng gian dối với tác giả bản vẽ, mà còn có chủ tâm bẻ
cong lịch sử để gạt độc giả Việt Nam, nhất là những người có ít điều
kiện thời gian để tra cứu hay kiểm chứng, và là những người trao
trọn niềm tin vào một ông bộ trưởng của VNCH.

Có không ít sách vở nói về chiến tranh Việt Nam
đã đăng các bản đồ minh họa cho những ngày tháng miền Nam Việt Nam
lần lượt mất Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Chu Lai, Qui Nhơn, Phan Rang,
Xuân Lộc như các thời điểm lịch sử quan trọng của thời quá khứ:
James H. Willbanks in ở trang 254 cuốn ‘Abandoning Vietnam’,
Frank Snepp có trang 207 cuốn ‘Decent Interval’, Leo
Daugherty với ‘Nam, A Photographic History’ ở trang 554, sách
‘The Vietnam Story’ của Will Fowler ở trang 106, hay ở trang
98 của tập tài liệu ‘Tường thuật về Nam Việt Nam Thất thủ’ kể
bởi các nhà lãnh đạo quân đội và dân sự cao cấp, do công ty Rand tập
hợp cho Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ, được lưu trữ tại Ngũ Giác Đài.
Những sách vừa kể, tất cả tác giả đã làm người đọc hiểu rằng điều họ
nói đã là lịch sử, và là chuyện về trước. Riêng sách TTTTT
của mình, tiến sĩ Hưng tẩy xóa bản vẽ của George Colbert để quay
ngược thời gian, làm như tấm bản đồ là tài liệu mật trong dinh Độc
Lập, là đồ sở hữu của ông Thiệu và được tổng thống dùng trong những
ngày từ khi Việt cộng khởi sự nổ súng vào phi trường Phụng Dực BMT
tới khi “người” chuồn ra phi trường Tân Sơn Nhất, sau đó ông Hưng
nhanh tay thuổng bỏ vào túi được, nay công bố lên sách như một
chuyện lịch sử, để bán được sách và lưu truyền chi tiết quan trọng
ấy cho hậu thế. Nếu tái bản, ông Hưng phải nhớ lưu ý cạo bỏ nốt chi
tiết lịch sử “Saigon 30-4” còn rành rành trên bản đồ, vì ông Phạm
Tuân kể trong buổi ra mắt sách ở Houston rằng đêm 25-4-1975 cậu
Thiệu thoát thân vội vàng đến độ không kịp mang theo quần áo, nên
hôm sau đích thân ông Tuân phải bay qua Đài Loan để mang đồ dùng cá
nhân và áo quần cho ông Thiệu có mà thay.
▻ Có tật giật mình
“Khi Huế và Đà Nẵng bị tràn ngập với người
dân di tản, có ông Châu Kim Nhân tới thăm ông Sarong và cho biết
đang có cuộc thay đổi nội các, có thể ông Nhân sẽ giữ bộ Quốc phòng.
Ông Nhân hỏi rằng: nếu như vậy, ông Sarong có thể giúp ông ta được
không. “Được”, Sarong trả lời, “nhưng với một điều kiện, là lệnh đầu
tiên của ông là cấm chỉ không được dùng trực thăng làm trung tâm
hành quân (command posts), các tướng lãnh phải đi trên bộ để cùng
chết với binh sĩ (Yes, but there is one condition. That is that your
first order is to ban all use of helicopters as Command Posts. Put
the damn generals on the ground to die with the troops.” [sic,
không đóng ngoặc đơn; các chữ tiếng Anh nằm trong nguyên tác là của
tác giả Nguyễn Tiến Hưng in ở trang 48, chương 2, sách TTTTT]”
Đoạn văn trên đây đã nổ tung như trái bom giữa
ông cựu tổng trưởng Kế Hoạch Nguyễn Tiến Hưng và cựu tổng trưởng Tài
Chánh Châu Kim Nhân.
Ngày 8-6-2010, ông CKN gởi đến ông Đỗ Hải Minh
bức thư ngỏ nhờ công bố để yêu cầu ông Hưng “đính chính những
Điều Sai Sự thật do tác giả Nguyễn Tiến Hưng viết trong quyển sách
TTTTT”, “đã làm tổn thương danh dự cá nhân tôi và coi thường một vị
tướng đồng minh và miệt thị Tướng lãnh Quân lực VNCH”.
Ông Châu Kim Nhân viết:
“Tôi cực lực phản đối sự thiếu ngay thẳng và
sự bịa đặt của ông Nguyễn Tiến Hưng khi viết về tất cả sự việc sau
đây trong trang 48 của Tâm Thư Tổng Thống Thiệu:
Tôi muốn nhấn mạnh rằng ông Nguyễn Tiến Hưng
đã hoàn toàn bịa đặt sự việc kể trên, là vì những điểm trên đều sai
sự thật, tôi xin nêu ra đây:
1. Ông đã bịa đặt và mạ lỵ cá nhân
của tôi.
