 |
05 tháng 2, 2010 |
LTS: Đã có quá nhiều
đề mục về đạo Ki-tô được viết bởi Giáo sư Trần Chung Ngọc. Nhưng với
2000 năm lịch sử của Ki Tô Giáo thì không ai có thể viết thế nào cho
đủ. Tòa soạn Sách Hiếm thường nhận được điện thư từ một số bạn trẻ ở
trong nước nhờ chuyển cho Giáo sư Ngọc yêu cầu Giáo sư viết thêm về Ki
Tô Giáo vì những thông tin thuộc loại nghiên cứu đứng đắn về Ki Tô Giáo
rất hiếm trên báo chí và những diễn đàn truyền thông ở trong nước. Đọc
bài mới của Giáo sư Ngọc sau đây chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng. Điều
không ngờ mới nhất là những Mục Sư Tin Lành đã có thể nói lên những lời
phản dân tộc, và vô tổ quốc một cách trắng trợn, ngược ngạo như thế.
Trong bài
"Nhân Vụ Đồng Chiêm - Quạ Thì Đen”, tác giả Nguyễn Lâm đã cho xem
một tấm ảnh chụp các mục sư trong một buổi hành lễ Noel vừa qua, nhìn
không khác những người lệch lạc, hay nói cách khác, bệnh tâm thần. Trong
một xã hội, những người điên, hay mất trí thường phải được quản chế, mục
đích là để không nguy hại đến người khác. Họ không được đi bầu cử, họ
không được giao phó cho bất cứ một việc nào có tính cách quyết định,
ngay cả bản thân của họ. Thẩm định một người điên có thể là một việc
chủ quan về mặt triết học. Ta vẫn thường nghe các "cuồng sĩ" cho là tất
cả mọi người trên thế giới này đều điên, trừ anh ta. Nhưng trong việc
phục vụ lợi ích chung cho xã hội, việc phân biệt một người bệnh tâm trí
được đặt trong tiêu chuẩn thực tế và các mối liên hệ trong xã hội. Người
bình thường sẽ đối đáp nhau về những vấn đề cuộc sống quanh mình, sinh,
lão, bệnh, tử. Những người "không bình thường" này cả ngày chỉ nói
chuyện về "cõi ngoài", hay "cõi trên", về những nhân vật không thật, về
một thế giới không thật. Họ ăn cắp những thành đạt của người khác làm
của mình (như trong cụm từ "văn minh Thiên Chúa Giáo chẳng hạn), vu vạ
những gì không tốt cho kẻ khác (như đổ cho quỷ Satan), và tàn sát những
kẻ tố cáo hay không phục những việc gian ác của họ như thế. Vấn đề là
những người bất bình thường như thế lại huấn luyện cho kẻ khác "bất bình
thường" theo, thật sự còn nguy hiểm hơn người điên. Tại sao chúng ta lại
để cho những người điên "cấp ác tính" kia lại được thao túng, làm loạn
trong xã hội chúng ta?
Trở lại bài viết, sau "Vài Lời Nói Đầu", phần thứ nhất tác giả sẽ
đề cập đến Công Giáo, gồm những tiết mục sau đây.
Một Khi Đã Là Tín Đồ Công Giáo, suốt đời Công Giáo
Tại Sao Giáo Hội Công Giáo Vẫn Tồn Tại ?
Sách Lược Giữ Tín Đồ Trong Bóng Tối.
Cá Nhân Phạm Tội Hay “Hội Thánh Công Giáo” Phạm Tội?
Ảnh Hưởng Thánh Kinh Trên 7 Núi Tội Ác Của Giáo Hội Công Giáo
Thực Chất Hàng Giáo Phẩm Công Giáo
Giáo hội và nền văn minh Âu Mỹ?
Và phần thứ hai dành cho Tin Lành, gồm có các mục:
Đạo Tin Lành tin ở cái gì?
Vài trường hợp điển hình của sự cuồng tín, mê mẩn ...
“Tình yêu của Thiên Chúa” Sachhiem.net kính mời.
Sự Kiện:
py "Trải qua nhiều thế kỷ, sự sùng tín Thánh Kinh đã dẫn tín đồ Ki Tô
trong một niềm tin mù quáng, trong sự khủng bố, ngược đãi người Do Thái
và những người phi-Ki-Tô, giết hại và khủng bố, áp bức phái nữ, đè nén
dục tính, kiểm duyệt, tạo tâm lý sùng tín, và nhiều lầm lạc khác.
Những mô thức hành xử có tính cách hủy diệt này, người ta có thể thấy dễ
dàng là chúng bắt nguồn từ sự tin vào quyền năng tuyệt đối của những điều
viết trong Thánh Kinh."
Mục sư Ernie Bringas trong cuốn Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và Hiện Tại Bởi (Tin Vào) Quyền Năng Của
Cuốn Thánh Kinh
[Over the past centuries, bibliolatry has led Christians in
bigotry, the persecution of Jews and other non-Christians, murder
and terrorism, the oppression of women, the suppression of sexuality,
censorship, cult mentality, and other aberrations. The destructive
behavior patterns can be easily traced to the unchallenged authority
accorded biblical writing.]
Ernie Bringas in Going By The Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority,
p.17
py " Nhân danh Chúa Ki Tô hàng triệu nam nữ đã bị tù đầy, tra tấn và
giết hại, hàng triệu người đã bị làm nô lệ. Nhân danh hắn những tư tưởng
gia, khảo cứu gia, bị coi như là những kẻ tội phạm, và những tín đồ theo hắn
đã làm đổ máu của những người thông thái nhất, giỏi nhất.
Nhân danh hắn sự tiến bộ của nhiều quốc gia bị chặn đứng cả ngàn
năm… Phúc âm của hắn chất đầy thế giới với thù hận và trả thù, coi sự lương
thiện trí thức như một tội ác, hạnh phúc trên cõi đời là con đường dẫn xuống
địa ngục, tố cáo tình thương yêu như là thấp hèn và như súc vật, thánh hóa
sự nhẹ dạ cả tin, tôn vinh sự mù quáng và tiêu diệt tự do của con người.
Nhân loại sẽ tốt hơn nhiều nếu cuốn Tân Ước chưa từng được viết ra - Chúa Ki
Tô theo quan niệm thần học cũng chưa từng được sinh ra."
Robert G. Ingersoll trong cuốn Ingersoll, Con Người Phi Thường
(In Christ name millions and millions of men and women have been
imprisoned, tortured and killed. In his name millions and millions have
been enslaved. In his name the thinkers, the investigators, have been
branded as criminals, and his followers have shed the blood of the wisest
and the best. In his name the progress of many nations was stayed for a
thousand years. His gospel filled the world with hatred and revenge, made
intellectual honesty a crime, made happiness here the road to hell,
denounced love as base and bestial, canonized credulity, crowned bigotry and
destroyed the liberty of man.
It would be far better had the New Testament never been written - far
better had the theological Christ never lived.)
Robert G. Ingersoll in Ingersoll, The Magnificient, p. 117
py “Toàn thể cấu trúc của Giáo hội Công giáo La-mã được
xây dựng trên những ngụy tạo, những lá thư tông đồ giả mạo, những bài giảng
giả
mạo, những phép lạ giả mạo, những di tích (của các Thánh) giả mạo, những
công đồng giả mạo, và những sắc lệnh giả mạo của các giáo hoàng.”
Cựu Linh mục dòng Tên Peter Doeswyck
[The entire structure of the Roman Church is built
on forgeries, spurious epistles, spurious sermons, spurious miracles,
spurious relics, spurious councils, and spurious papal bulls.]
Ex-Jesuit Priest,
Peter Doeswyck
Phần I. CÔNG GIÁO
Vài Lời Nói Đầu:
Ngày Chủ Nhật 12 tháng 3, 2000, trong một cuộc
“Thánh lễ” công cộng tại "Thánh đường" Phê-rô, trước nhiều chục ngàn con
chiên, người Chủ Chiên, Đức “Thánh cha” Gion Pôn Hai (John Paul II), đại
diện cho "hội Thánh" Công giáo gồm gần một tỷ tín đồ, trong đó có khoảng 5
triệu tín đồ Việt Nam, đã chính thức “xưng thú 7 núi tội ác” đối với nhân
loại của Công giáo, một tôn giáo tự nhận là “thiên khải”, “duy nhất”, “thánh
thiện”, “mầu nhiệm”, “tông truyền”, “vương quốc của Thiên Chúa”, “cao quý”,
“ánh sáng của nhân loại” v…v…, và xin thế giới tha thứ cho những hành động
phi Thánh phi phàm, đặc thù Công giáo, của những con cái “hội thánh” Công
giáo. Những núi tội ác này, qua gần 20 thế kỷ, đã đưa đến những thảm họa to
lớn cho nhân loại như “Thánh Chiến” (sic), Tòa Hình Án xử Dị Giáo, Săn lùng
và thiêu sống phù thủy, kỳ thị phái nữ, xâm lăng văn hóa, ý muốn thống trị
và thái độ thù nghịch đối với những tôn giáo khác, bách hại dân Do Thái, gây
chia rẽ trong cộng đồng Ki Tô, liên kết với những thế lực thực dân, phát xít
v...v... như đã được nhắc tới hết sức đại cương trong những lời xưng thú 7
núi tội ác của Công Giáo.
|
Buổi lễ xưng thú tội lỗi 3/12/00 Ảnh https://archive.southcoasttoday.com
|
Đây không phải là lần đầu tiên Giáo hoàng xưng thú
tội lỗi của Công giáo. Người ta ghi nhận, trong thời gian 21 năm ở ngôi vị
giáo hoàng, Ngài đã xin lỗi hơn 100 lần về những tội ác chuyên biệt liên hệ
đến Giáo hội. (Chicago Tribune, March 13, 2000: By some counts he has
already apologized for specific sins linked to the church on more than 100
occasions during his 21- year pontificate). Nhưng lần này, sự xưng thú 7
núi tội ác của Giáo hội Công giáo có tầm mức rộng lớn hơn những lần trước
rất nhiều, vì nó bao quát, tuy không đầy đủ, 7 núi tội ác chính của giáo hội
Công giáo đối với nhân loại trong suốt 2000 năm qua, đặc biệt là trong thiên
niên kỷ thứ hai, theo Thường Lịch.
Các tín đồ Công giáo, nhất là tín đồ Công giáo Việt
Nam, bèn ca tụng hành động của Tòa Thánh là một hành động can đảm chưa từng
có trong giáo hội, theo luận điệu diễn giải của giới chăn chiên dạy các con
chiên có đầu nhưng không có óc. Giết người, tra tấn người, thiêu sống
người, ăn cướp, chiếm đoạt tài sản của người v…v…. rồi thú tội mà gọi là một
hành động can đảm thì chỉ có người Công giáo Việt Nam mới có cái can đảm như
vậy. Sau này, vào một cơ hội thuận tiện nào đó, Giáo hội Công Giáo Việt Nam
có xưng tội với dân tộc về tội phản quốc của Công giáo vì đã giúp thực dân
Pháp thiết lập được nền đô hộ ở Việt Nam, và những hành động man rợ cướp phá
miếu mạo chùa chiền, giết người ngoại đạo, săn lùng kháng chiến v..v…thì có
lẽ cũng có thể coi đó là một hành động can đảm, theo đúng tinh thần ăn năn
tự kiểm của Công giáo, hay để “thanh tẩy ký ức” (purify the memory).
Nhưng dù giáo hội có giải thích hành động xưng
thú tội lỗi của Giáo hội Công giáo như thế nào đi chăng nữa, là hành động
can đảm hay theo đúng tinh thần tự kiểm ăn năn thống hối của Công giáo, là
để thanh tẩy ký ức hay để tiến tới sự hòa hợp tôn giáo v…v…, các tín đồ Công
giáo, từ Giáo hoàng trở xuống đến những “bà lão Công giáo nhà quê” (từ của
Linh mục Thiện Cẩm) hãy trả lời cho tôi câu hỏi sau đây:
Tại sao một giáo hội do chính Chúa thành lập,
thường tự xưng là "thánh thiện", là "ánh sáng của nhân loại", là quán quân
về "công bằng và bác ái", được "thánh linh hướng dẫn" v...v..., mà giáo hội
mẹ cũng như các giáo hội con như Tây Ban Nha dưới thời Franco, Croatia dưới
thời Palevich, Việt Nam dưới thời Ngô Đình Diệm v…v… lại có thể phạm những
tội ác vô tiền khoáng hậu trong suốt 2000 năm nay đối với nhân loại và đối
với chính dân tộc của mình như vậy? trong khi các đạo khác, thí dụ như đạo
Phật, thường bị Ki Tô Giáo chụp cho cái mũ vô thần lên đầu, lại không hề làm
đổ một giọt máu hoặc gây nên bất cứ một phương hại nào cho con người trong
quá trình truyền bá trải dài hơn 2500 năm, từ trước Ki Tô Giáo hơn 500 năm?
Từ nhiều năm nay tôi và tuyệt đại đa số người dân
Việt Nam vẫn chờ đợi câu trả lời, nhưng Công giáo vẫn cúi mặt giữ thái độ
“im lặng là vàng”. Đi vào chi tiết, những lời xưng thú 7 núi tội ác của
giáo hội, được 5 Hồng Y và 2 Tổng Giám mục long trọng tuyên đọc tại Thánh
đường Phê-rô, Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận được hân hạnh đọc lên
những lời xưng thú tội ác trong mục chống lại công lý và hòa bình
v...v... của “hội Thánh” Công giáo. Giáo hoàng và ban tham mưu thần học của
ông đưa ra những lời xưng thú tội ác tổng quát trong 7 mục sau đây:
1. Xưng thú “tội ác chung”.
2. Xưng thú “tội ác trong khi phục vụ “chân lý””.
3. Xưng thú “tội ác đưa đến sự chia rẽ giữa các tín
đồ Ki Tô”.
4. Xưng thú “tội ác trong sách lược bách hại dân Do
Thái”.
5. Xưng thú “tội ác trong những hành động với ý
muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác,
không tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém
phát triển”.
6. Xưng thú “tội ác trong sự kỳ thị phái nữ, coi
thường phẩm giá phụ nữ”.
7. Xưng thú “tội ác trong việc vi phạm những
quyền căn bản của con người”.
Tòa Thánh xin thế giới tha thứ cho những tội ác của
Công giáo bằng những lời lẽ rất đại cương như trên, cho nên không mấy người
biết rõ những tội ác của Giáo hội là những tội ác nào. Lewis Weinstein viết
trong tờ Chicago Tribune ngày 16 tháng 3, 2000, như sau:
"Hầu hết các tín đồ Công giáo không biết
đến cái lịch sử (chứa đầy tội ác của Công giáo. TCN) mà Giáo hoàng
nói đến, và nếu, theo lời của Hồng Y John O'Connor, tổng giám mục địa phận
New York, tín đồ Công giáo phải "được sự thật giải phóng", thì họ
phải biết sự thật đó như thế nào."
