Biến
cố Giáo Hoàng Công Giáo Benedict XVI mượn lời của một ông Vua Ki Tô Giáo
[Christian King] thuộc thế kỷ 14 ở vùng Byzantine, Manuel Paleologos II,
để đả kích Giáo Chủ Hồi Giáo Muhammad là Muhammad là Muhammad là
Muhammad là “Hãy cho
tôi biết Muhammad có
mang lại cái gì mới hay
không, và nhìn vào thì
chỉ thấy những cái ác
độc và phi nhân, chẳng
hạn như ông ta ra lệnh
hãy truyền bá đức tin mà
ông ta rao giảng bằng
gươm giáo.” (Show
me just what Muhammad
brought that was new,
and there you will find
things only evil and
inhuman, such as his
command to spread by the
sword the faith he
preached) đã đưa đến
nhiều hậu quá đáng tiếc
trên khắp thế giới.
Trước hết là thế giới
Hồi Giáo lên tiếng phản
đối, đòi Benedict XVI
phải đích thân xin lỗi,
và một số những kẻ cực
đoan đã đốt hình nộm của
Benedict XVI, biểu tình
hô “đả đảo giáo hoàng”
[down with the pope],
ném các túi sơn vào căn
nhà nơi sinh của
Ratzinger ở Bavaria, và
có cơ sự thù hận giữa
Hồi Giáo và Ki Tô Giáo
sẽ gia tăng, chứ không
thuyên giảm như Giáo
hoàng tiền nhiệm John
Paul II đã cố gắng thực
hiện, và như mọi người
yêu hòa bình trên thế
giới hằng mong muốn để
tránh những xung đột tôn
giáo quá khích có phương
hại đến nhiều nhân mạng
và hòa bình trên thế
giới. Sau đây là lược
trình một số hậu quả đã
xảy ra.
-
Salih Kapusuz, thuộc
đảng cai trị Thổ Nhĩ Kỳ,
kết tội là giáo hoàng
“sẽ đi xuống lịch sử
cùng hạng với các lãnh
tụ như Hitler và
Mussolini (ranted that
the pope "is going down
in history in the same
category as leaders such
as Hitler and
Mussolini.)
-
Một nữ tu sĩ Công Giáo
bị bắn chết ở Somalia
sau khi một tu sĩ Hồi
Giáo tuyên bố là “bất cứ
ai phỉ báng tiên tri
Muhammad của chúng ta
cần phải giết ngay tại
chỗ bởi người Hồi Giáo ở
gần nhất.”
-
Yemen đe dọa sẽ cắt đứt
mọi liên hệ ngoại giao
với Vatican.
-
Tổ
chức Mujahedeen Shura
trong phe cực đoan Ả Rập
Sunni, trong đó có thành
phần al-Qaeda ở Iraq,
gọi giáo hoàng là kẻ
“thờ phụng cây thập giá”
(worshipper of the
cross) và tuyên bố
“giáo hoàng và Tây
phương sẽ bị hủy diệt”
(You and the West are
doomed) và “Chúng tôi sẽ
bẻ tan cây thập giá..”
(We will break up the
cross)…
-
Ở
Kashmir, Ấn Độ, các cửa
tiệm, dịch vụ, trường
học đều đóng cửa đáp ứng
lời kêu gọi bãi khóa,
bãi thị của lãnh tụ phe
quá khích Hồi Giáo tố
cáo Benedict. Trong 3
ngày liền, dân chúng
biểu tình đốt bánh xe và
hô “đả đảo giáo hoàng”
(For the third day
running, people burned
tires and shouted "Down
with the pope.")
-
Sự
phản đối cũng nổ lên ở
Iraq, những người biểu
tình giận dữ đã đốt hình
nộm giáo hoàng ở Basra.
-
Ở
Indonesia (Nam Dương)
hơn 100 người tập họp
trước tòa đại sứ của
Vatican ở Jakarta trương
biểu ngữ trên đó viết
“Giáo hoàng xây dựng tôn
giáo trên thù hận” (Pope
is building religion on
hatred.)
