T hỉnh
thoảng tôi vẫn ghé vào các trang nhà Công Giáo như
tiengnoigiaodan.net hay
conggiaovietnam.net để đọc xem các “bạn ta” viết những gì về
chính tôn giáo của họ, do đó có thể biết về trình độ trí thức của
những người trí thức Công Giáo đã tiến bộ tới mức nào. Thật đáng
buồn, có vẻ như kiến thức của một số linh mục về đạo hầu như ngưng
đọng ở vài thế kỷ trước. Trước đây tôi đã phê bình bài “Linh Mục
Là Ai?” của Linh Mục Giuse Vũ Đức trên
tiengnoigiaodan.net, trong đó LM tự tôn là “Chúa Thứ Hai”, và
bây giờ tôi lại phải phê bình Linh Mục Joseph Cao Phương Kỷ qua bài
“Lời Truyền Phép Thánh Thể” của ông trên
conggiaovietnam.net, trong đó LM viết về phép lạ “biến một mẩu
bánh thành thân thể thực của Giê-su”, và “rượu nho thành máu của
Giê-su”, sau vài lời lẩm bẩm bằng tiếng La-Tinh của một ông linh mục
đại khái như Cao Phương Kỷ.
Chắc có
người sẽ hỏi rằng: Chuyện đạo của người ta, người ta tin sao thì
mặc người ta, việc gì mà xía vào? Xin lỗi nhé, nhưng đây là vấn đề
học thuật rất phổ cập trong mọi bộ môn kiến thức, kể cả kiến thức
tôn giáo. Thời đại này chúng ta không được phép dung dưỡng những
thủ đoạn mê hoặc con người bằng những luận điệu hoang đường mê tín
không còn phù hợp với sự hiểu biết của con người ngày nay. Tôn giáo
là một mặt của xã hội, nằm trong xã hội, có ảnh hưởng đến xã hội, do
đó không thể có quyền độc lập, muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì
làm, nhất là trên một diễn đàn truyền thông công cộng. Hơn nữa,
trong bài viết mà chủ đề là “Lời Truyền Phép Thánh Thể”, một
“bí tích” đặc thù của Công Giáo mà Linh Mục Cao Phương Kỷ lại gài
vào vài câu lạc lõng về Đức Phật và có ý hạ thấp Đức Phật xuống hàng
trần thế như các hồng y, tổng giám mục của Công Giáo, không sánh
được với Chúa của ông ấy là hàng ở trên trời, cho nên tôi tưởng cũng
nên bày tỏ vài ý kiến để vấn đề được sáng tỏ, rộng đường dư luận.
Trong
bài của Linh mục Cao Phương Kỷ, ông ta đã mang câu “Gần Chùa gọi
Bụt bằng Anh” để dạy giáo dân, cảnh cáo họ không được bắt chước
thái độ vô lễ, đùa giỡn đối với các bậc thần thánh như vậy đối với
“Chúa” của ông ấy, và đưa ra lời viết rất khó đọc của Linh Mục Đan
Minh là phải gọi Giêsu là “Chúa Giê-su” chứ không được gọi là,
nguyên văn: “Đức Giêsu”, giống các nhân vật trần thế như Đức
Phật, Đức Đạt Lai Lạt Ma, Đức Mahomet, Đức Giáo Hoàng, Đức Hồng Y,
Đức Khâm Sứ, Đức Giám Mục và Đức Ông.”, cho nên tôi muốn khai
sáng Linh Mục Cao Phương Kỷ cũng như Linh Mục Đan Minh về bốn chủ đề
sau đây: 1) Câu “Gần Chùa gọi Bụt bằng Anh” ; 2) Hai từ
“Đức” và “Chúa”; 3) “Chúa Giêsu” có thực là Chúa không?; và 4) Phép
Thánh Thể là cái gì?
1) Bất
kể câu “Gần Chùa gọi Bụt bằng Anh” trong dân gian có một ý
nghĩa nào khác, câu này dù hiểu theo nghĩa đen thì tuyệt đối cũng
không có gì là vô lễ, hay đùa giỡn với bậc thánh thần. Tâm cảnh của
một tín đồ sợ Chúa (God-fearing) và tuyệt đối tuân phục (absolute
obedience) giáo hoàng và các bề trên thì có thể cho rằng nói một câu
tương tự như vậy với Chúa là vô lễ, là đùa giỡn với bậc thánh thần,
và rất có thể bị Chúa phạt, đầy xuống hỏa ngục. Nhưng trong Phật
Giáo, Đức Phật không phải là thánh thần, mà đơn giản chỉ là người
tỉnh thức. Đó là ý nghĩa của chữ Bụt, Buddha. Bụt dạy: “Nhất
thiết chúng sinh giai hữu Phật tính” cho nên mọi người, Phật và
chúng sinh, đều bình đẳng. Vấn đề chỉ là đã tỉnh thức hay chưa. Do
đó gọi Bụt bằng Anh không có gì là xúc phạm, nhất là đối với Phật
thì bất cứ gọi Phật bằng gì, Phật cũng không chấp, không vui, không
buồn, không mừng, không giận, và tất nhiên không thưởng, không
phạt. Không như Chúa Giê-su đầy tính sân hận như được viết trong
Thánh Kinh [có cần tôi trích dẫn Tân ước để chứng minh không?], Phật
đã vượt ra ngoài cảnh giới của thất tình, lục dục. Thiền sư Nhất
Hạnh cũng đã viết để mà chơi một câu cho vui: Phật và Giê-su là hai
anh em. Tất nhiên, Giêsu sinh sau đẻ muộn nên phải coi Phật như
Anh. Mặt khác, câu “Gần Chùa gọi Bụt bằng Anh”, dù hiểu theo
nghĩa đen, đối với Phật Giáo cũng không có vấn đề, vì Phật Giáo chú
trọng đến cái tâm ở trong chứ không quan tâm đến những danh xưng hời
hợt không thực bên ngoài. Nếu chúng ta đã đọc những Công Án Thiền
thì chúng ta còn thấy các Tổ đã gọi Phật bằng nhiều danh từ khác,
sốc hơn danh từ “Anh” nhiều. Nhưng điều này không có nghĩa là các
Tổ không kính Phật, chẳng qua chỉ là các Ngài không câu chấp vào văn
tự, xử dụng chúng tùy duyên, tùy cảnh, và tùy người đối thoại, với
mục đích thức tỉnh con người mà thôi.
2) Linh
mục Đan Minh cho rằng phải gọi Giêsu là “Chúa” để phân biệt với danh
xưng “Đức” để gọi những người trần thế như Đức Phật, Hồng Y, Tổng
Giám Mục v..v... Nhưng viết như vậy là linh mục Đan Minh có vẻ hơi
đần, không hiểu rõ tiếng Việt và tự lấy gập đập lưng mình. Tại sao?
Trước
hết, từ “Đức” là tiếng thường để tôn xưng những bậc đáng tôn kính,
nhưng không phải là mọi “Đức” đều như nhau. Người Việt gọi Đức
Phật, Đức Thánh Trần nhưng không có nghĩa là Đức Phật cũng như Đức
Thánh Trần. Người Công Giáo lạm dụng danh từ “Đức” để tôn xưng các
giáo hoàng, hồng y, tổng giám mục v..v.. của họ. Họ chỉ gọi như vậy
trong đạo với nhau chứ người ngoài chẳng có ai dùng đến những từ vô
nghĩa như Đức Thánh Cha hay Đức Tổng Giám Mục, vì người ngoại đạo
biết rằng trong lịch sử Công giáo không thiếu gì những giáo hoàng,
hồng y thiếu đạo đức, tàn bạo, giết người [Xin đọc “Vicars of
Christ” của Peter de Rosa hay “The Bad Popes” của E. R.
Chamberlain]. Người Công Giáo cũng thường gọi các linh mục là “Đức
Cha”. Nhưng đối với 4392 linh mục can tội loạn dâm, một số cưỡng
bách tình dục một số “sơ” trong 23 quốc gia, có khi bắt họ đi phá
thai, và với những linh mục đã làm chủ trại giam, cắt cổ người Chính
Thống ở Croatia v..v… thì chữ “Đức” có ý nghĩa gì? Riêng ở Việt Nam
thì có “Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục” thuộc dòng họ ba đời làm
Việt Gian, có “Đức Giám Mục Nguyễn Bá Tòng” cúi đầu nhận Bắc Đẩu Bội
Tinh của Thực dân Pháp và đọc diễn văn “tỏ lòng trung thành của con
dân Việt Nam đối với Mẫu Quốc” [Xin đọc Hội Hè Đình Đám của
Toan Ánh], có Đức Cha Trần Lục dẫn 5000 giáo dân đi giúp Thực dân
Pháp để triệt hạ trung tâm kháng chiến Ba Đình [Xin đọc Thập Giá
Vá Lưỡi Gươm của Linh mục Trần Tam Tĩnh]… Những cái “Đức” này
chỉ có “giá trị” đặc biệt trong Công Giáo với nhau mà thôi, còn đối
với tuyệt đại đa số người dân Việt thì cái “Đức” đó không có nghĩa
của “Đức” mà chúng ta thường hiểu, mà chỉ là sự lạm dụng từ ngữ một
cách huênh hoang không mấy lương thiện.