[1]
Sự thật đó như thế nào? Đọc kỹ lịch sử truyền đạo
của Công Giáo, chúng ta có thể tóm tắt sự thật đó trong một câu ngắn gọn:
Tội ác của Công giáo đối với nhân loại có thể
mô tả như sau, mượn lời của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô Đại Cáo:
Quyết Đông hải chi thủy, bất túc dĩ trạc kỳ ô;
Khánh Nam sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác.
(Độc ác thay, trúc rừng không ghi hết tội;
Dơ bẩn thay, nước bể không rửa sạch mùi.)
Bởi vì, trong gần 20 thế kỷ, cả trăm triệu sinh mạng
gồm già, trẻ, lớn, bé, nam, nữ, vô tội đã bị giáo hội, nhân danh phúc âm,
chân lý của Chúa, bắt bớ, giam cầm, tù đầy, bạo hành, tra tấn cực hình, cắt
cổ, chôn sống, thiêu sống v…v… chưa kể đến những hành động phá hủy đền thờ
miếu mạo của các tôn giáo khác, hoặc những hành động nhằm tiêu diệt các nền
văn hóa phi Công giáo mà Tòa Thánh đã thú nhận trong lễ xưng thú tội ác ở
trên.
Một phần chi tiết những núi tội ác của Giáo hội
Công giáo hoàn vũ đã được trình bày qua loạt bài về “Công Giáo Hắc Sử”
đã đăng trên sachhiem.net và giaodiemonline.com. Độc giả có thể đọc loạt
bài này:
https://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/CGchinhsu/CGCS3.php và nhiều bài khác
về thực chất Công giáo trong hai trang nhà trên. Bài viết này chỉ có mục
đích hé mở cánh cửa để cho chút ánh sáng sự thật có thể lọt vào trong những
ngục tù tâm linh tăm tối, chỉ một chút ánh sáng thôi, vì quá nhiều ánh sáng
e rằng các tín đồ sẽ không chịu nổi, từ tối ra sáng, đôi mắt cần phải điều
tiết dần dần, với hi vọng là “sự thật về bản chất và thực chất của Giáo hội
Công giáo sẽ giải thoát họ” ra khỏi cảnh u mê, tăm tối như chính Chúa Giê-su
của họ đã dạy trong Tân ước, hay như Hồng Y John O'Connor đã nói ở trên.
Nội dung bài viết này khai triển những sự kiện trích dẫn của Mục sư Ernie
Bringas, con người tự do tư tưởng phi thường Robert G. Ingersoll, và Linh
mục Peter Doeswyck ở trên.
“Một Khi Đã Là Tín Đồ Công Giáo Thì Suốt Đời Là
Tín Đồ Công Giáo??” [Once a Catholic, always a Catholic??]
Có thể nói, tuyệt đại đa số tín đồ Công giáo trên
thế giới, nhất là tín đồ Công giáo Việt Nam, kể cả các bậc chăn chiên và trí
thức, sống qua suốt cuộc đời mà không hề biết gì về bản chất và thực chất
của Giáo hội Công giáo mà họ được dạy là một “hội thánh”. Họ cũng không
biết gì về lịch sử thực sự của Giáo hội, lịch sử các Giáo hoàng và giới chăn
chiên v..v… Nhiều nhất là họ được dạy và tin những gì mà Giáo hội đã điều
kiện hóa đầu óc của họ, phần lớn là từ nhỏ, với sự góp phần của các bậc cha
mẹ thiếu hiểu biết, và cứ như vậy, cha truyền con nối, đến độ họ không có
thể suy nghĩ gì khác những gì mà Giáo hội đã cấy vào đầu óc họ.. Vì vậy,
họ không hề biết là những gì Giáo hội dạy hầu hết là sai sự thực, dựa trên
dối trá và ngụy tạo. Điều này sẽ được chứng minh trong một đoạn sau.
Mục đích của Giáo hội không phải là mở mang trí óc, tăng sự hiểu biết của
tín đồ, mà chỉ để giữ chặt họ trong một ngục tù tâm linh mà nay đã phá sản ở
Âu Mỹ, một ngục tù được xây dựng trên những điều hoàn toàn trái ngược với
bản chất và thực chất của Giáo hội, nằm trong sách lược nhồi sọ, bao quanh
bởi những bức tường thần học tinh vi mà mục đích chính là để mê hoặc những
tín đồ đầu óc yếu kém về những điều không tưởng.
Nếu có người nào có đủ trình độ và dũng cảm vượt qua
được những bức tường chướng ngại trí thức mà Giáo hội dựng lên bao quanh họ,
để biết đôi chút về bản chất và thực chất của Giáo hội, thì họ sẽ cảm thấy
ngỡ ngàng là tại sao họ còn có thể tiếp tục ở trong một Giáo hội như vậy.
Đối với tín đồ Công giáo Việt Nam thì trường hợp của một số người đạo gốc
nhiều đời như Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ, Charlie Nguyễn alias Bùi Văn Chấn, hay
Giu-se Phạm Hữu Tạo và chắc chắn còn nhiều người nữa, những bậc trí thức đã
tỉnh ngộ và đã can đảm vạch ra những mặt sai trái của Công giáo, là những
thí dụ điển hình hiếm hoi.
Đối với thế giới văn minh Âu Mỹ thì chuyện từ bỏ
Giáo hội, sau khi biết rõ bản chất và thực chất của Giáo hội, của các bậc
trí thức, hay của các chức sắc Công giáo, từ Hồng y xuống tới các Linh mục
v..v.. không phải là chuyện ít ỏi. Trong thế giới Tây phương, vô số
người đã vượt qua được những bức tường thần học chướng ngại trí thức của
Giáo hội dựng lên và đã trở thành những người đúng nghĩa là con người,
vì đã cất bỏ được gánh nặng “quên mình trong vâng phục” trên vai,
một hình thức nô lệ trí thức, để tự mình bước đi những bước tự do, vững
vàng trên đường đời mà không cần đến cặp nạng tôn giáo để lê lết trong cuộc
đời. “Quên mình trong vâng phục” là theo sát lời dạy của “Thánh”
Ignatus Loyola (1491-1556), người sáng lập dòng Tên của Giáo hội Công Giáo:
“Chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng tin rằng cái mà chúng ta nhìn thấy
Trắng thực sự là Đen, nếu hàng giáo phẩm trong Giáo hội quyết định như vậy.”
[We should always be disposed to believe that which appears White is really
Black, if the hierarchy of the Church so decided]. Cho đến ngày nay, Giáo
hội vẫn giữ tín đồ trong ngục tù tâm linh như vậy, và gần đây, Giáo hoàng
Benedict XVI, với sự phụ họa của Giáo hội Công giáo Việt Nam, vẫn còn khuyên
các con chiên phải giữ “đức vâng lời”, nghĩa là khuyên họ tiếp tục làm nô lệ
cho hàng giáo phẩm Công giáo, Giáo hội bảo sao thì phải nghe vậy và thi
hành, không thắc mắc. Nhưng thực tế là, trong thế giới văn minh Âu Mỹ, Giáo
hội đã mất đi không ít những tín đồ có đầu óc, và ngày nay Giáo hội chỉ còn
có thể tuyển mộ được những tân tòng trong tầng lớp dân chúng ít học, thấp
kém, đời sống kinh tế khó khăn, những mồi ngon cho Giáo hội sử dụng bả vật
chất làm phương tiện dụ đạo. Trên nước Mỹ, những người vào trường dòng để
học nghề làm linh mục, phần lớn là Mễ và Mít, theo thống kê của một trường
dòng ở Iowa, không phải là vì “ơn kêu gọi”, mà như chính Giáo hoàng Benedict
XVI đã nhận định, chỉ để có một đời sống vật chất thoải mái trên sự quỵ lụy
của đám tín đồ thấp kém, ít hiểu biết ở dưới.
Thật vậy, Giáo hội đã mất đi không ít những tín đồ có đầu óc, vì không
phải tất cả những linh mục được đào tạo theo sách lược của Giáo hội, hay các
con chiên có đầu óc, đều cam tâm tự nguyện làm nô lệ cho Tòa Thánh suốt
đời. Nhiều vị, qua sự học hỏi cá nhân, vượt ra ngoài khuôn phép "Giáo
hội dạy rằng", đã thấy rõ bản chất và thực chất của tôn giáo và Giáo hội của
mình, và đã dũng cảm thoát ra khỏi cái mà Tiến sĩ Barnado gọi là Bóng
Tối Dày Đặc của Ý Thức Hệ La Mã (The Thick Darkness of Romanism), và
cho ra những tác phẩm soi sáng sự thật cho nhân loại. Chính họ là những
người biết rõ bản chất của Giáo hội và thực chất của những giáo điều, tín lý
trong Công Giáo La Mã hơn ai hết, và nhờ những tác phẩm nghiên cứu nghiêm
túc, cộng với những suy tư trí thức của họ, mà ngày nay chúng ta có thể biết
rõ sự thực về mọi mặt của đạo Công giáo nói riêng, Ki Tô Giáo nói chung.
Những tác phẩm của Tổng Giám Mục Peter de Rosa, Giám Mục Tin Lành John
Shelby Spong, các Linh mục Jean Mesnier, Joseph McCabe, Emmett McLoughlin,
James Kavanaugh, Andrew M. Greeley, David Rice, Leonardo Boff, Georges Las
Vergnas, Charles Davis, các Mục sư Rubem Alves, Ernie Bringas, Nữ tu Công
giáo Mary Ann Collins, Karen Armstrong, của các nhà Thần học Hans Kung,
Edwards Schillebeeckx, Uta Ranke-Heinemann v...v..., và của hàng trăm học
giả, giáo sư đại học, chuyên gia nghiên cứu về tôn giáo, ở trong cũng như ở
ngoài các giáo hội Ki-tô cũng đủ để cho chúng ta biết khá tường tận về đạo
Công Giáo và Tin Lành.
Tại Sao Giáo Hội Công Giáo Vẫn Tồn Tại ?
Nghiên cứu về lịch sử Giáo hội Công giáo hoàn vũ,
chúng ta thấy Giáo hội đã trải qua nhiều biến cố tưởng chừng không thể nào
cứu vãn được để mà tồn tại. Vài trường hợp điển hình sau đây cho chúng ta
thấy rõ vấn đề.
1. Ngày 21 tháng 5, 1408, Vua Pháp Charles VI
(1368-1422) ra sắc lệnh tuyên bố Giáo hội Công giáo Pháp và các công dân
Pháp không được trung thành và tuân lệnh Giáo hoàng Benedict XIII. Ông
ta vô hiệu hóa sự ủng hộ tài chánh cho Ki Tô Giáo và tuyên bố Pháp trung lập
về tôn giáo [2]
2. Trong cuộc cách mạng 1789, “Pháp, Trưởng Nữ
của Giáo Hội Công Giáo La Mã, đã chính thức đưa Lý Trí lên bàn thờ Chúa,
đã tàn sát trên 17000 Linh Mục, 30000 Nữ Tu và 47 Giám Mục, và đã dẹp mọi
Trường Dòng, Trường Học Công giáo, những Dòng Tu, đốt phá nhà thờ, thư viện
của Giáo hội v..v..” [3]
3. Do sách lược dùng chiến tranh xâm lược để chiếm
đất, vơ vét tài sản, và cưỡng bức người dân vào đạo, lãnh thổ của Giáo hoàng
(Papal States) vào giữa thế kỷ 19 lên tới khoảng 40.000km2 , với
3 triệu dân thường xuyên phải đóng thuế cho Giáo hội. Năm 1870, nhà cách
mạng Ý Garibaldi đã tiến quân vào La Mã và tước đoạt lại mọi lãnh thổ của
Giáo hội đã cưỡng chiếm của nước Ý, và thu hẹp lãnh thổ của Giáo hội còn lại
khoảng 108 sào là cung đình Vatican hiện thời. Garibaldi thống nhất nước Ý
và từ đó nước Ý ở ngoài quyền hành của Vatican.
Nhưng sự tồn tại của Giáo hội Công giáo cho đến ngày
nay với một số tín đồ gần một tỷ người là một sự kiện. Tìm hiểu lý do tại
sao Giáo hội lại có thể tồn tại lâu dài, tôi thấy có vài giải thích của
người Công Giáo.
- Thứ nhất, Giáo hội là do Chúa thành lập
nên không thể biến mất trên thế gian cho đến ngày tận thế.
- Thứ nhì, Giáo hội có Thánh Linh hay Chúa
Thánh Thần soi sáng, phò trợ nên có thể vượt qua mọi biến cố.
- Thứ ba, Giáo hội là một lực lượng đạo đức
(a moral force) cho nhân loại cho nên tất nhiên phải tồn tại vì nhân loại
cần đến đạo đức.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu về nguồn gốc và lịch sử
của Công giáo, tôi thấy 3 giải thích trên không hợp với những sự thật lịch
sử và lô-gíc thông thường.
Thứ nhất, tất cả các học giả ngày nay, ở trong cũng như ở ngoài Giáo
hội Công giáo, kể cả những nhà thần học nổi danh trong Công Giáo như Linh
mục John Dominic Crossan, Giáo sư đại học De Paul, Chicago; Uta
Ranke-Heinemann, người phụ nữ duy nhất trong Giáo hội chiếm được ngôi vị nữ
giáo sư thần học Công giáo (Professor of Catholic theology); Hans Kung,
Giáo sư Thần học tại trường đại học nổi tiếng Tubingen ở Đức; Linh mục
Joseph McCabe, một học giả nổi tiếng về bộ sử 8 cuốn: A Complete Outline
of History. Bộ sử này được dùng trong các đại học Mỹ trong nhiều thập
niên; Joseph L. Daleiden, một học giả Công giáo; Học Hội Nghiên Cứu Về
Giê-su (The Jesus Seminar) gồm nhiều học giả thuộc mọi hệ phái Ki-tô
v..v…, sau khi nghiên cứu kỹ Tân ước, đều đồng thuận ở một điểm: Giáo hội
Công giáo tuyệt đối không phải là do Chúa thành lập vì trái ngược với những
tư tưởng của Giê-su trong Tân Ước. Cũng vì những bằng chứng không
thể chối cãi được ở ngay trong Thánh Kinh mà khi được hỏi rằng: “Giê-su
có ý định thành lập một tôn giáo mới, tôn giáo mà ngày nay chúng ta gọi là
Ki Tô Giáo, hay ít nhất là tạo ra một giáo hội Ki Tô tách biệt (ra khỏi
Do Thái giáo. TCN) không, Linh mục John Dominic Crossan đã trả lời:
“Câu trả lời cho câu hỏi đó là một chữ “KHÔNG” quyết định”
(The answer to that is an emphatic NO).
