heo
Wikipedia thì quan niệm
về “Thiên Chúa Của Những
Khoảng Trống” đối
chiếu những giải thích
tôn giáo [nên hiểu đây
là Ki Tô Giáo] về thiên
nhiên đối với những giải
thích của khoa học.
Đó là lập trường của
thần giáo rằng bất cứ
cái gì có thể giải thích
được bởi kiến thức nhân
loại thì không ở trong
lãnh vực của Thiên Chúa,
do đó vai trò của Thiên
Chúa nằm trong những
khoảng trống trong những
giải thích khoa học về
thiên nhiên..
"Thiên Chúa Của Những
Khoảng Trống” thường
được mô tả như là sự
thoái lui rõ ràng của
tôn giáo trước những
giải thích khoa học về
những hiện tượng thiên
nhiên càng ngày càng
sáng tỏ. Một thí dụ về
lý luận này dựa trên
những giải thích khi xưa
của tôn giáo về những
vật thể và biến cố (thí
dụ như mặt trời, mặt
trăng, và sao; sấm,
sét) được đặt trong
cảnh giới của các vật
kiểm soát bởi một Thần
hay nhiều Thần. Vì
khoa học đã tìm ra những
giải thích qua những
quan sát trong các lãnh
vực thiên văn, khí
tượng, địa chất, vũ trụ
và sinh học, sự cần
thiết về một Thiên Chúa
để giải thích các hiện
tượng càng ngày càng
giảm, chỉ chiếm chỗ
trong các khoảng trống
về kiến thức càng ngày
càng thu nhỏ hơn.
(Wikipedia: The
concept of the concept of the concept of the
God of the gaps
contrasts
religious
explanations of
nature
with those derived from
science
. It refers to the
theistic position that
anything that can be
explained by human
knowledge is not in the
domain of
God,
so the role of God is
therefore confined to
the 'gaps' in scientific
explanations of nature.
"God of the gaps" is
often used to describe
the perceived retreat of
religion in the face of
increasingly
comprehensive scientific
explanations of natural
phenomena.
An example of the line
of reasoning starts with
the position that early
religious descriptions
of objects and events
(such as the
Sun,
Moon,
and
stars;
thunder
and
lightning)
placed these in the
realm of things created
or controlled by a
god or gods.
As science found
explanations for
observations in the
realms of
astronomy,
meteorology,
geology,
cosmology
and
biology,
the 'need' for a god to
explain phenomena was
progressively reduced,
occupying smaller and
smaller 'gaps' in
knowledge.
)
Đề tài “God of the
gaps” là một đề tài khá
hấp dẫn. Cho nên trong
bài này, tôi xin viết sơ
lược về vài vấn đề liên
quan đến dề tài trên.đến dề tài trên.
Ngày nay, những người
trí thức Công Giáo đã
biết thân biết phận,
không dám lên tiếng
chống đối khoa học như
trước nữa, vì hai lý
do: Thứ nhất, chính
Giáo Hoàng John Paul II
của họ trước đây đã lên
tiếng trước thế giới,
công nhận thuyết Big
Bang là nguồn gốc của vũ
trụ, thuyết Tiến Hóa là
nguồn gốc của con người,
và thứ nhì, đối với họ
im lặng là vàng, vì càng
năng nổ chống đối khoa
học bao nhiêu thì càng
có nhiều tín đồ của họ
biết đến những sự thật
về những sự hoang đường
trong những tín lý phi
khoa học và phản khoa
học của giáo hội đưa ra
để tạo nên một đức tin
Công giáo không cần biết
không cần hiểu, điều mà
họ cố giấu kín được
chừng nào hay chừng ấy,
sợ rằng sự thật sẽ làm
cho đức tin Công Giáo
chao đảo. Xét lịch sử
tội ác của giáo hội Công
Giáo cùng chính sách
giam hãm đầu óc tín đồ
trong tăm tối, một danh
nhân trí thức đã từng
phát biểu: “Công Giáo
không sợ tội ác, chỉ sợ
sự thật”. sự thật”.
