|
đăng ngày 10 tháng 7, 2007
|
Thời
gian trôi nhanh như bóng câu qua cửa, thấm thoắt đã hơn 40 năm, kể từ
mốc thời gian 1963, năm mà chế độ bạo tàn của Phán quan Tây Ban Nha
(Spanish inquisitor) Ngô Đình Diệm cáo chung ở miền Nam Việt Nam.
1963: một năm đầy sôi động tại miền
Nam Việt Nam với những cuộc biểu tình của mọi tầng lớp dân chúng, những
cuộc tự thiêu của Tăng, Ni, Phật tử, phản đối chính sách độc tài gia
đình trị, Công giáo trị của chính quyền Ngô Đình Diệm (NĐD). Như một
con thú điên cuồng sắp dãy chết, chính quyền NĐD đã bắt bớ, tra tấn, tù
đầy Tăng, Ni, sinh viên, học sinh v..v.., đi đến cao điểm là đồng loạt
tấn công chùa chiền trên khắp nước ngày 21 tháng 8, 1963, bắt bớ và giết
hại hàng ngàn Tăng, Ni, Phật tử. Chủ trương tiêu diệt Phật Giáo để
“Công giáo hóa” miền Nam vốn đã in sâu vào tâm thức của những tín đồ
Công giáo cuồng tín, tổng hợp của ngu dốt, huênh hoang và hợm hĩnh vô
lối, như Ngô Đình Diệm, theo đúng sách lược “cứu cánh biện minh cho
phương tiện” của Vatican để “Công giáo hóa toàn cầu”, tưởng rằng làm như
vậy thì có thể “vinh danh một anh thợ mộc Do thái ở trên trời”. Cuối
cùng, việc phải đến đã đến, ngày 1 tháng 11, 1963, quân đội đã đứng lên
lật đổ chế độ bạo tàn của NĐD.
Một giai đoạn lịch sử đen tối nhất
của miền Nam Việt Nam đã cáo chung. Ngô Đình Diệm và người em ruột Ngô
Đình Nhu bị hành quyết ngay trong ngày cách mạng. Sau đó người em út
Ngô Đình Cẩn, bạo Chúa ở Huế, cũng bị tòa án cách mạng xử tử hình.
Người anh, Giám mục Ngô Đình Thục, ra được ngoại quốc, bị Tòa Thánh
tuyệt thông, trước khi chết đã xin “trở lại đạo”, nhưng vẫn chết trong
tủi nhục của sự mê tín, vì sự tuyệt thông của Tòa Thánh chẳng qua chỉ là
một biện pháp nội bộ để đe dọa những đầu óc tối tăm mù mịt chứ chẳng có
ý nghĩa gì trong thời đại văn minh tiến bộ ngày nay [xin đọc linh mục
James Kavanaugh về thực chất của “tuyệt thông” (excommunication)].
Người cháu Ngô Đình Lệ Thủy, con của Ngô Đình Nhu, bị tai nạn xe hơi
chết ở ngoại quốc. Cổ nhân nói không sai: ở hiền gặp lành, ở ác gặp
ác. Luật nhân quả không chừa một ai, không bị quả báo ngay trong kiếp
này thì trong kiếp sau. Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu.
Phật Giáo đã tha thứ cho gia đình họ
Ngô Đình về những tội ác của họ đối với Phật Giáo và người dân Việt. Vì
Phật Giáo nhìn Ngô Đình Diệm như là một con người bị vô minh sai khiến,
một sự vô minh trầm trọng bắt nguồn từ ý thức hệ tối tăm dầy đặc của
Công giáo Rô Ma (Dr. Barnado: the thick darkness of Romanism). Điều mà
Phật Giáo muốn dứt bỏ là vô minh chứ không phải là con người bị vô minh
sai khiến. Giáo lý Phật Giáo khẳng định: một niệm sân hận nổi dạy có thể
thiêu đốt cả rừng công đức. Bài viết này cũng không do động cơ thù hận
thúc đẩy, mà chỉ có mục đích ôn lại chuyện cũ để biết chuyện mới, hay
nói cho đúng hơn, để cảnh giác chuyện lịch sử rất có thể tái diễn nếu
chúng ta lơ là, phó mặc mọi sự cho cuộc đời trôi chảy, để cho Công giáo
lộng hành, tự tung tự tác trong sách lược Cải Đạo Á Châu, theo lệnh của
Giáo hoàng John Paul II trong bản “Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu”
(Ecclesia in Asia), tung ra cuối năm 1999.
Hàng năm, vào dịp 1/11, tại một số
ốc đảo Công Giáo Việt Nam ở hải ngoại, cái gọi là “Phong Trào Phục
Hồi Tinh Thần Ngô Đình Diệm” lại tổ chức tưởng niệm Ngô Đình Diệm và
đưa ra những luận cứ hoang đường, hoàn toàn sai sự thực lịch sử để tôn
vinh NĐD như là một nhà yêu nước chống Cộng, còn cụ thì không “mất nước”
(sic) v..v... Họ không buồn quan tâm đến câu hỏi then chốt: Tại sao cụ
lại không còn, trong khi cụ vẫn tin rằng có “ơn trên” (sic) phù hộ? Tác
giả Trần Văn Kha cũng đã đưa ra câu hỏi: “Nhà Ngô đã có nhiều công mở
mang nước Chúa. Thế mà lại không được “ơn trên” phù hộ, vẫn bị bắn
chết! Tại sao?” Câu trả lời là: Thực tế đã chứng tỏ chẳng làm quái
gì có cái gọi là “ơn trên”, và “cụ không còn” chính là luật nhân quả: ác
giả ác báo.