Thứ nhì, Giáo hội Công giáo đã mang trên vai 7 núi
tội ác đối với nhân loại mà ngày 12.3.2000, Giáo hoàng John Paul II đã xưng
thú cùng thế giới như đã trình bày ở trên. Vậy chẳng lẽ Thánh Linh hay Chúa
Thánh Thần đã soi sáng cho Giáo hội phạm phải những tội ác vô tiền khoáng
hậu đối với nhân loại hay sao.
Và thứ ba, nếu Giáo hội thực sự là một lực lượng đạo
đức cho nhân loại thì tại sao Giáo hội lại phạm quá nhiều tội ác đối với
nhân loại trong lịch sử truyền đạo của Giáo hội, trong khi các tôn giáo khác
như Thích, Nho, Lão, không có Thánh Linh soi sáng, lại không hề làm đổ một
giọt máu của nhân loại trong quá trình truyền đạo lâu dài hơn Ki Tô Giáo cả
hơn 500 năm.
Chúng ta còn nhớ, đầu tháng 10, 2009, 2500 người mua vé vào
đại sảnh Methodist ở Westminster, Luân Đôn, để nghe một cuộc tranh luận về
chủ đề “Giáo hội Công giáo có phải là một lực lượng để tạo nên sự tốt đẹp
trong thế giới không?”
[Is the Catholic Church a force for good in the
World?] thuộc chương trình Intelligence Squared Debate, một diễn đàn
tranh luận thiết lập ở Anh trước đây 6 năm. Điều khiển cuộc tranh luận là nữ
ký giả Zeinab Badawi, tốt nghiệp đại học Oxford về chính trị, triết học và
kinh tế. Có bốn thuyết trình viên thuộc hai phe. Phe ủng hộ [for], đồng ý
với chủ đề trên gồm có hai nhân vật của Công giáo: Tổng giám mục John
Onaiyekan ở Nigeria và bà Ann Widdecombe, một thành viên bảo thủ của quốc
hội Anh. Phe chống [against] gồm có Christopher Hitchens thuộc Hiệp Hội Thế
Tục Quốc Gia (National Secular Society), một hiệp hội được thành lập tại Anh
từ năm 1866, và Stephen Fry.

Kết quả của cuộc tranh luận trên ra sao?
Giáo hội Công giáo, qua suốt dòng lịch sử, chưa bao giờ, và có
thể là không bao giờ, là một sức mạnh để tạo nên sự tốt đẹp trong thế giới.
Và đây chính là nhận định kết luận bất khả phủ bác của cuộc tranh luận
[The Catholic Church is not a force for good in the world: that was
the overwhelming verdict after a heated debate]
Vậy thì tại sao Công giáo vẫn tồn tại? Cuối cùng, tôi bắt buộc phải
đồng ý với nhận định của Robert G. Ingersoll cách đây trên một thế kỷ mà vé
vào cửa để nghe ông ta thuyết trình năm 1870 là $2. Trước một cử tọa đông
đảo, ông ta đưa ra nhận định sau đây:

Công giáo La mã thật sống dai. Điều này chứng tỏ cái gì? Nó chứng
tỏ rằng quần chúng tín đồ thì ngu si và các linh mục thì xảo quyệt
[Roman Catholicism dies hard. What does that prove? It proves that the
people are ignorant and that the priests are cunning.]
Hơn một thế kỷ sau, S.T. Joshi cũng đưa ra một nhận định tương tự:
“Câu hỏi chính không phải là tại sao tôn giáo (tác giả muốn nói
đến Do Thái Giáo, Hồi Giáo và Ki Tô Giáo) không chết đi mà là tại sao nó
còn tiếp tục tồn tại trước hàng núi những bằng chứng trái ngược [với
những gì các tôn giáo trên rao truyền]. Đối với tôi, câu trả lời có thể
thâu tóm trong một câu thẳng thắn: quần chúng tín đồ thì ngu si”
[4]
Tôi thấy cần phải giải thích từ “ngu si” ở đây. Một tín đồ ngu si
không có nghĩa là tín đồ đó không đủ đầu óc để học hiểu, mà là thiếu những
thông tin cần thiết để có thể đánh giá đúng những gì tôn giáo giảng dạy.
Trong Phật Giáo cũng có cụm từ “ngu si vô trí” để chỉ những người không đủ
trí tuệ hay thông tin để nhìn một sự vật nào đó đúng như nó là như vậy (như
thực tri kiến: to see things as they really are), do đó không biết rõ sự
thật, và không chấp nhận sự thật trước những bằng chứng hiển nhiên, và tiếp
tục nhận giả làm chân. Thí dụ, một tín đồ Công giáo có thể rất giỏi về một
bộ môn nào đó, có thể có bằng cấp rất cao về một chuyên ngành nào đó, nhưng
về tôn giáo của họ thì đầu óc họ đã bị điều kiện hóa để có một điểm mù tôn
giáo, họ không được phép tìm hiểu những sự thực về tôn giáo của họ, cho nên
họ đã bị nhồi sọ, bưng bít, không tiếp cận được với những thông tin cần
thiết để có thể đánh giá đúng những lời giảng dạy của các bậc chăn chiên, và
cái điểm mù tôn giáo trong đầu óc họ làm cho họ không thể chấp nhận hay tiêu
hóa được những thông tin hay bằng chứng trái với đức tin của họ. Như vậy,
trong lãnh vực tín ngưỡng, có thể nói họ là người ngu si.
Điều này thật quả không sai, hiện nay, trên 70% tín đồ Công giáo là ở
các nước trong thế giới thứ ba, ở Phi Luật Tân và ở trong vài ốc đảo ngu dốt
(từ của Linh mục Trần Tam Tĩnh) ở Việt Nam. Trong những cộng đồng này, số
đông tín đồ thấp kém thì chẳng biết gì, còn giới chăn chiên, phần lớn là
không biết, hoặc giả có biết đi chăng nữa, nhưng vì quyền lợi tinh thần và
vật chất trên đám giáo dân thấp kém ở dưới, nên vẫn bưng bít, dấu kín những
sự thật về Giáo hội và thực chất đức tin Công Giáo trước đám tín đồ. Chúng
ta có thể chứng minh dễ dàng điều này qua vài sự kiện sau đây. Một tài liệu
điển hình về kết quả nghiên cứu của Russell Shorto trong cuốn Sự Thật Của
Phúc Âm (Gospel Truth), trang 14, viết như sau:
Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay
đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Công giáo bảo
thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta
biết về Giê-su chỉ là huyền thoại… Các học giả đã biết rõ sự thật từ
nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống
với một ảo tưởng – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục
sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra
những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ.
Do đó, những người còn sống
trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.
[5]
Trong cuốn “Đối Thoại Với Giáo Hoàng Gioan-Phao-Lồ II”, Giao
Điểm, 2000, học giả Trần Văn Kha đã đưa ra một loạt câu hỏi rất trí thức mà
không có câu trả lời về quan niệm linh hồn trong Công giáo, trang 82-83.
Linh mục Thiện Cẩm ở Việt Nam đã đưa ra câu trả lời đơn giản như sau: “Đối
với một bà lão Công giáo nhà quê thì Chúa đã sáng tạo ra vũ trụ và muôn
loài, vậy việc tạo ra linh hồn cho mỗi người đâu có khó khăn gì.”
Hiển nhiên là sự tồn tại của Giáo hội Công giáo là nhờ có những “bà lão Công
giáo nhà quê” với trình độ hiểu biết như vậy. Tin bướng tin càn như vậy thì
nếu không gọi là ngu si thì gọi là cái gì? Và câu trả lời của Linh mục
Thiện Cẩm có thuộc loại “lý luận” xảo quyệt của giới chăn chiên không?
Sách Lược Che Dấu Sự Thật Và Giữ Tín Đồ Trong Bóng Tối Của Giáo Hội
Công Giáo:
Tại sao Giáo hội lại muốn giữ tín đồ trong bóng tối của sự hiểu biết?
Như Samuel Butler đã từng đưa ra một nhận định chính xác: “Giáo hội
Công Giáo không sợ tội lỗi mà chỉ sợ có sự thật.” Hiển nhiên là sự
tồn tại của Giáo hội phần lớn dựa vào sách lược che dấu sự thật về Giáo hội
và những điều hoang đường và sai lầm về thần học cũng như về khoa học trong
cuốn Thánh Kinh trước đám tín đồ thấp kém. Bài viết này không ngoài mục
đích đưa ra một số sự thật về bản chất và thực chất của Giáo hội Công giáo
La mã, những sự thật mà các tín đồ Công giáo Việt Nam rất ít biết hoặc không
hề biết.
Thật vậy, đã có thời Giáo hội cấm tín đồ tự đọc cuốn Thánh Kinh, vi
phạm có thể bị vạ tuyệt thông hoặc xử chết. Giáo hội giữ độc quyền giải
thích Thánh Kinh, cho rằng tín đồ không có khả năng tự đọc Thánh Kinh, có
thể hiểu sai Thánh Kinh và trở thành lạc đạo (heretic). Lạc đạo, nghĩa là
không đồng ý với những lời dạy của Giáo hội, trong thời Trung Cổ đối với
Giáo hội là tội chết.. Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ, một người đạo gốc trong 30
năm thưở thiếu thời, cho rằng Giáo hội sợ tín đồ nhận ra những điều hoang
đường, sai trái trong Thánh Kinh. Giáo hoàng và các Thánh trong Công
Giáo chủ trương giết người lạc đạo. Họ viện dẫn Cựu Ước để biện minh
cho các cuộc tàn sát vì Cựu Ước dạy rằng: Kẻ nào phỉ báng tên Chúa đều
phải bị giết (He who blasphemes the name of the Lord shall be put to
death). Thánh Thomas Aquinas tuyên bố: “Nếu những kẻ bất lương đáng tội
chết, thì những kẻ lạc đạo còn đáng bị giết hơn nữa”
(St. Thomas Aquinas
declared: “If malefactors are justly doomed to death, much more may heretics
be justly slain.”) Lạc đạo đơn giản chỉ là không theo Công giáo hay bỏ
Công giáo. Nhưng ngày nay, quyền sinh sát của Giáo hội Công giáo đã
không còn nữa, và như John Remsburg đã nhận định trong cuốn “False
Claims”, The Truth Seeker Company, New York, 1928, trang 24:
Hình như tôi nghe người Ki Tô biện hộ cho Giáo hội nói: “Nhưng bây
giờ Giáo hội không còn giết nữa”. Đúng vậy, một con hổ sắp chết càng ngày
càng bới dữ đi. Ngày nay Giáo hội không còn giết nữa vì Giáo hội không còn
quyền lực để mà giết. Bó củi (để thiêu sống người) và thanh gươm (để giết
người) đã bị tước khỏi nhưng bàn tay đẫm máu của Giáo hội, và ngày nay Giáo
hội chỉ còn dùng được hai vũ khí: gây thù hận và vu khống.”
[6]
Điểm qua những trang nhà Công giáo chống Cộng và lác đác một số bài
phê bình mà không phải là phê bình, đối thoại mà không phải là đối thoại,
của một số trí thức Công giáo trước những phanh phui ra những sự thật về
Công giáo, chúng ta thấy rõ họ đã tận dụng hai thứ vũ khí này.
Giáo hội cũng cấm tín đồ đọc những sách viết về những sự thực về bản
chất và những tín lý mà mục đích chính là tạo quyền lực của giới chăn chiên
trên đám tín đồ ở dưới, hoặc những sách mà mà Giáo hội cho rằng trái với
những tiêu chuẩn đạo đức theo quan niệm của Giáo hội, những tiêu chuẩn mà
lịch sử đã chứng tỏ là chính Giáo hội đã vi phạm hơn ai hết..
Năm 1501, Giáo hoàng Alexander VI ban sắc lệnh cấm không được ấn hành
những cuốn sách thảo luận về Ki Tô Giáo mà không có giấy phép của ông Giám
mục địa phương, hay “giấy phép của chính Giáo hoàng” [Diarium of Buchard].
Đây là sự khởi đầu của một danh sách dài những cuốn sách Giáo hội cấm
tín đồ đọc [Index of Prohibited Books], và sự dẹp bỏ những cuốn sách đặt
nghi vấn về những tín lý của Giáo hội đã trở thành chính sách chính thức của
Vatican. Đây có lẽ là cách kiểm duyệt bi thảm nhất mà thế giới biết đến,
qua sự kiểm duyệt này, trong nhiều thế kỷ Giáo hội đã khống chế những văn
phẩm mà quần chúng có thể đọc – Và Giáo hội chính thức duy trì sự khống chế
này, kéo dài cho tới thế kỷ 20. [7]
Chúng ta cũng biết ở Mỹ giới chăn chiên thường khuyên các con chiên là
“đừng có đọc sách của Giao Điểm”. Và ở Việt Nam thì Công giáo đã ra sức mua
chuộc những cán bộ văn hóa để ngăn chận, không cho phổ biến các sách của
Giao Điểm cũng như những sách viết về những sự thật về Công giáo. Thông tin
ở Việt Nam cũng loan tin rất ít về vụ các linh mục hiếp dâm nữ tu Công giáo
trên 23 quốc gia, và trên 5000 linh mục bị truy tố vì tội loạn dâm và ấu
dâm. Và những chuyện bê bối trong nội bộ Giáo hội Công giáo Việt Nam cũng
bị bưng bít dấu kín, nhưng thỉnh thoảng cũng bị lọt ra ngoài một phần qua
vài bài viết, thí dụ như của Nguyễn Văn Trung hay Linh mục Nguyễn Văn
Trọng. Qua những sách lược trên của Giáo hội, các tín đồ, vốn đã ngu si lại
tiếp tục sống trong vòng ngu si suốt đời. Nếu không thì làm sao những sự
xảo quyệt của giới chăn chiên có thể thành công. Chúng ta hãy kể vài thí dụ
về sự xảo quyệt của giới chăn chiên.