Đối với Tin Lành thì
có khác. Ngày nay,
những người chống đối
khoa học thường thuộc
phái bảo thủ Tin Lành ở
Mỹ và những tân tòng
Việt Nam như Lê Anh Huy,
Nguyễn Huệ Nhật, Huỳnh
Thiên Hồng v..v.. ở
ngoại quốc, và Trần
Long, Khuất Minh, Phan
Như Ngọc v..v.. ở trong
nước. Theo sách lược
chống đối khoa học, nhất
là thuyết Tiến Hóa của
Darwin, rất ấu trĩ của
một số tổ chức Tin Lành
nghiện Jesus, nhiều tiền
nhiều của nhiều thế lực
chính trị, các Tin Lành
tân tòng Việt Nam cũng
hùa theo chống đối một
cách không có đầu óc
thuyết Tiến Hóa trong
khi chính họ không hiểu
thuyết Tiến Hóa là gì.
Giáo sư Sinh Học William
Provine ở Đại học
Cornell đã mô tả sự
chống đối ngu xuẩn của
Tin Lành như sau: n Lành như sau:
“Bất cứ khi nào mà những
người thuộc phái “thiết
kế thông minh” tìm được
một điều mà các khoa học
gia chưa thể giải thích
được, họ đều la lên
“Thấy không!? Thấy
không!?” (Any time
the “intelligent
designers” find a
mystery that scientists
can’t yet explain, they
shout: “See!? See!?”).
Sự chống đối này hàm ý
nếu thấy điều gì khoa
học chưa giải thích
được, hay trong quá
trình tìm hiểu thuyết
Tiến Hóa có những khoảng
thời gian bất liên tục
về các dữ kiện đã thu
thập được về các di tích
đã hóa đá, thường được
biết dưới tên “khoảng
trống khoa học”
(scientific gaps) thì
Tin Lành vội vàng nhét
Thiên Chúa của họ vào
những khoảng trống đó
làm tác giả của những
điều khoa học chưa biết
hay chưa khám phá ra, và
lẽ dĩ nhiên chính họ
cũng không biết. Họ
không ý thức được rằng,
như Paul Davies, Giáo sư
Vật Lý, Đại học
Macquarie, Sydney, đã
phê bình: “Phải
viện tới Thiên Chúa
như là một quy tắc
bao quát để giải thích
những gì chưa giải thích
được là làm cho Thượng
đế là bạn hữu của sự ngu
dốt.” (To invoke
God as a blanket
explanation of the
unexplained is to make
God the friend of
ignorance.). Nói tóm
lại, mọi lý luận chống
đối khoa học, nhất là
thuyết Tiến Hóa, của Tin
Lành đều thuộc loại
“nhét Thiên Chúa vào
trong những khoảng trống
khoa học.” Thật vậy,
Andy Carmichael ở đại
học Wisconsin viết:
“Những lý luận của họ
đều thuộc loại “Thiên
Chúa của những khoảng
trống”, những lý luận đã
bị bác bỏ ít ra là cả
trăm năm nay rồi.”
(Their arguments fall
into the “God of the
Gaps” argument, which
has been refuted for at
least a hundred years.)