-
Tổng Thư Ký Hội Luật Gia
Thổ Nhĩ Kỳ HUKUK-DER đệ
trình lên Bộ Tư Pháp đòi
hỏi bắt giữ Giáo hoàng
khi ông ta đặt chân lên
đất Thổ Nhĩ Kỳ (theo một
chương trình viếng thăm
định trước) [The
secretary-general of the
Turkish HUKUK-DER law
association submitted a
request to the Justice
Ministry asking that the
pope be arrested upon
entering Turkey.]
-
Ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ
Mehmet Aydin nói ông hi
vọng các giới chức Thổ
hãy đơn phương hủy bỏ
chuyến thăm viếng của
Giáo hoàng nếu ông ta
không chịu xin lỗi đầy
đủ (offer a full
apology).
-
Fikret Karabekmez, một
cựu nhân viên Tòa Lập
Pháp kêu gọi phải xét xử
Benedict theo những luật
của Thổ, trong đó có
những khoản cấm vi phạm
tự do tín ngưỡng, khuyến
khích kỳ thị tôn giáo,
và gây thù hận tôn giáo.
-
Ở
Trung Quốc, một viên
chức cao cấp trong tôn
giáo vụ nói Benedict đã
mạ lỵ những người Hồi
giáo trong nước (trung
Quốc).
-
Ở
Trung Đông, tín đồ Hồi
Giáo ném bom xăng vào 7
nhà thờ ở West Bank và
Gaza Strip. Ngày thứ 6,
15/09 một nhà thờ Hy Lạp
lâu đời nhất của Chính
Thống giáo tại Gaza bị
đặt chất nổ 4 lần.
-
Quốc hội Pakistan, ngày
15/09/2006 đã thông qua
một nghị quyết đòi Giáo
Hoàng Benedict XVI phải
rút lại những gì đã nói
về Hồi giáo, còn Bộ
ngoại giao của nước này
lên án sự thiếu hiểu
biết của Giáo Hoàng về
đạo Hồi.
-
Nhà thờ Ki Tô giáo ở
Tulkarem, Jordan, một di
tích lịch sử có từ 170
năm nay, phía trong bị
đốt cháy gần hết. Một
nhà thờ tại Tubas cũng
bị cháy một phần. Trong
ngày thứ 7, 16/09, 5 nhà
thờ công giáo ở Nabuls
bị ném bom xăng.
Trên đây chỉ là một số
phản ứng điển hình của
khối Hồi Giáo trước câu
trích dẫn có mục đích
của Giáo hoàng Benedict
XVI. Ngoài ra, khắp nơi
trên thế giới đều có
những phê bình tiêu cực
về hành động dù muốn dù
không cũng đã gây thù
hận tôn giáo của Giáo
hoàng.
Dù Giáo hoàng đã đích
thân xin lỗi Hồi Giáo,
dù các cơ quan truyền
thông của Công giáo đã
lên tiếng cải chính, dù
có nhiều ý kiến của dân
Mít ta ở hải ngoại, bênh
vực hành động của Giáo
Hoàng, nhưng sự thực thì
Giáo hoàng đã châm ngòi
cho một sự thù nghịch
đáng lẽ không nên xảy
ra. Những lời bênh vực
hành động thiếu suy nghĩ
[có thực là thiếu suy
nghĩ không?] của Giáo
hoàng Benedict XVI thực
ra thuộc hai phe: phe
Công giáo thì đã đành
rồi, mẹ hát con khen
hay; còn lác đác trong
phe “ngoại đạo” thì có
nhiều lý do, hoặc cá
nhân hoặc thiếu hiểu
biết về chính trị quốc
tế cũng như lịch sử các
tôn giáo.
Bài phân tích này cố
gắng tìm hiểu những động
cơ đằng sau hành động
trên của Giáo hoàng
Benedict XVI. Vấn đề
cần tìm hiểu là tại sao
Giáo hoàng Benedict XVI
lại có một hành động có
thể nói thiếu sáng suốt
như vậy. Và hành động
này là cố ý hay chỉ là
thuần túy trong nội dung
của một bài thuyết trình
về “đức tin và lý trí”
trong một đại học mà ông
đã là một giáo sư trong
một thời gian trước
đây? Nếu chúng ta không
biết gì về lịch sử Công
Giáo, không biết gì về
những chủ trương và hành
động của những vị chủ
chăn Công giáo, đặc biệt
là của một người Đức tên
là Joseph Alois
Ratzinger, thì rất có
thể chúng ta sẽ ngả theo
những luận điệu bào chữa
hành động này của ông
trong những diễn đàn
truyền thông điện tử của
người Việt, nhất là của
người Công Giáo.
