 |
25 tháng 10, 2009 |
Người ta hình dung Dân Chủ, đặc biệt là dân chủ nghị trường, như sự kết
thúc của lịch sử, như chân trời không thể vượt qua của trí tuệ, như một cái gì
đương nhiên (...) Chúng ta thử suy nghĩ xem bên ngoài chân trời ấy, có còn một
bầu trời nào khác nữa không ?
Không gì nguy hiểm cho người trí thức bằng tự giam mình trong
những định kiến của một giai đoạn lịch sử. Vì đó chính là giết chết vai trò trí
thức trong bản thân mình, bóp nghẹt mọi suy tư vượt trên những khuôn khổ thời
thượng. Trên bình diện xã hội, thái độ ấy đưa đến khóa cửa chối từ những luồng
gió mới, kềm hãm bánh xe lịch sử, ngăn cấm sự tiến hóa của xã hội một cách hài
hòa trên con đường trí tuệ . Để rồi, sẽ chỉ còn những con đường đột biến, đầy
khủng hoảng và tang thương …
Chúng ta đang sống trong một giai đoạn trong đó người ta hình dung Dân Chủ, đặc
biệt là dân chủ nghị trường, như sự kết thúc của lịch sử
(1), như chân trời không thể vượt qua của trí tuệ, như một cái gì đương
nhiên. Như thể xã hội mang tính nhị nguyên. Hễ ra khỏi độc tài thì là dân chủ.
Không còn gì khác ! Thực tế là xã hội con người không nhị nguyên. Mọi tương lai
đều khả hữu. Marx
(2), Popper
(3), và ngay cả Sartre
(4) trên những quan điểm khác nhau, đều đã nhìn ra điều ấy. Chúng ta cũng
nhận thấy sự thật này một cách cụ thể từ năm 1989, lúc người ta tuyên dương sự
chiến thắng vĩnh cửu của chính thể dân chủ đại diện và kinh tế thị trường
(1). Từ thời điểm ấy, những xã hội thoát khỏi thế giới lưỡng cực đã dấn bước
lên nhiều con đường khác nhau, trong đó dân chủ không phải bao giờ cũng là mối
quan tâm chính yếu.
Thật ra, điều quan trọng nhất của suy nghĩ chính trị hiện nay không ngoài việc
hướng đến giải đáp cho ba vấn nạn quan trọng nhất của thời đại chúng ta : nguy
cơ khánh tận tài nguyên, nguy cơ chìm trong ô nhiễm, và hố sâu chênh lệch giàu
nghèo
(2). Nếu thật sự dân chủ nghị trường là điểm đến của mọi suy tư, thì nó có
khả năng giải quyết những nguy cơ sống còn ấy hay không ? Lý thuyết dân chủ cần
những thay đổi, những cập nhật nào ? Và bên ngoài chân trời ấy, có còn một bầu
trời nào khác không ?
Trong bài này chúng ta sẽ tự hạn chế trong việc duyệt qua một số nghịch lý của
dân chủ. Không phải để bài bác, nhưng từ sự nhận thức các mâu thuẫn, chắc chắn
bạn đọc sẽ có được những cái nhìn mới. Rất có thể những quan niệm mới này sẽ vẫn
ở trong phạm vi dân chủ, nhưng ở một trình độ khác hơn. Dù sao, cần giữ cho cánh
cửa suy tư luôn rộng mở …
HAI MÂU THUẪN NỀN TẢNG GIỮA BẦU CỬ VÀ DÂN CHỦ
Nếu dân chủ là « người dân làm chủ », thì bầu cử chính là tước đoạt quyền làm
chủ của người dân. Bầu cử mâu thuẫn với dân chủ. Trong phòng phiếu, khi để cho
lá phiếu rơi khỏi tay, thì người dân mặc nhiên từ bỏ quyền làm chủ đất nước của
mình, để đặt nó vào tay một người mà có khi mình chỉ được biết sơ sài qua vài
màn trình diễn hay vài thông tin phiến diện được gạn lọc bởi những cơ sở truyền
thông. Kết quả là quyền hành được chuyển nhượng cho một nhóm chính trị gia
chuyên nghiệp, phân chia thành đảng phái để thay phiên nhau cai trị xã hội. Bầu
cử, trong sự vận hành tốt đẹp nhất của nó, chỉ đưa đến một chính thể « thượng
chủ » (oligarchie), với quyền hành luân chuyển trong tay một giới thượng lưu. Có
lẽ vì thế mà Sartre đã cho rằng bầu cử là cạm bẫy dành cho bọn đần độn : «
élection, piège à cons ! »
(5) …
Mâu thuẫn nền tảng thứ hai giữa bầu cử và dân chủ đến từ một ngộ nhận phổ quát.
Người ta nghĩ rằng khi mỗi cử tri phát biểu qua lá phiếu của mình thì đó là
quyết định của « nhân dân », của dân tộc, của toàn xã hội, và cho đó là dân chủ.