- Tôi khẳng định là tôi không hề gặp gỡ
Chuẩn Tướng Francis Phillip Serong trong thời gian từ 10/1974 –
30/04/1975;
- Tôi khẳng định là tôi không hề xin Chuẩn
Tướng Francis Phillip Serong giúp tôi nếu giữ chức Tổng Trưởng Quốc
phòng. Năm 1975, tôi đang giữ chức Phụ Tá Thủ Tướng (cho TT Trần
Thiện Khiêm) tôi không cần phải hạ mình đi xin xỏ một ông Tướng
ngoại quốc, nhất là trong một giai đoạn khẩn cấp mà nước nhà đang
lâm nguy, thì một người Tổng Trưởng hoặc là một vị Tướng lãnh nào có
thể làm được việc vô liêm sĩ đó?
2. Coi thường một vị Tướng đồng minh
và miệt thị Tướng lãnh Quân lực VNCH. Qua sự liên lạc giữa tôi và
Chuẩn Tướng Francis Phillip Serong, ông không bao giờ dùng chữ “Damn
Generals” để miệt thị những Tướng lãnh của VNCH; và nếu có, tác giả
cần chứng minh tài liệu để độc giả không nghĩ rằng chính tác giả
Nguyễn Tiến Hưng đã dùng chữ “Damn Generals” để miệt thị những Tướng
lãnh của quân lực VNCH. Trong lúc các chiến sĩ Quân lực VNCH đã đổ
bao nhiêu xương máu để bảo vệ nhân dân ta trong mấy mươi năm chiến
tranh ròng rã, thì ông Nguyễn Tiến Hưng đang sống ở Hoa kỳ. Ông có
biết rằng hai tuần lễ sau khi ông đã rời Việt nam và đang ở Hoa kỳ,
thì có năm Tướng lãnh VNCH đã tử tiết thay vì đầu hàng địch và một
số Tướng lãnh khác như Tướng Lý Tòng Bá
(*), Trần Quang Khôi, Lê Minh
Đảo, đã chiến đấu với binh sĩ cho đến giờ phút cuối cùng cho đến khi
được lệnh buông súng.
Sao ông nỡ lòng nào miệt thị Quân lực VNCH
khi viết ra những câu bịa đặt, sai sự thật như trong trang 48 của
quyển sách của ông?
Cuối cùng, tôi yêu cầu ông Nguyễn Tiến
Hưng, tác giả của quyển sách Tâm Tư Tổng Thống Thiệu chính thức đính
chánh với độc giả trước là để làm sáng tỏ vấn đề và không bóp méo
lịch sử; sau là để gỡ lại danh dự của các chiến sĩ Quân lực VNCH và
vị Tướng lãnh đồng minh, cũng như danh dự của cá nhân tôi.”
Khi bức thư ngỏ tới tay, ông Mai Thanh
Truyết liên lạc với ông CKN, và câu chuyện đã được “giải mật”
với các chi tiết:
- Về thời gian, ông Hưng ghi “Khi Huế và Đà
Nẵng bị tràn ngập với người dân di tản, có ông Châu Kim Nhân tới
thăm ông Sarong” [hiểu là sau khi mất Quảng Trị ngày 19-3 tới
ngày bỏ ngỏ Đà Nẵng 28-3-1975], trong khi ông CKN đã rời chức vụ Phụ
tá Tổng trưởng Quốc phòng từ năm 1973 để giữ chức vụ Tổng Trưởng Tài
Chánh, kế tiếp là Phụ Tá Thủ Tướng Chánh Phủ. Ông CKN nói tuyệt
nhiên không hay biết gì về vấn đề “biết đang có cuộc thay đổi nội
các, có thể ông Nhân sẽ giữ bộ Quốc phòng” mà ông Hưng gán cho
mình.
- Tác giả ghi tên vị Tướng cố vấn người Úc là
“Sarong”, nhưng trên thực tế, không có vị Tướng cố vấn người
Úc nào tên là Sarong hết cả. Tên vị Tướng này thực sự là Francis
Philip Serong tức Ted Serong. Vì tên “Sarong” đã được lập đi
lập lại nhiều lần từ trang 43 đến trang 48 nên nhất quyết không thể
đổ thừa do lỗi in sai.
