Không phải đến sau này, mà
từ cuối những năm 40- thời Tổng thống Tru-man, tiếp đến đầu
những năm 50- thời tổng thống Ai-xen-hao, trong chiến lược toàn
cầu của mình, đế quốc Mỹ đã có ý đồ thay thế Anh, Pháp thống trị
các nước thuộc địa ở Trung Đông và Đông Nam Á. Bao năm Mỹ tung
tiền của giúp Pháp duy trì cuộc chiến tranh ở Đông Dương, cũng
là để chờ thời cơ độc chiếm vùng này. Chính vì vậy mà khi nghe
tin tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của thực dân Pháp đã hoàn
toàn bị tiêu diệt, Phô-xtơ Đa-lét - Ngoại trưởng Mỹ, đã thốt
lên: “Pháp thua ở Điện Biên Phủ cũng có cái hay, nó cho phép Mỹ
nhảy vào Đông Dương ngon lành, không mang tiếng thực dân xâm
lược”...
Để chớp lấy thời cơ đó,
ngay trong đêm Pháp thua ở Điện Biên, tổng thống Ai-xen-hao đã
gặp Đa-lét thúc giục, đòi Pháp phải trao quyền cho Mỹ trực tiếp
đứng ra chỉ huy, huấn luyện quân ngụy. Chưa đầy một tháng sau
(ngày 6-6-1954), Mỹ ép Pháp và Bảo Đại buộc thủ tướng bù nhìn
Bửu Lộc (tay sai Pháp) từ chức, để đưa Ngô Đình Diệm (tay sai
Mỹ) lên thay. “Ép” xong, ngày 7-7, Mỹ nhanh chóng dựng lên nội
các bù nhìn mới, trong đó có nhiều kẻ thân Mỹ, do người mà Mỹ đã
“chọn” và “nuôi dưỡng” từ lâu ở nước ngoài, là Ngô Đình Diệm,
làm thủ tướng kiêm tổng trưởng quốc phòng. Cũng đêm đó, ngoại
trưởng Hoa Kỳ điện cho Xmít-Trưởng phái đoàn Mỹ đang ở Hội nghị
Giơ-ne-vơ, nhắc không thể ký vào bản tuyên bố chung. Hắn nói:
“Tuyển cử thì cuối cùng có nghĩa là thống nhất Việt Nam dưới
quyền ông Hồ Chí Minh. Điều quan trọng hơn hết là trì hoãn tuyển
cử càng lâu càng tốt”...
Tuy nhiên, đó vẫn chỉ là
“bước đệm”. Phải tới khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Mỹ mới
hoàn toàn lộ mặt nguyên hình một tên phản bội (với Pháp), một
tên trùm xâm lược. Ngày 8-8-1954 , Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ
họp, do tổng thống Ai-xen-hao chủ trì, chính thức quyết định hất
cẳng Pháp và thay Pháp nhảy vào Việt Nam . Quyết định ghi rõ:
1. Mỹ trực tiếp viện trợ
cho ngụy quyền Sài Gòn, không qua tay Pháp.
2. Pháp chỉ được viện trợ
100 triệu đô-la trong tổng số 400 triệu đô-la viện trợ của Mỹ
cho miền Nam Việt Nam.
3. Pháp phải rút hết quân
khỏi miền Nam và phải ủng hộ Diệm.
4. Loại bỏ Bảo Đại, tay
sai lâu đời của Pháp.
Cùng với quyết định trên
là một loạt hành động nối tiếp nhau diễn ra để che chắn, củng cố
thế lực cho Mỹ:
- Ngày 8-9-1954 , Mỹ lôi
kéo các nước đồng minh ký “Hiệp ước phòng thủ Đông Nam Á” (gọi
tắt là SEATO), đặt Nam Việt Nam , Lào, Cam-pu-chia dưới sự bảo
hộ của tổ chức này.
- Ngày 17-11-1954, Mỹ cử
tướng Cô-lin sang làm đại sứ ở Sài Gòn, với quyền hạn được giao
khá rộng: Bảo trợ và viện trợ cho chính quyền Diệm; bầu cử quốc
hội, hợp pháp hóa chính phủ mới; đào tạo cán bộ hành chính; phát
triển quân đội ngụy; định cư số công giáo miền Bắc di cư; vạch
kế hoạch cải cách điền địa; thay đổi chế độ thuế khóa, dành ưu
tiên cho hàng Mỹ vào Việt Nam...
- Ngày 13-12-1954 , Mỹ ký
với Pháp văn kiện đưa cố vấn quân sự Mỹ vào huấn luyện cho quân
đội Sài Gòn.
- Tháng 1-1955, những
chuyến hàng viện trợ quân sự đầu tiên của Mỹ tới tay quân đội
ngụy.
- Tháng 8-1955, Mỹ và Diệm
công khai bác bỏ Tổng tuyển cử.
- Ngày 23-10-1955, Ngô
Đình Diệm bày trò “trưng cầu dân ý”, để phế bỏ Bảo Đại, lên làm
Tổng thống.
- Ngày 26-4-1956, tên lính
Pháp cuối cùng rút khỏi miền Nam, để hai ngày sau đó, phái đoàn
MAAG của Mỹ chính thức nắm và huấn luyện quân đội Sài Gòn...
- Tới tháng 5-1957, thì
Ngô Đình Diệm sang Mỹ tuyên bố: “Biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ
tuyến 17”...
Hất cẳng Pháp, trắng trợn
phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, đồng thời Mỹ ráo riết áp đặt chế
độ thực dân mới đối với miền Nam, thực hiện bằng được mục tiêu
xâm lược của mình. Mỹ đã xây dựng chính quyền Ngô Đình Diệm
thành một bộ máy cai trị quân phiệt, đàn áp dã man nhân dân miền
Nam bằng các chiêu bài “Đả thực”, “Bài phong”, các chiến dịch
“Tố Cộng”, “Diệt Cộng” và “Luật 10-59”, qua những công cụ tàn
bạo do chính Mỹ dựng lên như hệ thống nhà tù, màng lưới cảnh
sát, quân đội ác ôn, và tầng tầng lớp lớp những kìm kẹp khắt khe
như mật vụ, tề ngụy, bảo an, dân vệ ở cấp dưới... Chỉ tính tới
cuối năm 1956, Mỹ đã bỏ ra 414 triệu đô-la xây dựng các lực
lượng quân thường trực, đưa quân ngụy lên đến 170.000 tên, cảnh
sát tới 75.000 tên. Tính đến năm 1960, Mỹ cũng đã cho 800 chuyến
tầu chở vũ khí và phương tiện phục vụ cho chiến đấu vào miền Nam
. Và cũng tính đến năm 1960, Mỹ đã đặt ở Sài Gòn tới 6 phái đoàn
cố vấn các loại, như MAAG, TRIM, CATÔ, TERM, MSU và USOM. Chỉ
riêng phái đoàn cố vấn quân sự MAAG, năm 1954, có 200 tên, đến
năm 1960, con số đã lên tới 2000 cố vấn và nhân viên...
Tất cả các sự kiện trên là
bằng chứng không thể chối cãi:
Chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm
chỉ là chính quyền độc lập giả hiệu, Mỹ là tên xâm lược.
|