Điều này hoàn toàn là một ngộ nhận, vì lá phiếu chỉ phản ảnh sự chọn lựa của một
cá nhân, và tổng hợp các lá phiếu chỉ cho biết quyết định của một tập hợp cá
nhân. Một tập hợp cá nhân không phải là một dân tộc, không đồng nghĩa với « nhân
dân », với xã hội. Xã hội, nhân dân, dân tộc, mang cá thể riêng biệt, khác hẳn
với những cá nhân cộng lại. Chỉ cần nghĩ rằng : sự kín đáo của phòng phiếu chính
là nơi mỗi cá nhân được dịp phản bội tập thể của mình …
MÂU THUẪN GIỮA DÂN CHỦ VÀ TIẾN BỘ
Như thế, mô hình dân chủ nghị trường, đặt căn bản trên bầu cử, tức trên bài toán
cộng của những chọn lựa cá nhân, rốt cuộc chỉ đưa đến một chế độ « thượng chủ »,
với quyền hành nằm trong tay một giai cấp thượng lưu luôn cố bám lấy quyền lợi
của mình bằng cách duy trì xã hội trong nguyên trạng của nó. Chữ « State » hay «
Etat », thường được dịch là « Quốc Gia », thật ra có nghĩa gốc là « nguyên trạng
». Giai cấp nắm quyền tự cho mình cái bổn phận phải duy trì « Quốc Gia », tức «
nguyên trạng », nói cách khác, là kềm giữ xã hội trong một trạng thái nhất định,
được gọi là « ổn định ». Điều này đương nhiên là mâu thuẫn với nhu cầu tiến hóa
của xã hội. Vì thế, những tiến bộ quan trọng của xã hội thường phải vận dụng đến
những hình thức dân chủ khác với dân chủ nghị trường, tức những cao trào quần
chúng đấu tranh quy mô.
Cần biết là những người dân mong muốn xã hội tiến hóa một cách tha thiết nhất
chính là tầng lớp nghèo khổ. Quyền bầu phiếu không là gì cả khi bụng đói, khi
rách rưới, khi nhà cửa dột nát hay không có nhà cửa … Xã hội tư sản không dành
cho những người này một định chế hữu hiệu nào để bảo vệ quyền lợi của họ. Thật
vậy, không có nghiệp đoàn người thất nghiệp. Thống kê cũng cho biết những người
thực sự nghèo khổ, với công ăn việc làm bấp bênh, thường không tham gia công
đoàn (và ít tham gia bầu cử). Các nghiệp đoàn đều là nghiệp đoàn của những người
có công việc. Những người thực sự nghèo khổ chỉ có một phương tiện duy nhất để
ngoi lên, đó là : đấu tranh tập thể ! Dân chủ đối với họ, cũng như những tầng
lớp thiếu thốn nói chung, buộc phải thông qua việc tổ chức thành công cao trào
tập thể đấu tranh. Đó là những lóe sáng của dân chủ thực sự, trong những xã hội
« thượng chủ » bị gò ép trong tay một giai cấp chính trị gia chuyên nghiệp.
QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN VÀ DÂN CHỦ HÌNH THỨC
Người ta thường nói đến tự do ngôn luận như một trong những thành tố quan trọng
nhất của xã hội dân chủ. Thật ra, điều quan trọng là : quyền quyết định nằm
trong tay ai ? Chứ không phải quyền nói năng, phát biểu ! Churchill từng nói
(đùa) rằng : “chúng ta sống trong một xã hội dân chủ, nên quý vị có toàn quyền
phát biểu trước khi phục tùng quyết định của tôi ». Khi quyền hành được tầng lớp
ưu thắng nắm chắc trong tay, thì tự do ngôn luận không còn một giá trị quyết
định nào. Người ta có thể có tự do, đồng thời vẫn bị lệ thuộc.
Trên một bình diện quy mô hơn, trong các xã hội Tây Phương, ngôn luận được tập
trung trong tay các nhà kỹ nghệ. Tại Pháp, một tổ hợp xây cất, cùng với hai tổ
hợp sản xuất vũ khí thân cận với chính quyền, hiện nắm giữ những phương tiện
truyền thông đại chúng quan trọng nhất, bao gồm những đài truyền hình đại chúng,
đài phát thanh, báo giấy, báo mạng, nhà xuất bản sách v.v… Patrick Le Lay Giám
đốc đài truyền hình TF1, được nhiều người xem nhất tại Pháp, thuộc tổ hợp
Bouyghes, gốc là một công ty xây cất, từng tuyên bố : « điều mà chúng ta bán cho
Coca Cola – hay bất cứ thương hiệu nào khác - là thời gian trí não của khán giả,
để họ sẵn sàng đón nhận các thông điệp quảng cáo »
(6). Truyền thông trở nên lệ thuộc vào thế lực tiền bạc và gắn bó chặt chẽ
với quyền lực chính trị. Khán giả các phương tiện truyền thông đại chúng, tức
đại đa số dân chúng, bị điều kiện hóa để không còn biết tự mình suy nghĩ. Họ trở
thành một bầy cừu với những thái độ và phản ứng đồng loạt được « quy trình » sẵn
(7). Ý kiến cá nhân, vốn là cột trụ quan trọng nhất của dân chủ, từng được
các triết gia như Aristote đề cao từ thời cổ Hy Lạp, bị đặt trước nguy cơ tàn
lụi, bởi sự tập trung phương tiện ngôn luận dưới sự cai trị của thị trường.