Tín đồ được các bậc chăn chiên hứa hẹn một cái bánh vẽ trên trời mà họ
gọi là “thiên đường” trong khi chính họ cũng chẳng biết cái bánh vẽ đó như
thế nào, ở đâu, vì từ xưa tới nay đã có ai từ đó trở về, kể cả Chúa Giê-su,
để cho bàn dân thiên hạ biết cái thiên đường đó là như thế nào. Nhưng sự xảo
quyệt của các linh mục còn tỏ rõ hơn nữa khi họ vẫn giảng cho tín đồ về
thiên đường và hỏa ngục trong khi có thể họ đã biết là, trước sự tiến bộ của
khoa học về vũ trụ học, về sinh học v..v…, Giáo hoàng John Paul II của
họ đã bắt buộc phải chấp nhận trước thế giới thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ
trụ, thuyết tiến hóa về nguồn gốc con người, chấp nhận con người không phải
là do Thượng đế sáng tạo ra tức thời mà chính là kết quả của một quá trình
tiến hóa dần dần và lâu dài, thú nhận không làm gì có thiên đường (một
cái bánh vẽ trên trời để dụ những người đầu óc mê mẩn, yếu kém), và hỏa
ngục (một nơi để hù dọa những người không tin Chúa). Như vậy, Giáo
hoàng đã chính thức bác bỏ thuyết “sáng tạo” của Ki Tô Giáo, phá tan huyền
thoại về Adam và Eve là tổ tông loài người do Thượng đế tạo dựng từ đất sét,
và kéo theo không làm gì có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông.
Do đó, vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi” của Giê-su chỉ là những luận
điệu thần học lừa dối của giới giáo sĩ Ki Tô Giáo khi xưa, được tiếp tục đưa
ra không ngoài mục đích khai thác lòng mê tín của một số người, huyễn hoặc
và khuyến dụ họ tin vào những điều không thực. Thật vậy, tháng 7 năm
1999, trước những khám phá xác tín nhất của khoa vũ trụ học, và trước những
hiểu biết của con người ngày nay về cấu trúc của trái đất, Giáo Hoàng đã bắt
buộc phải tuyên bố: “thiên đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng
chẳng phải là một nơi cụ thể ở trên các tầng mây” (Heaven is neither an
abstraction nor a physical place in the clouds), và “Hỏa ngục không phải
là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là trạng thái hậu quả
của những thái độ và hành động mà con người đã làm trong đời này”
(Hell
is not a punishment imposed externally by God, but the condition resulting
from attitudes and actions which people adopt in this life). Thử hỏi có bao
nhiêu tín đồ Công giáo được các bậc chăn chiên cho họ biết Giáo hoàng của họ
đã nói những gì về thuyết Big Bang, thuyết Tiến Hóa, và về thiên đường và
hỏa ngục?
Tín đồ Công giáo Việt Nam được dạy là phải luôn luôn cầu nguyện Chúa
hay Đức Mẹ Maria, kiểu “cầu ngày không đủ, tranh thủ cầu đêm, cầu thêm
ngày chủ nhật”, một hình thức xin-cho, vì Chúa đã hứa cứ cầu đi rồi sẽ
được. Chúa phán, Matthew 21:22: “Nếu các người tin, các người sẽ
nhận được bất cứ điều gì các người yêu cầu trong cầu nguyện” [If you
believe, you will receive whatever you ask for in prayer] và John
14:13-14: “Và Ta sẽ làm bất cứ điều gì các người yêu cầu nhân danh
Ta… Các ngươi có thể yêu cầu bất cứ điều gì nhân danh ta, ta sẽ làm theo
lời yêu cầu đó” [And I will do whatever you ask in my name… You may ask
me for anything in my name, and I will do it.]
Nhưng thực tế cho thấy rằng, Giáo dân Việt Nam cầu
nguyện xin-cho với Nhà Nước Việt Nam thì may ra còn có thể được, chứ nghe
lời xúi dục của ông Tổng Kiệt nhục nhã, đi thắp nến cầu nguyện đòi đất ăn
cướp trước đây ở Tòa khâm Sứ, Ấp Thái Hà, Tam Tòa v… v… đều không có hiệu
quả, vì Chúa chưa được phép của Nhà Nước Việt Nam, nếu không muốn nói là
thật ra Chúa chỉ hứa hão. Nhưng Giáo hội thường có những giải thích đặc thù
Công giáo về cầu nguyện xin-cho mà không được đáp ứng. Nếu cầu không được
và thắc mắc thì được giải thích là “Chúa đã trả lời rồi, Chúa không ưng
thuận lời cầu nguyện đó.” Tại sao? Đây là thuộc về mầu nhiệm của Thiên
Chúa, mọi quyết định của Chúa đều đúng vì Chúa là Chúa, chúng ta không thể
nào hiểu được việc Chúa làm”. Nhưng sự xảo quyệt của giới chăn chiên còn tỏ
rõ hơn nữa khi họ giảng đạo, luôn luôn nói là “ý Chúa thế này, thế nọ”,
“phải làm thế này thế nọ để làm đẹp lòng Chúa” v…v… Khi xưa Giáo hoàng hô
hào Thánh Chiến cũng nói với tín đồ đó là ý Chúa [God’s Will]. Khi có
chuyện bất hạnh xảy ra cho tín đồ thì lời giải thích sẽ là “Chúa sinh ra
thì Chúa có quyền lấy đi”, hoặc “Chúa gọi về sớm với Chúa”. Tất
cả những giải thích này đều thuộc loại dối trá, dù với mục đích gì, bàn chất
vẫn là dối trá.
Cá Nhân Phạm Tội Hay “Hội Thánh Công Giáo” Phạm
Tội:
Giáo hội đã phạm rất nhiều tội ác đối với nhân loại. Đây là một sự
kiện bất khả phủ bác. Một luận điệu bào chữa cho Giáo hội là các cá nhân
phạm tội chứ Giáo hội vẫn là một “hội thánh” thánh thiện. Luận điệu này
quên rằng khi Giáo hoàng phạm tội thì đó là “đại diện của Chúa” (Vicar of
Christ) phạm tội chứ không phải là cá nhân thường như mọi người, và khi các
Linh mục can tội loạn dâm hay ấu dâm thì đó là các “Chúa thứ hai” phạm tội
chứ không phải là người thường như mọi người.
Nhưng thực ra Giáo hội là gì? Theo cấu trúc toàn trị của Giáo hội
Công giáo thì Giáo hoàng và tập thể các chức sắc ở Vatican gồm từ các Hồng y
xuống tới các Linh mục, quyết định sách lược, đường lối của Giáo hội để phục
vụ cái mà Giáo hội gọi là “Chân lý Công Giáo “ (Catholic truth), nghĩa là
những tín điều, tín lý mà Giáo hội muốn tín đồ phải nuốt chững vì “đức vâng
lời”, kèm theo những sách lược, thủ đoạn để mở mang đạo Chúa. Trong thời
Trung Cổ ở Âu Châu, Giáo hội nắm quyền sinh sát trong tay, và Giáo hội đã
ra lệnh cho cánh tay thế tục, nghĩa là những chính quyền nằm dưới quyền của
Giáo hội, cưỡng bức áp đặt những tín lý của Giáo hội trên nhân loại qua sách
lược “giết người hàng loạt” [The Church ordered its secular arm to force
its dogma upon humanity by “mass murder”]
Các Giáo hội con, như Giáo hội Công giáo Việt Nam chẳng hạn, chỉ có
nhiệm vụ thừa hành đường lối của Giáo hội hoàn vũ. Như vậy, tội ác của Giáo
hội thuộc về toàn thể “hội thánh” chứ không phải chỉ là của một số cá nhân
như những lời bào chữa xảo quyệt của Giáo hội. Chính sự ngu si của quần
chúng tín đồ mù quáng tuân theo tất cả đường lối, sách lược của Giáo hội,
cho nên dù muốn dù không, toàn thể “hội thánh” phải có trách nhiệm liên đới
về những tác hại mà Giáo hội gây ra cho nhân loại, bởi vì không có sự tuyệt
đối trung thành mù quáng của Giáo dân, Giáo hội không thể thực hiện được
những sách lược Giáo hội muốn thi hành.
Tuy nhiên, sự ngu si và cuồng tín của giáo dân không phải là yếu tố
chính, mà còn phải do sự ngu dốt của chính Giáo hội cho nên Giáo hội mới
có thể gây ra 7 núi tội ác đối với với nhân loại mà Giáo hoàng John Paul
II cùng bộ tham mưu của ông đã xưng thú cùng thế giới. Sự ngu dốt của
Giáo hội là tin vào những điều mà Giáo hội cho rằng không thể sai lầm trong
Thánh Kinh vì tưởng đó là lời mạc khải của Thiên Chúa. Bao nhiêu
thảm họa Giáo hội Công giáo gây cho nhân loại cũng chỉ vì sự ngu dốt này của
Giáo hội. Chúng ta hãy kể vài trường hợp điển hình.
Sự ngu dốt này đã đưa đến hành động giết hại khoa học gia, ngăn chận
sự tiến bộ kiến thức trong nhiều thế kỷ. Chúng ta hãy kể hai trường hợp
điển hình.
Trường hợp thứ nhất là Giáo hội Công giáo thiêu sống Giordano Bruno,
một linh mục dòng Đa Minh người Ý. Bruno không những đồng ý với Copernicus
mà còn táo bạo hơn, đưa ra quan niệm là ngoài thế giới chúng ta đang sống
có thể còn có nhiều thế giới tương tự khác nữa. Điều này trái với lời của
Thượng Đế trong Thánh Kinh: "Trái đất là trung tâm của thế giới duy nhất mà
chúng ta đang sống."
"Bruno tin rằng ngoài thế giới của chúng ta còn có nhiều thế giới
khác nữa, tin là trái đất quay xung quanh mặt trời, và tin vào thuyết mặt
trời là trung tâm của thái dương hệ Vì những “tội ác” như vậy mà ông ta
bị giam tù trong 6 năm. Sau cùng, vì không chịu thay đổi quan niệm để
được tự do, ông bị đưa ra tòa án xử dị giáo, kết án là có tội, tuyệt thông
và bị tuyên án thiêu sống. Ông bị các Linh mục, những người được dạy
phải yêu kẻ thù, dẫn từ nhà tù ra nơi hành hình. Ông bị cột vào một cọc
xung quanh có chất củi. Rồi các Linh mục, tín đồ của Chúa Ki-Tô, châm lửa
và thiêu sống vị Thánh tử đạo vĩ đại nhất, hoàn hảo nhất từ xưa tới nay."
[8]
Trường hợp thứ hai là về Galileo Galilei. Năm 1616, kính thiên văn
đầu tiên của Galilei đã làm cho vòm trời trong Thánh Kinh rớt ra từng mảng.
Công cuộc khảo cứu của Galileo Galilei dựa trên sự quan sát thiên văn qua
hàng loạt những kính thiên văn ngày càng tân kỳ hơn, đã thực chứng quan niệm
của Bruno và đồng thời khẳng định thuyết của Copernicus như là một chân lý
khoa học. Chúng ta đã biết, năm 1633, dưới triều Giáo Hoàng Urban VIII, tòa
án xử dị giáo đã buộc Galilei phải sửa đổi khám phá khoa học của ông cho phù
hợp với Thánh Kinh, nghĩa là mặt trời quay xung quanh trái đất, và biệt giam
ông tại nhà cho đến khi ông chết vào năm 1642.
Vì trường hợp của Galileo đã nói lên phần nào tinh thần tôn trọng sự
thật và bất khuất của các khoa học gia, và vì Galileo được coi như là người
đã mở một kỷ nguyên mới cho nền khoa-học tân tiến Tây phương, nên tôi nghĩ
kể lại vài dòng về trường hợp của ông cũng không phải là vô ích (B. S.
Rajneesh, Linh Mục và Chính Trị Gia: Những Mafia của Linh Hồn
(Priests and Politicians: Mafia of the Soul, trg. 27):
"Năm 1633, khi Galileo, dựa trên những dữ kiện khoa học không thể
phủ nhận, đoan quyết trong một cuốn sách khảo cứu thiên văn của ông rằng:
không phải là mặt trời quay xung quanh trái đất mà chính là trái đất
quay xung quanh mặt trời, thì ông bị kéo ra trước tòa án dị giáo của giáo
hoàng Urban VIII. Khi đó ông đã già, gần chết. Giáo hoàng phán: "Trước khi
chết, ngươì hãy sửa lại điều trên vì nó ngược lại với thánh kinh. Bất cứ
điều nào ngược với thánh kinh đều đương nhiên sai lầm, vì thánh kinh là lời
của Thượng Đế.
Galileo là một khoa học gia vĩ đại, dù đã 80 tuổi, sắp chết, nhưng
vẫn còn đầy đủ óc khôi hài tuyệt vời. Ông nói: Không thành vấn đề, tôi sẽ
sửa lại lời tôi viết, tôi sẽ viết lại trong sách của tôi đúng như lời Thượng
Đế đã viết trong thánh kinh - nghĩa là mặt trời quay xung quanh trái đất.
Nhưng có một điều tôi cần trình ngài rõ: cả trái đất lẫn mặt trời đều không
đọc sách của tôi. Và sự thực thì, trái đất sẽ tiếp tục quay xung quanh mặt
trời.
Nếu ngài nhất định muốn biết tại sao thì tôi có đầy đủ bằng chứng.
Tôi đã dùng cả đời tôi để nghiên cứu vấn đề này, và những người có đầu óc
khoa học đều tuyệt đối đồng ý với sự khám phá của tôi. Trước sau gì rồi
ngài cũng phải đồng ý vì không ai có thể chống lại sự thực lâu dài."
[9]
Tuy vậy Galileo vẫn bị buộc phải sửa đổi sự thực khoa học ông đã viết
trong sách, bị kết án là "lạc đạo" và bị biệt giam tại nhà cho đến khi ông
chết, năm 1642. Nhưng lời tiên đoán của ông đã thành sự thực, tuy hơi
chậm. 359 năm sau, ngày 29 tháng 10 năm 1992, giáo hoàng John Paul II,
tuyên bố vụ án Galileo là một sai lầm và phục hồi danh dự cho Galileo, sau
khi một ủy ban gồm những bộ óc thượng thặng của tòa thánh nghiên cứu trong
13 năm về vấn đề Galileo. 13 năm dùng để nghiên cứu một vấn đề mà đối với
toàn thế giới đã rõ như ban ngày từ mấy trăm năm nay, một sự kiện mà ngày
nay học sinh tiểu học cũng biết, 13 năm tiêu tốn không biết bao nhiêu tiền
của giáo dân đóng góp để kiếm ra một kẽ hở hòng biện hộ cho Giáo hội trong
vụ án Galilei nhưng không thành công, để cuối cùng phải thú nhận sự sai lầm
của Giáo hội.
Sự ngu dốt của các bậc Thánh trong Giáo hội Công giáo có thể biểu hiện
điển hình trong lời phán của Thánh Augustine, tác giả nền thần học căn bản
của Công Giáo, Augustine không thể tin nổi là trái đất có hình cầu, điều
này chứng tỏ thần học là một bộ môn thuộc loại mê tín, không có giá trị trí
thức:
Không thể có người ở phía bên kia của trái đất, vì trong những hậu
duệ của Adam, không có sắc dân nào được ghi trong Thánh Kinh.