Thứ nhất, không ai có
thể bảo rằng Giáo hoàng
không biết gì đến mối
thù truyền kiếp giữa Ki
Tô Giáo và Hồi Giáo, đến
các cuộc Thánh Chiến của
Công Giáo chống Hồi Giáo
trong thời Trung Cổ, và
khía cạnh tôn giáo của
cuộc xâm chiếm Iraq ngày
nay của Tổng Thống Ki Tô
Giáo George W. Bush, và
thái độ thù nghịch của
những người Hồi Giáo quá
khích đối với Tây phương
với Ki Tô Giáo là tôn
giáo chủ đạo. Giáo
hoàng lên tiếng xin lỗi
và tự biện là người ta
đã hiểu lầm ý định của
ông ta, ông ta chỉ muốn
bàn về vấn đề “đức tin
và lý trí” và trích dẫn
câu của một ông Vua Ki
Tô Giáo [Christian King]
thuộc thế kỷ 14 ở vùng
Byzantine, Manuel
Paleologos II, chỉ là
muốn nói lên một ý kiến
rất cao đẹp là tôn giáo
không thể bành trướng
bằng bạo lực và cưỡng
bức cải đạo, chứ đó
không phải là quan niệm
của ông về Hồi Giáo hay
Muhammad. Những thuộc
hạ của ông, cũng như một
vài trí thức dỏm vô trí
ở bên ngoài, có thể vì
lý do cá nhân, lên tiếng
hùa theo luận điệu này
để bênh vực hành động
của ông. Họ bênh vực là
ông ta chỉ trích dẫn một
câu của ông Vua Manuel
trong thế kỷ 14 chứ có
phải là ý kiến của ông
ta đâu? Vấn đề không
phải là ông ta trích
dẫn, mà tại sao ông ta
lại trích dẫn một câu
của một ông Vua Ki Tô
Giáo đang chiến đấu đối
nghịch với Hồi Giáo
trong thế kỷ 14, và mục
đích của sự trích dẫn là
gì? Người ta chỉ trích
dẫn một ý kiến, một tư
tưởng hay một tài liệu
khi có phần nào đồng ý
trừ phi trích dẫn để
phản bác trong một cuộc
đối thoại. Điều rõ ràng
là Giáo hoàng đã cố ý
trích dẫn câu trên để đả
kích Muhammad là chủ
trương bành trướng đức
tin bằng bạo lực, ác và
vô nhân. Trong suốt bài
thuyết trình không có
chỗ nào ông ta nói là
không đồng ý với câu
trích dẫn mà chỉ tránh
né hai lần là “tôi xin
trích dẫn”.
Nhưng không ai có thể
bảo rằng Giáo hoàng
không biết gì về lịch sử
Công Giáo trong thế kỷ
14, hay nói đúng hơn
trong mấy trăm năm thuộc
thời Trung Cổ. Không ai
có thể bảo rằng Giáo
hoàng chưa hề đọc Thánh
Kinh của Ki Tô Giáo,
nhất là những Chương Dân
Số, Phục Truyền trong
Cựu Ước. So sánh với
một số điều trong Kinh
Koran của Hồi Giáo có gì
mấy khác không? Hơn
nữa, thế kỷ 14 và suốt
mấy trăm năm của Thời
Đại Hắc Ám (The Dark
Ages) là cao điểm của
sách lược bành trướng
Công Giáo bằng bạo lực
và cưỡng bức cải đạo qua
những cuộc Thánh Chiến,
những Tòa Án Xử Dị Giáo,
những cuộc Săn Lùng Phù
Thủy v..v.. Vậy nếu
Giáo hoàng thực sự muốn
lên án sự bành trướng
tôn giáo bằng bạo lực và
cưỡng bức cải đạo, và
nếu có đôi chút lương
thiện trí thức thì ông
ấy nên nêu những sự kiện
này trong Công Giáo lên
và lên án, sám hối và
khẳng định một lập
trường là tôn giáo không
thể và không nên bành
trướng bằng võ lực, bạo
lực và cưỡng bách cải
đạo.
Nhưng không, ông ta lại
nhắm vào Muhammad.