Còn từ
“Chúa”, thường để chỉ một đầu đàn, một đầu đảng, hay đứng đầu một
vùng. Chúng ta có những cụm từ như “Con Ong Chúa”, “Chúa đảng
Mafia” , “Chúa Trùm”, “Chúa Chổm” “Thằng đó Chúa là hay làm bậy”
v..v.. Nếu chấp vào văn tự để phân biệt “Chúa” với “Đức” thì “Chúa
Giêsu” cũng chẳng khác gì “Chúa Trịnh”, “Chúa Nguyễn” của Việt Nam
mà thôi, vì Giê-su cũng là tên người như Trịnh, Nguyễn. Nếu “Chúa”
hàm ý là “Chúa trời”, nghĩa là “ông Trời” của người Việt Nam như các
linh mục Trần Cao Tường và Cao Phương Kỷ v..v.. đã viết trước đây,
thì “Chúa Trời” chẳng qua cũng chỉ là cháu của Con Cóc (Con Cóc là
cậu ông Trời). Cậu của Chúa Trời là con Cóc thì Chị của con Cóc tất
nhiên cũng phải là con Cóc. Mà Chị của con Cóc là ai, chắc các linh
mục Cao Phương Kỷ và Đan Minh phải biết rõ hơn ai hết. Mặt khác,
“Chúa Trời” cũng chỉ đáng học trò “Đức Phật” vì một trong 10 danh
hiệu của Đức Phật là “Thiên Nhân Sư”, nghĩa là Thầy của những vị ở
trên Trời và Người ở dưới đất. Nên nhớ, danh hiệu này là do người
đời tôn xưng Đức Phật chứ chẳng phải Đức Phật tự nhận, giống như
Giê-su tự nhận là Con Thiên Chúa. Vậy “Chúa” của Công Giáo nhiều khi
không thể so sánh với “Đức” của trần thế, khoan nói đến chuyện hơn.
Chứng minh?
a)
Về vấn đề đạo đức và trí tuệ của Giê-su thì không một người nào
trong giới trí thức không biết đến nhận định của Bertrand Russell,
một triết gia và khoa học gia nổi tiếng trên thế giới trong thế kỷ
20, với hai giải Nobel:
Riêng
tôi, tôi thấy trong cả hai lãnh vực trí tuệ và đạo đức,
“Chúa” KiTô không thể đứng ngang hàng với những vĩ
nhân khác của lịch sử. Tôi cho “Đức” Phật Thích Ca Mâu Ni và
Socrate đứng cao hơn Ngài trong hai lãnh vực này.
1
b) Không phải chỉ có mình Bertrand Russell nhận định như trên
mà giám mục John Shelby Spong cũng đưa ra một nhận định tương tự như
sau:
Có những đoạn trong 4 Phúc Âm mô tả “Chúa” Giê-su ở Nazareth như là
một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.
2
c)
Về “Chúa Giê-su” chúng ta có thể đọc thêm một đoạn của Robert G.
Ingersoll viết cách đây đã trên một thế kỷ. Robert G. Ingersoll là
một nhân vật rất đặc biệt trong lịch sử Hoa Kỳ. Ông ta mang cấp bậc
Đại Tá trong cuộc nội chiến, và sau đó làm Chưởng Lý (Attorney
General), bang Illinois. Ingersoll là một nhà tư tưởng tự do
(freethinker) vĩ đại nhất của nước Mỹ, là chiến sĩ tiền phong trong
chủ trương giải phóng đầu óc con người khỏi những cùm xích của vô
minh và mê tín Ki Tô Giáo (free men’s minds from the shackles of
ignorance and Christian superstition), dấn thân vào công cuộc giải
hoặc Ki Tô ngay từ cuối thế kỷ 19, khi mà các nhà lãnh đạo Ki Tô
Giáo còn nhiều quyền thế. Ngày nay, tượng kỷ niệm vinh danh
Ingersoll hiện còn ở Periora, Illinois. Chỉ cần vào Google, đánh chữ
Robert G. Ingersoll là chúng ta có thể thấy tất cả những gì chúng ta
muốn biết về ông ta.
Trong nhiều thế kỷ,
cái tên nhà quê ở Palestine này (Giê-su) đã được người ta thờ phụng
như là “Chúa”.
Hàng triệu người đã hiến thân để phục vụ hắn. Của cải thế gian được
đổ vào những đền thờ hắn. Đúng là có tất cả những điều trên, và
nếu đó là tất cả thì đẹp đẽ biết bao, cảm động biết bao, và vinh
quang biết bao. Nhưng đó không phải là tất cả. Nó còn một mặt
khác.
Nhân danh hắn hàng triệu nam nữ đã bị tù đầy, tra tấn và giết hại,
hàng triệu người đã bị làm nô lệ. Nhân danh
hắn những tư tưởng gia, khảo cứu gia, bị coi như là những kẻ tội
phạm, và những tín đồ theo hắn đã làm đổ máu của những người thông
thái nhất, giỏi nhất.
Nhân
danh hắn sự tiến bộ của nhiều quốc gia bị chặn đứng cả ngàn năm.
Trong Kinh hắn giảng chúng ta thấy cái tín lý về sự đau đớn vĩnh
viễn (đọa hỏa ngục. TCN), và những lời của hắn đã gia thêm sự
kinh khủng vô tận vào sự chết.
Kinh hắn
giảng chất đầy thế giới với thù hận và trả thù, coi sự lương thiện
trí thức như một tội ác,
hạnh phúc trên cõi đời là con đường dẫn xuống địa ngục, tố cáo tình
thương yêu như là thấp hèn và như súc vật,
thánh
hóa sự nhẹ dạ cả tin, tôn vinh sự mù quáng và tiêu diệt tự do của
con người. Nhân loại sẽ tốt hơn nhiều nếu cuốn
Tân Ước chưa từng được viết ra - Chúa Ki Tô theo quan niệm thần học
cũng chưa từng được sinh ra."
Nếu những người viết Tân Ước được coi như không phải là
do Thiên Chúa linh cảm, nếu Giê-su chỉ được coi như là một người
thường, nếu những điều tốt đẹp được thu nhận và vứt bỏ đi những điều
vô nghĩa, không thể xảy ra, sự trả thù, thì nhân loại sẽ tránh được
chiến tranh, những sự tra tấn, máy chém, ngục tối, sự đau khổ cùng
cực và nước mắt, những tội ác và đau khổ trong một ngàn năm.
Trước hết Giê-su là một con người - không gì hơn một con
người. Mary là mẹ ông ta. Joseph là cha ông ta. Gia phả của cha
ông ta, Joseph, được viết để chứng tỏ rằng thuộc dòng dõi David.
Rồi
người ta tuyên bố rằng Giê-su là con của Thượng Đế, rằng mẹ ông ta
là một nữ trinh và tiếp tục đồng trinh cho đến khi chết.
Người
ta tuyên bố rằng Giê-su sống lại và thân thể bay lên trời.
Phải mất rất nhiều năm những điều vô nghĩa này mới cấy được vào đầu
óc con người.
Nếu
thực sự ông ta thăng thiên, tại sao ông ta không làm việc này trước
công chúng, trước những người đã bạo hành ông?
Tại sao
cái phép lạ vĩ đại nhất trong các phép lạ này lại phải thực hiện
trong bí mật, trong một xó xỉnh?...
Nhưng
sau cùng, khi đối diện thần chết, Giê-su mới nhận ra là mình sai lầm
và than khóc: "Chúa ơi! Chúa ơi! Sao Ngài lại ruồng bỏ tôi?"
Tại sao chúng ta phải đặt Giê-su lên tột đỉnh của nhân loại? Ông ta
có từ ái hơn, dễ tha thứ hơn, hay hi sinh bản thân hơn Đức Phật hay
không? Ông ta có thông thái hơn, đối diện với cái chết một cách
bình tĩnh toàn hảo hơn là Socrates không? Ông ta có kiên nhẫn, nhân
từ hơn là Epictetus không? Ông ta có là một triết gia lớn hơn, một
tư tưởng gia sâu sắc hơn là Epicurus hay không? Về phương diện nào
ông ta đứng trên Zoroaster? Ông ta có hòa ái hơn Lão Tử hay phổ
quát hơn Khổng tử không? Những ý tưởng về nhân quyền và bổn phận con
người của ông có cao hơn của Zeno không? Ông ta có đưa ra những
chân lý cao hơn của Cicero không? Đầu óc ông ta có tinh tế hơn
Spinoza không? Đầu óc ông ta có sánh bằng đầu óc của Kepler và
Newton không? Trong sự thông minh, trong cách diễn đạt, trong sự
sâu rộng của tư tưởng, trong sự phong phú của cách minh họa, trong
khả năng so sánh, trong sự hiểu biết về tâm trí, sự đam mê và sợ hãi
của con người, ông ta có hơn được Shakespeare không?