Những người Tin Lành
trên hẳn không ngờ được
là với thời gian, những
khoảng trống khoa học
càng ngày càng thu hẹp
dần dần, đến độ Thiên
Chúa mà những người Tin
Lành nhốt trong đó ngày
nay đã không còn chỗ để
mà cựa quậy. Thật vậy,
những khám phá của con
người về vũ trụ và thế
giới loài người của
chúng ta đã loại bỏ sự
hiện hữu của một Thiên
Chúa như được viết trong
Kinh Thánh của Ki-tô
Giáo, và tin vào một
Thiên Chúa không ai thấy
(invisible), không thể
hiểu được
(incomprehensible), và
dùng Thiên Chúa để “giải
thích” những điều con
người chưa giải thích
được là tin vào sự ngu
dốt, theo như nhận định
của giáo sư Vật Lý Paul
Davies ở trên. Nhưng
đây chính lại là niềm
tin của một số tín đồ
Ki-tô Giáo, đặc biệt là
Tin Lành, đang cố tìm
cách giải thích một số
thắc mắc khoa học chưa
kiểm chứng được bằng lý
luận ngớ ngẩn: “Thấy
không!? Thấy không!?”,
hàm ý những khoảng trống
khoa học chính là sự
“thiết kế thông minh”
của một đấng do đầu óc
con người bán khai tưởng
tượng ra mà họ gọi là
Thiên Chúa. Họ có vẻ như
cố ý quên rằng, trong
quá trình tiến bộ trí
thức của nhân loại, rất
nhiều điều thuộc loại
“Thấy không!? Thấy
không!?” trước đây đã
được giải đáp dần dần,
và cứ mỗi lần các khoa
học gia giải đáp được
một điều thắc mắc về vũ
trụ nhân sinh, thì quyền
năng “sáng tạo” của
Thiên Chúa của họ lại bị
thu hẹp một cách thê
thảm cùng với những
khoảng trống khoa học,
nhân loại lại có thể
tuyên bố “thấy rồi, thấy
rồi” và ra khỏi được một
điều mê tín của Ki-tô
Giáo, và dần dần Thiên
Chúa bị đẩy ra khỏi đầu
óc con người văn minh
tiến bộ. tiến bộ.
Đồng nhất hóa sự “ngu
dốt (ignorance) hay
“chưa biết” (not yet
known) của con người với
“thông minh của Thiên
Chúa” là việc phe bảo
thủ Tin Lành Mỹ và đám
tân tòng Việt đã làm và
hiện vẫn tiếp tục làm
từ những miền hẻo
lánh của thế giới,
theo Giám mục John
Shelby Spong. Những
người Tin Lành trên
thường tin rằng Thiên
Chúa của họ là bậc toàn
năng toàn trí, từ xưa
đến nay không hề thay
đổi, vì đã là Thiên
Chúa. Nhưng họ đang mơ
ngủ vì không thể ngờ
được rằng Thiên Chúa của
họ không nằm ngoài luật
vô thường của nhà Phật.
Thiên Chúa của họ trước
sau gì cũng phải qua 4
giai đoạn “thành, trụ,
hoại, diệt”, giai đoạn
“hoại” đang tiến triển
từng ngày ở Âu Châu, cái
nôi mà Thiên Chúa đã ngự
trị qua 17 thế kỷ. Đó
là đối với quảng đại
quần chúng, chứ đối với
các khoa học gia và giới
trí thức thì giai đoạn
“hoại” này đã bắt đầu từ
mấy thế kỷ nay rồi.
Chứng minh?
Ngày xửa ngày xưa,
trong dân gian có rất
nhiều thần (gods). Việt
Nam chúng ta có những
“thần sông”, “thần núi”,
“thần cây đa”, “thần
bình vôi” v..v.. Trung
Quốc thì có “Ngọc Hoàng
thượng đế”, Nhật Bản thì
có “Thái Dương thần nữ”,
Ấn Độ có không biết bao
nhiêu là thần v…v.. và
v…v… Trên thế giới của
con người có cả ngàn
thần khác nhau. Nữ học
giả Judith Hayes đã đặt
câu hỏi cho người Mỹ:
“Chúng ta tin ở God,
nhưng mà là God nào”
(In God We Trust, But
Which One?)
Khi các tôn giáo thờ
độc thần (monotheistic
religions), thường là
các “thần độc” (Cruel
God), xuất hiện trên dân
gian thì mỗi tôn giáo
đều gom tất cả các thần
lại thành một thần riêng
của họ, một thần duy
nhất của vũ trụ, toàn
năng, toàn trí, giống
như những tên lính bằng
plastic [tượng trưng cho
các thần] nóng chảy
thành một đống dưới ánh
sáng mặt trời chiếu qua
một kính lúp (like so
many plastic soldiers
melting into one lump
under a magnifying glass
on a sunny day). Trong
trường hợp của Do Thái –
Ki Tô Giáo, ông thần
này, hay đống plastic
này, có tên là Jehovah.