- Làm sao ông Hưng biết ông CKN “tới thăm
ông Sarong” và thăm ở đâu? Ông CKN xác nhận có tiếp chuyện với
Tướng Serong hồi tháng 10-1974, từ đó đến 30-4-1975 không hề gặp lại
nữa. Điều đó minh chứng tác giả Nguyễn Tiến Hưng đã dựng đứng câu
chuyện, cốt chỉ khai thác tên tuổi của vị Tướng này cho tập sách
được thêm phần ly kỳ hấp dẫn.
Bình luận vụ nầy trên mạng, ông Mai Thanh
Truyết ghi: “Càng tệ hại hơn là câu chuyện dựng đứng. Ai cũng
biết, Tướng Francis Philip Serong là vị Tướng cố vấn người Úc chuyên
và nổi tiếng về du kích chiến. Trong quan hệ giao dịch với phía đối
tác Việt nam, ông luôn luôn tỏ ra hiểu biết và tương kính trên cương
vị một vị Tướng chỉ huy trong “Australian Army Training Team
Vietnam” (AATTV) giúp huấn luyện quân lực Việt Nam Cộng hòa, nên
không bao giờ có thể phát biểu lời cố vấn sỗ sàng với giọng điệu úp
mở xúc phạm mà tác giả Nguyễn Tiến Hưng đã gán cho ông, bảo ra lệnh
không được dùng trực thăng làm trung tâm hành quân, để cùng với binh
sĩ chết dưới đất! Trong chiến trận Việt Nam trước 1975, việc dùng
trực thăng làm trung tâm hành quân nằm trong kỹ thuật tác chiến quy
mô của trận địa chiến, vị chỉ huy cần có một tầm quan sát bao rộng
vượt qua núi đồi để điều binh vào thế trận thích hợp trên chiến
trường và phối hợp với các cố vấn Mỹ không yểm và tác xạ pháo binh
tiêu diệt mục tiêu địch. Nó không phát xuất từ ý thích riêng tư của
các vị chỉ huy sống tách rời với binh sĩ. Đại Tướng Đỗ Cao Trí,
nguyên Tư lệnh Vùng 3 là vị Tướng nổi danh luôn luôn đi sát với binh
sĩ ngoài chiến tuyến, trên đường đi thị sát trận địa, đã chẳng chết
từ trên trực thăng đó sao? Trong dòng ngoặc kép, tác giả Nguyễn Tiến
Hưng đã ghi như là lời từ chính miệng Tướng Ted Serong gọi các vị
Tướng lãnh Việt là ‘damn generals’. Ai cũng biết, thuật ngữ này biểu
thị một thái độ miệt thị hạ cấp mà trên cương vị một vị Tướng đồng
minh không bao giờ có thể có được.”
Ngày 9-6-2010, ông Hưng đã công bố thư trả lời,
với các điểm chính:
1. “Tôi thật sự hết sức kinh ngạc về
những điều cáo buộc của ông rằng tôi đã bịa đặt ra những sự việc
được ghi ở trang 48. Tôi xin khẳng định ngay là tất cả những gì quan
trọng mà tôi viết ra đều có chứng cớ, có footnotes cẩn thận, để
những ai muốn tìm hiểu nguồn gốc đều có thể truy cứu.”
Mở trang 48 sách TTTTT, người đọc không tìm
thấy footnote nào như ông Hưng phản bác.
2. “Bịa đặt? Sự cáo buộc của ông CKN
là hoàn toàn vô căn cứ và hết sức bất công đối với tác giả, là vì:
1). Tôi không viết sự việc trong trang 48 mà đó là trích dịch nguyên
ý (phần tiếng Việt) và trích nguyên văn (phần tiếng Anh) từ quyển
sách ‘There To The bitter End -….’ của tác giả Anne Blair viết theo
nhật ký của Tướng Ted Serong cùng với những phỏng vấn với Tướng
Serong kéo dài 18 tháng; 2). Tôi cho rằng ông CKN chưa đọc cuốn ‘Tâm
Tư Tổng Thống Thiệu,’ vì nếu đã đọc kỹ thì ông sẽ phải thấy rằng
phần trích dịch của tôi từ cuốn ‘There To The bitter End’ bắt đầu từ
trang 43 đến trang 48 của cuốn sách, với ghi chú rõ ràng về những
trích dẫn. Tôi hoàn toàn ngay thẳng và trung thực, không bịa đặt bất
cứ điều gì. Là một giáo sư giảng dạy ở các đại học Mỹ trong 43 năm
trời, tôi bắt buộc phải tuân thủ quy luật dẫn chứng bằng footnotes
cặn kẽ, nói phải có sách và mách phải có chứng.”