[10]
Ảnh Hưởng Thánh Kinh Trên 7 Núi Tội Ác Của Giáo Hội Công Giáo:

Hầu hết các tín đồ Công giáo không biết rằng, sở dĩ Giáo hội Công
giáo gây nên 7 núi tội ác đối với nhân loại là vì Giáo hội tin theo tất cả
những gì viết trong cuốn Thánh Kinh, như Mục sư Ernie Bringas đã nhận
định ở trên, trong khi Thánh Kinh chỉ là một cuốn sách mà ngày nay các học
giả đã chứng minh rằng chứa rất nhiều sai lầm về thần học cũng như khoa học,
khoan kể những chuyện hoang đường của dân tộc du mục Do Thái thời bán khai.
Các tín đồ cũng không biết rằng phần lớn những việc ác độc của Giáo hội
chính là theo sát những lời dạy của hai cha con Giê-su trong cuốn Thánh Kinh.
Ngày nay, Giáo Hội làm đủ mọi cách để quảng cáo cho một Thượng đế nhất mực
nhân từ của Ki-Tô Giáo, và Giê-su như là một Thày Giảng tôn giáo vô hại (a
harmless religious preacher) và chủ trương hòa bình, nhưng những gì chúng
ta có thể đọc trong Cựu Ước và các Phúc Âm trong Tân Ước đã loại bỏ hoàn
toàn những điều Giáo hội nói về Thượng đế và Giê-su. Do đó, Giáo hội
luôn luôn tránh né thảo luận về sự kiện là chính hai cha con Giê-su đã
gây cảm hứng cho Giáo Hội để thi hành những điều ác ôn đối với nhân loại.
Chúng ta hãy đọc vài lời phán của hai cha con Giê-su trong Thánh Kinh để
chứng minh luận cứ trên. Trước hết chúng ta hãy đọc đoạn sau đây của ông Lý
Chánh Trung, một nhà trí thức Công giáo, trong cuốn Tôn Giáo và Dân Tộc
:
"Tuy nhiên lịch sử đã cho thấy rằng từ khi Giáo hội (La Mã) đã trở
thành quốc giáo thì cây gươm tinh thần của Thánh Phao-Lồ đã luôn luôn bị cám
dỗ để biến thành cây gươm thép thực sự. Kể từ dạo ấy, mỗi khi hoàn cảnh cho
phép, giáo hội đã không ngần ngại để dùng thế lực tiêu diệt các tôn giáo
khác, đập phá các đền thờ "Tà Thần", đốt sách vở ngoại đạo, và đốt luôn bọn
người bị xem là "lạc đạo" nếu không chịu sửa sai.
Lịch sử cho thấy:
"Vào cuối thế kỷ 15, (1493), Giáo hoàng Alexander VI, tự cho Công
giáo cái quyền thống trị hoàn cầu, đã chia thế giới ra làm hai vùng ảnh
hưởng: 1) toàn thể Mỹ Châu, trừ Ba Tây, thuộc Tây Ba Nha; 2) còn Bồ Đào Nha
thì được Ba Tây và tất cả những đất đai nào chiếm được ở Á Châu và Phi
Châu. Sắc lệnh phân chia vùng ảnh hưởng này quy định rằng, song song
với việc chiếm cứ đất đai là bổn phận phải kết hợp các dân địa phương vào
trong giáo hội Công giáo. Do đó, đi cùng với những đoàn quân xâm lăng là
những linh mục. Sự có mặt của gìới linh mục đã biện minh cho những hành
động áp chế dân địa phương cũng như bất cứ thủ đoạn cưỡng ép nào được coi là
cần thiết để kéo họ vào niềm tin Công giáo." [11]
Bản chất của các giáo sĩ thừa sai và các linh mục bản xứ như ở Việt
Nam họ tạo nên phần lớn là cuồng tín, nhắm mắt nghe theo mọi huấn lệnh của
Giáo hoàng, vô đạo đức tôn giáo, tham lam, thích vơ vét tài sản của cải, lạm
quyền để ăn cướp hay phá hủy chùa chiền làm đất xây nhà thờ, điển hình là
nhà thờ lớn Hà Nội, nhà thờ La Vang, nhà thờ Đức Bà ở Saigon v..v… đều được
xây trên những đất ăn cướp của Chùa. Sách lược này theo đúng huấn lệnh
của Alexander VI ở trên và trong Cựu ước: “Ngươi không được thờ thần
nào khác, phải phá hủy tượng thần của dân gian.” Một số tài liệu trong
phần sau sẽ chứng minh điều này.
Giáo sư sử Mark W. McLeod viết trong cuốn The Vietnam Response to
French Intervention, 1862-1874, trang 122, về vài hành động của Giáo dân
Việt Nam trong thời Pháp xâm chiếm Việt Nam như sau:
... Để giúp chúng ta hiểu rõ hơn, chúng ta hãy xét tới những hành
động của Balny tại Phủ Lý và Hải Dương và của Harmand ở Nam Định, và nhấn
mạnh đến sự liên hệ giữa Bộ Truyền Giáo Công giáo và các lực lượng quân sự
Pháp. Sự phân tích những hành động này cho thấy, trong những cuộc tấn công
vào những cứ điểm của chính quyền Việt Nam,
quân đội Pháp đã nhận được
một mức độ hỗ trợ rất đáng kể từ những thừa sai và những tín đồ Công giáo
Việt Nam. Hơn nữa, những phương pháp mà các sĩ quan Pháp và những cộng
tác viên Gia Tô dùng tuyệt đối không thể coi là có đạo đức cao theo những
tiêu chuẩn đương thời của ngay chính họ, vì những phái bộ truyền giáo
Công giáo đã dùng sức lao động (của tín đồ Công giáo bản xứ; TCN),
tài nguyên, và tin tức tình báo, đổi lấy hậu thuẫn của Pháp để
thực hiện
sự tàn sát liên miên người "lương", mạo phạm những công trình xây dựng của
Phật Giáo, thiêu hủy những làng mạc phi-Công giáo, và cướp bóc những thành
phố của nhà Vua. Sự cộng tác với chủ nghĩa đế quốc Pháp của những tín
đồ Công giáo thường không được các sử gia nhận biết đầy đủ, nhưng đó chính
là một yếu tố đáng kể góp phần thắng lợi cho Pháp ở Bắc Kỳ."
[12]
Trong “thánh lễ” xưng thú 7 núi tội ác của Giáo hội Công giáo đối
với nhân loại, Giáo hội đã thiếu lương thiện khi cho rằng những tội ác mà
Giáo hội gây ra là do một số cá nhân không theo đúng tinh thần của Giáo
hội. Những hành động ác ôn của Giáo hội hoàn vũ đối với nhân loại và của
Giáo hội con ở Việt Nam đối với dân tộc Việt Nam có phải là những hành động
lẻ tẻ của các cá nhân nằm ngoài ý định của “hội thánh” Công giáo không?
Tuyệt đối không phải, đó chính là sách lược chính thức của Giáo Hội, thực
thi đúng những lời dạy của hai cha con Giê-su trong cuốn thánh Kinh. Chứng
minh? Chúng ta có thể đọc trong Cựu Ước như sau:
THIÊN CHÚA: PHỤC TRUYỀN 6:17; 7:1-5: PHẢI TUYỆT ĐỐI TUÂN HÀNH CÁC
ĐIỀU RĂN, LUẬT LỆ CỦA THIÊN CHÚA... KHI ĐỨC CHÚA TRỜI DẪN CÁC NGƯƠI VÀO
VÙNG ĐẤT MÀ CÁC NGƯƠI SẼ CHIẾM HỮU..CÁC NGƯƠI PHẢI TẬN DIỆT HỌ, KHÔNG ĐƯỢC
LẬP GIAO ƯỚC, KHÔNG ĐƯỢC THƯƠNG XÓT... KHÔNG ĐƯỢC GẢ CON GÁI MÌNH CHO CON
TRAI HỌ, HOẶC CƯỚI CON GÁI HỌ CHO CON TRAI MÌNH VÌ HỌ SẼ DỤ CON CÁI CÁC
NGƯƠI THỜ CÚNG CÁC THẦN CỦA HỌ MÀ BỎ CHÚA HẰNG HỮU.. CÁC NGƯƠI PHẢI ĐỐI XỬ
VỚI HỌ NHƯ SAU: PHẢI PHÁ HỦY NHỮNG BÀN THỜ CỦA HỌ, PHẢI ĐẬP PHÁ NHỮNG CỘT
TRỤ THIÊNG LIÊNG CỦA HỌ, ĐẬP NÁT NHỮNG HÌNH TƯỢNG BẰNG GỖ, ĐỐT SẠCH CÁC
TƯỢNG CHẠM CỦA HỌ..
Lời xưng thú núi tội ác thứ 5: Xưng thú “tội
ác trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù
nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn hóa và
tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển”, và thứ 7: Xưng thú
“tội ác trong việc vi phạm những quyền căn bản của con người”
của Giáo hội Công giáo đã chứng minh hơn gì hết là
Giáo hội đã theo sát
lời dạy trên trong Cựu Ước. Và nay chúng ta đã hiểu tại sao các bậc
chăn chiên Việt Nam không muốn cho con chiên của mình lấy người ngoại đạo,
và cưỡng ép những người ngoại đạo phải học đạo trước khi lấy người trong
đạo, với điều kiện những đứa con sinh ra phải đi rửa cái tội của một Adam
hoang đường, nghe lời của một con rắn hoang đường biết nói tiếng người,
chót ăn một trái cây hoang đường, trong một cái vườn hoang đường của cổ sử
Do Thái.
Tại sao lịch sử Công giáo lại chứng tỏ đó là một tôn giáo rất hiếu
chiến với những đạo binh của Chúa, đạo binh của Đức Mẹ v…v…
Đó là vì
chính Chúa Giê-su đã gây cảm hứng hiếu chiến cho Giáo hội. Giê-su phán:
GIÊ-SU: Matthew 10: 34-36:
ĐỪNG TƯỞNG RẰNG TA XUỐNG TRẦN ĐỂ MANG LẠI HÒA BÌNH TRÊN TRÁI ĐẤT. TA
KHÔNG XUỐNG ĐÂY ĐỂ MANG LẠI HÒA BÌNH MÀ LÀ GƯƠM GIÁO. VÌ TA XUỐNG ĐÂY ĐỂ
LÀM CHO CON CHỐNG LẠI CHA, CON GÁI CHỐNG LẠI MẸ, CON DÂU CHỐNG LẠI MẸ CHỒNG,
VÀ KẺ THÙ CỦA CON NGƯỜI Ở NGAY TRONG NHÀ HẮN.
Cho nên đi đến đâu, Công Giáo cũng tạo nên sự bất hòa trong dân gian,
gia đình xung đột v…v… Cảnh Lương Giáo tàn sát lẫn nhau trong quá khứ, và
gia đình bất hòa vì có đứa con lạc đàn đi theo Công giáo là chuyện thường
xảy ra trong xã hội Việt Nam kể từ khi Công giáo xâm nhập vào Việt Nam.
Trong cuốn Những Hội Truyền Giáo Hải Ngoại và Sự
Xâm Nhập của Pháp Vào Việt Nam (Les Missions Étrangères et la
Pénétration Francaise au Viet-Nam), Nicole-Dominique Lê viết:
"Theo quan điểm của những nhà lãnh đạo Việt Nam
thì các thừa sai đã phạm tội thúc đẩy giáo dân bất tuân luật lệ quốc gia.
Từ bỏ những thờ phượng tôn giáo, những giá trị xã hội đã khiến cho họ sống ở
ngoài lề của xã hội truyền thống. Nhưng nghiêm trọng hơn là, người ta
trách cứ các giáo sĩ và giáo dân đã tạo nên sự phân chia quốc gia thành 2
khối tôn giáo đối nghịch nhau." [13]
Chính Linh mục Lương Kim Định cũng phải thú nhận
trong cuốn Cẩm Nang Triết Việt, trang 57:
“Sự truyền đạo Thiên Chúa vào Việt Nam…đưa đến
sự chia khối dân tộc đang thống nhất thành hai phe Lương Giáo làm
cho sự liên lạc giữa đôi bên trở nên nhức nhối đầy e dè nghi kỵ. Đấy là một
tai nạn lịch sử mà thời gian tuy có làm giảm đi, nhưng xem ra không sao xóa
sạch được”
Sự phân biệt lương-giáo của ông cha chúng ta là có ý nghĩa sâu sắc.
Vì “lương” có nghĩa là tốt, lành, lương thiện, còn “giáo” chỉ các giáo dân,
những người không “lương”. Linh Mục Lương Kim Định đã thú nhận một ảnh
hưởng tác hại của Công Giáo trên đại khối dân tộc Việt Nam: gây chia rẽ.
Sau Giám mục Bá Đa Lộc là những Linh mục, Giám mục tới Việt Nam với
mục đích rõ rệt là phá hủy nền văn hóa Việt Nam, và vận động chính phủ Pháp
xâm chiếm Việt Nam, biến Việt Nam thành thuộc địa của Pháp. Trong số này
chúng ta phải kể đến những Giám mục Huc, Retord, Pellerin, Gauthier,
Puginier v..v.. [Xin đọc bài “Nhân Vụ Đồng Chiêm” – Quạ Thì Đen” của Nguyễn
Lâm trên
https://www.sachhiem.net/TONGIAO/tgN/NguyenLam.php ngày 1/2/2009]
Tất cả đều có những hoạt động gián điệp với sự tiếp tay của một số không
nhỏ tín đồ Công giáo bản xứ. Hiện nay, những sử liệu về hoạt động gián điệp
và gian ác thế tục của họ không thiếu. Trong mục đích xâm lăng Việt Nam,
các thừa sai Công giáo đã bi thảm hóa chính sách cấm đạo của các triều đình
nhà Nguyễn với tất cả sự căm phẫn của họ. Nhưng xét theo bối cảnh lịch sử
thế giới trong những thế kỷ 16-19 thì chúng ta phải nói rằng, căn bản căm
phẫn của các giáo sĩ thừa sai ngoại quốc và tay sai bản địa về việc cấm
đạo và bách hại giáo dân ở Việt Nam thật là vô lý một cách lố bịch: "Vì
chính trong những khoảng thời gian này, Công Giáo đang tàn sát những tín đồ
Tin Lành ở Netherlands, tra tấn hàng ngàn dân Huguenots ở Pháp, và Văn Phòng
Thánh Xử Dị Giáo (Holy Office of the Inquisition = Cơ Quan Chỉ Đạo
các Tòa Hình Án xử dị giáo) còn đang bận thiêu sống những kẻ dị giáo
từ Granada tới Goa." (Dennis Bloodworth, The Chinese Looking
Glass, A Delta Book, New York, 1968), khoan kể là việc cấm đạo không
phải vì giáo dân theo một đạo mới mà vì giáo dân đã có những hành động phản
quốc, phản bội dân tộc.