Tại sao một người như NĐD mà vẫn còn
được tôn vinh? Họ tôn vinh NĐD không phải vì ông Diệm là người có tài,
có đức, mà chỉ vì ông ta là người Công Giáo, được Tòa Thánh và Mỹ đưa về
để làm một lá bài chống Cộng cho Mỹ và cho Vatican, đi kèm với âm mưu
Công giáo hóa Việt Nam, hay ít ra là miền Nam Việt Nam. Điều này không
lấy gì làm lạ vì hành động tôn vinh NĐD cũng chẳng khác gì những việc mà
họ đã làm trước đây và tiếp tục làm bất kể đến liêm sỉ và lương thiện
trí thức: tôn vinh những tên Việt Gian như Pétrus Ký, Nguyễn Trường Tộ,
Trần Lục, Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu Từ v..v.. chỉ vì những người có danh
này, dù là danh xấu vạn niên đối với tuyệt đại đa số người dân Việt Nam,
đều là người Công giáo. Nhưng có điều họ không ý thức được rằng, phục
hồi tinh thần Ngô Đình Diệm có nghĩa là phục hồi tinh thần “tam đại Việt
gian” của dòng họ Ngô Đình, như giáo sư sử học Nguyễn Mạnh Quang đã
chứng minh rõ ràng trong cuốn Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư ,
Tập I.
Tại sao những người Công Giáo, trong
thời buổi này, mà vẫn còn tiếp tục làm những công việc bất lương trí
thức như vậy. Vì họ có một mặc cảm tôn giáo. Từ xưa tới nay, họ được
giáo hội dạy rằng, sau khi rửa tội họ đương nhiên thuộc một “hội thánh”,
đạo của họ là một tôn giáo thiên khải, thánh thiện, người Công Giáo
đương nhiên phải là những người thánh thiện, và các vị chăn chiên, từ
giáo hoàng trở xuống tới các linh mục đều là những người thay Chúa có
thể ban phúc lành cho họ hay cầm giữ họ không cho họ lên thiên đường sau
khi chết. Những niềm tin thuộc loại mê tín, phi lý, lỗi thời này đã
được cấy vào đầu óc họ từ khi họ còn nhỏ, chưa đủ trình độ và khả năng
suy nghĩ để phân biệt phải trái trắng đen. Cho nên, khi lớn lên, họ
không có cách nào dứt bỏ được những niềm tin này, nhất là khi họ thuộc
lớp người nghiện đạo, có đầu óc khuyết tật, không chịu tìm hiểu về ngay
chính tôn giáo của mình.
Nhưng ngày nay, trước những sự thật
về lịch sử tàn bạo của giáo hội, về bản chất dối trá của giáo hội, và
nhất là trước những sự thật xã hội liên quan đến vấn đề đạo đức của giới
chăn chiên, từ giáo hoàng trở xuống tới các linh mục, càng ngày càng
được phanh phui phơi bầy, họ không đủ can đảm để đối diện với sự thật,
do đó cố tìm cách tự vệ và bảo vệ đức tin của mình, bất kể là những hành
động tự vệ hay bảo vệ này là những hành động bất chính, bất lương trí
thức.
Trong bài “Tản Mạn Chung Quanh
Cuốn “Linh Mục Trần Lục: Thực Chất Con Người Và Sự Nghiệp của Bùi Kha và
Trần Chung Ngọc”, đăng trong Giao Điểm số 35, tác giả Nguyễn
Ngọc Quỳ ở Paris đã đưa ra một nhận định rất chính xác:
“...Kết hợp người “nâng”, cách
“nâng”, và đối tượng được “nâng” lại với nhau trong một phương trình,
tôi giật mình tìm ra được đáp án cho hiện tượng quái đản; Cứ người Công
giáo làm thì Công giáo Việt Nam phải nhắm mắt mà khen. Bất chấp chuyện
làm có xấu mấy đi chăng nữa. Họ không lý đến sự thật, và cũng chẳng cần
đắn đo xem có xúc phạm đến dân tộc hay không. Tình cảm tôn giáo của
người Công giáo Việt Nam mạnh hơn liên đới của họ với đất nước Việt Nam,
và áp đảo hẳn một chút lương thiện trí thức nào đó còn sót lại của tinh
thần đại học mà họ đã tiếp thu. Họ chỉ có một tiêu chuẩn để đánh giá: Có
lợi hay có hại cho Công giáo? Cho nên, để có lợi cho Công giáo, họ đã
lạy Trần Lục thì làm sao mà thờ Đinh Công Tráng và Phan Đình Phùng được,
vì có điều này thì không thể có điều kia”
Rồi tác giả tự hỏi:
“... Tôi vẫn thắc mắc tự hỏi
không biết các “bộ óc chiến lược” của người Công Giáo ở đâu mà không
thấy rằng càng ngụy biện bào chữa thì tội bán nước của Giáo hội càng bị
phát hiện nhiều thêm, càng tô son trét phấn cho cái gọi là “tinh thần
Ngô Đình Diệm” thì chân tướng phi dân tộc của tinh thần đó càng bị phát
lộ.”
Tôi cho rằng không phải là những “bộ
óc chiến lược” của người Công Giáo không thấy vấn đề này, nhưng đó là
sách lược cố hữu của giáo hội, một sách lược đã ăn sâu vào xương tủy của
người Công Giáo, và vì với một tâm cảnh nô lệ, được dạy phải “quên mình
trong vâng phục”, cho nên họ khó mà có thể làm khác được. Ở đây, lương
tâm trí thức không phải là vấn đề đối với họ, vấn đề chính là phải theo
đường lối của giáo hội: “Cứ người Công Giáo làm, bất kể người đó là Ta,
là Tây hay Tàu, thì Công Giáo Việt Nam phải nhắm mắt mà ca tụng.”, dù
nhiều khi những sự ca tụng vô căn cứ của họ đã trở thành khôi hài, lố
bịch, làm trò cười cho thiên hạ. Họ tin rằng, chỉ có như vậy họ mới hi
vọng lên được thiên đường, sống cuộc sống đời đời với một người Do Thái
đã cùng hai tên ăn trộm bị đóng đinh trên thập giá, chết và táng xác
cách đây 2000 năm. Đó là cái vòng kim cô đã xiết chặt trên đầu những
người Công Giáo trong nhiều thế kỷ.