Đúng như thế, ông Hưng không bịa đặt. mà chỉ
trích dịch nguyên ý và nguyên văn. Để tỏ lòng “rất trân trọng các
tướng lãnh”, ông Hưng còn một cuốn sách khác để trích nguyên văn
mà khỏi cần dịch nguyên ý. Ở bên Hà Nội, nhà thơ Việt cộng “ngựa
chị vừa qua thác sao vàng, sao trôi đáy nước rơi chân ngựa”
Nguyễn Đình Tiên viết ký sự ‘Chân Dung Tướng Ngụy Sài Gòn’ để
xỉa xói, xúc phạm và mạ lỵ các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa bằng
cách xếp hạng các tướng của chúng ta ngang với điếm trong mục tiêu
“gột rửa và phục hồi nhân phẩm cho họ” (sách thượng dẫn, NXB
Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, ấn bản tháng 3-2001, trang 358 ). Với tư
cách là người chiến thắng, ông thi sĩ quân đội 54 tuổi đời đã xông
xáo vào các trại cải tạo miền bắc lấy cung các tướng miền nam thất
trận để chế biến thành cuốn sách. Ông Tiến đã chết 15 năm trước khi
kịp thấy ông cựu Bộ trưởng bộ Kế Hoạch VNCH nối dài cánh tay để phỉ
báng tướng lãnh nam Việt Nam trên toàn thế giới, bằng cách lấy kiểu
nói ngang như cua của một ông tướng cố vấn Úc được một bà chuyên gia
quân sử kể lại, để gọi tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa là “damn
generals” mà không cần giải thích.
3. “Đọc kỹ lại những điều tôi viết về
cuốn sách này, tôi chỉ thấy có một chữ viết sai chính tả: 'Serong'
chứ không phải 'Sarong'. Tôi sẽ chỉnh sửa chữ này khi tái bản.”
Điểm nầy học giả Hưng không việc gì phải hoảng
hốt. Chẳng qua ông có tật nên giật mình đó thôi. “Nếu ông Hưng
vào Google đánh ‘Sarong và Serong’ thì sẽ thấy” [tôi mượn kiểu
nói xách mé của ông Hưng viết cho ông Nhân] thiên hạ nhắc tới cả hai
cách viết để đề cập về ông tướng người Úc. Nếu ông Hưng vẫn không
gu-gồ ra, thì đây, tôi xin biện hộ giùm ông, rằng ngay một cây
đại cổ thụ về sử với bằng tiến sĩ của đại học Harvard từ năm 1962
cũng dùng tên “Sarong”, thì với cái bằng tiến sĩ đến từ
University of Virginia sau 3 niên khóa, ông Hưng không việc gì phải
mất ăn mất ngủ để minh oan:
“Sáng 11-3, với Ban Mê Thuột đã mất, ông
[Thiệu] thông báo cho các cố vấn quân sự cao cấp của mình về kế
hoạch chỉ bám trụ những thành thị chủ chốt ở duyên hải QKI và QKII
đồng thời bỏ rơi tất cả Cao Nguyên [trung phần] trừ vùng Ban
Mê Thuột mà họ phải tái chiếm. Cùng với nửa phần phía nam của đất
nước, kế hoạch ấy sẽ hình thành một căn bản về lãnh thổ dễ phòng ngự
hơn cho VNCH một khi tình thế đảo ngược chiến lược. Được đốc thúc
bởi những quân nhân bợ đỡ và những quan chức tép riu trong sứ quán
Mỹ, ông Thiệu đã có một quyết định nghiệt ngã nhất về chiến tranh
như một nỗ lực tuyệt vọng để đáp ứng lại cuộc công kích của phía
quân nổi dậy. Trong hai ngày tiếp theo ông ấy đã nghiền ngẫm kế
hoạch, thật ra nhiều phần trong kế hoạch ấy đã triển khai, rồi tham
khảo ý kiến ông thầy bói của mình và Ted Sarong – bán tín bán nghi
với cả hai. Xong qua ngày 14-3 ông bay đi Cam Ranh để ra lệnh cho
thiếu tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh QKII, phải bỏ rơi Cao Nguyên nội
trong hai ngày.” (‘Anatomy of a war’, Gabriel Kolko, NXB
The New Press, New York, 1994, trang 528)
4. “Nếu ông Nhân vào Google đánh
‘There To The Bitter End’ thì sẽ thấy Amazon quảng cáo có hình của
bìa cuốn sách”.
Không thể hiểu được tại sao một ông bộ trưởng
bút đàm với một ông bộ trưởng khác trong cùng một nội các cũ, mà
phải thách thức nhau vào Google. Thêm nữa, vào để xem cái hình bìa
của cuốn sách, thay vì để xem nội dung và giúp nhau.