VẤN ĐỀ NHÂN QUYỀN
Nhân quyền vốn vẫn được coi như sự biện minh của dân chủ. Người ta hình dung
nhân quyền như một cái gì đương nhiên, không cần bàn cãi. Thật ra khái niệm nhân
quyền rất mong manh. Nó lệ thuộc vào sự hiện hữu của ba yếu tố : một bản chất
con người cách biệt với thiên nhiên một cách rõ rệt, một giá trị hiển nhiên của
con người vượt hẳn mọi giá trị khác, và sự cảm thông rộng rãi giữa mọi con người
với nhau. Các yếu tố này sẽ được phân tích trong một bài viết sắp phổ biến. Tạm
thời, chúng ta có thể nhận xét là trong xã hội tân tiến hiện tại, cả ba yếu tố
kể trên đều rất lung lay, chao đảo.
- Bản chất con người cách biệt với thiên nhiên ? Không gì mơ hồ hơn, khi những
chứng minh về liên hệ chặt chẽ giữa con người và thiên nhiên trên tiến trình
tiến hóa càng ngày càng rõ nét, trên mặt vật lý cũng như tâm lý. Thậm chí văn
hóa của con người cũng phải tuân theo những quy luật cấu trúc khách quan
(8). Quan niệm chỗ đứng của con người như một chủ thể độc lập, tự do, vượt
trên các thành tố khác của thiên nhiên, hiện phải bị xét lại.
- Giá trị hiển nhiên của con người ? Sau những tội ác mà con người đã làm cho
đồng loại của mình suốt thế kỷ 20, từ chế độ Gulag, Auschwitz, đến Srebenisca,
qua sự tiêu diệt một phần ba của chính dân tộc mình tại Campuchia rồi cuộc thảm
sát ở Rwanda, người ta có quyền có đôi chút nghi ngờ về « giá trị » nhân bản ấy.
- Sự cảm thông rộng rãi giữa con người với nhau ? Với phản ứng co cụm của từng
cộng đồng trong phạm vi văn hóa của riêng mình, để bài bác, thậm chí tấn công
bằng bạo lực các cộng đồng khác, chiều hướng thông cảm giữa người với người cũng
đang trên đà sút giảm … Thật ra, đã bao giờ người ta coi những con người thuộc
văn hóa hay tôn giáo khác như mang cùng bản chất với mình hay chưa ? Chỉ cần
nghĩ đến việc đa số tôn giáo thường hứa hẹn cho đa số đồng loại của mình một sự
đày đọa muôn đời trong địa ngục …
Kết quả của sự khó khăn trong ý thức Nhân Quyền, là tại nhiều nơi người ta buộc
phải áp đặt nó, có khi bằng bom đạn, có khi bằng áp lực kinh tế hay chính trị,
khiến Nhân Quyền rất dễ bị coi như một phương tiện thống trị của chủ nghĩa thực
dân mới.
TÍNH ẤU TRĨ CỦA CON NGƯỜI DÂN CHỦ
Platon, trong quyển 8 của sách Cộng Hòa (la République), mô tả con người dân chủ
với một tâm lý bấp bênh, khi này, khi khác, phất phơ vô định. Hành vi của họ lệ
thuộc vào những thèm muốn, những sợ sệt trái ngược hẳn nhau, lần lượt xuất hiện
và biến thái trong tâm tư dao động của họ.
Tocqueville, khi phân tích nguy cơ độc tài và suy thoái trong dân chủ, đã cho
rằng dân chủ có khả năng ru ngủ con người, duy trì người dân trong một tình
trạng ấu trĩ. Con người trong xã hội dân chủ có khuynh hướng thu mình trong một
phạm vi cá nhân, gia đình, hay bè bạn rất hạn chế, và chỉ quan tâm đến những nhu
cầu và thú vui nhỏ nhoi riêng tư của họ, bất chấp mọi người, mọi việc chung
quanh. Những kẻ này có thể gặp gỡ người khác, nhưng không nhìn thấy bất cứ ai.
Họ có thể có nhiều tiếp xúc nhưng không hề ý thức sự hiện diện của tha nhân … Họ
chỉ hiện hữu cho chính họ. Tocqueville cho rằng những người ấy nhìn xã hội qua
khung cảnh hạn hẹp của gia đình mình. Tâm lý này dễ biến xã hội thành một tập
hợp những sự ích kỷ, khó có được một hướng tiến, một đề án, một viễn tượng
chung. Tâm lý ấy cũng thuận lợi cho những kẻ mị dân, lừa gạt dư luận bằng những
lời nói vỗ về đường mật, để đưa xã hội vào độc tài toàn trị.