Phật Giáo đã từng là nạn nhân của sự
áp bức và bạo hành của Công giáo, dựa thế thực dân Pháp, kể từ khi Pháp
xâm chiếm nước ta. Nhà Thờ Lớn Hà Nội, Nhà Thờ Đức Bà ở Sài-Gòn, nhà
thờ La Vang ở Quảng Trị v..v.. đều được xây trên đất cưỡng chiếm, nói
nôm na là ăn cướp, của Chùa. Nhưng chưa bao giờ sự bạo hành đối với
Phật Giáo lại lên đến mức độ như trong 9 năm cầm quyền của Ngô Đình
Diệm. Dung túng cho các Linh mục lộng hành, cưỡng chiếm bất động sản,
cưỡng ép cải đạo, giết người ngoại đạo, tấn công phá hủy chùa chiền, bạo
hành giết chóc sư sãi, Phật tử v..v.. Đó là những vết nhơ không bao giờ
có thể rửa sạch trên khuôn mặt của chính quyền Công giáo Ngô Đình Diệm.
Người Phật tử biết ít nhiều về đạo
Phật đôi khi cũng phải để tâm suy nghĩ: Cuộc tranh đấu của Phật Giáo
cách đây 40 năm ở miền Nam Việt Nam đúng hay sai? Bản chất cuộc tranh
đấu đó như thế nào, và bắt nguồn từ đâu? Đã có nhiều tài liệu viết về
vấn đề này, và gần đây nhất, cuốn sách dày hơn 500 trang: “Vietnamese
Engaged Buddhism – The Struggle Movement of 1963-1966”, tạm dịch là
“Phật Giáo Việt Nam Dấn Thân – Phong Trào Tranh Đấu 1963-1966” , của
Quán Như Phạm Văn Minh, Văn Nghệ xuất bản, CA., 2002, có thể nói là cuốn
sách đầy đủ nhất và chính xác nhất trong việc giải đáp những vấn đề
trên. Ở đây, tôi chỉ quan tâm đến một khía cạnh của phong trào tranh
đấu Phật Giáo xuyên qua chính sách cai trị của chính quyền Ngô Đình
Diệm.
Để tránh việc độc giả có thể quy kết
là những tài liệu trích dẫn thuộc loại thân Cộng Sản hay thân Quốc Gia,
tôi sẽ không trích dẫn tài liệu của những tác giả Việt Nam thuộc hai
phía Quốc, Cộng. Điều này không có nghĩa là trong những tài liệu đó
không có những chi tiết đúng. Việc trích dẫn những tài liệu ngoại quốc
không có nghĩa là vọng ngoại, hay tất nhiên những tài liệu đó phải là
đúng. Nhưng tôi tin rằng, những người ngoại quốc viết về Việt Nam như
các ký giả, giáo sư đại học, chính khách, nhà phân tích chính trị, quân
sự, xã hội v..v.., trước và sau 1975, trong thế giới Tây phương, rất có
thể có thiên kiến trong việc diễn giải sự kiện, nhưng không thể sai lầm
trong chính tự thân các sự kiện. Lương tâm nghề nghiệp, chỗ đứng trong
xã hội, và tiêu chuẩn trí thức trong những xã hội Tây phương không cho
phép họ gian dối, bịa đặt ra bất cứ một sự kiện nào. Họ có thể có
khuynh hướng thân Cộng hay thân Quốc Gia nhưng không thuộc phe nào và
không chịu áp lực của bất cứ thế lực nào, cho nên họ không có nhiệm vụ
phải tuyên truyền sai sự thực để ủng hộ bên nào. Do đó, phối hợp những
tài liệu của nhiều tác giả khác nhau về cùng một chủ đề, nếu chúng ta
thấy có những điểm tương đồng thì chúng ta phải tin tưởng rằng những
điểm đó không khác với sự thực là bao nhiêu.
Sau đây tôi sẽ trích dẫn một số nhận
định về con người Ngô Đình Diệm và chính quyền Ngô Đình Diệm của một số
tác giả ngoại quốc có tên tuổi. Qua những trích dẫn này, tôi hi vọng
độc giả có thể nhìn thấy ý nghĩa đích thực của phong trào tranh đấu Phật
Giáo 40 năm trước đây và không còn bị lừa dối bởi những luận điệu quái
gở như Phật Giáo thân Cộng, Phật Giáo làm “mất nước” (sic) v..v..của một
đoàn thể đã nổi tiếng là “đã phi dân tộc thì thể nào cũng phản dân
tộc.”
1. "Vietnam: Crisis of
Conscience" by Robert McAfee Brown, Abraham J. Heschel & Michael
Novak, Associated Press, New York 1967, p. 30:
Ký giả người Úc Denis Warner viết
“Trong nhiều năm, cái chế độ bạo ngược chuyên chế mà Tây phương đồng
minh với ở Saigon
(chế độ Ngô Đình Diệm) thì còn
tệ hơn là cái chế độ mà Tây phương đang chiến đấu để chống (chế độ
CS)”. Diệm và gia đình ông ta đã giết hoặc lưu đày tất cả những thế
đối lập. “Diệm đã mất đi sự tin cậy và trung thành của dân chúng” như
Bộ Trưởng McNamara đã nhận định ngày 26 tháng 3, 1964.