5. “Trang 44 tóm tắt phân tích của
Tướng Serong về tình hình quân sự, có ghi footnote 1. Trang 680 ghi
rõ footnote 1 là gì: ‘Anne Blair, There To The Bitter End, trang
216-218’".
Theo footnote của ông Hưng, chúng tôi mở
cuốn There To The Bitter End, trong 3 trang 216, 217, 218,
chúng tôi không tìm thấy bản tóm tắt phân tích của Tướng Serong về
tình hình quân sự mà ông Hưng in ở trang 44 cuốn TTTTT. Hay
là ông Hưng nói về cuốn thứ nhì của bà Anne Blair tên “Ted
Sarong” viết về ông tướng Úc, do NXB Oxford, NY phát hành năm
2002?
6. “Trang 47, ghi footnote 2. Trang
680 ghi rõ footnote 2 là gì: "Anne Blair, sđd. (sách đã dẫn) trang
220”
Theo chỉ dẫn của ông Hưng, chúng tôi mở sách
TTTTT, trang 47, quả là có footnote 2, nhưng footnote ấy nằm sau
câu văn hoàn toàn không liên quan tới chuyện tướng Serong và ông
Châu Kim Nhân, như thế nầy:
“Ngay đêm hôm trước ngày quân đội của Tướng
Văn Tiến Dũng tấn công Ban Mê Thuột, Thủ tướng Khiêm lại hỏi ông
Sarong xem là nếu tiến hành kế hoạch rút quân thì đã quá muộn chưa?
‘Tôi trả lời là đã quá muộn rồi, nhưng dù sao cũng vẫn phải tiếp tục
tiến hành kế hoạch của tôi, hy vọng may ra có chuyện gì mà mình
không đoán trước được sẽ xảy ra để làm cho sự tiến quân của Bắc Việt
chậm lại. Thực ra họ (VNCH) chẳng còn sự lựa chọn nào khác.’”(2)
7. Bỏ qua những phần dài dòng và vô bổ
trong bức thư tự tố cáo người viết mộng du về cuốn sách của bà Anne
Blair hơn là làm công việc trả lời, chúng tôi xin vào phần trung
tâm, là câu văn được trích dẫn. Khi sách mua về tới, chúng tôi đã so
sánh và nhận thấy:
* Những trang sách do ông Hưng viện dẫn với ông
Nhân đưa tới chỗ sai lạc, không đúng với footnotes của sách
TTTTT.
* Đoạn văn trích dịch nằm ở trang 221 nối sang
trang 222, chứ không như ông Hưng chứng minh với ông Nhân là trích
từ trang 220.
* Chúng tôi đã chụp lại hai trang 221 và 222
gởi biếu ông Hưng qua i-meo ngày 14-6-2010. Nguyên văn đoạn văn ấy
như sau:
“As Hue and DaNang filled with refugees,
Serong received a visit from Finance Minister Nhan. A Cabinet
reshuffle was in progress, and Nhan had set his sights on the
Defence Ministry. If he gained Defense, would Serong help? ‘Yes,’
Serong replied, ‘but there is one condition. This is that your first
order is to ban all use of helicopters as Command Posts. Put the
damn generals on the ground to die with the troops.”
Theo tôi, về cách dịch thuật, phần đầu có thể
hiểu thế nầy: “Khi Huế và Đà Nẵng đã tràn ngập người tị nạn,
Serong được Bộ trưởng Tài chánh Nhân tới thăm. Một cuộc thay đổi nội
các đang ngấp nghé, và ông Nhân có để mắt tới cái ghế Bộ trưởng Quốc
phòng. Nếu ông ấy nắm được Bộ Quốc phòng, liệu ông Serong có giúp?
‘Có chứ,’ Serong trả lời, ‘nhưng với một điều kiện.’”
Nếu độc giả đồng ý với cách tạm dịch ấy, chúng
ta có thể lập luận:
(1) Vào giai đoạn dầu
sôi lửa bỏng của đất nước mà ông Thiệu phải trốn chạy trong đêm, còn
ông Nguyễn Tiến Hưng đi công tác ở Mỹ rồi trốn ở lại luôn với vợ con
không quay về như ông Nguyễn Ngọc Bích, với nhà cao cửa rộng ở Mỹ
lúc ấy, nếu ông Châu Kim Nhân có muốn nghiêng vai gánh trọng trách
Bộ trưởng Quốc phòng, thì đáng cho chúng ta kính trọng hơn hạ nhục.
(2) Câu ‘nếu ông
ấy nắm được Bộ Quốc phòng, liệu ông Serong có giúp?’ là giả
thuyết do bà Anne Blair đặt ra khi đọc nhật ký của tướng Serong để
lại; không phải là lời ông Nhân nói với ông Serong, để gợi ý ông
Serong vận động hay xin cho ông Nhân được cái ghế Bộ trưởng Quốc
phòng.