VẤN ĐỀ DƯ LUẬN
Dư luận vừa là một con quái vật hung hãn có khả năng nuốt sống bất cứ ai, bất cứ
chương trình, tư tưởng nào, đồng thời cũng là một người đẹp được mọi người theo
đuổi, chiều chuộng … Chấp nhận sự thống trị của dư luận là một nguy cơ cho xã
hội. Một nhà lãnh đạo, theo định nghĩa, không thể đóng vai trò lãnh đạo nếu luôn
chiều theo dư luận. Các quyết định lịch sử trọng đại thường đi ngược lại ý muốn
của dư luận, như việc sát nhập Đông và Tây Đức của Thủ Tướng Kohl, hay việc xóa
bỏ án tử hình của Tổng Thống Mitterrand … Những nhân vật được coi như vĩ nhân
của nước họ, như Tổng Thống de Gaulle hay Thủ Tướng Churchill, đều có rất nhiều
lúc phải chống lại dư luận trong cuộc đời chính trị của họ. Tuy nhiên không ai
dám quả quyết là một nhà cầm quyền có thể đối đầu với dư luận. Max Weber phân
biệt đạo lý trách nhiệm với đạo lý giựa trên lập trường, trên niềm tin vào lẽ
phải. Người cầm quyền có thể tin rằng một quan điểm nào đó là đúng, nhưng vẫn
phải chiều theo dư luận, nhân danh « đạo lý trách nhiệm » …
Trong nhiều trường hợp, dư luận trở nên quan trọng hơn bầu cử. Cả Nicolas
Sarkozy lẫn Ségolène Royal đều được đưa lên đỉnh cao của cuộc tranh cử Tổng
Thống Pháp năm 2007 nhờ các cuộc thăm dò dư luận. Tại Pháp, nhiều chính phủ vừa
được thùng phiếu đưa lên đã nhanh chóng bị giải tán cũng chỉ vì tụt dốc trong
các thăm dò dư luận. Quyền hành của dư luận khiến cho giới chính trị gia chuyên
nghiệp luôn tìm mọi cách để quyến rũ người đẹp hiểm ác này. Được đào luyện bởi
những văn phòng tư vấn về truyền thông, họ tập tành chú trọng đến các yếu tố phù
phiếm bên ngoài, cách ăn mặc, nói năng, bộ điệu, những thứ không liên hệ gì đến
khả năng quản lý quốc gia, chỉ để dụ dỗ người đẹp « dư luận ». Đồng thời họ tận
lực khai thác những thị hiếu thấp kém của dư luận để tấn công các đối thủ của họ
trên các lãnh vực riêng tư, như tình ái, thậm chí tình dục, các khó khăn gia
đình v.v… Chính trị trở thành một đấu trường hạ cấp, với những đòn phép bỉ ổi,
không ăn nhằm gì đến ưu tư ích quốc lợi dân.
NGUYÊN TẮC TỰ DO
Bên cạnh đó, sự gắn bó thái quá vào những nguyên tắc nền tảng của dân chủ cũng
có thể đưa đến phủ định chính dân chủ.
Sự gắn bó quá đáng vào nguyên tắc Tự Do khiến con người có cảm tưởng mình có thể
làm mọi thứ, khai phóng mọi ham muốn, gợi lên những ước vọng không giới hạn, để
rồi phải thất vọng khi đụng chạm với các giới hạn của thực tế và bất mãn quay
lại chống phá xã hội dân chủ đã cưu mang mình.
Mặt khác, nếu lý tưởng tự do cá nhân có thể được diễn dịch một cách đơn giản là
mỗi người tự mình đạt đến một cuộc sống thoải mái, có ý nghĩa, thì khi vượt qua
một giới hạn nào đó, nó lại trở thành tìm mọi cách để làm sao để có thể tiêu thụ
nhiều nhất, đạt đến địa vị cao nhất … Tương tự như một thể tháo gia, thay vì
chơi thể thao cho thân thể khỏe mạnh, thì lại dùng thuốc kích thích có hại cho
sức khỏe để tăng hiệu năng đánh bại các đối thủ. Chính với tâm lý này mà người
ta luôn tìm mọi cách để vượt trên người khác, đè bẹp người khác, với hậu quả tai
hại cho sự hòa đồng, hợp tác, không thể thiếu được trong xã hội.
NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG
Nguyên tắc Bình Đẳng được đẩy mạnh khiến con người luôn nhìn thấy bất công, luôn
phẫn uất, và rốt cuộc cũng bất mãn với xã hội. Bình đẳng khiến con người không
còn nhận thấy chỗ đứng của mình trong cấu trúc xã hội. Một cấu trúc không khi
nào là một mặt phẳng ! Bình đẳng là một mặt phảng. Nói đến cấu trúc xã hội là
mặc nhiên phủ nhận hình ảnh xã hội như một mặt phẳng bình đẳng. Thời xưa, chỗ
đứng của mỗi người được ban bố bởi Thiên Chúa, Mệnh Trời, Nhà Vua, giòng tộc …
Ngày nay, với lý tưởng bình đẳng, những yếu tố ấy không còn nữa, đưa đến việc
người ta bị thôi thúc phải chinh phục một chỗ đứng, gây nên một trạng thái cạnh
tranh toàn diện có thể gay gắt đến mức làm hại cho xã hội, như vừa nói.
Thật ra, con người, dù là con người dân chủ, cũng rất khó mà chấp nhận được lý
tưởng bình đẳng. Một thí dụ dễ nhận ra là việc thừa kế. Thừa kế đương nhiên là
bất công, bất bình đẳng. Người được hưởng một gia sản không tài ba gì hơn người
khác. Hắn chỉ được sinh ra trong một gia đình giàu có. Tưởng thưởng yếu tố «
sinh ra » , tức yếu tố « dòng dõi », chính là trở về với những giá trị của chế
độ phong kiến, quý tộc ! Tuy nhiên, nếu một xã hội dân chủ nhân danh lý tưởng
bình đẳng của mình để xóa bỏ việc thừa kế, hay chỉ tăng thuế thừa kế, thì tuyệt
đại đa số công dân ham mộ « dân chủ » của xã hội ấy sẽ đứng lên chống đối một
cách mạnh mẽ, mặc dù họ luôn sẵn sàng hô hào bảo vệ lý tưởng bình đẳng trên các
lãnh vực khác !
Con người dân chủ chỉ trưởng thành khi có được những lập trường chống lại chính
mình. Điều này được thể hiện qua con người của Tocqueville, một trong những cha
đẻ của tư tưởng dân chủ hiện đại. Thật vậy, Tocqueville tự đĩnh nghĩa mình là
một nhà quý tộc trong tâm hồn, nhưng một người dân chủ trong trí não …
DÂN CHỦ TỰ GIẾT DÂN CHỦ
Lịch sử cho thấy những nền dân chủ luôn phải đối đầu với nguy cơ suy thoái hay
viễn tượng đưa đến độc tài. Athena đã tàn lụi, Roma đẻ ra một chính thể độc tài
rất tệ hại trước khi cũng bị nhận chìm trong giòng lịch sử. Lý tưởng dân chủ của
cách mạng Pháp dẫn đến giai đoạn Kinh Hoàng trước khi nhường quyền lại cho đế
quốc Napoleon. Những chủ trương cao quý của cách mạng vô sản Nga đưa đến địa
ngục Staline, trước khi từ từ lún xâu vào độc tài Tư Bản. Các nền dân chủ Đức,
Ý, Pháp, đã đặt lên đỉnh cao quyền hành những Hitler, Mussolini, và đám tay sai
của họ.
Nguyên do của viễn tượng này đã được bàn qua ở trên : đó chính là tính khai
phóng của dân chủ, đưa đến sự ích kỷ, không còn biết nghĩ đến quyền lợi chung
nữa. Ngày xưa, dân chủ bị coi rẻ vì lý do ấy. Platon, trong sách Cộng Hòa
(Republique), quyển 8, cho thấy tương lai của một chế độ dân chủ chính là tình
trạng hỗn loạn. Từ hỗn loạn sẽ nảy sinh ra một nhân vật được coi như cứu tinh
của xã hội, che chở và bảo vệ người dân, trước khi trở thành nhà độc tài sắt
máu. Tâm hồn của nhà độc tài vốn là một tâm hồn « dân chủ » trước khi mọi ham
muốn, tham vọng của hắn được « khai phóng » triệt để bởi lý tưởng tự do, khiến
hắn không còn tự kềm hãm được nữa. Thế là dân chủ dẫn đến độc tài !
Thật ra, độc tài cũng có thể ẩn náu trong dân chủ dưới những hình thức kín đáo,
như sự độc tài của trí thức khoa bảng. Người trí thức biểu dương nhãn hiệu bằng
cấp, được tôn thờ như những người nắm độc quyền suy nghĩ trong một số lãnh vực
và mặc nhiên tước quyền ấy của mọi người khác. Dư luận cũng có thể trở thành độc
tài như đã được bàn đến ở trên. Hậu quả của hai sự « độc tài » vừa nói đương
nhiên là không sắt máu như các thể chế độc tài toàn trị, và dễ được chấp nhận
bởi đa số người dân.