Nếu
Giê-su thực sự là Thiên Chúa, ông ta phải biết mọi việc trong tương
lai. Ông ta phải thấy rõ lịch sử sẽ xảy ra. Ông ta phải biết người
ta sẽ diễn giải những lời ông nói như thế nào. Ông ta phải biết
những tội ác nào, những sự khủng khiếp nào, những sự ô nhục nào mà
người ta sẽ phạm phải nhân danh ông. Ông ta phải biết đến
những ngọn lửa bạo hành bốc lên xung quanh chân tay những kẻ bị
thiêu sống vì không có cùng niềm tin như những tín đồ Ki Tô Giáo.
Ông ta phải biết đến hàng ngàn người, đàn ông cũng như đàn bà, đau
đớn mòn mỏi trong ngục tù tối tăm. Ông ta phải
biết cái giáo hội của ông ta sẽ phát minh ra những dụng cụ tra tấn;
những tín đồ của ông sẽ dùng đến roi vọt và bó củi, xiềng xích và
giá căng (banh) người. Ông ta phải thấy chân trời tương lai sáng
rực với những ngọn lửa thiêu sống con người trong những cuộc lễ
“auto da fe”. Ông ta phải biết những tín lý, giáo điều sẽ mọc lên
như nấm độc trong mọi cuốn sách bổn của giáo hội. Ông ta phải thấy
những phe phái Ki Tô ngu đần gây chiến với nhau. Ông ta phải thấy
hàng ngàn con người, theo lệnh của các linh mục, xây những nhà tù
cho đồng loại. Ông ta phải thấy hàng ngàn máy chém đẫm máu của
những người tốt nhất và dũng cảm nhất. Ông ta phải thấy những tín
đồ của ông ta sử dụng những dụng cụ tra tấn gây đau đớn cho con
người. Ông ta phải biết những diễn giảng về lời ông nói sẽ được
viết bằng gươm giáo, và đọc trong ánh sáng của những bó củi thiêu
sống người. Ông ta phải biết những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo sẽ được
thiết lập theo những lời giảng dạy của ông.
Ông
ta phải thấy những sự ngụy tạo và suy diễn lệch lạc mà những kẻ đạo
đức giả viết ra và nói cho quần chúng. Ông ta phải thấy những cuộc
chiến tranh sẽ được gây ra, và ông ta phải biết là trên những cánh
đồng chết chóc đó, những ngục tù tăm tối đó, những giá căng người
đó, những cuộc thiêu sống người đó, những cuộc hành quyết đó, trong
cả ngàn năm, ngọn cờ của cây thập giá đẫm máu đã tung bay.
Ông
ta phải biết người ta sẽ khoác áo thánh thiện và đội vương miện cho
sự đạo đức giả - sự độc ác và nhẹ dạ cả tin sẽ ngự trị thế giới;
phải biết sự tự do của con người sẽ mai một trên thế giới (dưới
quyền lực của giáo hội);
phải
biết rằng nhân danh ông các giáo hoàng và vua chúa sẽ nô lệ hóa hồn
xác con người; phải biết rằng họ sẽ bạo hành và tiêu diệt mọi nhà
khảo cứu, nhà tư tưởng và nhà phát minh; phải biết là giáo hội của
ông ta sẽ dập tắt ánh sáng thánh thiện của lý trí và giữ thế giới
trong tăm tối.
Ông ta phải thấy những người theo ông sẽ chọc mù mắt con người,
róc thịt, cắt lưỡi họ, tìm những chỗ nào đau đớn nhất trên thân thể
con người để mà hành hạ.
Tuy nhiên ông ta đã chết đi với bờ môi khép kín.
Tại sao ông ta không nói lên, không dạy các tông đồ và xuyên
qua họ, dạy thế giới: "Các ngươi không được thiêu sống, tù đầy và
tra tấn con người nhân danh ta. Các ngươi không được bạo hành đồng
loại.
Tại sao ông ta đi đến cõi chết một cách ngu đần, để lại thế giới cho
sự đau khổ và nghi ngờ?
Tôi sẽ nói cho các
người biết.
Vì
Giê-su chỉ là một người thường, ông ta chẳng biết gì đến những điều
trên.
3
Ai
có thể phản bác được Ingersoll, xin mời lên tiếng. Lẽ dĩ nhiên,
không ai cấm LM Cao Phương Kỷ, Đan Minh và bất cứ tín đồ Công Giáo
nào gọi một Giêsu như vậy là Chúa, vì đó là quyền tự do cá nhân.
Nhưng trong vấn đề học thuật, Giêsu có phải là Chúa hay không thì đó
lại là chuyện khác. Sau đây là vài tài liệu nghiên cứu về “Chúa
Giê-su” của một số lãnh đạo Ki Tô Giáo và học giả Âu Mỹ trong vòng
200 năm gần đây.
i)
Trước hết, chúng ta có thể đọc trong cuốn Sự Thật Về Phúc Âm
của Russell Shorto, một học giả đã nghiên cứu và duyệt qua những
công cuộc nghiên cứu về nhân vật Giê-su trong hai thế kỷ 19 và 20,
những đoạn như sau:
Bữa ăn chiều cuối cùng, Sinh ra từ một trinh nữ, chết rồi sống
lại: những niềm tin chính của Ki Tô Giáo đang bị thử thách từng
điểm một. Các học giả chuyên nghiên cứu Thánh Kinh – một
thời đã là những người gìn giữ nền Thần học Ki Tô – ngày nay đang
dùng khoa khảo cổ, cổ sinh vật học, ngữ học, khoa học điện toán, và
ngay cả khoa vật lý các hạt nhỏ, để tìm hiểu vấn đề “Giê-su là ai?”
Kết quả là một sự duyệt lại tận gốc rễ Phúc âm và chuyện
trong Phúc âm nay đã trở nên thật là rõ ràng nhưng lại làm cho một
số người choáng váng bàng hoàng.
Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày
nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội
Ca-Tô bảo thủ cho phép nghiên cứu (như LM John Meier. TCN),
cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về
Giê-su chỉ là huyền thoại.
...Công cuộc nghiên cứu của Hội Nghiên Cứu Giê-su, và của tất cả
những nhà nghiên cứu Thánh Kinh ngày nay, biểu thị cho một sự chuyển
hướng của các học giả chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh về tiêu chuẩn
lương thiện văn hóa, lánh xa sự độc đoán của giáo hội. Theo Funk
(chủ tịch Hội Nghiên Cứu Giê-su. TCN),
các học
giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay –
rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo
tưởng
(ảo tưởng tin rằng mình chính là con của Thần Do Thái và là đấng
cứu tinh của dân Do Thái. TCN) –
họ đã
dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những
vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những
phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn
sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.
4
ii)
Uta Ranke-Heinemann, người phụ nữ đầu tiên chiếm được ngôi vị Giáo
sư Thần học Công giáo (A Chair in Catholic Theology), viết trong
phần dẫn nhập của cuốn Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con
(Putting Away Childish Things) như sau:
Chúng
ta vấp phải sự thực sau đây về nhân vật Giê-su.
Chúng ta
không biết khi nào ông ta sinh ra và ở đâu cũng như khi nào ông ta
chết. Ông ta là một người không có một tiểu sử.
Chúng ta không biết những hoạt động của ông như là một thầy giảng
trước quần chúng thật sự đúng là ở đâu và kéo dài bao lâu. Nói cho
thật đúng, chúng ta chẳng biết gì nhiều hơn là ông ta đã sinh ra
đời, có người theo ông ta làm môn đồ, và ông ta bị hành quyết trên
giá hình chữ thập – loại hình phạt của La Mã – và như vậy có một kết
cục xấu số...
Ông Giê-su này không chỉ nằm sâu dưới đất ở Jerusalem
(nghĩa là thực ra đã chết và chôn ở Jerusalem. TCN)
mà còn ở dưới một núi những nghệ thuật tồi tệ, chuyện hoang đường,
và cách diễn giải của giáo hội.