(The Australian writer Denis Warner
wrote that "the tyranny the West allied with in Saigon was in many years
worse than the tyranny it was fighting against." Diem and his family
had murdered or exiled all potential opposition. Diem had "lost the
confidence and loyalty of his people," as Secretary McNamara put it on
March 26, 1964.)
2. "Fire In The
Lake"
by Frances Fitgerald (Winner of the
Pulitzer Prize, Winner of the National Book Award, Winner of the
Bancroft Prize For History), Vintage Books, New York 1985, pp. 134-139:
Cái chất công giáo của Diệm,
không hề mở mắt hắn đến với những ý tưởng mới, mà chỉ thuyết phục hắn là
cai trị bằng nghi lễ và huấn thị đạo đức là có thể thành công, mà nó có
vẻ như vậy trong các làng mạc ở miền Bắc và Trung sống trong cái vỏ bằng
sắt và điều khiển bởi các linh mục.
Cái mà hắn ta không ý thức được
là cái kiểu cai trị thiển cận như vậy của các giáo xứ có thể thực hiện
chỉ vì người Pháp đã bảo vệ họ và tổ chức nền hành chánh quốc gia. Do
đó, tham vọng của hắn phục hồi xã hội cổ xưa giống như là của những tên
thực dân Pháp, coi mình như cha người ta, đã chống những chương trình
cải cách của những giới chức hành chánh nơi thành thị – sự khác biệt là
trong khi người Pháp giữ lãnh vực hiện đại cho riêng họ thì Diệm không
nhận ra được sự quan trọng của vấn đề hiện đại hóa. Đối với hắn, thế
giới hiện đại là Sài-Gòn, cái thị trấn ký sinh trùng đó đã trở nên béo
mập bởi máu của thôn quê và lợi lộc của Tây phương...
Những ký giả như Robert Shaplen
đã chỉ trích Diệm như làm cho những nông dân xa lánh vì những biện pháp
đàn áp của hắn.
Một số đông những giới chức và ký
giả, kể cả những người có nhiều kinh nghiệm và có khuynh hướng chính trị
khác nhau như Douglas Pike, Chester Bowles, và chuyên gia chống nổi
loạn người Anh, Robert Thompson, đều coi Diệm như là kẻ thù của chương
trình chống Cộng.
Trong tất cả những năm cầm quyền,
Ngô Đình Diệm chỉ có một đồng minh ở thôn quê, đó là những người Công
giáo, đặc biệt nhất là những người di cư từ ngoài Bắc vào. Ngay từ đầu,
Diệm dùng trong bộ máy hành chánh phần lớn là những người Công giáo, và
thiên vị các làng Công giáo đối với phần còn lại của quốc gia. Những
giới chức của Diệm, làm việc chặt chẽ với các linh mục, đem phần lớn
viện trợ Mỹ cho các làng Công giáo, và phần lớn những nông sản. Chúng
cho những người Công giáo quyền khai thác lâm sản và độc quyền sản xuất
loại hàng hóa nông sản mới do các kỹ thuật gia Mỹ đưa vào giúp. “Theo
đạo có gạo mà ăn” là một câu tục ngữ khi xưa của người Việt Nam dưới
thời Pháp thuộc. Dưới thời Diệm người dân Việt đã phải theo cái lệnh
này. Đặc biệt ở miền Trung, hàng ngàn người, trong vài trường hợp hầu
như toàn thể khu định cư, theo đạo để tránh những dịch vụ cỏ vê của
chính phu, hoặc để tránh biện pháp tái định cư trong vài vùng rừng rú
hay sình lầy gian khổ – để giúp những người Công giáo lân cận. Nuôi
người Công giáo trong sự tổn hại của phần còn lại của dân chúng, lẽ dĩ
nhiên, là một chính sách thiển cận, nhưng Diệm không thấy một đường lối
nào khác, và Mỹ cũng không đề nghị cho Diệm một đường lối nào khác.
(Diem's Catholicism, far from
opening him up to new ideas, only persuaded him that government by
ritual and moral instruction could work, as indeed it seemed to in the
ironclad, priest-ridden villages of the north and center.
What he did not realize was that such
parochial governments could operate merely because the French protected
them and organized the administration of the country. His ambition to
restore the old society therefore resembled that of the paternalistic
French colons who had opposed the reformist programs of the metropolitan
administrators - the difference being that while the French wished to
keep the modern sector for themselves, Diem did not recognize its
importance. For him, the modern world was Saigon, that parasite city
that fattened from the blood of the countryside and the lucre of the
West.
...Journalists, such as Robert
Shaplen, criticized Diem for alienating the peasants by his oppressive
measures.
..A host of officials and
journalists, including such experienced and politically diverse men as
Douglas Pike, Chester Bowles, and the British counterinsurgency expert,
Sir Robert Thompson saw Diem as the enemy of the anti-Communist project.
...In all the years of his reign Ngo
Dinh Diem found only one ally in the countryside, and that was the
Catholics, most particularly the northern refugees. From the beginning
he staffed his administration heavily with Catholics and favored the
Catholic villages over all the rest. The Diemist officials, working
closely with the priests, saw to it that the Catholic villages took the
bulk of US relief aid, the bulk of agricultural credit.
They gave the Catholics the right to
take lumber from the national reserves and monopoly rights over the
production of the new cash crops introduced by the American aid
technicians. "Turn Catholic and have rice to eat", went the old
Vietnamese saying under the French regime. Under Diem the South
Vietnamese continued to follow the injunction. In Central Vietnam
particularly, thousands of people, in some cases virtually whole
settlements, turned Catholics so as to escape the government corvés or
to avoid resettlement - for the benefit of their Catholic neighbors -
into some hardship zone of jungle and swamp. To feed the Catholics at
the expense of the rest of the population was, of course, a shortsighted
policy, but Diem saw no alternative, and the Americans offered him
none.)
3.
"Background to
Vietnam" by Bernard Newman.