VẤN ĐỀ VĂN HÓA
Xã hội dân chủ, với các nguyên tắc tự do và bình đẳng, thường gặp khó khăn trong
việc hòa hợp các nền văn hóa. Nhất là khi văn hóa biến thái thành các « sản phẩm
văn hóa » được gói ghém trong những bao bì hoa mỹ để kích thích người ta tiêu
thụ chúng. Nhiều xã hội dân chủ tìm cách hội nhập các nền văn hóa khác biệt
trong khuôn khổ một văn hóa ưu thắng được lấy làm tiêu chuẩn, với nguy cơ trở
thành « phản văn hóa », và … phản dân chủ ! Phản ứng của các cộng đồng có văn
hóa không ưu thắng trước áp lực hội nhập này có thể gây nhiều nguy hại, nhất là
khi các điều kiện kinh tế khó khăn đào xâu hố ngăn cách giữa các cộng đồng.
Nói chung, người ta thường có khuynh hướng đề cao những khác biệt của cộng đồng
mình, tự hãnh diện coi mình như « hơn » thành viên của những cộng đồng khác.
Việc thuộc về một cộng đồng, một tôn giáo hay một chủng tộc, thường được coi như
một giá trị tự thân, được đặt cao hơn cả giá trị của xã hội trong đó người ta
đang sống. Trong một số điều kiện nào đó, thái độ này có thể trở thành quá
khích, bạo lực, đối với những cộng đồng khác hay đối với toàn xã hội …
DÂN CHỦ VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Từ nhiều năm nay, với xác quyết : « kinh tế thị trường sẽ đưa đến dân chủ, tôn
trọng nhân quyền », người ta đưa kinh tế thị trường lên hàng giá trị đạo đức,
trong khi trong bản chất kinh tế thị trường không liên hệ gì đến đạo đức ! Tuy
nhiên, sau khi trải qua thử thách của năm 1989, xác quyết ấy, từ một niềm tin
thần thánh, đã nhanh chóng trở thành một giả thuyết, rồi một giả thuyết bị ngờ
vực, trước khi dần dần bị phủ nhận. Nga, Trung Quốc, Việt Nam, và nhiều nước
khác, đều đã không dân chủ hóa như người ta mong đợi, mặc dù vững tiến trên con
đường « thị trường hóa ». Người dân Nga vừa bằng lòng với nền kinh tế thị
trường, nhưng cũng bằng lòng với triều đại độc tài Poutine. Người dân Trung Quốc
cũng sẵn sàng đứng sau chính phủ của họ, ngay cả trong những vấn đề tế nhị như
Tây Tạng.
Thật ra, ngộ nhận đưa đến việc gắn liền kinh tế thị trường với dân chủ là một
quan niệm của Tư Bản Chủ Nghĩa kinh điển, đặt căn bản trên mâu thuẫn giữa Lao
Động với Tư Bản. Ngày nay, nhiều mâu thuẫn khác đã nảy sinh. Thí dụ như mâu
thuẫn với môi trường, bao gồm ô nhiễm và suy kiệt tài nguyên thiên nhiên, đi kèm
với mâu thuẫn nước giàu, nước nghèo, kinh tế thực, kinh tế ảo v.v...
Thật vậy, những lãnh vực kinh tế mới đã tạo ra những yếu tố « ảo », được coi như
đang xoi mòn nền móng của Tư Bản Chủ Nghĩa. Kinh tế « ảo » mang những mâu thuẫn
với nền kinh tế sản xuất và dịch vụ thông thường. Hàng hóa cũng như dịch vụ « ảo
» được trao đổi tự do và miễn phí qua mạng internet, mâu thuẫn không chỉ với
quyền tư hữu, mà cả với định lý nền tảng của Tư Bản Chủ Nghĩa gán cho mỗi hàng
hóa, mỗi dịch vụ, một giá trị tiền bạc.
Bên cạnh đó, qua cuộc khủng hoảng ngân hàng gây ra bởi vụ Société Générale,
người ta thấy một nhân viên ngân hàng cấp thấp có thể trong vài phút quyết định
sự được mất hàng chục tỷ đô la tiết kiệm của những người dân thường. Điều ấy sở
dĩ xảy ra được vì những món tiền vĩ đại kia chỉ là những con số, được quản lý
bằng vài phát nhấn chuột trên máy vi tính. Khủng hoảng « subprimes » tại Hoa Kỳ
cũng cho thấy mâu thuẫn giữa những phương tiện làm tiền có thể được, và thực tại
của thị trường, khi thực tại này bị xóa nhóa trong bức tranh trừu tượng của nền
kinh tế « ảo » (có người cho rằng tỷ lệ kinh tế « thực » trên kinh tế « ảo » là
một trên 50 !). Một thực tế đã không được nhìn nhận đúng mức, ngày nay hiển lộ
ra, là : nếu cứ để cho kinh tế thị trường được tự nó quyết định quá nhiều, thì
nó sẽ đưa đến những lạm dụng tai hại, có thể kéo theo sự tự hủy diệt chính nó.
Sự kiện chính quyền Hoa Kỳ tung ra những món tiền khổng lồ để cứu những công ty
đang sụp đổ không là gì khác hơn một hình thức « quốc hữu hóa » quy mô, quay
lưng lại với lý thuyết thị trường tự do.