Như vậy, căn bản căm phẫn của họ thực ra là đặt trên
cái lý lẽ đầy bất công và man rợ của kẻ mạnh, mạnh vì gươm giáo, súng ống,
chứ không phải mạnh về tinh thần hay đạo đức: là con Chúa thì có quyền đi
tra tấn, tàn sát, thiêu sống người ngoại đạo vì họ không có cùng một niềm
tin như các con Chúa, còn người ngoại đạo thì không có quyền đụng tới con
Chúa ngay cả khi những con Chúa này thuộc loại phản quốc.
Về những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo, Lord Acton, một tín đồ Công
giáo, viết vào cuối thế kỷ 19:
“Nguyên tắc của Những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo là giết người.. Những
giáo hoàng không chỉ là những tên sát nhân có hạng, mà còn cho sự giết người
là một căn bản hợp pháp của Giáo hội Ki Tô và là một điều kiện của sự cứu
rỗi.” [14]
Giáo hội đã theo sát lời dạy của Giê-su như sau:
GIÊ-SU: LƯU–CA: 19:27: HÃY MANG NHỮNG KẺ THÙ CỦA TA RA ĐÂY, NHỮNG
NGƯỜI KHÔNG MUỐN TA NGỰ TRỊ HỌ, VÀ GIẾT CHÚNG NGAY TRƯỚC MẶT TA.
Giáo hội không chỉ giết người mà còn hành hạ tra tấn các nạn nhân bằng
những hình cụ rất khủng khiếp mà Giáo hội đã phát minh ra. Hiện nay ở San
Francisco, Mỹ, và ở Amsterdam, Hà Lan, đều có bảo tàng viện trưng bày hơn 40
hình cụ Giáo hội “sáng tạo” ra để tra tấn con người. Nhưng tại sao Giáo hội
lại ác ôn như vậy? Chính Giê-su đã dạy phải hành hạ tra tấn những kẻ
không tin Chúa trong sách Khải Huyền.
Sách Khải Huyền đã được Tổng Thống Hoa Kỳ Thomas
Jefferson phê bình một cách rất chính xác như sau: “Sách Khải Huyền là
những lời nói dốt nát của một kẻ điên khùng” [President Thomas
Jefferson referred to the Book of Revelation as “the ravings of a maniac”,
West County Times, California, USA, Editor Steven Morris, 14 August, 1995].
Kẻ điên khùng dốt nát này là ai? Kinh Thánh viết rõ tên sách Khải
Huyền: “The Revelation of Jesus Christ”, có nghĩa là “Lời khải thị của
Giê-su Ki Tô”, và câu đầu trong sách Khải Huyền viết rõ: “Rev. 1: 1: The
Revelation of Jesus Christ, which God gave Him to show to His servants –
things which must soon take place, He made it known by sending his angel to
his servant John....” [TCN tạm dịch: Lời khải thị, hay mạc khải, của
Giê-su Ki-tô mà Chúa Cha đã ban cho ông ta để tỏ cho các tôi tớ của ông ta
thấy những điều sắp phải xảy ra. Giê-su tỏ điều khải thị này (cho các tôi
tớ) bằng cách sai thiên sứ của ông ta đến với kẻ tôi tớ của ông ta là John
(Gio-an hay Giăng)...]. Bây giờ chúng ta hãy đọc đoạn sau đây của Chúa
Giê-su trong sách Khải Huyền, 9:3-5:
Rồi từ đám khói bay xuống đất những con châu chấu. Chúng được ban
cho nọc độc như những con bọ cạp ở dưới đất. Chúng được lệnh không được phá
hại cây cỏ mà chỉ nhắm vào những người không có dấu ấn của Thượng đế
đóng trên trán [nghĩa là những người không được Thượng đế chọn để cứu vớt
trong ngày tận thế vì không tin vào Thượng đế]. Chúng không được quyền
giết mà chỉ được tra tấn hành hạ những người này trong 5 tháng. Và sự
đau đớn cùng cực của những người này giống như khi bị bọ cạp chích.
Trong 5 tháng này, những người này muốn chết đi cho rồi mà không chết được.
(Ôi! Chúa lòng lành của Ki Tô Giáo?]
Nhưng thật ra, những cuộc tra tấn nạn nhân vô tội của Giáo hội trong
những vụ xử án dị giáo, lạc đạo, và phù thủy còn dã man, khủng khiếp hơn là
bị bọ cạp chích nhiều. Tra tấn xong, và sau cuộc tra tấn thì nạn nhân nào
cũng có tội. Cuối cùng thì Giáo hội trao cho cánh tay thế tục của Giáo hội
mang nạn nhân đi thiêu sống, dưới sự giám sát của giám mục hoặc linh mục.
Tại sao chính quyền thế tục lại phải nghe theo lời sai khiến của Giáo hội để
thi hành những điều ác ôn như vậy. Chúng ta nên nhớ rằng, trong thời Trung
Cổ, quyền hành sinh sát của Giáo Hội là tuyệt đối, đứng trên thế quyền.
Ngày 18 tháng 11 năm 1302, Giáo hoàng Boniface VIII ban “sắc lệnh
về hai lưỡi gươm” của Giáo hội (Bull of two Swords [Unam Sanctam
= The One Holy]), đặt căn bản cho quyền hành của Giáo hội trong nhiều thế
kỷ. Sắc lệnh của Giáo hoàng tuyên dương là Giáo Hội nắm trong tay “hai lưỡi
gươm”, nghĩa là hai mặt quyền lực. (“Two swords, that is, two powers):
“Cả hai lưỡi gươm đề nằm trong quyền lực của Giáo hội, lưỡi gươm
tinh thần và lưỡi gươm thế tục; lưỡi gươm tinh thần được vung lên trong
Giáo hội bởi giới chăn chiên; lưỡi gươm thế tục thi hành lệnh của Giáo hội
bởi cánh tay quân sự của Giáo hội .. và quyền lực tinh thần có quyền thiết
lập và hướng dẫn quyền lực thế tục, và phán xét quyền lực thế tục khi quyền
lực này không thi hành đúng lệnh.. Bất cứ người nào chống lại hai lưỡi gươm
này là chống lại luật của Thượng đế (Bull Unam Sanctam, Boniface VIII,
18 November 1302; Catholic Encyclopedia, xv, p.126) [15]
Nhưng tại sao sau khi tra tấn Giáo hội lại không giết phắt nạn nhân đi
cho rồi, mà lại còn phải mang nạn nhân đi thiêu sống.
Là vì chính Chúa
Giê-su đã dạy như vậy trong “Phúc Âm” (sic) John 15:6:
Nếu một người không chịu theo ta, nó sẽ bị quăng đi như một cành
cây, và trở thành khô héo; rồi các người sẽ gom chúng lại, ném chúng vào
ngọn lửa, và chúng bị đốt cháy.
Không phải là tự nhiên và vô cớ mà Giáo hội lại đi săn lùng phù thủy,
nếu thực sự có phù thủy ở trên đời, tra tấn họ và thiêu sống họ. Đó là vì
Giáo hội theo sát lời dạy trong những đoạn sau trong Thánh Kinh.
Exodus 22: 18: NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC ĐỂ CHO MỘT PHÙ THỦY ĐƯỢC SỐNG SÓT
[King James Version: “You shall not suffer a witch to live”; Revised English
Version: “You must not allow a witch to live.”]; Leviticus 19:26 “Thiên
Chúa sẽ đối mặt với các kẻ làm thầy pháp và giết hết bọn này trước mặt dân
chúng”; Levi. 20:26-27 “Những kẻ làm phù thủy hoặc bói toán phải
được đem ra giết hết”. Và Giáo hội Công Giáo cũng như Tin Lành sau này
đã theo đúng những luật man rợ này của Thiên Chúa trong Kinh Thánh để tiêu
diệt những phù thủy, sản phẩm tưởng tượng của Thiên Chúa trong Kinh Thánh mà
Công Giáo cũng như Tin Lành tin là có thật, hay vu là có thật, để theo đuổi
những mục đích thế tục như chiếm hữu tài sản của nhưng nạn nhân.
Giám mục Bruno ở Segni nói: “Những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo và Phù
Thủy “được phát minh ra để cướp tài sản của những người giầu có. Giáo hoàng
và các linh mục của ông ta đều bị nhiễm độc bởi thú nhục dục; họ coi khinh
Gót vì tôn giáo của họ đã bị chìm ngập trong một cơn đại hồng thủy của giàu
sang” [16]
Tin nhảm tin nhí vào Thánh Kinh, rằng phù thuỷ có thực trên thế gian,
không chỉ là niềm tin trong Công Giáo mà còn trong Tin Lành. Thật vậy,
Martin Luther, ông tổ của Phản Thệ Giáo, alias Tin Lành [thực sự chỉ là
Tin Dữ], tin chắc cuốn Kinh Thánh là quyền uy tối cao, không ngần ngại
thiêu sống phù thủy.
Ông ta cho phép thiêu sống 4 phù thủy ở Wittenberg,. Ông ta
phát biểu: “Tôi không hề có lòng thương các phù thủy..Tôi có thể thiêu sống
tất cả bọn họ.” và Tin Lành John Calvin (1545) đích thân chỉ huy một
chiến dịch ở Geneva chống 31 người bị kết án là phù thủy. Calvin tuyên bố:
“Kinh Thánh dạy chúng ta là có những phù thủy và họ phải bị giết.. luật này
của Thiên Chúa là một luật phải được áp dụng khắp nơi” [17]
Chúng ta thấy rằng, những câu trích dẫn ở trên từ cuốn Thánh
Kinh, và nhiều câu khác cũng như nhiều chuyện trong Thánh Kinh, đã là căn
bản, không những chỉ cho sách lược truyền đạo của Công Giáo, điển hình là ở
Việt Nam, cho những cuộc Thập Ác Chinh, mà còn cho cả 7 núi tội ác của giáo
hội Công Giáo mà giáo hoàng John Paul II cùng một số phụ tá cao cấp trong
tòa Thánh, trong đó có Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, về sau được phong
Hồng Y, đã công khai xưng thú với nhân loại ngày 12 tháng 3, 2000 tại thánh
đường Phê-rô.
Chúng ta có thể nêu ra vô số trường hợp chứng tỏ sự ngu dốt của Giáo
hội trong lịch sử Giáo hội đã gây nên bao tác hại cho nhân loại, và sự ngu
dốt đó còn kéo dài cho tới ngày nay khi Giáo hội còn mang cái gọi là “vạ
tuyệt thông” hoang đường để hù dọa tín đồ, “đức vâng lời” để nô lệ hóa tín
đồ, hoặc lập trường cứng rắn của Giáo hội về những vấn đề xã hội, nhất là
vấn đề ngừa thai, cấm phá thai trước nạn nhân mãn, trong khi một số linh mục
đã hiếp dâm chị em nữ tu Công giáo rồi dẫn họ đi phá thai.
Thực Chất Hàng Giáo Phẩm Công Giáo:
Giáo dân Công giáo Việt Nam gọi giáo hoàng của họ là “đức thánh cha”.
Họ được dạy như vậy nhưng sự thực họ không biết gì về những “đức thánh cha”
của họ. Khoan kể lịch sử các giáo hoàng đã cho thấy có nhiều giáo hoàng tội
ác ngập trời, ngay cả những giáo hoàng gần đây như Pius XII, John Paul II
hay Benedict XVI cũng không được coi là có đạo đức tôn giáo. Giáo hoàng
đương nhiệm, Benedict XVI, khi còn là Hồng y thiết giáp Joseph Ratzinger, đã
phê bình Phật Giáo bằng một câu rất vô giáo dục, gần đây ông ta cũng còn
phán bậy về Hồi Giáo rồi phải xin lỗi, và chính ông ta đã ra lệnh cho các
giám mục trên thế giới phải tiếp tục thi hành chính sách bao che, bưng bít
các vụ giám mục và linh mục của ông ta can tội loạn dâm và ấu dâm.
Giáo dân cũng gọi các linh mục của họ là “đức cha” mà sự thực không
biết gì về các “đức cha” vô đức của họ. Họ được dạy, đúng ra là bị nhồi sọ,
để tin rằng “giáo hoàng” là những đại diện của Chúa trên trần (Vicars of
Christ), có thể cho họ lên một “thiên đường mù” sau khi chết để sống cuộc
sống đời đời với Chúa mà thực ra không phải là Chúa của họ. Họ được dạy,
đúng ra là bị nhồi sọ, để tin rằng các linh mục của họ đều là các “Chúa thứ
hai” (Alter Christus), có quyền thay Chúa tha tội cho họ. Trong bí tích
xưng tội hoang đường, là “cha tha tội cho con” chứ không phải là “Chúa tha
tội cho con” trong khi rất có thể Chúa, nếu thực sự có Chúa, không hề muốn
tha tội cho họ. Họ không hề biết rằng nhiều khi các “đức cha” của họ còn bê
bối, tội lỗi hơn chính họ nhiều.
Ở Việt Nam, khi giáo dân phàn nàn về đạo
đức của mấy “đức cha” thì được ông giám mục sở tại khuyên: “Các con đừng
nói hành các Cha mà mang tội với Chúa”. Giáo dân đầu óc thuộc loại mì
ăn liền sợ mang tội với Chúa cho nên không dám hé môi, để mặc các “đức cha”
tự tung tự tác, con rơi con vãi. Nhưng trong thế giới Tây phương thì có
khác. Hơn 5000 linh mục ở Mỹ đã bị giáo dân đưa ra tòa vì tội loạn dâm và
ấu dâm, và một số Hồng Y, Tổng Giám mục đã bị truy tố, lên án về tội bao che
các linh mục phạm tội. Giáo hội đã phải bỏ ra trên 2 tỷ đô-la để bồi thường
cho các nạn nhân tình dục của các “Chúa thứ hai”.