Nhưng nhắm vào Muhammad
lại là một hành động vô
trí. Tại sao? Vì theo
truyền thuyết thì
Muhammad đã được thiên
thần Gabriel đọc cho
viết lại những lời của
Thượng đế để viết lên
Kinh Koran. Nhưng thiên
thần Gabriel cũng chính
là “người” đã đến báo
tin cho bà Maria là bà
sẽ mang thai của Thánh
Linh alias Thượng đế để
đẻ ra Jesus. Vậy Thượng
đế của Muhammad (Allah)
và Thượng đế của
Ratzinger (God) là một.
Vì cùng là một Thượng đế
cho nên lịch sử bạo tàn
của Hồi Giáo và của Ki
Tô Giáo chẳng có gì khác
nhau mấy. Hơn nữa, trên
đài PBS ngày 18 tháng 9,
2006, có học giả đã
phanh phui ra rằng
Benedict đã hiểu sai về
Hồi Giáo nên đã trích
dẫn câu của Vua Manuel
Paleologos II, vì trong
Kinh Koran không có chỗ
nào nói là Muhammad dạy
là phải truyền bá đạo
bằng gươm giáo (to
spread by the sword the
faith he preached) và
Giáo Hoàng cũng hiểu sai
nghĩa của Jihad, Jihad
trong Hồi Giáo có nhiều
nghĩa và có thể áp dụng
trong nhiều lãnh vực, từ
tranh đấu nội tâm đến
tranh đấu cho hòa bình
trên thế giới, còn nghĩa
“Thánh Chiến” (Holy War)
chỉ là một nghĩa mà Tây
phương reo rắc vào đầu
óc quần chúng trước
những cuộc mang bom tự
sát giết hại người vô
tội của nhóm quá khích
Hồi Giáo. Và hơn nữa,
thực chất của những vụ
ôm bom tự sát làm chết
người vô tội tuyệt đối
không phải là để truyền
bá đức tin bằng gươm
giáo (to spread by the
sword the faith he
preached), đó là những
phản ứng tiêu cực của
một phe ở thế yếu trong
một cuộc chiến tranh mà
đối với họ đó là một
cuộc chiến tranh xâm
lăng. Vậy, nói tóm lại,
theo Tân Ước thì
Benedict XVI đã chỉ nhìn
thấy cái kim trong mắt
người khác mà không thấy
cái đà gỗ trong chính
mắt mình, và ông ta đã
cố ý vạch cái kim trong
mắt người khác trước bàn
dân thiên hạ, phải chăng
với hi vọng bàn dân
thiên hạ sẽ quên đi hoặc
không biết đến cái đà
trong mắt ông..
Vatican
đưa ra những lời biện hộ
và diễn đàn công giáo
Việt Nam cũng hùa theo
ca tụng là mục đích của
Giáo hoàng là đối thoại
tôn giáo trên chủ đề
“đức tin và lý trí”,
Ngài rất đau lòng trước
những cảnh dùng bạo lực
nhân danh tôn giáo ngày
nay và Ngài mượn lời của
Vua Manuel để nói lên
thông điệp là không thể
bành trướng tôn giáo
bằng bạo lực và cưỡng
bách cải đạo. Lẽ dĩ
nhiên Ngài mượn lời của
Vua Ki Tô Manuel để nhắm
vào Mumhammad và quên
rằng bành trướng tôn
giáo bằng bạo lực và
cưỡng bách cải đạo chính
là sách lược của Công
Giáo trong nhiều thế
kỷ. Có người còn nêu cả
ý kiến của Bà Angela
Merkel, thủ tướng Ðức,
như sau để bênh vực
Benedict XVI: “Ðó là
một lời mời gọi đối
thoại giữa các tôn giáo,
mà chính đức giáo hoàng
đã nói lên một cách rõ
rệt. Benedict XVI đã nói
một cách minh thị là
phải quyết liệt bác bỏ
việc dùng bạo lực nhân
danh tôn giáo.”