(3) Câu văn diễn tả
rất rõ tư thế ông Nhân có thể tự mình ra giữ chức BT QP, chỉ hỏi ông
Serong có [tiếp tục] giúp khi BT QP là Châu Kim Nhân. Như thế, ông
Nhân trên vai ông Serong, và chữ “giúp” có nghĩa là mời ông
Serong phục vụ dưới quyền ông Nhân.
Tóm lại, câu vừa trích vừa dịch của tác giả
Nguyễn Tiến Hưng sai tinh thần nguyên tác của bà Blair, nhưng cái
sai chưa đủ trầm trọng. Nhà ông Hưng ở McLean, Virginia 22101 cách
nhà ông Nhân ở Greenbelt, Maryland 20770 không quá 29 dặm; hai ông
đã từng nắm hai bộ của cùng một chính phủ, nhưng ông Hưng đã không
bốc điện thoại kiểm chứng với ông Nhân trước khi in sách, mà lại tin
vào một nguồn tin ở mãi bên Úc, cách xa nước Mỹ ngót nửa vòng trái
đất. Các dẫn chứng và các viện dẫn sai lạc trên đây cho thấy ông
Hưng không có cuốn sách của bà Anne Blair trong tay ngay khi viết
chương sách ấy. Nếu có, ông Hưng cũng khó lòng biết rằng cuốn sách
mà ông tôn vinh làm kinh điển để dẫn chứng câu “damn generals”,
vẫn chứa những chỗ sai. Xin đơn cử một bằng chứng: ở trang 223,
đoạn thứ 3, bà Blair viết, “Vào ngày 28 tháng ba, khi Đà Nẵng
đang bị tràn ngập, Tổng thống Ford gửi tướng Frederick Weyand, vị tư
lệnh MACV cuối cùng vừa là người rời Sài Gòn với những quân nhân Hoa
Kỳ sau chót vào tháng Ba 1972,…”
Thưa ông Lê Văn: xin nhờ ông nhắc với ông Hưng
rằng Hiệp định Paris có hiệu lực vào 0 giờ, giờ quốc tế, ngày
27-1-1973, tức 8 giờ sáng ngày 28-1-1973, giờ Sài Gòn. Chiếu theo
điều 5, trong vòng sáu mươi ngày kể từ ngày ký Hiệp định [tức là
ngày 27-3-1973], việc rút toàn bộ quân nhân, cố vấn và nhân viên
quân sự kể cả kỹ thuật viên Hoa Kỳ khỏi lãnh thổ Nam Việt Nam phải
hoàn tất. Tháng 3-1972 là tháng quân BV tràn qua sông Bến Hải xâm
lược vùng Phi Quân Sự, mà chúng ta quen gọi là Mùa Hẻ Đỏ Lửa.
Trong phần tranh luận của mình với ông Châu Kim
Nhân, ông Hưng chỉ thực sự làm cho vấn đề trầm trọng hơn bằng cách
nhắc đi nhắc lại việc ông Nhân “xin xỏ” ông Serong. Đây là
những câu của ông Hưng:
“Nếu ông Nhân có hỏi Tướng Serong, đâu có
phải là ‘hạ mình đi xin xỏ một tướng ngoại quốc’ hay là một ‘chuyện
vô liêm sỉ’”; “Nếu như ông Nhân (lúc ấy là Phụ Tá Thủ Tướng) được
cứu xét để giữ chức Tổng trưởng Bộ Quốc Phòng thì tôi thấy đó là một
vinh dự cho cá nhân ông chứ tại sao lại cáo buộc tôi mạ lị?”; “Khi
được nắm giữ một chức vụ cao hay được trao phó một trọng trách, ai
cũng phải đi tìm kiếm nhân tài để giúp đỡ mình. Ông Lưu Bị phải cầu
Khổng Minh, vua Quang Trung phải cầu La Sơn Phu Tử. Các vị đó đâu có
bao giờ nghĩ là họ phải hạ mình đi xin xỏ ai hay làm những việc vô
liêm sỉ?” Trong thư trả lời, ông Hưng đã nói rõ động từ “xin”
và “xỏ”.
8. Về các tướng lãnh đã tuẩn tiết thay
vì đầu hàng địch, ông Nhân hỏi ông Hưng khi đang ở Hoa Kỳ liệu có
biết, để được trả lời, “Câu hỏi mỉa mai đầy ác ý như vậy mới là
một điều mạ lị đối với một người đang tận tụy thi hành sứ mạng được
tổng thống trao phó cho mình vào giờ phút chót. Khi toàn bộ VNCH gần
sụp đổ, chỉ còn một mình tôi đi vận động ở ngay thủ đô Washington.”