Signet Books, New York 1965, p. 117:
Bất kể hiến pháp viết như thế
nào, Diệm cai trị như là một nhà độc tài. Triết lý chính trị của ông ta
dẫn xuất từ một nhóm Công giáo Pháp, những người đã đặt ra thuyết Nhân
Vị. Thuyết này nhấn mạnh đến nhân cách để chống với quan niệm đưa quần
chúng vào kỷ luật của Cộng Sản. (Thực ra, đây chỉ là một chiêu bài chống
Cộng vì trong cấu trúc toàn trị của Công Giáo thì tín đồ chỉ có quyền
vâng phục các bề trên, do đó làm gì có Nhân Vị. TCN). Chi tiết về
thuyết này phức tạp, khó hiểu đối với mọi người trừ một triết gia. Một
chuyên gia Mỹ được mời đến để cố vấn cho hệ thống thuế má địa phương mô
tả thuyết Nhân Vị như là “một pha trộn lộn xộn của những sắc lệnh của
giáo hoàng và kinh tế mẫu giáo, tổ hợp với một sự nghi ngờ những tư nhân
thương gia, một sự e ngại đầu tư ngoại quốc, và một quan niệm là không
thể thành đạt được gì nhiều ở Việt Nam nếu không có sự kiểm soát của
chính phủ.”
Trên thực tế chính phủ đây là
chính phủ Diệm.
...Ngày tháng qua, cách cai trị
của Diệm càng ngày càng trở nên không thể chịu được, và tới năm 1963 hắn
là một nhà độc tài hoàn toàn, chỉ nghe những thân nhân trong gia đình.
Hắn hoàn toàn xa lạ với quần chúng. Người ta phàn nàn là hắn đã trao
những chức vụ tốt nhất cho người Công giáo: nhưng những người Công giáo
là “người ngoại quốc” – những người di cư từ ngoài Bắc vào. Sự bất mãn
đưa đến phong trào chính trị của Phật Giáo.”
(Whatever the constitution might
say, Diem ruled as a virtual dictator. His political philosophy was
derived from a group of French Catholics, who formulated a doctrine
known as Personalism. It emphasises human dignity as opposed to the
Communist concept of disiplined masses. Its detail is complicated, and
difficult of comprehension to all but a philosopher. An
American expert who was called in to
advise on the local system of taxation described Personalism as "a
confused mélange of papal encyclicals and kindergarten economics,
combined with a suspicion of private businessmen, a fear of foreign
capital, and an attitude that little could be accomplished in Vietnam
without direct government control."
In practice, it meant government by
Diem.
...With the passing months Diem's
attitude became more intolerable, and by 1963 he was the complete
dictator, seeking advice only from his immediate relatives. He was
completely aloof from the common people. It was complained that he gave
all the best posts and showed all the favor to Catholics: but the
Catholics were "foreigners" - refugees from the North Vietnam. The
resentment brought about the rise of a Buddhist political movement.)
4. "Backfire:
Vietnam - The Myths That Made Us Fight,
the Illusions That Help Us Lose, The Legacy That Haunts Us Today"
by Loren Baritz, Ballantine Books, New York 1985, pp. 83-85:
Công giáo Việt
Nam phát triển do chính sách kỳ thị
Phật Giáo một cách có hệ thống của Ngô Đình Diệm. Người Công giáo được
dùng trong các dịch vụ dân sự, trong khi những người Công giáo sống
trong những làng mạc thường không bắt buộc phải làm những công việc nặng
nhọc làm đường xá và những việc công cộng. Không giống như những Chùa
Phật Giáo, nhà thờ Công giáo được đặc quyền sở hữu tài sản đất đai, cũng
như trong thời Pháp thuộc. Với thời gian, sự kỳ thị đối với tuyệt đại đa
số dân chúng này đưa đến những phản đối chính trị chống Diệm của những
nhà sư Phật Giáo.
...Diệm làm cho người Mỹ khó chịu
không chỉ vì đường lối cai trị của hắn. Hắn thích thú trong việc đàn áp
những đối lập chính trị mà hắn đã bắt giữ lên tới 40000 người. Đầu năm
1959, Diệm hợp thức hóa sự tàn bạo của mình bằng sự thiết lập những tòa
án quân sự để xử những đối lập chính trị và xử tử hình trong vòng ba
ngày. Những tòa án này bắt giữ, điều ta, và tuyên án những kẻ phạm tội.
Diệm hăng say đóng cửa những nhà
báo không ủng hộ hắn. Tệ hơn cả, hắn dẹp bỏ cấp lãnh đạo trong các làng
mạc và thay thế họ bằng những người của Diệm. Hắn đã trở thành một nhà
độc tài.
(The Catholic Vietnamese thrived
under Diem's systematic discrimination against the Buddhists. The
Catholics were preferred in the civil service, while those who lived in
the villages were not always required to do the hard labor of building
roads and other public works. The Catholic Church, unlike the Buddhist
Pagodas, had special rights to acquire and own property, as had been the
case under the French. In time, this discrimination against the vast
majority of the country would lead to politically lethal protests
against Diem by the Buddhist bonzes.
...Diem annoyed Americans not only
because his personal way of doing things. He was an enthusiast when it
came to repressing his political opponents, of whom he arrested upwards
of 40,000. In early 1959, Diem legalized his brutality by creating
special military courts to try political opponents and to pass sentences
of death in no more than three days. These courts made the arrests,
conducted the inquiries, and sentenced the guilty.
...Diem closed newspapers that did not
support him with the requisite fervor. Worst of all, he destroyed the
leadership in the villages and replaced it with his own appointees. He
had become a dictator.)