(In the case of
Judeo-Christianity, this
God is Jehovah). od is Jehovah).
Bất hạnh thay, cái
ông thần Jehovah này
càng ngày càng co nhỏ
lại để tồn tại trong
những khoảng trống của
khoa học càng ngày càng
thu hẹp. Thật vậy, năm
540, bệnh dịch phát khởi
ở Âu Châu làm chết
khoảng 10000 người mỗi
ngày. Dân chúng hoảng
sợ, kéo vào nhà thờ, tin
tưởng sẽ được Chúa cứu
cho khỏi chết. Giáo hội
giảng cho con chiên
rằng: rằng: “Bệnh
dịch là một thiên tai do
Thiên Chúa
[của Công Giáo]
gây ra
(an act of God)
và là sự trừng phạt
của Thiên Chúa về tội
quần chúng không theo
luật của Thiên Chúa,
không thờ phượng Thiên
Chúa”.
Nhưng khi con người khám
phá ra rằng bệnh dịch
hạch là do chuột gây ra
thì Thiên Chúa lòng lành
của Công Giáo vừa mất đi
vai trò sáng tạo, vừa
trở thành kẻ tiếm quyền
của đàn chuột [theo lời
giảng của Giáo hội], và
sự tiến hóa tư duy của
con người đã đưa đến
giải pháp: chỉ cần giữ
vệ sinh, tẩy trùng thì
bệnh dịch hạch sẽ tự
nhiên sẽ biến mất. Sự
thu hẹp của khoảng trống
y khoa này, hay nói khác
đi, sự tiến bộ của y
khoa đã vô hiệu hóa rất
nhiều bệnh tật mà theo
Ki Tô Giáo, Thiên Chúa
đã “sáng tạo” ra để
trừng phạt con người.
Khi xưa, “người ta”
đã từng giải thích cho
đám tín đồ ở dưới, sấm
sét là những cơn thịnh
nộ của Thiên Chúa và con
người cũng đã có thời
cúi đầu cầu nguyện trước
các hiện tượng thiên
nhiên này. Nhưng có một
hiện tượng kỳ lạ ở Âu
Châu và các nước theo Ki
Tô Giáo, các nhà thờ của
Ki Tô Giáo lại thường bị
sét, trong cơn thịnh nộ
của Thiên Chúa, giáng
xuống. Tại sao? Vì cấu
trúc cao nghệu của các
nhà thờ với cây thánh
giá bằng kim loại nằm
trên nóc rất hấp dẫn, có
nhiều khả năng quyến rũ
cơn thịnh nộ của Thiên
Chúa. Nhưng khi cụ
Benjamin Franklin khám
phá ra cột thu lôi, và
các nhà thờ đều trang bị
thêm một cột thu lôi
ngoài cây thánh giá, thì
mỗi lần cơn thịnh nộ của
Thiên Chúa giáng xuống
lại tự động theo cột thu
lôi chui xuống nằm ngủ
yên dưới đất. Có phải là
chuyện đáng cười không
khi mà ngày nay, mọi nhà
thờ đều mua bảo hiểm để
đề phòng những “hành
động của Thiên Chúa”
(Acts of God). Khoa học
đã giải thích được nguồn
gốc của sấm sét và ngày
nay, những cơn thịnh nộ
như vậy của Thượng đế
chỉ có thể làm cho chó,
mèo cúp đuôi chạy trốn,
chứ con người thì bình
thản ngồi trong nhà làm
những việc mà Thiên Chúa
không muốn họ làm, hay
không muốn nhìn.không muốn nhìn.