Đây chỉ là sự ngụy biện
của một người Đức cho
một Giáo hoàng cũng
người Đức. Trích dẫn
một câu với mục đích đả
kích Giáo Chủ của một
tôn giáo lớn khác thờ
cùng một Thượng đế với
mình mà gọi là mời gọi
đối thoại hay sao? Muốn
quyết liệt bác bỏ việc
dùng bạo lực nhân danh
tôn giáo thì Giáo hoàng
chỉ cần tuyên bố: “Nhân
danh là Giáo hoàng của
Công Giáo La Mã, tôi cực
lực phản đối mọi hình
thức dùng bạo lực nhân
danh tôn giáo”. Muốn
mượn thí dụ từ lịch sử
thì trong lịch sử Công
Giáo thiếu gì thí dụ về
bạo lực? Chẳng vậy mà
Aiman Mazyek, chủ tịch
công đồng trung ương Hồi
Giáo ở Đức đã nêu ra
những sự tàn bạo trong
lịch sử Ki Tô Giáo và
nói rằng chính Công Giáo
cũng có một quá khứ đẫm
máu (Catholicism too has
a bloodstained past.)
Ông ta nói: “Chúng
ta chỉ cần nhớ lại những
cuộc Thánh Chiến
(của Công Giáo) và
những sự cưỡng bách
người Do Thái và Hồi
Giáo phải cải đạo
(vào Công Giáo), và
mối liên hệ của Vatican
với Hitler cùng sự chinh
phục châu Mỹ La Tinh
(của Công Giáo).
Tôi không nghĩ rằng Công
Giáo nên buộc tội những
hành động quá khích
trong các tôn giáo khác”
(One
only has to recall the
Crusades and the forced
conversions of Jews and
Muslims, also noting
the Vatican's
relationship with Hitler
and Catholic conquests
of Latin America. I do
not think the church
should point a finger at
extremist activities in
other religions.)
Xét đến mọi khía cạnh
của vấn đề, lịch sử cũng
như chính trị, tình
trạng tôn giáo, xã hội
ngày nay v..v.., chúng
ta thấy rõ hành động của
Benedict XVI là một hành
động cố ý với một mục
đích rõ rệt. Những
chiêu bài như “đối thoại
tôn giáo” hay “chống bạo
lực” v..v.. của
Vatican chỉ là những
bình phong đạo đức giả.
Nhưng tại sao trong thời
buổi này mà một người
thông minh như Benedict
XVI lại có một hành động
vô ý thức và có nhiều sơ
hở như vậy? Có nhiều
nguyên nhân mà nguyên
nhân chính là cái nền
giáo dục Công Giáo đã
tạo nên tâm cảnh cuồng
tín, trịch thượng, đạo
đức giả và thủ đoạn, một
tâm cảnh có thể thấy
trong nhiều vị chủ chăn
Công Giáo từ trước tới
nay. Rất có thể cộng
thêm tâm cảnh còn sót
lại trong thời Ratzinger
thuộc tổ chức “Hitler’s
Youth”. Chứng minh?
Cũng như Giáo hoàng tiền
nhiệm John Paul II mà
Mac Kher trong
www.nycny.com
đã gọi là một con
người đạo đức giả và cố
ý lừa dối tệ mạt nhất
(This is hypocrisy and
duplicity at its worst)
[vì ngày hôm trước
Giáo Hoàng nói về đối
thoại, sự hiểu biết, và
sự đoàn kết giữa các tôn
giáo. Ngày hôm sau, ông
ta nói ngược lại, nhấn
mạnh Ki-tô Giáo là tôn
giáo chân thật duy nhất,
và kêu gọi tín đồ đi cải
đạo Á Châu...], Joseph
Ratzinger, trong cuộc
phỏng vấn của Jean
Sévillia, tờ Le
Figaro, khi được hỏi là
những nhiệm vụ chính của
giáo hoàng triều tiếp
theo là gì (What will be
the great tasks of the
next pontificate?), đã
trả lời trong đó có
đoạn: “Và còn Hồi
Giáo và cả Phật Giáo
nữa, hai sự thách thức
lớn cho thế giới Tây
phương. Cần phải đi vào
cuộc đối thoại với họ,
tìm một con đường để
hiểu biết lẫn nhau mà
không mất đi ánh sáng
lớn đến với chúng ta từ
khuôn mặt của Giê-su Ki
Tô.” (And then
there are Islam and also
Buddhism, the two great
challenges for the
Western world. It is
necessary to set up a
dialogue with them, to
find a way of
understanding each other
without losing sight of
the great light that
comes to us from the
figure of Jesus Christ.)