5. "A Bright Shining Lie" by
Neil Sheehan, Vintage Books, New York 1989, p. 143:
Lansdale để cho những tiên kiến
của mình đưa tới những giả định sai lầm... Lansdale nghĩ rằng những
người Công giáo di cư từ miền Bắc là những người yêu nước đã “chiến đấu
giành lại sự tự do của đất nước từ người Pháp”. Hắn không nhìn thấy sự
sai lầm nào trong vấn đề Mỹ chỉ tin cậy vào sự trợ giúp đặc biệt của
người Công Giáo. Hắn không nhìn thấy vấn đề có một người Công Giáo làm
tổng thống của cái mà hắn quan niệm là “Việt Nam Tự Do” là không thích
hợp.
Công giáo Rô Ma là một thiểu số
có nhiều tỳ vết ở Việt Nam. Lansdale lo việc phân biệt giữa người Mỹ và
những tên “thực dân” Pháp. Điều hắn làm là đưa ra sự phân biệt tuy
chẳng có gì khác nhau.. Chỉ dựa vào người Công giáo giúp đỡ, và bằng
cách đặt một người Công Giáo lên cầm quyền ở Saigon, hắn ta đã chứng tỏ
là Mỹ đã nhảy vào thay thế người Pháp. Những người Việt Nam theo đạo
Công giáo đã được người Pháp sử dụng như là một đạo quân thứ 5 để xâm
nhập Việt Nam trước thời thuộc địa và những người Công Giáo đã được Pháp
tưởng thưởng cho sự hợp tác của họ với những tên thực dân Pháp. Người
Công Giáo thường bị coi như là thuộc một tôn giáo”ngoại lai”, “không
phải là Việt Nam”. Với sự ra đi của người Pháp, hiển nhiên là người
Công Giáo phải tìm một một ngoại bang khác để bảo vệ họ. Họ nói với
Lansdale những gì mà họ cho rằng Landale muốn nghe...
..Trong sự hướng dẫn Diệm của
Lansdale đến thành công bằng cách diệt các giáo phái dựa trên lý thuyết
Diệm là Magsaysay để lập một chính phủ tập trung quyền lực mới, không
bao giờ Lansdale lại nghĩ rằng Diệm bắt đầu chính sách cai trị của mình
bằng cách loại bỏ những người chống Cộng hữu hiệu nhất ở miền Nam.
Dòng họ Ngô Đình tiến tới sự áp
đặt trên miền Nam Việt Nam cái tôn giáo Công giáo ngoại lai của họ, đảng
Công giáo bảo thủ từ ngoài Bắc vào và từ vùng quê hương của họ ở miền
Trung. Diệm và gia đình bổ nhiệm những sĩ quan chỉ huy đơn vị, những
nhân viên hành chánh và cảnh sát bằng những người Công giáo, từ miền Bắc
và từ miền Trung, quê hương của Diệm. Diệm và gia đình hắn bổ nhiệm
những người Công giáo vào cấp chỉ huy quân đoàn, hành chánh và cảnh
sát. Nông dân ở miền đồng bằng sông Cửu Long thấy mình bị cai trị bởi
những tỉnh trưởng, hạt trưởng, bởi những viên chức hành chánh ngoại lai
và thường là cao ngạo và tham nhũng...
(Lansdale let his preconceptions
lead him to false assumptions...Lansdale thought the Catholic refugees
from the North were Vietnamese patriots who had "fought for their
country's freedom from the French"..He saw nothing wrong with the US
singling out these Catholics for special assistance. He saw nothing
inappropriate about having a Catholic as president of what he perceived
to be a "Free Vietnam"
Roman Catholics were a tainted
minority in Vietnam. Lansdale was anxious to draw a distinction between
Americans and French "colonialists." What he did was to make the
distinction one without a difference...By singling out the Catholics for
help, and by putting a Catholic in office in Saigon, he announced that
the US was stepping in to replace the French. Vietnamese converts to
Catholicism had been used by the French as a fifth column to penetrate
precolonial Vietnam and then had been rewarded by the colonizer for
their collaboration. They were popularly regarded as a
foreign-inspired, "un-Vietnamese" religious sect. With the French
leaving, the Catholics were naturally seeking another foreign
protector. They told Lansdale what they sensed he wanted to hear.
...As Lansdale guided Diem to success
in crushing the sects on the theory that Diem was the Magsaysay to form
a new and central government, it would never have occured to Lansdale
that Diem was beginning his rule by eliminating the most effective
OPPONENTS of the Communists in the South.
...The Ngo Dinhs proceeded to impose on
South Vietnam what amounted to their own alien sect of Catholics,
Northern Tories, and Central Vietnamese from their home region. Diem
and his family filled the officer corps of the army and the civil
administration and the police with Catholics, Northerners, and Central
Vietnamese they trusted. The peasants of the Mekong delta found
themselves being governed by province and district chiefs, and by civil
servants on the province and district administrative staffs, who were
outsiders and usually haughty and corrupt men.)
6. "American in Vietnam" by Dr.
John Guilmartin, United Press International/Bettmann, England 1991,
p.69:
Những ảnh hưởng đối nghịch của sự
thiếu khả năng và tính toán sai lầm của Diệm không chỉ chấm dứt ở sự
thất bại về quân sự chống Việt Cộng. Nghi ngờ tất cả những người không
có cùng đức tin Công giáo của mình, và hoan hỉ với sự thành công trong
việc dẹp bỏ các giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo, họ khởi sự chiến dịch
chống Phật Giáo.
(The adverse effects of the Diem's
ineptitude and miscalculation did not end with military failure against
the Viet Cong. Suspicious of all who did not share their Catholic
faith, and having enjoyed success in suppressing the Hoa Hao and Cao
Dai, they embarked on an anti-Buddhist campaign.)