Vì tiếp tục sống trong bóng tối nên chúng ta thấy trên vài trang
nhà của Công Giáo Việt Nam vẫn huênh hoang nói lên câu vô nghĩa: Giáo hội
Công Giáo Rô-ma là “Giáo hội mạc khải, thánh thiện, duy nhất, và tông
truyền” dù rằng hàng ngàn công cuộc nghiên cứu về Công Giáo của các học
giả Tây phương, gồm cả các bậc chăn chiên như Linh mục, và cao cấp hơn như
Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục, khoan kể đến các nhà thần học nổi danh thế
giới như Hans Kung, Uta-Ranke Heinemann, John Shelby Spong v..v.. đã chứng
minh dứt khoát là Công Giáo tuyệt đối không có cái gì có thể gọi là “mạc
khải, thánh thiện, duy nhất, và tông truyền”. Chúng ta hãy điểm sơ vài
nét về lịch sử Công Giáo, về đạo đức của các Giáo hoàng và giới chăn chiên.
 |
 |
 |
| Hans Kung |
Uta-Ranke Heinemann |
Bishop John Shelby Spong (born June 16, 1931-) |
Vì Giáo hoàng là “đại diện của Chúa” (Vicar of Christ)
và là người chủ chăn đứng đầu Giáo hội cai quản đám con chiên ở dưới, nên
sau đây tôi sẽ duyệt qua một số sự kiện về các Giáo hoàng và và hàng Giáo
phẩm trong cung đình Vatican, xuyên qua đó hi vọng chúng ta có thể thấy rõ
phần nào bản chất và thực chất của Giáo hội Công giáo. Về lịch sử và đạo
đức của một số không nhỏ Giáo hoàng, tôi đã viết bài “Đây! Những
“Đức Thánh Cha”, Đại Diện Của Chúa Ki-Tô trên Trần và là Chủ Chăn của Giáo
Hội Công Giáo :Thiên Khải, Duy Nhất, Thánh Thiện, Tông truyền,” đăng
trên sachhiem.net: https://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN20.php,
tôi sẽ không nhắc lại những chi tiết trong đó nữa. Ở đây, tôi chỉ nêu lên
một số sự kiện tổng quát để chứng minh là:
“Đọc lịch sử Giáo hội Công Giáo từ đầu cho đến
ngày nay, chúng ta thấy đó là một lịch sử của những sự tàn bạo, giết người
[cruelty and murder], những vụ mang tai tiếng (scandals),
những chuyện vô luân [immorality], gian lận [frauds], gian dối
(deceit], ngụy tạo [forgeries], hiếu chiến [aggression].”
Tất cả những điều này sẽ được chứng minh trong phần tài liệu sau đây.
Trước hết, tài liệu của Giáo hội về các Giáo hoàng bắt
đầu bằng một sự ngụy tạo. Người ta biết rằng lịch sử các Giáo hoàng viết
bởi Giáo hội Công giáo đều chứa những văn kiện ngụy tạo [It is acknowledged
that the popular Catholic version of the history of the popes are composed
of forgeries], mà mục đích chính là để đánh bóng Giáo hội, mê hoặc tín đồ,
che dấu sự thực. Vatican xuất bản cuốn sách về các Giáo hoàng (Book of the
popes) và cuốn “Liberian Catalogue”, đưa ra trước thế giới những thông tin
ngụy tạo về các Giáo hoàng. Phân tích tổng hợp hai cuốn sách trên, các học
giả đã chứng minh là cả hai đều nổi rõ về những chuyện bịa đặt giả tưởng về
những người kế vị Peter đầu tiên (both notorious for their fictions accounts
of early and mythical “successors” of St. Peter” [Catholic Encyclopedia, ix,
pp. 224-225; also Pecci ed., ii, p. 371] và Giáo hội không biết gì về các
Giáo hoàng trong 6,7 thế kỷ đầu. Trong những thế kỷ này, không có một Giáo
hoàng nào có một khuôn mặt lịch sử rõ ràng [To glance at the sypnosis of
each pope as given, the Church knows nothing whatever about the pontiffs of
the first 6, 7 centuries, and not one of them is a clearly defined in
history].
Linh mục Delehaye, sau khi nghiên cứu cuốn sách trên,
phát biểu:
“Không có bất cứ một bằng chứng nào là danh sách
các Giáo hoàng trong mấy thế kỷ đầu được căn cứ trên những tài liệu có từ
trước; đơn giản là, không có một Giáo hoàng Ki-tô nào trong nhiều thế
kỷ” [18]
Nhà thần học Anh, Anthony Collins (1676-1729) viết
trong cuốn “Discourse of Freethingking (1713), trang 96:
Nói ngắn gọn, những sự gian dối như vậy rất
thông thường trong mọi cuốn sách viết bởi các linh mục. Điều chắc chắn
là họ dựa vào quyền năng của những tác phẩm trước, nhưng chính những tác
phẩm này cũng là đồ giả, ngụy tạo, với các lý do hơn bất cứ lý do nào khác
để hỗ trợ cho những sản phẩm về đức tin của họ với sự lươn lẹo nham hiểm.
[19]
Ngày nay, nếu chúng ta có đọc những cuốn sách viết về đạo của các linh
mục Phan Phát Huồn, Bùi Đức Sinh, hay Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận v…v…,
chúng ta cũng có thể thấy trong đó đầy những sự gian dối, ngụy tạo, không
ngoài mục đích hỗ trợ cho đức tin của họ, bất kể đến sự bất lương và liêm sỉ
trí thức.
Đọc lịch sử Giáo hội Công giáo chúng ta thấy Giáo hội có cả một trường
phái ngụy tạo (school of forgeries), chuyên ngụy tạo những văn kiện có lợi
cho Giáo hội, hay sửa lại các tài liệu mà Giáo hội thấy rằng có hại cho uy
tín và những thuộc tính tự tạo để tăng uy tín của Giáo hội, hoặc diễn giải
Thánh Kinh theo chiều hướng lành mạnh hóa những điều xâu xa trong Thánh
Kinh. Những văn kiện ngụy tạo nổi tiếng nhất mà nay chính Giáo hội hoặc các
nhà thần học trong Công giáo cũng phải thừa nhận là ba bằng chứng ngụy tạo
sau đây:
- Bản văn hiến dâng của Constantine (The Donation of
Constantine); mục đích là chứng minh chắc chắn rằng Giáo Hoàng là người
kế thừa Phê-rô và Constantine, do đó có toàn quyền trên trái đất, và đàng
sau hậu trường là sự hậu thuẫn của quyền lực từ trên trời.
- Ngụy tạo Tân Ước, rằng Giáo hội Công Giáo là do Chúa Giê-su
thành lập, trao quyền cho Phê-rô, và các giáo hoàng đều là những người kế vị
Phê-rô để chăn dắt đạo Chúa.
- Ngụy tạo lời Giê-su, sau khi đã chết hiện ra dạy các tông đồ
phải đi truyền đạo trên khắp thế giới.
Quý độc giả có thể đọc chi tiết chứng minh ba sự ngụy tạo chính này
trên trang nhà sachhiem.net:
https://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/Giesu/Giesulaai3.php
Quý độc giả cũng có thể đọc bài “Những Tài liệu
Ngụy Tạo và Quyền Lực Giáo Hoàng” [Forged Documents and Papal Power] của
Nữ Tu Công Giáo Mary Ann Collins trên
www.CatholicConcerns.com ,
hoặc bài “Ảnh hưởng lịch sử và sự sử dụng những tài liệu ngụy tạo để đẩy
mạnh giáo lý về chế độ Giáo hoàng” [The Historical Influence and Use of
Forgeries in Promotion of the Doctrine of the Papacy] của William
Webster trên trang nhà:
https://www.christiantruth.com/articles/forgeries.html để thấy rằng Giáo
hội Công giáo đã ngụy tạo ra, không phải là một vài, hay một vài chục, mà
hàng trăm các văn kiện để tạo quyền lực cho chế độ Giáo hoàng và Giáo hội.
Chúng ta biết rằng, các tín đồ Công giáo ở các nước kém phát triển như
trong thế giới thứ ba, hoặc như ở Việt Nam, Phi Luật Tân là những người
cuồng tín nhất thế gian. Làm sao mà Giáo hội có thể thành công trong việc
nhào nặn đầu óc tín đồ đến độ họ không còn khả năng suy nghĩ. Đó là vì Giáo
hội đã sử dụng Học Thuật Công giáo (Catholic scholarship), phối hợp một nền
thần học ngụy biện, dối trá với những văn kiện ngụy tạo, giả mạo. Nguỵ biện
vì lúc thì giải thích thế này, khi thì giải thích thế nọ, lúc thì giải thích
suôi, khi thì giải thích ngược v..v..; dối trá vì không đúng với sự thật với
chủ đích lừa dối; ngụy tạo, giả mạo là bịa đặt ra, thêm thắt vào. Học thuật
này rất thành công đối với đám tín đồ ít học, đầu óc yếu kém, không đủ khả
năng để nhận ra sự thật. Nhưng ngày nay, học thuật này đã không còn chỗ
đứng trong thế giới văn minh, tiến bộ. Thật vậy, ngày nay, nhiều học giả,
trí thức, chuyên gia v..v.. đã phanh phui ra những thủ đoạn lừa dối của giáo
hội Công giáo. Thí dụ, Douglas Lockhart đã viết trong cuốn Cái
Mặt Đen Tối Của Thiên Chúa (The Dark Side of God) như sau:
Với khả năng phịa sử qua những tài liệu giả mạo trông như thật với
dấu ấn của Giáo Hoàng, và lồng những tài liệu giả mạo này vào trong Giáo
Luật, Giáo hội Công giáo đã tái tạo quá khứ của mình một cách có hệ thống
để rồi cuối cùng tin vào những điều nói láo của chính mình.
[20]
Nữ học giả Helen Ellerbe cũng viết trong cuốn Cái Mặt Đen Tối Của
Lịch Sử Ki Tô Giáo (The Dark Side of Christian History):
Cuốn Tự Điển Bách Khoa của Công giáo cũng phải thừa nhận rằng “Trong
mọi lãnh vực, sự giả mạo và thêm thắt vào cũng như sự ngu đần đã được tập
họp thành trò tinh quái có hạng.” Dù rằng Giáo hội đã cấm không cho
nghiên cứu thêm về nguồn gốc của các Phúc Âm, nhiều học giả đã chứng tỏ cả
bốn Phúc Âm đều đã được xào xáo viết lại. Trong khi Giáo hội tuyên bố rằng
bản chất chân lý không thay đổi và chỉ được mạc khải một lần duy nhất, Giáo
hội luôn luôn tìm ra lý do để thay đổi chân lý đó. [21]
Chúng ta hãy đọc đoạn sau đây của Cựu Linh mục dòng
Tên, Peter Doeswyck, về những sự ngụy tạo của Giáo hội Công giáo La mã:
https://www.mtc.org/3_98_nl.html#art1:
“Toàn thể cấu trúc của Giáo hội Công giáo La-mã được xây dựng
trên những ngụy tạo, những lá thư tông đồ giả mạo, những bài giảng giả mạo,
những phép lạ giả mạo, những di tích giả mạo (của các Thánh), những công
đồng giả mạo, và những sắc lệnh giả mạo của các giáo hoàng. Sách Bách
Khoa Toàn Thư của Công Giáo thú nhận về sự hiện hữu của nhiều ngàn những tác
phẩm ngụy tạo.. Những phát minh của Giáo hội La-mã như Peter tử vì đạo ở
La-mã (thế kỷ 2), sự thăng thiên của Mary (thế kỷ 6), quyền lực
thế tục của Giám mục thành La-mã (Giáo hoàng) [thế kỷ 8], Quyền tối
thượng của Giáo hội La-mã (thế kỷ 11), 7 Bí Tích (thế kỷ 13)
v..v… chỉ có thể chứng minh bằng sự ngụy tạo…
Các nhà thần học Công giáo nhận định rằng, với sự phát triển về
quyền tối thượng của Giáo hoàng trong thời Trung Cổ, số văn thư của các giáo
hoàng tăng lên thật nhiều: “Không còn nghi ngờ gì nữa là trong gần suốt
thời Trung Cổ các tài liệu của các giáo hoàng và nhiều tài liệu khác đã được
ngụy tạo không ngần ngại một cách rất vô lương tâm. Nói về hàng ngàn các
phép lạ về các di tích của các thánh của Giáo hội La Mã, những học giả này
thú nhận là “chắc chắn phần lớn là giả mạo”, có “vô số các thánh tích chắc
chắn là giả mạo”. Những học giả này thú nhận những sự gian dối sau của Giáo
hội La-mã: nguồn gốc chuỗi hạt mân côi hay các bài kinh cầu, sự hiện ta của
Mary trước thánh Dominic, xương vai của Mary và Mary hiện ra trước Simon
Stock, những bậc thang thánh [Scala Santa = đó là 28 bậc thang bằng
đá ở thánh đường John Lateran, thành La Mã, được giáo hội dạy rằng các
thiên thần đã mang chúng từ Jerusalem tới. Đó là những bậc thang mà Chúa
Giê-su đi xuống sau khi bị Pilate xử. Trong các Phúc Âm không có chỗ nào
nói về các bậc này, nhưng dây không phải là vấn đề đối với giáo hội, vì giáo
hội bảo con chiên thế nào thì con chiên phải nghe như vậy. Vì sự mê tín
cùng cực vào những điều nhảm nhí như trên nên các tín đồ Công Giáo hành
hương nơi đây thường leo 28 bậc này bằng đầu gối. (Those who adored
the Pope: "And kissed—whatever he gave them to kiss, Toe, relic, embroidery,
nought came amiss,"). TCN], những truyền thuyết về thánh tích của thánh
Veronica, cây “thánh giáo” [đâm lên người Giê-su sau khi Giê-su bị đóng
đinh] v..v… [22]

Chúng ta hãy đọc một trường hợp điển hình về sự ngụy tạo của Giáo
hội trong vô số các vụ ngụy tạo.
Trong những ấn bản đầu của bộ Tự Điển Bách Khoa Encyclopedia
Britannica, Giáo sư Rockwell, một sử gia chuyên nghiên cứu về lịch sử giới
lãnh đạo Công giáo, đã viết về Giáo hoàng Boniface VIII như sau: tham
lam, huênh hoang kiêu căng làm cho ông ta có nhiều kẻ thù. Nhiều người cho
rằng hắn liên kết với Satan [avarice, lofty claims and frequent
exhibition of arrogance made him many foes; he was believed by many to be in
league with the Devil (3rd ed., 1797)] Sau ấn bản thứ 11 vào năm
1898, Giáo hội Công giáo mua lại nhà xuất bản Encyclopedia Britannica và chỉ
trong vài năm, những ấn bản mới được phát hành và những đoạn nói về
Boniface VIII được lệnh phải xóa bỏ. Đến năm 1943, các ấn bản của Giáo
hội được trao trách nhiệm cho đại học Loyola ở Chicago. Trong những thập
niên tiếp theo, các vị chăn chiên đi từng nhà tín đồ ngây thơ và rao bán
được nhiều triệu bộ.