5
iii)
Học giả Andrew Harvey viết trong cuốn Con Của Người (Son of
Man):
Không
còn nghi ngờ gì nữa, sự phân tích lịch sử đã chứng tỏ là các phúc
âm không phải là những điều do Thiên Chúa linh cảm hoặc là những
điều trung thực do nhân chứng kể lại về cuộc đời của Giê-su, mà là
những câu chuyện đã được gọt dũa cẩn thận, được xếp đặt để cho phù
hợp với, hoặc cổ xúy những sở thích tôn giáo, nhân cách, nhóm người
khác nhau trong những năm đầu đầy xúc động của Ki Tô Giáo.
Những phúc âm không phải là những tài liệu viết ra theo sự mạc khải
trực tiếp của Thần thánh, hoặc những ghi chứng lịch sử rõ ràng;
chúng không phải là những điều mạc khải trực tiếp của Thiên Chúa
hoặc là những chuyện do những nhân chứng, những người biết rõ
Giê-su, muốn kể lại rõ ràng những kinh nghiệm của họ đối với Giê-su.
Được viết vào cuối thế kỷ đầu, chúng biểu thị và cô đọng những
truyền thống trong những cộng đồng Ki Tô đầu tiên và từ từ biến đổi
trong khoảng 300 năm để thành những phúc âm ngày nay chúng ta có.
6
iv)
Giám mục John Shelby Spong viết trong cuốn Sinh Ra Từ Một Người
Đàn Bà: Một Giám Mục Nghĩ Lại Về Sự Sinh Ra Của Giê-su,
trang 35:
Giê-su được diễn giảng bởi những tín đồ Ki Tô lúc đầu theo những
quan niệm về Thần Ki Tô mà họ tin tuyệt đối, dựa theo hình ảnh của
một ông vua trên trời. Điểm chủ yếu là hình ảnh Giê-su
ngồi bên phải của cái ngai Chúa Cha ngồi trên trời. Hình ảnh này
phản ánh niềm tin huyền thoại phổ thông thời đó về một vũ trụ được
coi như là một vương quốc.
Nhưng
Giê-su đã được
“sinh ra
từ một người đàn bà”.
Sự sinh ra đời của Giê-su cũng gây nhiều tai tiếng như cách ông ta
chết.
Ông ta
(Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp
có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này. Chẳng có ai biết cha ông
ta là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con hoang. Rải rác trong
miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết
chứng tỏ như vậy, giống như những thỏi mìn chưa kiếm ra và chưa nổ
.
7
Từ những
kết quả nghiên cứu về nhân vật lịch sử Giê-su ở trên, và đây chỉ là
vài kết luận điển hình trong số hàng trăm hàng ngàn nghiên cứu khác
về Giê-su, chúng ta có thể rút tỉa ra bốn điều quan trọng chính yếu
về sự thực của nhân vật Giê-su:
- Phần lớn những điều mà
ngày nay chúng ta biết về Giê-su qua các Phúc Âm chỉ là huyền
thoại;
- Giê-su chỉ là một
người Do Thái bình thường như mọi người khác, tin vào Cựu ước và
phát sinh ra ảo tưởng mình là con Thiên Chúa, không khác gì
những loại ảo tưởng như của James Jones, David Koresh, hay của
Hồng Tú Toàn ở bên Tàu trước đây [tự nhận là em Giê-su].
- Giáo hội và các bậc
lãnh đạo trong giáo hội đã biết rõ sự thực trên nhưng vẫn không
dám nói lên những sự thật về Giê-su cho các con chiên biết; và
- Chỉ có những tín đồ
Ki-Tô, và có thể những bậc lãnh đạo Ki Tô trong các nước kém
phát triển, hoặc một số người ngoại đạo không hề nghiên cứu về
nhân vật Giê-su,
là vẫn còn tin rằng
những gì giáo hội
dạy về Giê-su đều
là sự thực, và do đó vẫn tiếp tục sống trong bóng tối.
Lẽ dĩ
nhiên, cũng chẳng có ai cấm các linh mục Cao Phương Kỷ và Đan-Minh
tiếp tục sống trong bóng tối và giữ chặt con chiên trong bóng tối
trước ánh sáng của nền học thuật hiện đại, nhưng quý vị không thể
tránh được sự đối diện với những sự thật lịch sử và những vấn nạn
người ta đặt trước quý vị.. Bài viết này cũng chỉ là đặt trước quý
vị những sự thật lịch sử về nhân vật Giê-su chứ không có ý định so
sánh Đức Phật với Chúa Giê-su của quý vị để phân định cao thấp, hơn
kém. Không có một người hiểu biết nào lại đi làm cái việc vô trí
như vậy, cũng như mang Phật Pháp ra để mà tranh cãi với các pháp thế
gian.
Bây giờ
chúng hãy đi sang phần bàn về Bí Tích “Phép Thánh Thể”. Linh
mục Cao Phương Kỷ viết về “Phép Thánh Thể” như sau:
Đây
là Giáo Lý Cao Cả Nhất trong Đạo, là Mầu Nhiệm Đức Tin, vì là Lời
Truyền Phép (Lạ, Thánh Thể), biến bánh thành “Thánh Thể CHÚA GIÊSU”,
và rượu thành “Máu Thánh CHÚA GIÊSU”. Đây chính là Một PHÉP LẠ vô
cùng Nhiệm Mầu, chỉ có THIÊN CHÚA mới làm được, và nhân
loại phàm hèn cần ĐỨC TIN (“sola Fides sufficit”, Thánh
Tomas).
Các vị
lãnh đạo Công Giáo có lối giảng đạo rất lạ kỳ, bất cứ cái gì không
giải thích được đều “giải thích” đó là mầu nhiệm của Thiên Chúa, mầu
nhiệm đức tin, và bắt tín đồ cứ phải nhắm mắt mà tin, tin cả những
điều không thể tin được. Ở đây cũng vậy, Linh mục Cao Phương Kỷ
“giải thích” Phép Thánh Thể là Một PHÉP LẠ vô cùng Nhiệm Mầu,
chỉ có THIÊN CHÚA mới làm được. Giải thích như vậy thì cũng như
không, vì ít ra trong thời đại này, cũng phải vạch rõ sự mầu nhiệm
là ở chỗ nào, bằng cách nào mà biến bánh thành “Thánh Thể CHÚA
GIÊSU”, và rượu thành “Máu Thánh CHÚA GIÊSU”? Thí dụ như: lấy một
mẩu bánh phân chất, xong rồi đưa cho Linh mục Cao Phương Kỷ lẩm bẩm
vài tiếng La-Tinh để thánh hóa nó, xong rồi mang đi phân chất lại
ngay xem có gì khác nhau không, và chứng minh rằng trong đó có thịt
của Giê-su, nghĩa là có các DNA cũng như “gen” của Giêsu. Mà đâu có
phải là chỉ có THIÊN CHÚA mới làm được, mà chính là các linh
mục tự cho mình cái quyền làm được, nghĩa là biến bánh thành “Thánh
Thể CHÚA GIÊSU”. Chúa chết lâu rồi, và từ ngày chết đi có làm
gì đâu. Điều đáng nói là nhân loại không phải toàn là những kẻ
phàm hèn cần ĐỨC TIN như Linh mục Cao Phương Kỷ viết. Họ cần
những lời giải thích rõ ràng, có cơ sở. Những kẻ phàm hèn cần
ĐỨC TIN chỉ gồm có một thiểu số trong số hơn 6 tỷ người hiện hữu
trên thế giới, và chỉ gồm có nhiều nhất là 7% trong số hơn 80 triệu
dân Việt Nam. Vậy linh mục Cao Phương Kỷ lấy cái phàm hèn cần
ĐỨC TIN của mình và của đám tín đồ ra làm cái
phàm hèn cần ĐỨC TIN của cả nhân loại thì
đúng là viết bậy, viết mà không biết mình viết cái gì. Nhưng hầu
như mấy ông linh mục đều như vậy cả. Người Công Giáo thường có lối
viết rất cường điệu, chẳng hạn trong tờ Hiệp Nhất gần đây, đã viết
bà Maria là “Nữ Vương Của Việt Nam” bất kể là chỉ có 7% dân Việt Nam
coi Maria là Nữ Vương của họ, còn 93% coi bà Maria chỉ là cô gái
ngoan, không phải là thế gian sự thường, theo một tục ngữ của Việt
Nam.
Trong
cuốn “Đức Tin Công Giáo”, Giao Điểm xuất bản, 2000, tôi đã
luận về 7 “bí tích” trong Công Giáo, trong đó có bí tích phép thánh
thể, dùng những tài liệu của chính những người trong Công Giáo.
Phần này cũng đã được đưa lên trang nhà
giaodiem.com trước
đây. Cho nên theo lẽ tôi không cần phải nói thêm gì nhiều. Gần đây
tôi cũng đăng lại bài “Thiên Chúa Bị Chuột Tha” của Linh mục
Charles Chiniqui trên giaodiemonline nhân dip phê bình bài “Linh
Mục Là Ai” của linh mục Vũ Đức, để cho chúng ta thấy thực chất
của cái mà Công giáo gọi là “Thánh thể Chúa Giê-su” là như thế nào.