Vấn đề đô thị hóa trong Tư Bản Chủ Nghĩa hiện đại cũng hàm chứa những mầm mống
bất công khó giải quyết, có khi đưa đến bạo loạn, như thường xảy đến ở Pháp.
Trong khi đó, nông thôn không còn nông dân, chính quyền hạn chế canh tác để giữ
giá nông phẩm, mặc cho nông phẩm thiếu hụt gây nghèo đói …
DÂN CHỦ VÀ TOÀN CẦU HÓA
Một trong những chướng ngại lớn nhất của dân chủ là khuynh hướng toàn cầu hóa
của Tư Bản Chủ Nghĩa. Dân chủ trong sự hoạt động của nó, cần đến những cấu trúc
lệ thuộc vào một biên giới rõ rệt, thông thường nhất là biên giới quốc gia. Thị
trường, ngược lại, không biết đến ranh giới. Môi trường hoạt động của nó rốt rào
là toàn cầu. Những quyết định của thị trường có thể mâu thuẫn với những quyết
định « dân chủ » của người dân. Thị trường có thể áp đặt quy luật của mình trên
luật lệ an sinh xã hội, luật lao động, luật tài chánh, thuế khóa, hối đoái v.v…
của một nước. Áp lực của thị trường có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Ngược
lại, ảnh hưởng điều chế của dân chủ trên áp lực của thị trường thì lại ngày càng
suy giảm, ngay cả tại các nước tiền tiến. Một chính phủ, dù hữu khuynh hay tả
phái, tại Pháp, Đức, Ý, hay Tây Ban Nha, rốt cuộc cũng vẫn phải chọn một con
đường thực tế, tức là phải chiều theo những đòi hỏi của thị trường trong cái thế
toàn cầu không thể tránh được. Rốt cuộc thị trường làm chủ, tước quyền làm chủ
của người dân.
Áp lực « siêu quốc gia » của thị trường cũng thúc đẩy việc hình thành các khối
quốc gia. Trong trường hợp Liên Hiệp Âu Châu, tất cả đã bắt đầu bằng một thị
trường chung, trước khi cố gắng tiến dần đến một quy chế càng ngày càng gần với
quy chế liên bang. Liên Hiệp Âu Châu có quyền áp đặt những điều luật trên người
dân của một quốc gia thành viên. Rồi khi những người dân này phát biểu sự chống
đối của họ qua các cuộc trưng cầu dân ý, thì giới cầm quyền liền tìm cách chuyển
các vấn đề bị chống đối ấy sang cho các Quốc Hội, tức cho giới chính trị gia
chuyên nghiệp, thông qua. Trong điều kiện ấy, thử hỏi ai nắm quyền làm chủ ? Có
còn là người dân nữa hay không ?
VIỄN TƯỢNG DÂN CHỦ ?
Trước những mâu thuẫn vừa được liệt kê, một cuộc khủng hoảng cấu trúc sẽ khó mà
tránh được. Khi thị trường hoàn toàn làm chủ, các chính quyền sẽ mất dần quyền
hành và bị lấn át bởi những tổ hợp kinh tế siêu quốc gia hoạt động như những
băng đảng, bất kể luật pháp. Thế giới sẽ đi đến tình trạng tranh chấp toàn diện.
Hỗn loạn, khánh tận tài nguyên, ô nhiễm trầm trọng, sẽ đưa đến sự sụp đổ của
nhiều cấu trúc mà chúng ta hiện thấy. Vấn đề là làm thế nào để quan niệm một nền
dân chủ sau đó ? Lề lối quản lý xã hội phải dựa trên những căn bản nào ? Xin tạm
đề nghị vài chiều hướng suy nghĩ, với một số ý kiến có thể được áp dụng ngay
trong hiện tại :
- Khái niệm dân chủ dựa trên một hình thức dân chủ nhất định cần được xét lại :
vấn đề không phải là hình thức dân chủ, mà là một phương thức quản lý xã hội VÌ
DÂN.
- Cần đi đến một sự dung hòa giữa « dân chủ đại diện » và « dân chủ trực tiếp »,
để một chính trị VÌ DÂN cũng thực sự DO DÂN, thay vì nằm gọn trong tay một giới
thượng lưu chuyên nghiệp. Mạng lưới internet có thể giúp người dân phát biểu một
cách lập tức và trực tiếp. Vấn đề là làm sao hệ thống hóa những phát biểu ấy và
cho nó thể hiện được trong việc quản lý quốc gia, tức đem lại cho nó một quyền
hành thực sự. Trong khi chờ đợi sự hệ thống hóa này, cần tạo ra những diễn đàn
dư luận mạnh mẽ, với phương tiện thu góp rộng rãi, sắp xếp rõ ràng, các ý kiến
của người dân, trên các công việc cụ thể, các quyết định hàng ngày, của việc
quản lý quốc gia, của việc điều hành các địa phương, và cả việc điều hành các xí
nghiệp có tầm ảnh hưởng quan trọng trong xã hội.