7. "Vietnam: The Valor and the
Sorrow" by Thomas D. Boettcher, Little Brown & Company, Boston 1985,
p.150:
“Trong 10 đô la viện trợ thì 8
được dùng cho nội an chứ không dùng cho công tác chiến đấu chống du kích
Cộng sản hay cải cách ruộng đất. Diệm lo lắng về những cuộc đảo chánh
hơn là Cộng sản.
...Như là hậu quả của những biện
pháp đàn áp càng ngày càng gia tăng, sự bất mãn của quần chúng đối với
Diệm cũng càng ngày càng tăng, bất kể là toan tính của Diệm dập tắt sự
bất mãn này trong mọi cơ hội. Hàng triệu nông dân ở những vùng quê trở
thành xa lạ đối với Diệm. Không lạ gì, hoạt động của Cộng sản gia tăng
cùng với sự bất mãn của quần chúng. Và những biện pháp đàn áp của Diệm
cũng gia tăng theo cùng nhịp độ. Nhiều ngàn người bị nhốt vào tù.
Cho tới năm 1960, điều khác biệt
duy nhất giữa hai chính quyền Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh là ở những lá
cờ của họ.”
(Eight of ten American aid dollars
went for internal security, not to fight Communist guerrillas or
implement reforms such as land redistribution. Diem was more worried
about coups than Communists.
..As a consequence of his increasingly
repressive internal measures, popular discontent with Diem gradually
intensified, despite his attempt to squelch it at every opportunity.
The millions of peasants in the countryside became estranged from him..
Not surprisingly, Communist activity intensified as discontent
increased. And Diem's repressive measures increased accordingly.
Thousands were put in jail..
By 1960, the only difference between
the governments of Ngo Dinh Diem and Ho Chi Minh was their flags.)
8. "The Indochine Story" by the
Committee of Concerned Asian Scholars, A Bantam Book, New York 1970, pp.
32 & 34:
“Một nhân vật Mỹ ủng hộ Diệm lúc
đầu kết luận: Lạm dụng quyền lực, độc tài, tham nhũng, coi thường cấp
dưới, và không đếm xỉa gì đến nhu cầu của dân chúng một cách ác độc, đó
là tấm gương mà gia đình họ Ngô để cho những bộ trưởng, nhà lập pháp,
tướng lãnh, tỉnh trưởng, trưởng làng mà họ Ngô dùng như những quân cờ
noi theo.
Đàng sau gia đình nhà Ngô là Mỹ.
Ở dưới gia đình này chẳng có gì mấy. Gia đình này đã trải cái bóng của
họ trên xã hội Việt Nam; tuy nhiên cái rễ của họ thật sự chỉ cắm nông
vào đất Việt. Điều này định trước những phương pháp Diệm dùng để kiểm
soát đất nước... Chỉ có một đường lối: đàn áp và củng cố quyền lực
trong tay những anh em và thuộc hạ của Diệm.. Săn lùng toàn diện những
người bất mãn được tổ chức ở thôn quê năm 1956, và tăng gia cường độ khi
tình hình suy kém.
75000 người hay hơn nữa bị giết
trong chiến dịch này. Còn nhiều người hơn nữa bị tống giam bởi sắc
lệnh số 6 của tổng thống, ký trong tháng 1, 1956. Sắc lệnh nói: “Những
cá nhân coi là nguy hiểm cho quốc phòng và an ninh chung có thể bị bắt
giam trong những trại tập trung do lệnh của cơ quan hành pháp. Tình
trạng trong những trại tập trung của Diệm, chỉ bị phanh phui sau khi
Diệm đổ, thật sự nhơ nhớp. Cố ý để cho chết đói, cố ý làm cho mù, cố ý
hành hạ..., danh sách này thật là dài.”
(An early American supporter of Diem
concluded: Abuse of power, nepotism, corruption, contempt for inferiors,
and cruel disregard of the needs of the people were the example set
by the Ngo's "Family" for the ministers, legislators, generals, province
chiefs, and village commissioners whom they used as pawns.
Behind the family stood the US.
Below it stood very little at all. It threw its shadow over all
Vietnamese society; yet its roots penetrated shallowly indeed into
Vietnamese soil. This predetermined the methods by which Diem could
extend his control over the country...Only one way was open: repression
and further consolidation of power in the hands of his brothers and
their followers...Full scale manhunts against dissidents were organized
on the rural areas in 1956, and increased in later years as the
situation deteriorated.
75,000 or more people were killed in
this campaign. As many or more were incarcerated under Presidential
Ordinance No. 6, signed in January 1956 "Individuals considered
dangerous to national defense and commun security," it said, could be
confined by executive order in a "concentration camp." Conditions in
Diem's "reeducation centers," brought to light only after his overthrow
in 1963, were sordid indeed. Deliberate starvation, deliberate
blinding, deliberate maiming. The list is long."
9. "The Story of Vietnam" by
Hal Dareff, An Avon Camelot Book, New York 1966, p. 108:
“Nay Diệm đã thắng mọi kẻ thù,
anh em nhà Diệm muốn chắc rằng không ai có thể bứng họ đi. Ở ngoài mặt,
Nam Việt Nam là một thể chế Cộng Hòa với một hiến pháp mới toanh hứa hẹn
tự do và dân chủ cho quần chúng. Tuy nhiên, thực tế thì lại trái ngược
hẳn... Nhu là cánh tay phải của Diệm.. Hắn tổ chức gian lận bầu cử, đưa
vào quốc hội những tay sai của hắn, và sai bọn Cần Lao đi rình mò khắp
nước để kiếm những người chống đối hắn.