Nhưng để cho bài viết này đầy đủ hơn, tôi xin được viết thêm về
“Phép Thánh Thể” trong Công Giáo.
Giáo
hội bày đặt ra cái gọi là “bí tích” Phép Thánh Thể, nôm na là "ăn
thịt và uống máu Chúa": lấy cái bánh tròn nhỏ, làm bằng bột, lấy
rượu lễ làm bằng nho, rồi Linh mục đọc vài câu phù phép bằng tiếng
La-Tinh để Thánh hóa bánh và rượu đó, gọi chúng là bánh thánh và
rượu thánh, nghĩa là chúng đã thực sự biến thể thành thịt và máu
Chúa, cho tín đồ ăn và uống và gọi đó là để hiệp thông với Chúa và
bảo đảm được Chúa cho sống đời đời khi Chúa trở lại trần để phán xét
thế gian. Và các tín đồ đều tin đó là thịt Chúa máu Chúa thật, ăn
vào, uống vào sẽ được hòa đồng cùng Chúa, mang Thánh Thể trên người,
và chờ ngày lên thiên đường. Các tín đồ không chỉ ăn “bánh thánh”
một lần mà lâu lâu lại ăn lại, có lẽ vì bánh thánh đã tiêu hóa hết
rồi.
Đã có
lần tôi đích thân thử nghiệm xem Thánh Thể của Chúa Giê-su trong
người tôi ra sao. Sau buổi lễ, tôi thản nhiên xếp hàng lên ăn bánh
thánh. Theo luật của Công Giáo, người ngoại đạo không được phép
hiệp thông với Chúa, nhưng ông linh mục làm lễ đâu có hỏi tôi là
người theo đạo hay không, nên vẫn thản nhiên đặt vào lưỡi tôi chiếc
bánh thánh. Theo nguyên tắc, chiếc bánh này là toàn thân của Chúa
cho nên tín đồ phải để cho nó tan trong miệng chứ không được nhai
vụn ra. Vì tôi là người ngoại đạo nên tôi tự cho phép bất tuân
những luật lệ kỳ cục của Giáo hội và thản nhiên nhai chiếc bánh
thánh trong miệng xem vị thịt của Chúa ra sao và người tôi có khác
gì không. Bánh nhạt nhẽo vô vị, chẳng có mùi vị thịt máu gì hết
dù tôi đã cố hết sức tưởng tượng, và những mảnh vụn tan mau trong
miệng. Tôi chợt nghĩ tới một phần chiếc bánh này sẽ bị đào thải qua
bộ máy tiêu hóa, nói nôm na là theo đường đại tiện và tiểu tiện, và
tôi cho rằng Thánh Thể chẳng bao giờ có thể hoàn toàn hòa đồng trong
người tôi. Đó là tôi dùng lý trí để đưa ra một kết luận, dựa vào
những điều tôi biết về bộ máy tiêu hóa của con người mà tôi đã học ở
những lớp Trung học. Ai có thể phủ bác được điều này, xin mời lên
tiếng. Nhưng Linh mục Joseph McCabe lại có cái nhìn khác về lễ ban
Thánh Thể vì ông ta đã làm lễ này không biết bao nhiêu lần trong các
nhà thờ qua 20 năm giữ chức linh mục. Trong cuốn Sự Thực Về Giáo
Hội La Mã ông viết như sau:
Bí
tích ban Thánh Thể - nghĩa là, giáo điều về sự "hiện diện
thực" của Chúa Ki Tô trong bánh và rượu đã được Thánh hóa - đích
thực là niềm tin chính của Giáo Hội Công giáo...Vì trên cái sở hữu
vô gíá về một đời sống thực của Thượng đế trong họ, và trên cái bản
chất kỳ lạ của chế độ giáo hoàng, mà các tín đồ Công giáo có thái độ
ưu việt nực cười đối với tất cả phần còn lại của nhân loại.
Và bí
tích này là một trong những niềm tin ấu trĩ và điên rồ nhất được duy
trì trong một tôn giáo văn minh.
Giáo
điều về lễ tiết ban Thánh Thể của Giáo Hội thường không được rõ
ràng. Không phải vì Giáo hội trình bày sai nhưng vì sự kiện là:
một người ngoại đạo không tin được rằng bất cứ một con người hiện
đại có học thức nào lại có thể tin được những điều như vậy.
Họ biết Giáo hội dạy rằng có sự hiện diện đích thực của Chúa Giê-su
trong bí tích ban Thánh Thể. Đã quen thuộc với niềm tin rằng Chúa
Giê-su ở khắp mọi nơi, họ không thấy một ý nghĩa trí thức to lớn nào
trong bí tích này. Họ không biết, và không thể bị thuyết phục, rằng
những tín đồ Công giáo tin, và giáo hội của họ đoan chắc một cách
giáo điều rằng, cái ở trước mắt họ rõ ràng là bánh và
rượu, sau vài lời Thánh hóa, lại không phải là bánh và rượu, mà là
chính nhục thân sống của Giê-su Ki-Tô, từ đầu tới chân.
Trong buổi đầu của thời Trung Cổ, cũng như trong nhiều triệu
tín đồ Công giáo vô học ngày nay, giáo hội không cần tới một sự giải
thích nào về sự biểu hiện của bánh và rượu, cũng như không cần tới
một toan tính giải thích nào về tại sao nhục thân của Chúa Ki Tô
cùng lúc ở trên thiên đường và hàng triệu nơi
khác trên trái đất. Đối với những đầu óc như vậy, họ có thể tin bất
cứ điều gì. Mọi giải thích cũng rườm rà như mọi lý luận.
Thật
là rất thuận tiện. Bằng một hoạt động siêu nhiên, trong
buổi lễ, cái "thể" vô hình của bánh và rượu được thay thế bằng cái
"thể" của nhục thân thực, sống động của Chúa Ki Tô. Còn về tại
sao nhục thân của Chúa Ki Tô có thể cùng lúc ở hàng triệu nơi khác
nhau, và toàn bộ nhục thân này hiện hữu trong một mẩu bánh, thì câu
trả lời là - hãy cúi đầu tuân phục sự mầu nhiệm của sự "biến thể".
8
Trong đoạn trên, Linh mục Joseph McCabe đã chứng tỏ đức tin Công
giáo về "bí tích Thánh Thể" là phi lý trí, vì nếu dùng lý trí để suy
luận thì không ai còn có thể tin vào những điều hoang đường kỳ quặc
như vậy. Và chúng ta thấy rõ, ở đây, Linh mục Cao Phương Kỷ đã áp
dụng sách lược của Giáo hội trong thời đầu Trung Cổ đúng như Linh
mục Joseph McCabe đã viết ở trên:
“Trong buổi đầu của thời Trung Cổ, cũng như trong nhiều triệu tín đồ
Công giáo vô học ngày nay, giáo hội không cần tới một sự giải thích
nào về sự biểu hiện của bánh và rượu, cũng như không cần tới một
toan tính giải thích nào về tại sao nhục thân của Chúa Ki Tô cùng
lúc ở trên thiên đường và hàng triệu nơi khác
trên trái đất. Đối với những đầu óc như vậy, họ có thể tin bất cứ
điều gì. Mọi giải thích cũng rườm rà như mọi lý luận.”
Trong
cuốn "Những vị Thần cuối cùng của Huyền Thoại: GiaVê và Giêsu"
("Mythology's Last Gods: Yahweh and Jesus", p. 16), Tiến sĩ William
Harwood, một tín đồ Công giáo phải mất ba năm mới tỉnh ngộ và bỏ
được những niềm tin phi lý trên về “phép thánh thể” sau khi nghiên
cứu lịch sử các tôn giáo trong đế quốc La Mã và khám phá ra rằng "bí
tích" ăn thịt uống máu Chúa (Eucharist) mà ông đã tin và thọ hưởng
bí tích này hàng tuần và trong nhiều năm, đã có từ 3000 năm trước
khi Giêsu ra đời, và rằng các Thần hay Thượng Đế (Gods) chỉ là những
chuyện tưởng tượng y như những chuyện thần tiên kể cho trẻ con nghe.