Trong thời đại ngày
nay, khoa học có thể
giải thích được hầu hết
mọi sự trên thế gian,
nhất là về vũ trụ học,
địa chất học và sinh học
(cosmology, geology and
biology). Thiên Chúa,
đã một thời được coi như
là đấng sáng tạo ra
trăng, sao treo trên một
vòm trời bằng đồng thau
trên đó có những cánh
cửa để cho các thiên
thần mở ra làm mưa,
tuyết rơi xuống, là tác
giả của một mặt trời
quay xung quanh trái
đất, tạo ra ngôi sao dẫn
đường cho mấy nhà thông
thái từ miền Đông cưỡi
lạc đà đến hầu Chúa con
v..v..., đã không còn
chỗ nấp trong cái vũ trụ
chính ngài sáng tạo ra,
chỉ vì sự tiến bộ của
khoa vũ trụ học, bắt đầu
từ khi cái viễn vọng
kính được phát minh ra.
Để che dấu con đường tẩu
thoát của mình, Thiên
Chúa đã tạo ra những núi
lửa, phun khói độc mù
mịt che mắt thế gian,
hoặc ẩn mình đàng sau
những lớp sóng thần
(tsunamis), hoặc trốn
trong những khe nứt do
động đất gây ra, hoặc
thu mình nhỏ như những
con vi-rút để không ai
nhìn thấy được v..v… thấy được v..v…
Về sinh học, kể từ
khi có thuyết Tiến Hóa
rồi sau đó những tiến bộ
trong nhiều bộ môn,
những dấu tích trong
những sinh vật hóa đá
qua các thời đại, sự
khám phá ra DNA, ra bộ
gen (genome), Thiên Chúa
không còn khả năng hướng
dẫn mỗi tinh trùng đến
cái trứng của phụ nữ mà
Thiên Chúa đã chọn,
không còn khả năng để
kiểm soát sự biến dịch
của các gene trong sự
tiến hóa v..v… Mỗi năm,
các khoa học gia đã viết
ra hơn một triệu bốn
trăm ngàn bài nghiên cứu
hoặc để làm chất liệu
mới cho thuyết Tiến Hóa
hoặc dựa vào thuyết Tiến
Hóa để đưa ra những khám
phá mới quan trọng hơn
[Michael Cox, Professor
of Biochemistry,
UW-Madison: -Madison: The
reality is this: the
peer-reviewed scientific
literature generate
approximately 1.4
million papers every
year, with many of them
either providing new
substance to the theory
of evolution or relying
on that theory to
provide the context for
mor important new
discoveries] Nói
tóm lại, ngày nay, Thiên
Chúa không còn việc gì
làm, ngoài việc ngồi đó
mà quan sát cái thế giới
đầy thiên tai, bệnh tật
do chính mình tạo ra, và
phải nhờ cậy đến các
khoa học gia giải quyết
những việc mà chính
Thiên Chúa không giải
quyết nổi, và lẽ dĩ
nhiên mỗi năm đều ngong
ngóng đến ngày Lễ Tạ Ơn
để cho đám tín đồ giết
mỗi năm khoảng 45 triệu
con gà tây để vừa nhai
gà tây vừa tạ ơn.
Như Tề Thiên Đại
Thánh khi xưa nằm co
mình dưới núi chờ ngày
giải thoát, thì ngày nay
Thiên Chúa đang thu mình
trong những khoảng trống
khoa học càng ngày càng
thu hẹp dần, hay nói
khác đi đang nằm không
thể cựa quậy được dưới
một núi những bằng chứng
khoa học, và rất có thể
một ngày đẹp trời nào
đó, sẽ được một Đường
Tăng hiện đại giải thoát
ra khỏi vòng vô minh,
kiêu căng cố hữu, và do
đó những người đã từng
tin nhảm tin nhí vào một
Thiên Chúa toàn năng
toàn trí cũng được giải
thoát theo. oát theo. oát theo.
Các bài về tôn giáo cùng tác giả