▻ Giải quyết triệt để
Thưa học giả Lê Văn: nếu ông chưa đọc cuốn
TTTTT, mà chỉ nhận đơn đặt hàng để đăng đàn khen ngợi sự uyên
thâm và tài hành văn, khả năng quán triệt trên mức độ “vỉ mô” của
ông Hưng: ông đáng được thông cảm, vì suốt cả năm, hay hai ba năm,
mới có một dịp bằng vàng cho ông nổ trước mặt một cử tọa hơn hai
trăm người. Nhưng nếu ông đã đọc, đã tra cứu, và đã kiểm chứng cố
tật ‘không chính xác’ của ông Hưng như ông Nguyễn Kỳ Phong có
nguyên một bài phân tích về cuốn ‘Khi Đồng Minh Tháo Chạy’,
thì ông thật đáng trách.
Lại thưa ông Lê Văn, là tín đồ Phật giáo, ông
có tin không khi người ta bảo thượng đế ban cho con người ngôn ngữ
để gian xảo hóa ý tưởng của họ? Vì ông không vào nhà thờ nên tôi
không kéo ông vào chuyện kinh thánh. Mặc dù ông Thiệu là người cải
giáo, theo đạo nhà vợ, nhưng chúng ta phải xem lại vấn đề ‘rỗi linh
hồn’ của ông áy:
"Sau năm 1954, ông Thiệu đã được lên tới cấp
Thiếu Tá, phục vụ tại Bộ Tư Lệnh Đệ Nhị Quân Khu ở Huế, dưới quyền
Đại Tá Trương Văn Xương. Mùa Thu năm 1954, khi cuộc tranh chấp giữa
Tướng Nguyễn Văn Hinh và Thủ Tướng Diệm bùng nổ, Thiếu Tá Thiệu gia
nhập Đảng Con Ó, cùng với Trung Tá Trần Thiệm Khiêm, Thiếu Tá Hoàng
Xuân Lãm, Đại Úy Trần Văn Trung, Nguyễn Văn Mạnh, v.v... để yểm trợ
Nguyễn Văn Hinh. Sau khi Tướng Hinh phải rời nước, nhóm Thiếu Tá
Thiệu bị đưa về Sàigòn điều tra. Để thoát khỏi sự nghi kỵ của chế độ
Diệm, Thiếu Tá Thiệu xoay qua đường dây Thiên Chúa Giáo của nhà vợ.
Nguyên ông Thiệu lấy bà Kim Anh, người Mỹ
Tho, có đạo Thiên Chúa, đã lâu nhưng không chịu rửa tội... Nhưng sau
ngày ông Diệm cầm quyền, đạo Thiên Chúa biến thành một thứ chìa khóa
danh vọng và quyền lực cho những ai tham vọng. Bởi thế ông Thiệu
quyết tâm "trở lại với đạo". Trung Tá Thiệu cẩn thận năn nỉ Linh mục
Bửu Dưỡng, lý thuyết gia bản xứ của Đảng Cần Lao, đích thân rửa tội
cho ông ta ở Đà Lạt. Nhờ vậy, ông Thiệu được thăng cấp Đại Tá và
được giao cho nắm Sư Đoàn 1 rồi Sư Đoàn 5 ở Biên Hòa. Đại Tá Thiệu
còn được vào Quân Ủy của Đảng Cần Lao." (Phạm Văn Liễu, Trả
Ta Sông Núi, tập 2, Nhà Xuất Bản Văn Hóa, Houston, Texas: 2003,
trang 307-308)
Trước khi chết, ông Thiệu bảo ông ấy có trách
nhiệm nhưng không có tội (responsable mais pas coupable) trong quyết
định bỏ rơi bao nhiêu chiến hữu, đồng bào phải bị mạng vong bởi súng
đạn địch. Chờ đến chín năm sau khi ông Philatô thời đại chết, ông
Nguyễn Tiến Hưng viết sách để minh chứng cho nỗi oan khiên của ông
Thiệu, bằng những luận cứ không có nguồn gốc và thiếu lương thiện,
như tấm bản đồ “tái phối trí của TT Thiệu” là một. Tôi đề
nghị ông Lê Văn giúp tôi, dùng cách nói luyến láy, lên bỗng xuống
trầm – và nếu cần thì sửa cả Kiều như ông đã làm trong buổi ra mắt
sách – để rỉ vào tai ông Hưng hai điều:
Thứ nhất, giới răn thứ tám trong Đạo Đức Chúa
Trời dạy “Chớ làm chứng dối”.