(Dr. Harwood..discovered that the "god-eating" ritual in which he
participated weekly as a believing Christian had existed three
thousand years before Jesus' birth. Not for three years, however,
could he fully abandon the disproved beliefs to which he had been
emotionally committed, and acknowledge that gods are as imaginary
as fairies)
Học giả
Henri Guillemin cho bí tích này là một trò ảo thuật của giáo hội bày
đặt ra và viết trong cuốn Cái Giáo Hội Khốn Nạn (Malheureuse
Église, 1992) như sau:
"Bằng vài lời lẩm bẩm, giáo hội gài vào trong một mẩu bánh thân thể,
thân thể thực sự bằng xương bắng thịt của Giê-su Ki Tô để cho tín đồ
dùng qua đường ăn uống (tác giả muốn nói đến bí tích "ban
thánh thể". TCN)". (Au moyen de quelques syllabes, elle insère,
dans un fragment de pain, le corps, le corps physique de
Jésus-Christ voué à une consommation buccale et stomacale...)
Bàn về
bí tích ban thánh thể, David Hume, một triết gia nổi tiếng của Tô
Cách Lan (Scotland) phát biểu như sau:
Trong tất cả các tôn giáo thì tôn giáo vô lý và vô nghĩa nhất là tôn
giáo mà những người hiến thân cho Chúa, sau khi đã tạo ra Chúa, lại
đi ăn thịt Chúa của họ. (Of all religions, the most absurd
and nonsensical is that whose votaries eat, after having created,
their deity.)
Tôi có
thể kết luận làm sao đây, khi mà chúng ta đã biết rõ bản chất của bí
tích này là như thế nào. Thôi thì lại nhường lời cho mấy linh mục
và học giả Công giáo vậy.
Linh mục
Georges Las Vergnas có bàn về các bí tích trong Công Giáo La Mã
trong cuốn Tại Sao Tôi Bỏ Giáo Hội Rô-Ma (Pourquoi J’ai
Quitté L’Église Romaine). Sau đây là một đoạn điển hình:
Điều
quan trọng là phải đọc đúng, không được sai lầm. Một linh
mục có thể đọc lên công thức thuộc loại bí tích này mà không cần
hiểu nó, và ngay cả không cần phải tin nó, nhưng để cho ảo thuật vận
hành, ông ta phải làm cái gì mà giáo hội làm. Tuy nhiên,
nếu ông ta nói sai một chữ thì bí tích sẽ không có tác dụng gì cả.
Theo nguyên tắc, cái tinh thần của câu “Vừng ơi! Hãy mở cửa đi”
(Las Vergnas ví những câu làm phép của giới linh mục với câu phù
phép trong chuyện “A-li-ba-ba và 40 tên ăn trộm, ăn cướp.” TCN)
không hề thay đổi.
Những bí tích không những chỉ vô lý mà còn có tính cách phỉ
báng. Rabelais đã chẳng nói: Tôi gọi đó là “nhạo báng
Thần”.
Tôi còn cho rằng tất cả “lòng mộ đạo” Công giáo chỉ là tập hợp những
trò lừa bịp và cách thức để biến đổi linh mục thành một tên “lang
băm” và tín đồ thành kẻ đần độn.
Linh
mục biết rõ sự đần độn của con người là vô tận: họ khai thác điểm
này.
9
Học giả
Ca-Tô Joseph L. Daleiden, sau khi nghiên cứu về những niềm tin trong
dân gian cổ xưa, đã viết trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng như
sau:
Đã có
một thời tôi tin vào cái tục lệ sơ khai mà Cicero đã viết trong thế
kỷ thứ nhất trước thời đại thông thường (thật lâu trước khi
Ki-Tô Giáo thực hành tục lệ này):
“Làm sao
mà một người có thể đần độn đến độ có thể tưởng tượng được rằng cái
mình ăn đúng là Chúa Giê-su?”
Điều biện bạch duy nhất của
tôi là, đó là trước khi tôi phát triển khả năng suy lý mà ngày nay
tôi có. Hơn nữa, tôi không có cách nào để biết rằng (vì nền
giáo dục đặc biệt của Công giáo chỉ có mục đích nhồi sọ những “mầu
nhiệm đức tin” như LM Cao Phương Kỷ viết ở trên, chứ không hề có mục
đích mở mang đầu óc của tín đồ. TCN) những nhà nhân
chủng học và các sử gia đã truy nguyên ra rằng, sự thực hành cái lễ
tiết ăn thịt Chúa đã là tín ngưỡng của con người trong buổi sơ khai,
tin rằng mình có thể có được những uy lực của những vật mà mình ăn.
Sau
cùng, tôi đã bị lừa bởi trò bịp trong môn nghĩa ngữ học rất thịnh
hành trong bộ môn giả khoa học là siêu hình học. Từ “biến thể”
(trong phép thánh thể, cho rằng bánh và rượu sẽ biến thành thịt và
máu Chúa do sự phù phép của linh mục. TCN) gây nên sự khá kinh sợ
cho những đầu óc chất phác. Khi từ này lại do một người có thẩm
quyền như một linh mục, mô tả tại sao bánh và rượu có thể đổi cái
“thể” mà không đổi “tính chất” thì rất dễ làm cho người ta tin. Hơn
nũa, ai mà chẳng thích trò ảo thuật. Nó chắc chắn là hấp dẫn hơn là
đi đào sâu vào triết lý thực nghiệm của David Hume hay sự phân tích
sắc xảo của Ludwig Feuerbach. Chính hai người này đã là những người
đầu tiên vạch rõ điều hiển nhiên như sau: cho rằng một vật (thể)
hiện hữu mà không có thuộc tính (tính chất) thì cũng ngớ ngẩn như là
cho rằng ngược lại, nghĩa là có “tính chất” mà không có “thể”.
(hãy chỉ cho tôi một cái “không có gì (nothing) mà lại dài”, hoặc
“không có gì mà lại xanh hay cứng”). Do đó, không có những vật
thể hiện hữu riêng biệt nào có thể “biến thể” một cách có tính cách
ảo thuật. (Tác giả viết đoạn này quá ngắn gọn nên hơi khó hiểu.
Vấn đề tác giả muốn nói là: bánh và rượu có những tính chất riêng
của nó, thí dụ như bánh thánh thì có vị của bột, và rượu thì có vị
ngọt hoặc hơi chát của rượu. Tín đồ ăn bánh và uống rượu chỉ thấy vị
(tính chất) của bánh và rượu, chứ không thấy vị của thịt và máu
Chúa, cho nên chuyện “biến thể” là chuyện không tưởng. TCN). Một
lần nữa, các nhà thần học đã thành công trong việc làm mê mẩn đầu óc
con người bằng những từ vô nghĩa. Tất cả những bí tích,
giống như những ngày lễ, biểu tượng của Ki Tô Giáo, chỉ là những
toan tính đơn giản để thích nghi với những tín ngưỡng dân gian.
Đối với những người không có thiên kiến, có đầu óc suy lý,
thì chúng ta có tràn ngập những bằng chứng để đi tới kết luận này.
10
Thực
chất 7 bí tích trong Công giáo là như thế nào, và giáo hội đã đặt ra
những bí tích đó để làm gì? Không có gì rõ ràng hơn là nhận định
của Linh mục Joseph McCabe một cách châm biếm sau đây, sau khi ông
điểm qua 6 bí tích trước khi viết về bí tích “xưng tội”:
Đó là 6 trong 7 bí tích, sự vinh quang và bông hoa đặc biệt
của tín ngưỡng Công giáo, hệ thống tỉ mỉ nhất về ảo thuật mà xưa nay
chưa hề có một tôn giáo văn minh nào phát minh ra được.
Từ bí tích đầu cho đến bí tích cuối, chúng được thiết kế để tăng
thêm quyền lực và uy tín của giới giáo sĩ.
Trong nghi thức thực hành và ý tưởng căn bản trong đó, chúng cũng xa
lạ và đối ngược với tất cả vấn đề tâm linh trong thời hiện đại như
là thuật biến chế kim loại trong thời Trung Cổ và thuật chiêm tinh.
Đây là tập hợp những niềm tin mà tín đồ Công giáo thông
thường tin rằng một ngày nào đó họ sẽ cải đạo toàn thể Hiệp Chủng
quốc (Mỹ). Ở mức độ tinh tế, tín đồ Công giáo nói
rằng, đây chính là tập hợp những niềm tin mà Chúa Ki-Tô
quan tâm hết sức để duy trì chúng trong sắc thái tinh khiết của
chúng cho nên Ngài bỏ qua những sự khủng khiếp của thời Trung Cổ và
tất cả những sự đồi bại của các giáo hoàng và chế độ giáo hoàng.