Nói thì như vậy nhưng
hành động thực sự của
Ratzinger là gì? Hẳn
chúng ta còn nhớ trước
đây ông ta đã phê bình
Phật Giáo là “Con
đường Tâm Linh tự thỏa
dâm” (Buddhism is a
sort of auto-erotic
spirituality). Đây là
lời từ chính miệng ông
ta nói ra chứ không phải
là trích dẫn từ đâu.
Phê bình Phật Giáo bằng
loại ngôn từ hạ cấp như
trên có phải là đi vào
con đường đối thoại tôn
giáo hay không? Và
chúng ta không nên quên
là ngày 5 tháng 9, 2000,
Joseph Ratzinger, với sự
chấp thuận của John Paul
II, đã tung ra bản tuyên
ngôn “Dominus Jesus”
trong đó có hai điểm
trịch thượng đối với mọi
tôn giáo khác như sau:
1. “.. như là một
phương tiện đưa đến sự
cứu rỗi, những tôn giáo
phi-KiTô thiếu sót một
cách trầm trọng”
(..non-Christian
religions are gravely
deficient as a means of
salvation)
2. “Giáo hội Công
Giáo La Mã là phương
tiện duy nhất đem đến sự
cứu rỗi cho toàn thể
nhân loại” (The
Roman Catholic Church is
the only instrument for
the salvation of all
humanity)
Cũng
vì vậy mà Giáo sư Thần
học Công Giáo nổi tiếng
trên hoàn cầu, Hans
Kung, đã đưa ra một nhận
định về bản tuyên ngôn
“Dominus Jesus” là “một sự pha trộn của
tính chất lạc hậu thời
Trung Cổ và Tâm Lý Bệnh
Hoạn về Những Ảo Tưởng
Hão Huyền về Quyền Lực
hay Toàn Năng của
Vatican” (A mixture
of medieval backwardness
and Vatican
megalomania).
[Megalomania = A
psycho-pathological
condition in which
fantasies of wealth,
power or omnipotence
predominate]
Vatican đã nổi tiếng là
lời nói ít khi đi đôi
với việc làm, đó là
những tiếng nói “đối
thoại tôn giáo” hay
sao? Về đạo đức thì cả
thế giới đều biết là
Ratzinger đã giữ vai trò
chính trong việc dấu kín
và bao che các vụ linh
mục Công giáo loạn dâm.
Nhưng có lẽ động cơ
chính đằng sau hành động
của Benedict XVI là sự
suy thoái của Công Giáo
ở khắp nơi trên thế
giới, nhất là ở Âu
Châu. Ông ta đang cố
vớt vát lại niềm tin tôn
giáo đang chao đảo và
suy sụp ở mọi nơi và
theo dõi hành động của
ông gần đây chúng ta
thấy rõ như vậy. Trong
vụ “trích dẫn” này không
có mấy ai cho rằng thực
sự ông ấy chỉ muốn đối
thoại tôn giáo hay luận
về “đức tin và lý trí”.
Tờ
báo khá phổ cập tại
Israel Yedit
Aharonot ngày
17/09, trong bài “Họ
lo sợ” với hình ảnh
minh họa là tấm bản đồ
Âu châu được đánh dấu
những nơi tập trung
người Hồi giáo cư ngụ,
viết: “Vatican ngày
càng lo ngại trước sự
việc các nhà thờ công
giáo ở Tây Âu ngày càng
trống vắng, trong khi
các ngôi đền Hồi giáo
đầy giới trẻ. Rất nhiều
trong số đó đã chuyển từ
Công giáo qua Hồi giáo”.
Tờ Haarets đăng
bài bình luận với nhan
đề “Sai lầm chính
trị hay cố ý” không
loại trừ phát biểu của
Giáo Hoàng là tiếng nói
chung của giới công giáo
Vatican về sự bất an
trong đạo Hồi cũng như
mất niềm tin trong công
giáo.
Sự suy thoái của Ki Tô
Giáo ở Tây phương là một
sự kiện. Chính Giáo
Hoàng Benedict XVI cũng
phải thú nhận như vậy.