Thật ra, rất ít người, nhất là các tín đồ Công giáo, biết rằng
nhiều văn kiện chính thức của Giáo hội Công giáo đã ghi lại những việc xấu
xa trong toàn thể hệ thống hàng giáo phẩm Công giáo, và những uẩn hàm xung
quanh sự hiểu biết này đã bắt đầu có những quan điểm mới khi xét trong ánh
sáng của lời dạy chính của Giáo hội, cho rằng hệ thống giới chăn chiên rất
sùng tín [nghĩa là giới chăn chiên chẳng sùng tín mà chỉ lợi dụng chức
vụ cho những mục đích thế tục. TCN] [23]
Nhưng với sách lược cố hữu là che dấu sự thực nên Giáo hội đã dấu nhẹm
những văn kiện này và thay thế chúng bằng những tài liệu ngụy tạo để đánh
bóng bộ mặt của Giáo hội. Một luận điệu dối trá của Giáo hội mà chúng ta
thường thấy các tín đồ Công giáo Việt Nam thường nhắc lại mà người Công giáo
Việt Nam thường lập lại như những con vẹt là “Giáo hội đã là tôn giáo đưa
Âu Châu đến nền văn minh hiện đại”. Điều này hoàn toàn sai với những sự
thực lịch sử. Ngày nay, thế giới đã biết rằng chế độ Giáo hoàng, thay vì
dẫn giắt Âu Châu trên con đường tiến tới văn minh, thực ra những đại diện
của Công giáo đã đưa Âu châu qua nhiều thế kỷ xung đột và thoái hóa.
[The world is learning that the papacy, instead of having guided Europe
along a path to civilization, has even in its best representatives
inaugurated centuries of conflict and degradation].
Giáo hội và nền văn minh Âu Mỹ?
Giáo hoàng và giáo hội luôn luôn nhập nhằng lấy cái nền văn minh Âu Mỹ
làm nền văn minh KiTô. Giáo hoàng John Paul II phát biểu là "Một nền văn
minh xứng đáng với con người phải là nền văn minh KiTô." Hồng Y
Spellman khi sang Việt Nam ủy lạo binh sĩ Mỹ cũng khẳng định họ "đang
chiến đấu để bảo vệ nền văn minh KiTô Tây phương." Và trên vài diễn
đàn điện tử chúng ta vẫn thấy một số tín đồ Công giáo huênh hoang và ngu ngơ
quảng cáo rằng nền văn minh Tây phương chính là nền văn minh của Ki tô giáo.
Chúng ta đã thấy những chính sách đốt sách vở của Công giáo, chính
sách tiêu diệt các nền văn hóa địa phương, giết người ngoại đạo, bách hại
dân Do Thái, và đàn áp các khoa học gia vì những khám phá của họ ngược với
Thánh Kinh v..v.. Vậy nền văn minh KiTô là nền văn minh nào, có phải là nền
văn minh hiện thời không? Có bao nhiêu khoa học gia, tư tưởng gia, triết
gia tuyệt đối tin vào KiTô giáo đã đóng góp cho nền văn minh hiện đại và
đóng góp những gì? Hay là nền văn minh hiện đại bắt nguồn từ những khoa học
gia bị Giáo hội bạo hành, rồi phát triển qua những khoa học gia, tư tưởng
gia mà giáo hội đã không còn quyền hành để thiêu sống hay bắt giam nữa.
Chúng ta cũng đã biết, khi Giáo hội Công giáo La Mã nắm quyền thống
trị ở Âu Châu thì đã kéo bức màn "man rợ và đen tối trí thức" phủ lên Âu
Châu trong 10 thế kỷ. Sau thời đại hắc ám này, chúng ta thấy xuất hiện ở Âu
Châu những thời đại Phục sinh (Renaissance), thời đại Khai sáng (the age of
Enlightenment), thời đại lý trí (the age of reason), thời đại cách mạng khoa
học (the age of scientific revolution), thời đại phân tích (the age of
analysis), thời đại kỹ nghệ (the industrial age) v...v... Tất cả những
thời đại này lập thành nền văn minh hiện nay của Tây phương, và lịch sử đã
chứng minh rằng, Giáo hội Công giáo đã hết sức ngăn chặn sự phát triển trí
thức của nhân loại này nhưng đã hoàn toàn thất bại. Các đại tư tưởng
gia Tây phương như Voltaire, Montesquieu, Rousseau, Victor Hugo, Thomas
Paine v...v.. là những người đi tiên phong trong vấn đề cải cách xã hội, đề
xướng quyền tự do và nhân quyền của con người. Tác phẩm của họ đều bị Giáo
hội giam chặt trong cái gọi là "danh sách những tác phẩm cấm tín đồ đọc"
(Index of banned books). Những khoa học gia tiên phong của cuộc cách mạng
khoa học như Copernicus, Kepler, Bruno, Galileo v...v... đều bị Giáo hội
dùng "sự ngu dốt và bạo quyền khống chế sự thật" giam cầm hoặc thiêu
sống. Vậy, có thể tin được chăng, nền văn minh Tây phương là nền văn
minh Ki Tô? Có lẽ chúng ta nên duyệt qua vài tài liệu lịch sử để thấy thực
chất của Công giáo La Mã trong nền văn minh Tây phương như thế nào.
 |
 |
 |
 |
 |
| Voltaire |
Baron Montesquieu |
J.J.Rousseau |
Victor Hugo, |
Thomas Paine |
Trước hết, chúng ta cần biết là nền văn minh Âu Mỹ được xây dựng trên
những tư tưởng khai phóng về những quyền tự do căn bản của con người như tự
do tín ngưỡng, tự do suy tư v..v.., những quyền mà giáo hội luôn luôn chống
đối, và những thành quả khoa học với kết quả làm tăng mức sống thoải mái
của con người. Giáo hội đã góp được những phần nào trong sự tiến bộ của con
người qua các thời đại? Hàng giáo phẩm Công giáo, với nhiệm vụ chăn dắt tín
đồ, đã làm những gì để mở mang đầu óc của những tín đồ ngoài một số tác phẩm
về Thần học mà mục đích chỉ để bảo vệ các tín lý giáo hội đưa ra, giữ tín đồ
trong vòng mê tín, ngu muội.
Đã đành rằng, trong hàng giáo phẩm Công giáo cũng có những vị đóng góp
cho nền văn minh Âu Mỹ qua những công cuộc khảo cứu về khoa học và xã hội
nhưng số này quả thật hiếm hoi, và Giáo hội đã hoặc khai trừ họ, hoặc thiêu
sống họ (Bruno), vì những đóng góp của họ không phù hợp với những giáo điều
Công giáo, cho nên phải nói rằng, nền văn minh Âu Mỹ không phải là nền văn
minh Ki Tô như Giáo hội thường nhập nhằng tự nhận. Vài tài liệu sau đây sẽ
chứng tỏ điều trên. Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu về cuộc cách mạng khoa
học ở Âu châu, khởi điểm của nền văn minh Âu Mỹ hiện đại.
Cuộc cách mạng khoa-học ở Tây phương phát khởi từ thế kỷ thứ 16,
phát triển mạnh trong thế kỷ thứ 17, mở đầu bằng những công trình khảo cứu
và tư tưởng của Nicolaus Copernicus (1473-1543), Giordano Bruno (1548-1600),
Galileo Galilei (1564-1642), Johannes Kepler (1571-1630) v...v...Người ta
gọi đó là 1 cuộc cách mạng khoa học, bởi vì nhờ đó mà Tây phương thoát ra
khỏi cảnh tăm tối đã kéo dài gần 1000 năm, từ năm 476 tới năm 1473. Thời
gian này thường được gọi là thời Trung Cổ và cũng còn được gọi là thời kỳ
đen tối hay thời kỳ hắc ám (Dark Ages). Chính trong khoảng thời gian này,
Tây phương đã bị thống trị bởi một ý thức hệ tôn giáo độc tôn. Những giáo
điều, tín lý của Công Giáo cộng với quyền hành của hàng giáo phẩm Công Giáo
ở địa vị nắm quyền, trên cả những chính quyền thế tục đương thời, đã ngăn
chặn sự phát triển khoa học và tự do tư tưởng của con người. Mọi khám phá
khoa học, mọi tư tưởng trái ngược với Thánh Kinh đều bị lên án là 'tà đạo"
(heretics), phải diệt trừ. Do đó, cũng chính trong khoảng thời gian này,
Tây phương phải chịu đựng, như chúng ta đã biết, 8 cuộc Thập Tự Chinh
(Crusades) và hàng trăm ngàn các vụ xử án dị giáo (Inquisitions), với kết
quả là nhiều triệu người gồm già, trẻ, lớn, bé, trai, gái đã bỏ mạng vì,
hoặc bị tàn sát, có khi tập thể; hoặc bị tra tấn bởi những dụng cụ tra tấn
kinh khủng nhất trong lịch sử nhân loại; hoặc bị treo cổ, hoặc bị thiêu sống
v...v..., tất cả chỉ vì họ không chấp nhận hay có những tư tưởng ngược với
Thánh Kinh.
Cuộc cách mạng khoa học đã gây nên hai ảnh hưởng to lớn trong giới
khoa học và ngoài xã hội dân gian. Trong giới khoa học, đó là khởi điểm của
của các tiến bộ khoa học về sau. Trong xã hội đại chúng, đó là khởi điểm
của sự đạp đổ nền độc tài tôn giáo và những giáo điều lỗi thời, vì những
khám phá khoa học mới đã có tác dụng mở mang dân trí, điển hình là cuộc cách
mạng năm 1789 tại Pháp mà kết quả là tước bỏ quyền hành của giới lãnh đạo
tôn giáo trong quần chúng. Ảnh hưởng của cuộc cách mạng khoa học vô tiền
khoáng hậu trong lịch sử Tây phương được viết trong các sách giáo khoa mà
bất cứ sinh viên đại học nào học về khoa học cũng phải biết.
Nhưng trong thời mà quyền hành của Giáo hội còn ngự trị trên nhân loại
thì Giáo hội vẫn đưa ra quyết định:
"Điểm thứ nhất, nói rằng mặt trời là trung tâm và không quay xung
quanh trái đất, là điên rồ, vô nghĩa, sai lầm theo thần học, và là tà thuyết
vì trái ngược hẳn với Thánh Kinh; và điểm thứ hai, nói rằng trái đất không
phải là trung tâm mà lại quay xung quanh mặt trời , là vô nghĩa, sai lầm
theo triết lý, và ít nhất từ quan điểm thần học, đối nghịch với chân tín
ngưỡng" [24]
Giáo hội cũng cấm các giáo sĩ và con chiên đọc sách của Copernicus
và Galilei. Lệnh cấm này kéo dài suốt 278 năm cho tới năm 1821 mới được
Giáo Hoàng Pius VII thu hồi và tới năm 1822 Giáo hội mới chịu khuất phục
trước những sự thật khoa học: rằng trái đất quay xung quanh mặt trời chứ
không phải là mặt trời quay xung quanh trái đất như lời mạc khải của ông
Thượng đế toàn năng, toàn trí của Giáo hội.. Nhưng cấm thì cứ cấm, giới
trí thức cùng người dân đọc thì vẫn cứ đọc. Dần dần quyền hành tôn giáo ở Âu
Châu không còn địa vị độc tôn và giữ quyền sinh sát như trước nữa, vì cuộc
cách mạng khoa học và các phát triển khoa học về sau trong mọi ngành, nhất
là về vũ trụ học, nhân chủng học và di truyền học, và phương pháp định tuổi
của vật chất bằng phóng xạ đồng vị Carbon v...v... đã làm sụp đổ tận gốc rễ
thuyết sáng tạo trong Thánh Kinh, căn bản tín ngưỡng của Công giáo . Đó là
ảnh hưởng trực tiếp to lớn của cuộc cách mạng khoa học trên xã hội Tây
phương và đưa đến sự suy thoái của Ki Tô Giáo trên khắp thế giới, nhất là
trong các thế giới văn minh Âu Mỹ..
Qua những tài liệu dẫn chứng ở trên chúng ta thấy rằng không có
một nền văn minh nào xứng đáng với danh từ văn minh mà có thể gọi là nền
văn minh KiTô. Sự nhập nhằng vơ nền văn minh Tây phương vào làm nền văn
minh Ki-Tô là sách lược quen thuộc của Công giáo để khuyến dụ những người
kém hiểu biết trong những quốc gia nghèo khổ, những người không hề biết gì
về lịch sử cũng như bản chất của Công giáo.
Để có một nhận định chính xác hơn về mối tương quan giữa nền văn minh
Âu Mỹ và KiTô giáo, chúng ta hãy đọc đoạn sau đây của John E. Remsburg trong
cuốn "Những lời tự nhận sai sự thực" ("False Claims", trg. 16-17 ):
"KiTô giáo có liên quan gì tới nền văn minh của dân tộc này? Chắc
chắn là không; và nếu không có đám mây thiên kiến trước mắt họ, những tín đồ
KiTô sẽ thấy rõ rằng KiTô giáo không tạo nên nền văn minh của chúng ta. Họ
sẽ thấy rằng thay vì giáo hội văn minh hóa thế giới, chính cái thế giới duy
lý trong nhiều thế kỷ đã từ từ văn minh hóa giáo hội.
Chính ngay cái bản chất của KiTô giáo đã loại bỏ cái khả năng
tiến bộ như là một nguyên lý tự hữu của tôn giáo này; và bất cứ có sự tiến
bộ nào, ở trong hay ở ngoài giáo hội, đều do những nguyên nhân mà giáo hội
không kiểm soát được. Giáo hội tự cho là nắm giữ chân lý, chân lý toàn
diện, chỉ là chân lý. Mọi đề nghị thay đổi, mọi khám phá mới, đối với giáo
hội là sai sự thực, và, do đó, giáo hội chống đối. Giả thử giáo hội
thành một đế quốc trên toàn thế giới, mọi tiến bộ sẽ phải ngưng
ngay lập tức. Những Huxley và Haeckels của chúng ta sẽ bị diệt trừ
thẳng cánh, ngọn đuốc Lý Trí sẽ bị tắt ngấm, và cái lòng tin mù quáng sẽ
là sự chỉ đạo duy nhất của chúng ta. Giáo hội đã cho ta những bằng
chứng quyết định về sự thực này. Trong nhiều thế kỷ, quyền lực của giáo
hội ở Âu Châu là cao nhất, nhưng ngay cả những văn sĩ KiTô cũng phải gọi
những thế kỷ đó là thời đại đen tối.
Chỉ khi chủ thuyết duy lý khai sinh, khi khoa học bắt đầu phát
triển, và KiTô giáo bắt đầu suy thoái, nền văn minh hiện đại mới ló dạng.
Lecky nói rằng: "Trong hơn 3 thế kỷ, sự suy thoái của những ảnh hưởng
thần học là một trong những dấu hiệu không thể chối cãi để đo sự tiến bộ của
chúng ta." Carlyle nói rằng: "Kiến thức càng tăng, lòng tin càng
giảm." Strauss nói rằng: "Thời Trung Cổ tín ngưỡng tôn giáo thì tỷ
lệ thuận với sự ngu si và man rợ. Tôn giáo và văn minh không ở cùng vị thế
mà trái ngược đối với nhau, cho nên với sự văn minh tiến bộ, Ki Tô giáo phải
lui." [25]
(xem tiêp Phần II: Tin Lành)...
Các bài tôn giáo cùng tác giả