Thứ nhì, nếu tác giả Nguyễn Tiến Hưng không
phản bác được ba điểm tôi nêu ra trên đây, chúng ta phải tính tới
việc thu hồi cuốn ngụy sử TTTTT, đi kèm với lời xin lỗi cộng
đồng người Việt, để tránh đầu độc các thế hệ sau. Thu hồi như thế
nào là việc của ông Hứa Chấn Minh, lái buôn ngụy sử Việt Nam, miễn
là sách không còn được phép lưu hành. Buôn bán có khi lỗ lã và có
khi trúng mánh. Lần nầy hàng dõm bị tổ trác, là việc của riêng ông
họ Hứa.
Nhưng nếu cuốn phịa sử TTTTT nầy được
xuất bản bằng tiền ông Hưng lấy của vợ con ở nhà để đi làm giàu bằng
các bí mật không còn bí mật, tôi trang trọng hứa giúp ông tiến sĩ
kinh tế một tay, bằng hai phương án.
Phương án A: chúng ta sẽ nhờ 2 chuyên viên gây
quỹ Nguyễn Đình Thắng và Cao Quang Ánh. Ông Ánh chuẩn bị ra tái ứng
cử mãi bên New Orleans của tiểu bang Louisiana, không biết được bao
nhiều phần trăm sẽ đắc cử, thế mà qua Houston của Texas tổ chức gây
quỹ, vẫn thành công. Mặc dù phong trào vượt biên đã lùi vào dĩ vãng
từ thủa nào, Giám đốc Ðiều hành Nguyễn ĐìnhThắng của Ủy ban Cứu
Người Vượt biên vẫn lân la tới Houston mượn nhà riêng hay nhờ miễn
phí nhà hàng ăn của người quen để gây quỹ cứu người vượt biên, mà
vẫn ẵm được khối bạc.
Nếu tiến sĩ Cao Quang Ánh bằng lòng ngừng ra
tranh cử thêm một nhiệm kỳ, hay tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng bằng lòng
tạm đình ngừng xin tiền cứu người vượt biên, để tổ chức xin tiền bù
lỗ và thu hồi cuốn TTTTT, chúng ta sẽ thành công trong việc
cứu danh dự cho ông Hưng.
Phương án B: Trường hợp ông Ánh nhất định chỉ gây quỹ cho
việc tranh cử, hay ông Thắng chỉ gây quỹ cứu người vượt biên, chúng
ta đành dùng phương án B, do chính tôi chịu trách nhiệm. Với điều
kiện tác giả Nguyễn Tiến Hưng nhìn nhận trên văn bản có công chứng
rằng sách TTTTT chứa nhiều chi tiết chưa được kiểm chứng, hay
được ngụy tạo, cần phải thu hồi và công khai đốt bỏ, tôi bằng lòng
bao cấp bằng cách tặng ông Hưng trọn năm lương 2010 sau khi trừ
thuế, căn cứ theo mẫu W2 của chính phủ Hoa Kỳ quy định. Ngày đốt
sách, tôi đề nghị vào 25-4-2011, là ngày ghi nhớ tổng thống Thiệu
đào ngũ 36 năm về trước. Địa điểm: tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ tại
Houston, Texas. Người châm lửa sẽ là cô Nguyễn Khoa Diệu Thảo,
trưởng ban tổ chức ngày ra mắt sách TTTTT tại Houston vừa
rồi.
Viết sách về thức uống, hẳn ông Lê Văn còn nhớ
câu quen thuộc nói về miếng ăn: “một nửa miếng bánh mì là bánh
mì, nhưng một nửa sự thật không còn là sự thật”. Khi ông Nguyễn
Tiến Hưng chỉ viết một nửa sự thực về tâm tư và não trạng của tổng
thống Thiệu, cái thành thực của tác giả đã rơi mất một nửa. Đến lượt
mình đăng đàn trong ngày 12-6 vừa qua, ông Lê Văn chỉ nức nở khen
cái nửa-sự-thực rơi rớt lại của tiến sĩ Hưng, thành thử, một nửa sự
thực của ông Lê Văn trong màn quảng cáo chỉ còn lại một phần tư sự
thực trong chai rượu chát mà ông ngâm cuốn TTTTT, và dùng kế
Sơn Đông bán cao đơn hoàn tán để cổ võ cho cuốn ngụy sử của ông
“Tháo Chạy”.
NgyThanh
Houston 20-6-2010
(*) Chú thích của SH:
Về trận cuối mà Chuẩn tướng Lý Tòng Bá chỉ huy, xin xem tường thuật của Đại tá ĐINH HỮU TẤN (phía Bắc Việt) trích trong "Sự Kiện & Nhân Chứng" đăng trong
https://nhandanvietnam.org/ view.php?storyid=417