Theo những tin tức trên
báo chí trên thế giới và
cả trên tờ thông tin
chính thức của Vatican,
tờ L’Osservatore
Romano, vào những
ngày 27, 28 tháng 7,
2005, thì Giáo hoàng
Benedict XVI đã lên
tiếng phàn nàn như sau:
“Những tôn giáo chủ
đạo ở Tây Phương có vẻ
đang chết dần vì các xã
hội càng ngày càng trở
nên thế tục và không còn
cần đến Thiên Chúa nữa”
Và những thống kê mới
nhất cũng cho chúng ta
thấy tình trạng này.
Trong tờ Chicago
Tribune ngày 19
tháng 6, 2006, ký giả
hải ngoại của tờ báo,
Tom Hundley, có một bài
tường trình, đăng trên
trang nhất, về tình
trạng Ki Tô Giáo ở Âu
Châu với chủ đề “Đức
Tin Phai Nhạt: Sự Suy
Thoái Của Ki Tô Giáo ở
Âu Châu” (Fading
Faith: The Decline of
Christianity in Europe)
trong đó có những đoạn
như sau:
Ở
Pháp và ở hầu hết các
quốc gia khác ở Âu Châu,
Ki Tô Giáo có vẻ như
đang đi xuống không
phương cứu vãn
[Christianity appears to
be in a free fall: Tác
giả dùng từ trong khoa
học: “free fall”, có
nghĩa là rơi xuống tự
do, càng ngày càng
nhanh mà không có gì
ngăn cản lại]. Tuy
88% dân Pháp nhận mình
là tín đồ Công Giáo, chỉ
có 5% đi lễ nhà thờ ngày
chủ nhật, 60% nói rằng
họ “không bao giờ”
(never) hoặc “hầu
như không bao giờ”
(practically never) đi lễ nhà thờ
[Đối
với người Công Giáo Việt
Nam, không đi lễ nhà thờ
ngày chủ nhật là một
trọng tội, giáo hội dạy
vậy]. Không còn
phải bàn cãi gì nữa,
Công Giáo đang đối diện
với một cơn khủng khoảng
nghiêm trọng… Một lễ
ngày chủ nhật điển hình
trên khắp nước Pháp là
hình ảnh của một linh
mục già nua trước một
đám phụ nữ cũng già
nua. Odon Vallet, giáo
sư tôn giáo ở đại học
Sorbonne nói: “Lễ Mi-sa
thật là chán (Mass
is boring), lễ tiết
chẳng có gì hay
(the ceremony isn’t
beautiful), nhạc
cũng tệ (music is
bad), bài giảng
không có gì hấp dẫn
(the sermon is
uninteresting).
John Cornwell, một tín
đồ Công Giáo và cũng là
một chuyên gia về Công
Giáo và Vatican, tác giả
2 cuốn sách nổi tiếng về
Vatican: A Thief in
the Night và Hitler’s Pope, đã
viết thêm một tác phẩm
về Công Giáo nhan đề Từ Bỏ Đức Tin: Giáo
Hoàng, Giáo Dân, và Số
Phận của Công Giáo
(Breaking Faith: The
Pope, The People, and
The Fate of
Catholicism), xuất bản
năm 2001, trong đó
chương đầu viết về Một Thời Đại Đen Tối
Của Công Giáo
(A Catholic Dark Age).
Trong chương này, tác
giả John Cornwell đưa ra
tình trạng suy
thoái trầm trọng của
Công Giáo ở khắp nơi
trên thế giới, đặc biệt
là ở Anh, Mỹ, và Pháp
như sau:
-
Số tín đồ
mang con đi rửa tội giảm
sút, vì ngày nay
người ta nhận thức được
rằng chẳng làm gì có tội
ở đâu mà phải đi rửa;
-
đám cưới
tổ chức không cần đến
linh mục, vì hôn phối
có thể hợp thức hóa
ngoài nhà thờ và bí tích hôn phối đã mất
hết ý nghĩa;
-
giới trẻ
không buồn đến nhà thờ,
vì chẳng thấy gì
hấp dẫn trong những lời
giảng đi ngược thời gian
của các linh mục;
-
số từ bỏ
đức tin gia tăng, vì
người ta không
còn chịu chấp nhận một
đức tin mù quáng;
-
từ 1958 đến nay, số
vào nghề linh
mục giảm đi 2/3
v..v..
-
Tình
trạng ở Châu Âu, trước
đây là cái nôi của Công
giáo, thật là thê
thảm.