- Vượt trên những phương tiện trưng cầu dân ý như vừa nói, dân chủ trực tiếp có
thể được áp dụng ngay lập tức ở trình độ địa phương cấp thấp, qua các ủy ban
làng xóm, khu phố, xí nghiệp … với sự tham gia trực tiếp của mọi người chứ không
qua trung gian đại diện. Nó giúp người dân mau chóng trưởng thành hơn hình thức
dân chủ đại diện, được coi như duy trì họ trong tình trạng ấu trĩ như đã phân
tích ở trên. Khi biết tự lập, tự quản, người ta cũng phải thoát khỏi tháp ngà
ích kỷ, để chấp nhận ý niệm tự lập, tự quản nơi người khác, đưa đến sự sẵn sàng
tham gia vào những dự án chung ở một tầm mức rộng lớn hơn, như tầm mức quốc gia.
- Cần từ bỏ quan niệm độc tôn của mô hình dân chủ tư bản tây phương. Người tây
phương và giới thân tây phương ở các quốc gia đang phát triển cần khiêm nhượng
chấp nhận sự phức tạp của các xã hội, của các vấn đề được đặt ra cho các xã hội
ấy, và sự hiện hữu của nhiều phương cách giải quyết các vấn đề này. Cần chấp
nhận dân chủ như một tập hợp kinh nghiệm lịch sử, tùy thuộc cấu trúc của mỗi xã
hội và các con đường lịch sử mà xã hội ấy đã trải qua. Tại nhiều nơi, cấu trúc
xã hội cũng như các kinh nghiệm lịch sử khiến cho sự tham gia của người dân vào
việc quản lý quốc gia đi qua những con đường cá biệt. Cần tránh phê phán các xã
hội khác với những tiêu chuẩn của nền văn hóa của mình hay những tiêu chuẩn vay
mượn của một nền văn hóa ưu thắng nào đó.
- Tinh thần dân chủ thực sự là chấp nhận sự khác biệt, tìm hiểu sự khác biệt ấy,
và san sẻ những kinh nghiệm lịch sử giữa các xã hội với nhau. Sự chia sẻ này sẽ
khiến cho con người ở những xã hội rất khác biệt vẫn có thể kết hợp trong cùng
một dự án, vượt trên các ranh giới quốc gia, với khả năng trở thành một đối lực
trước áp lực đè nặng trên các quốc gia của thị trường tự do.
Tóm lại,
Một hình thức tự quản và dân chủ trực tiếp có thể quan niệm được ngay lập tức ở
trình độ địa phương cấp thấp. Động cơ cũng như phương tiện của nó có thể đến từ
các phương thức quản lý kinh tế gần với người dân, như « tiểu tín dụng », thường
được lồng trong khái niệm « kinh tế xã hội »
(9).
Khi ý tưởng VÌ DÂN không còn bị ràng buộc bởi những gò bó quanh các hình thức
dân chủ cố định, lệ thuộc vào giới chính trị gia chuyên nghiệp, thì mọi con
người đều có thể suy tư và làm việc theo cùng một chiều hướng. Một sự hợp tác
toàn cầu thực sự VÌ DÂN sẽ có thể quan niệm được. Hệ thống hóa và tổ chức sự hợp
tác ấy sẽ đưa đến một cấu trúc quyền hành VÌ DÂN trên toàn thế giới, có khả năng
đối đầu với xã hội hàng hóa toàn cầu.
Nguyễn Hoài Vân
[Source:
https://www.nguyenhoaivan.com/default.asp?do=news_detail&id=214&kind=10 ]
Chú Thích :
(1) Francis Fukuyama – The End of History – 1989
(2)
Những ngộ nhận về Học thuyết Marx – Nguyễn Hoài Vân hay :
https://pagesperso-orange.fr/nguyen.hoai.van/Marx-nhung-ngo-nhan.htm
(3) Karl Popper : Misères de l’Historicisme (1945) - La Société Ouverte et ses
ennemis (1945)
(4) Suy từ quan điểm về Tự Do (L’existentialisme est un Humanisme – Jean Paul
Sartre - 1945)
(5) Tựa một bài báo viết năm 1973, trên « Les Temps Modernes »
(6) … à la base, le métier de TF1, c"est d"aider Coca-Cola, par exemple, à
vendre son produit. […] Or pour qu"un message publicitaire soit perçu, il faut
que le cerveau du téléspectateur soit disponible. Nos émissions ont pour
vocation de le rendre disponible : c"est-à-dire de le divertir, de le détendre
pour le préparer entre deux messages. Ce que nous vendons à Coca-Cola, c"est du
temps de cerveau humain disponible … P. Le Lay – 2004.
(7) Stiegler : de
la Croyance en Politique và Đại
Hội Truyền Thông thế Giới
(8) Claude Lévy Strauss – Anthropologie Structurale – 1958
(9) Cát Khuê -
Truyền Thông , số 11 - 2004