11
Với
những tài liệu nêu trên, tôi thực tình không hiểu tại sao trong thời
buổi này mà giới linh mục Công giáo Việt Nam vẫn còn dẫn dắt tín đồ
trong bóng tối của những điều mê tín vô cùng phi lý, phi lô-gic,
phản khoa học v..v.. mà trong thế giới văn minh ngày nay, không một
người nào có đầu óc lại có thể tin vào những điều chỉ hợp với một số
người trong thời sơ khai, thí dụ như “Linh Mục là Chúa thứ hai” [LM
Vũ Đức], hay “phép thánh thể là một mầu nhiệm của Thiên Chúa” [LM
Cao Phương Kỷ].. Chúng ta cần ghi nhận một điều: tất cả những tài
liệu trên, viết về con người thực của Giê-su, cũng như về các “bí
tích” trong Công Giáo, là của những người có uy tín trong Ki Tô Giáo
như Giám Mục, Linh Mục, Giáo sư Thần Học, học giả v..v.. Thật quả là
sách lược nhồi sọ và nhốt đầu óc tín đồ vào những ốc đảo tối tăm trí
thức của giáo hội Công giáo La Mã đáng để cho chúng ta thán phục, vì
sự thành công của nó, nhất là ở trong một số ốc đảo ở Việt Nam và
trong một số các cộng đồng tương tự khác ở trong một số nước trong
thế giới thứ ba.
Nhưng mà
tại sao cho đến ngày nay mà vẫn còn một số linh mục vẫn tiếp tục
giảng dạy những điều hoang đường phi lý cho các con chiên của họ?
Vì họ coi các tín đồ như là những con chiên (con cừu) thiệt cho nên
họ muốn dẫn dắt đi đâu là đi đó. Muốn hiểu điều này chúng ta cần
phải nói đến bí tích truyền chức linh mục.
Thực
chất của bí tích truyền chức linh mục ra sao? Không ai biết rõ hơn
linh mục Joseph McCabe, một người đã hành nghề linh mục hơn 20 năm,
khi ông viết:
“Bí
tích”, lẽ dĩ nhiên, chỉ là một phần của hệ thống nâng cao giới linh
mục, cho họ những lợi ích cá nhân to lớn trên đám tín đồ thông
thường.
Nó đúng là như vậy trong bí tích “dòng thánh” hay là phong
chức linh mục.. Nghi thức (truyền chức linh mục)
chỉ là một tập hợp những hành động huyền bí với những lời cầu nguyện
cổ lỗ có tính cách rối răm, mê hoặc và lạ lùng đối với khán giả bên
ngoài. Người ta cho là nó có hiệu lực đến độ sau đó ông linh mục có
thể ra lệnh cho quỷ đi đâu thì đi, tha tội, và biến mẩu bánh thành
Chúa Ki-Tô. Đó là điều người láng giềng Công giáo của bạn tin thật
như vậy.
12
Và như
Linh mục Georges Las Vergnas đã viết ở trên: “Linh mục biết rõ
sự đần độn của con người là vô tận: họ khai thác điểm này.”
cho nên chúng ta không lấy gì làm lạ khi thấy trong thời buổi
này mà các Linh mục Việt Nam như Vũ Đức, Cao Phương Kỷ, Đan Minh
v..v.. vẫn tiếp tục khai thác sự đần độn vô tận của đám tín đồ ở
dưới bằng những luận điệu thần học mê hoặc đã không còn giá trị
trong thế giới những người hiểu biết.
Nhưng
xét cho cùng, vấn nạn trên không phải hoàn toàn thuộc phần các bậc
lãnh đạo Công Giáo, mà phần lớn là ở các tín đồ thấp kém đã để cho
các “bề trên” của họ dẫn dắt như là dẫn dắt đàn cừu vậy. Không hiểu
đến bao giờ đầu óc của họ mới mở mang để nhận ra sự thật trong mấy
câu thơ của nhà đại văn hào Pháp Victor Hugo trong thế kỷ 19 mà tôi
cho rằng ngày nay vẫn còn thích hợp:
Ngày
nay, người dẫn dắt đàn chiên của Ngài trong bóng tối
Không
phải là kẻ chăn chiên, mà là tên đồ tể đó, Chúa ạ!
(Ce qui mène
aujourd’hui votre troupeau dans l’ombre
Ce n’est pas
le berger, c’est le boucher, Seigneur!)
Victor Hugo,
Les Châtiments, liv. 1, 2
1. Russell, Bertrand,
Why I Am Not A Christian, p. 19: I cannot myself feel that
either in the matter of wisdom or in the manner of virtue Christ
stands quite as high as some other people known to history. I think
I should put Buddha and Socrates above Him in those respects.
2.
Spong, John Shelby, Rescuing The Bible From Fundamentalism,
p. 21: There are passages in the Gospels that portray Jesus of
Nazareth as narrow-minded, vindictive, and even hypocritical.)
3.
Lewis, Joseph, Editor: Ingersoll: The Magnificent , p.
117-122: For many centuries this Peasant of Palestine has been
worshiped as god.
Millions
and millions have given their lives to his service. The wealth of
the world was lavished on his shrines. All this is true, and if it
were all, how beautiful, how touching, how glorious it would be.
But it is not all. There is another side.
In his
name millions and millions of men and women have been imprisoned,
tortured and killed. In his name millions and millions have been
enslaved. In his name the thinkers, the investigators, have branded
as criminals, and his followers have shed the blood of the wisest
and best. In his name the progress of many nations was stayed for a
thousand years. In his gospel was found the dogma of eternal pain,
and his words added an infinite horror to death. His gospel filled
the world with hatred and revenge; made intellectual honesty a
crime; made happiness here the road to hell, denounce love as base
and bestial, canonized credulity, crowned bigotry and destroyed the
liberty of man.
It would
have been far better had the NT never been written - far better had
the theological Christ never lived. Had the writers of the NT been
regarde as uninspired, had Christ been thought of only a man, had
the good been accepted and the absurd, the impossible, and the
revengeful thrown away, mankind would have escaped the wars, the
crimes and sorrows of a thousand years.
At first
Christ was a man - nothing more. Mary was his mother, Joseph his
father. The genealogy of his father, Joseph, was given to show that
he was of the blood of David.
Then the
claim was made that he was the son of god, and that his mother was a
virgin, and that she remained virgin until her death.
The
claim was made that Christ rose from the dead and ascended bodily to
heaven.
It
required many years for these absurdities to take possession of the
minds of men.
If he
really ascended, why did he not do so in public, in the presence of
his persecutors? Why should this, the greatest of miracles, be done
in secret, in a corner?
At last,
in the dusk of death, Christ, finding that he was mistaken, cried
out: "My God, my God! Why hast thou forsaken me?"
Why
should we place Christ at the top and summit of the human race? Was
he kinder, more forgiving, more self-sacrificing than Buddha? Was
he wiser, did he meet death with more perfect calmness, than
Socrates? Was he more patient, more charitable, than Epictetus?
Was he a greater philosopher, a deeper thinker, than Epicurus? In
what respect was he the superior of Zoroaster? Was he gentler than
Lao Tsze, more universal than Confucius? Were his ideas of human
rights and duties superior to those of Zeno? Did he express grander
truths than Cicero? Was his mind subtler than Spinoza's? Was his
brain equal to Kepler's or Newton's? Was he grander in death - a
sublimer martyr than Bruno? Was he in intelligence, in the force
and beauty of expression, in breadth and scope of thought, in wealth
of illustration, in aptness of comparison, in knowledge of the human
brain and heart, of all passions, hopes and fears, the equal of
Shakespeare, the greatest of human race?
If
Christ was in fact god, he knew all the future. Before him like a
paronama moved the history yet to be. He knew how his words would
be interpreted. He knew what crimes, what horrors, what infamies,
would be committed in his name. He knew that the hungry flames of
persecution would climb around the limbs of countless martyrs. He
knew that thousands and thousands of brave men and women would
languish in dungeons in darkness, filled with pain. He knew that
his church would invent and use instruments of torture; that his
followers would appeal to whip and fagot, to chain and rack. He saw
the horizon of the future lurid with the flames of the auto da fé.
He knew what creeds would spring like poisonous fungi from every
text. He saw the ignorant sects waging war against each other. He
saw thousands of men, under the order of priests, building prisons
for their fellow-men. He saw thousands of scaffolds dripping with
the best and bravest blood. He saw his followers using the
instruments of pain. He heard the groans - saw the faces white with
agony. He heard the shrieks and sobs and cries of all the moaning,
martyred multitudes. He knew that commentaries would be written on
his words with swords, to be read by the light of fagots. He knew
that the Inquisition would be born of the teachings attributed to
him.
He saw
the interpolations and falsehoods that hypocrisy would write and
tell. He saw all wars that would be waged, and he knew that above
these fields of death, these dungeons, these racking, these
burnings, the executions, for a thousand years would float the
dripping banner of the cross.
He knew
that hypocrisy would be robed and crowned - that cruelty and
credulity would rule the world; knew that liberty would perish from
the earth; knew that popes and kings in his name would enslave the
souls and bodies of men; knew that they would persecute and destroy
the discoverers, thinkers and inventors; knew that his church would
extinguish reason's holy light and leave the world without a star.
He saw
his disciples extinguishing the eyes of men, flaying them alive,
cutting out their tongues, searching for all the nerves of pain...