-
Ở Tây Âu
(Western Europe), từ 30
đến 50% các giáo
xứ không có linh mục.
-
Ở Ý, 90%
theo Công Giáo nhưng chỉ
có 25% đi lễ nhà thờ
ngày chủ nhật, giảm 10%
kể từ đầu thập niên
1980, số người
vào học trường Dòng giảm
một nửa.
-
Ở Ái Nhĩ
Lan (Ireland), xứ Công
giáo, số người cảm thấy
mình được ơn kêu gọi tụt
xuống từ 750 năm 1970
còn 91 năm 1999, số linh
mục được tấn phong từ
259 xuống 43 trong cùng
thời gian.
-
Trong một hội nghị
đặc biệt vào năm 1999,
các giám mục Âu
Châu tuyên bố rằng các
dân tộc trong toàn lục
địa Âu Châu đã quyết
định sống “như là Thiên
Chúa không hề hiện hữu”
-
Ở Nam Mỹ, tình trạng
cũng không khá hơn.
7000 tín đồ mới có một
linh mục. Chỉ có
15% giáo dân đi
xem lễ ngày chủ
nhật.
-
Theo một hội nghị
quốc gia của các giám
mục Ba Tây thì mỗi năm
có khoảng sáu trăm ngàn
(600,000) tín đồ bỏ
đạo.
Âu Châu và nhiều nơi
khác trên thế giới đã
trở thành “vô thần”.
Đây là một hiện tượng
bất khả đảo ngược [free
fall] vì nó phù hợp với
sự tiến bộ trí thức của
nhân loại nằm trong luật
Tiến Hóa của vũ trụ.
Năm
1990, linh mục David
Rice dòng Đa Minh xuất
bản cuốn Lời
Nguyện Tan Vỡ: Linh Mục
Bỏ Đạo
(Shattered Vows: Priests
Who Leave), đưa ra kết
quả nghiên cứu của ông
sau khi đi khắp nơi tổng
cộng 38 ngàn dặm (khoảng
60 ngàn cây số) để phỏng
vấn và tìm hiểu đời sống
của các linh mục bỏ đạo: Một
trăm ngàn ( 100,000 )
linh mục Công Giáo La Mã
đã bỏ đạo trong 20 năm
qua – cứ mỗi 2 giờ đồng
hồ lại có hơn một linh
mục ra đi.
Hầu như phân
nửa số linh mục Mỹ sẽ bỏ
đạo – thường là để lập
gia đình – chưa tới 25
năm sau khi được tấn
phong. Vatican không
nói tới cuộc di dân này,
nhưng đó chính là cuộc
khủng khoảng nghiêm
trọng nhất mà giáo hội
phải đối diện, kể từ khi
có cuộc Cải Cách Tin
Lành.
Chúng ta còn nhớ Giáo
Hoàng Benedict XVI cũng
đã lên tiếng lo sợ tình
trạng thiếu hụt Linh mục
trên khắp thế giới.
Ngài hi vọng tuyển mộ
được linh mục từ những
những nước đang phát
triển, dân trí còn thấp
kém nên rất dễ khuyến
dụ, nhưng Ngài cũng nhận
ra sự cay đắng trong kế
hoạch bù đắp này. Ngài
than phiền:
“Sự
vui mừng vì số linh mục
tăng gia trong thế giới
kém phát triển có kèm
theo một sự cay đắng vì
một số sẽ làm linh mục
chỉ muốn có một đời sống
tốt đẹp hơn”
(Benedict he said the
"joy" at the growing
numbers of clergy in the
developing world is
accompanied by "a
certain bitterness"
because some would-be
priests are only looking
for a better life.)
Phải chăng những mối lo
này mới chính là nguyên
nhân đưa đến hành động
“trích dẫn” về Muhammad
của Giáo hoàng Benedict
XVI? Nhưng dù với bất
cứ nguyên nhân nào thì
không ai có thể phủ nhận
là hành động có ý thức
hay vô ý thức này của
Giáo Hoàng cũng đã mang
lại những kết quả tiêu
cực không ai mong muốn
và rất khó cứu vãn.
Ngày nay, thế giới cần
những bậc lãnh đạo tôn
giáo khôn ngoan và lương
thiện hơn.
Các bài về tôn giáo cùng tác giả