And yet
he died with voiceless lips.
Why did
he fail to speak? Why did he not tell his disciples, and through
them the world: "You shall not burn, imprison and torture in my
name. You shall not persecute your fellow-men."..
Why did
he go dumbly to his death, leaving the world to misery and to doubt?
I will
tell you why. He was a man, and did not know.
4.
Shorto, Russell, Gospel Truth, Riverhead Books, New York,
1997, Front Cover. The Last Supper, the Virgin Birth, the
Resurrection: one by one the great beams of Christianity are being
tested. Biblical scholars – once the guardians of Christian
theology – are now using the tools of archaeology, anthropology,
linguistics, computer science, and even particle physics to probe
the question “Who was Jesus?” The result is a radical revision of
the Gospel story that is both surprisingly vivid and to some people,
deeply shocking... Most important, the author tells of the impact
the scientific perspective is having now that even scholars working
under a conservative Catholic imprimatur agree that much of what we
know of Jesus is myth.
The work
of the Jesus Seminar, and of all contemporary Jesus researchers, in
Funk’s view, represents a shift on the part of biblical scholars
away from the tyranny of the church and toward cultural honesty. As
far as Funk is concerned, scholars have known the truth – that Jesus
was nothing more than a man with a vision – for decades; they have
taught it to generations of priests and ministers, who do not pass
it along to their flocks because they fear a backlash of anger. So
the only ones left in the dark are ordinary Christians.
5.
Ranke-Heinemann, Uta, Putting Away Childish Things,
Harper-Collins., San Francisco, 1995, p. 2: We encounter this truth
in the person of Jesus. We know neither when and where he was born,
nor when he died: He is a man without a biography. We don’t know
how long his public activity as a peacher lasted or where exactly it
took place. Strictly speaking, we don’t know a whole lot more than
that he was born, that there were people who followed him as his
disciples, and that he was executed on the cross – the Roman version
of the gallows – and thus came the wretched end... This Jesus lies
burried not only in Jerusalem, but also beneath a mountain of
kitsch, tall tales, and church phraseology.
6.
Harvey, Andrew, Son of Man: The Mystical Path to Christ,
Jeremy P. Tarcher / Putnam,New York, 1998, p. 4.: Historical
criticism has proved, conclusively, that the Gospels are to be read
not as Spirit-inspired, faithful eye-witness accounts of Jesus’ life
but as carefully sculpted versions of that life, arranged to suit or
promote different spiritual interests, personalities, and factions
within the dramatic years of early Christianity. The Gospels are
neither directly inspired divine documents nor straight-forward
historical records; neither divine revelations directly inspired by
God nor eye-witness accounts written by people who had known Jesus
and wanted to report clearly what they had experienced with him.
Written in the last third of the first century, they express and
condense the traditions of different early Cristian communities and
were put into their current form slowly over a period of three
hundred years.
7.
Spong, John Shelby, Born of a Woman: A Bishop Rethinks The Birth
of Jesus, Harper, San Francisco, 1992, p. 35: Jesus was
interpreted by the early Christians in terms of their assumed and
unquestioned concepts of God, modeled after the image of a heavenly
king. The focus was on the exalted Jesus seated at the right hand
of the heavenly throne. The image reflected the popular mythic
understanding of the universe as a kingdom.. But he was “born of a
woman”.. His origins were equally as scandalous as his means of
death. He was a nobody, a child of Nazareth out of which nothing
good was thought to come. No one seemed to know his father. He
might well have been illegitimate. Hints of that are scattered like
undetected and unexploded nuggets of dynamite in the landscape of
the early Christian tradition.
8.
Josep McCabe, The truth About The Catholic Church, pp.
66-68: The sacrament of the Eucharist - that is, the doctrine of the
"real presence" of Christ in the consecrated bread and wine - is
quite the central belief of the Catholic Church...It is on this
priceless possession of a real live god in their midst, and on the
miraculous nature of their papacy, that Catholics affect their
amusing air of superiority to all the rest of mankind. And it is
one of the most childish and foolish beliefs that was ever preserved
in a civilized religion.
The
doctrine of the Church is not generally understood. This is not due
to "misrepresentation" but to the fact that a non-Catholic does not
find it credible that any educated modern man or woman should
believe such things... He is aware that Catholics profess the "real
presence" of God in the Eucharist. Being accustomed to the belief
that God is everywhere, he sees no intellectual enormity in this.
He does not know, and can hardly convinced, that Catholics believe,
and their Church sternly and dogmatically insists, that in what
seems to the eye to be bread and wine, there is, after the words of
consecration, no bread and wine at all, but the living body of Jesus
Christ down to the last eye-lash and toe-nail.
In the
earlier Middle Ages, as among the uneducated Catholic millions
today, no explanation of the appearance of bread and wine was
needed; nor was it necessary to attempt any explanation how the
human body of Christ could be simultaneously in heaven and in a
million places on the earth. To such minds anything is possible.
Explanation is as superfluous as argument.
This was
very convenient. By a supernatural operation, in the mass, the
invisible "substance" of the bread and wine is replaced by the
"substance" of the real, living body of Christ...As to how the body
of Christ could be in a million places at once, and could exist in
its full proportions in a crumb of bread, the answer was - bow to
the mystery of "transubstantiation.".
9.
Georges Las Vergnas, Pourquoi J’ai Quitté L’Église Romaine,
p. 51: Ce qui importe, c’est de prononcer sans erreur. Un prêtre
peut dire la formule sacramentelle sans la comprendre, et même sans
y croire, mais pour que la magie opère, it doit vouloir faire ce que
fait l’Eglise. Mais s’il change une syllable rien ne va plus. Le
“Sesame ouvre-toi” est, en principle, invariable..
Les
sacrements ne sont pas seulement absurdes mais blasphématoires;
j’appelle ca “moque-Dieu” dirait Rabelais.
J’en dis
d’ailleurs autant de toute la “piété” catholique, assemblage de
trucs et de recettes qui transforment le prêtre en charlatan et le
fidèle en imbécile..
Le
prêtre sait que la bêtise humaine est inepuisable: il en profite.
10.
Joseph L. Daleiden, The Final Superstition, p. 131: I once
believe in that primitive custom of which Cicero wrote in the first
century B.C.E (long before Christianity adopted the practice): “How
can a man be so stupid as to imagine that which he eats to be a
god?” My only excuse is that it was before I had developed what
slight powers of critical reasoning I now possess. Also, I had no
way of knowing that anthropologists and historians had traced the
practice of the ritualistic eating of a god to the primitive belief
that we acquire the powers of the creatures we eat.
Finally,
I was fooled by the semantic trick so prevalent in the pseudoscience
of metaphysics: the confusion of words with things. The word
“transubstantiation” is pretty awe-inspiring to an unsophisticated
mind. When it is backed by the weight of an authority figure, such
as a priest who describes how the “substance” of the bread and wine
can change without a change in “properties”, it is easy to be taken
in. Besides, everyone likes a magic show. It is certainly more
entertaining than plowing through the empiricist philisophy of David
Hume or the critical analysis of Ludwig Feuerbach. It was these two
men who first pointed out the obvious: for a thing (substance) to
exist without its attributes (properties) is as silly an idea as the
opposite notion - a property without a thing. (Show me along
nothing, or a hard, green nothing.) Therefore, there are no
separately existing substances that could undergo a magical
transubstantiation. Once again theologians successfully bewitched
minds with meaningless words. All the sacraments, like the feasts
and symbols of Christianity, were simple attempts to accommodate
pagan beliefs. The evidence for this conclusion is overwhelming to
unbiased, rational minds.
11.
Joseph McCabe, The Truth About The Catholic Church, p. 70:
These are six of the seven sacraments, the glory and distinctive
flower of Catholic belief, the most elaborate system of magic which
any civilized religion ever invented. From first to last they are
designed to enhance the power and prestige of the clergy. In their
ritual and their fundamental ideas they are as alien from, as
antagonistic to, the whole spirit of modern times as is alchemy or
astrology. This is the set of beliefs to which the simple Catholic
believes he will one day convert the whole United States! In fine,
this is the set of beliefs which God, the Catholic says, was so
deeply concerned to maintain in their purity that he overlooked all
the horrors of the Middle Ages and all the corruptions of the Pope
and the Papacy!
12.
Joseph McCabe, Ibid., p.70: The “sacrament” is, of course,
merely a part of the system which raises a priestly caste, to their
great advantage, above the common crowd. So it is with the
sacrament of “holy orders” or the ordination of the clergy. The
ritual is a maze, a stupendous collection of archaic prayers and
mysic actions, to the onlooker. It is supposed to be so potent that
henceforward the priest can order devils about, forgive sins, and
turn bread into Christ. This your Catholic neighbor literally
believes.