Chế độ Diệm bắt đầu thoái trào
vào đầu năm 1963. Tổng thống cai trị dân trong dinh thự của mình như là
một thể chế quân chủ, cắt lìa khỏi quần chúng. Sự thù ghét Diệm và gia
đình hắn gia tăng đến độ người ta có thể cảm thấy đầy trong bầu không
khí ở Saigon. Tin đồn về đảo chánh loan truyền trong thành phố hầu như
hàng ngày. Trong những hoàn cảnh như vậy, Diệm chỉ lo bám chặt vào
quyền lực. Cuộc chiến (chống Cộng) trở thành thứ yếu. Sĩ quan được
thăng cấp nếu giữ được mức tổn thất thấp. Chỉ có một cách chắc chắn giữ
được như vậy – không tác chiến. Không tác chiến đã trở thành một cách
sống đối với một số cấp chỉ huy và là cách duy trì địa vị.
...Cuộc tranh chấp giữa Diệm và
các Phật tử đã được tích lũy kể từ ngày Diệm lên làm thủ tướng năm
1954. Diệm, một tín đồ Ca Tô, đương nhiên là cảm thấy thoải mái hơn đối
với những tín đồ Ca Tô khác. Nhiều chức vụ chỉ huy trong chính quyền và
quân đội được trao cho những người Ca Tô, những người này được đặc quyền
đặc lợi làm tiền trong những thương vụ của chế độ.
Trong số 15 triệu dân ở miền Nam
Việt Nam, hơn 1 triệu một chút là người Ca Tô. Phần còn lại, phần lớn
là Phật tử, phẫn nộ vì chính sách thiên vị người Ca Tô. Sự đối xử khác
biệt này còn trắng trợn hơn ở các tỉnh lỵ, nơi đây các linh mục địa
phương và các giới chức chính quyền, hầu hết là Ca Tô, có toàn quyền.
Khi các ấp chiến lược được dựng lên, những người Ca Tô được miễn làm
việc và những người phi-CaTô bị đưa vào chỗ thay thế họ để làm những
công việc lao dịch. Những vùng đất mới được mở mang và phát triển,
người Ca Tô được chọn những miền đất phì nhiêu ở những miền duyên hải có
an ninh. Những đất đai dành cho Phật tử ở sâu trong nội địa, ở đây họ
phải lao động dưới sự đe dọa của Việt cộng. Nhiều Phật tử theo đạo
(không có nghĩa là tin đạo.
CTN) để được sống dễ dàng hơn.”
(Now that Diem had won out over all his
foes, the brothers wished to make sur that no one else would unseat
them. On the surface, South Vietnam was a republic with a brand-new
constitution promising freedom and democracy to its people. In
practice, however, the very opposite was true...Nhu was Diem's right
arm...He fixed elections, packed the National Assembly with his henchmen
and hirelings, and sent his Can Lao prowling the country in search for
dissidents..
Twilight had begun to settle over the
regime of Ngo Dinh Diem as the year 1963 began. The president ruled in
his palace like a monarch cut off from his people. Hatred of him and
his family mounted until the air of Saigon seethed with it. Runors of
plots and coups swirled through the city almost daily. In these
circumstances, Diem sought only to hold on to his power. The war became
secondary. Officers were promoted when they kept the casualty lists
down. There was only one sure way to do that - not to fight. Not
fighting became a way of life with some commanders and a way of keeping
their jobs.
...A showdown between Diem and the
Buddhists had been building ever since he became premier in 1954. Diem,
a Catholic, naturally felt more at home with other Catholics. Many of
the leading posts in the government and army were held by Catholics, who
were also privileged when it came to making money out of business deals
engineered by the regime.
Of the 15 million people of South VN,
a little more than a million were Catholic. The rest, mainly Buddhist,
resented the favoritism shown Catholics. The difference in treatment was
even more blatant in the provinces where the local priests and
government officials, mostly Catholic, too, were all-powerful. When
strategic hamlets were built, the Catholic inhabitants were exempted
from working and non-Catholics were brought in to labor in their
places. When new land was opened for development, Catholics got the
pick of the land in the safe coastal regions. The land given to
Buddhists was inland, where they would have to work under the menacing
shadow of the Viet Cong. Many Buddhists, seeing where the grass was
greener, tried to become Catholics.)
10. "The Two Viet-Nams" by
Bernard B. Fall, Frederik A. Praeger Publisher, New York 1967, p. 250:
“Trong số những người lên cầm
quyền cùng với Diệm năm 1954-55, KHÔNG MỘT NGƯỜI NÀO còn giữ chức vụ bộ
trưởng khi Diệm bị giết năm 1963. Một vài người bị lưu đày ở Pháp hoặc
Mỹ, và một vài người rút lui với thái độ trông chờ ở
Saigon. Một sự dập theo những phương
pháp toàn trị của Cộng sản Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng của Ngô Đình
Nhu. Đảng này trở thành một hệ thống quyền lực hoàn toàn giống như của
Cộng sản, với những thành viên mật và chỉ biết nhau trong những tổ 5
người, và những “nhóm hành động” có nhiệm vụ dẹp bỏ mau chóng và kín đáo
những người đối lập... Như vậy, chế độ Diệm sai lầm trong hai phương
diện: Quân đội không bao giờ thực sự hữu hiệu, và các sĩ quan ở quân
đoàn thì không trung thành với những ông chủ dân sự và nhắm mắt làm ngơ
trước sự thất bại của chế độ.
Trong sự mô tả đảng Cần Lao, John
C. Donnell định nghĩa Cần Lao như là “một đảng chính trị mạnh gồm những
thành viên thường tin rằng mình thuộc những đảng chính trị khác và ngự
trị những đảng này.” Nói cách khác, những hoạt động trong hệ thống nội
bộ của họ y hệt như của đảng Cộng sản: dò thám bạn bè, xâm nhập đồng
minh, và hoạt động như “một quốc gia trong một quốc gia” trong chính
guồng máy chính quyền của mình. Nếu không còn cái gì khác, những điều
trên có thể làm cho chế độ Nam Việt Nam mang nhãn hiệu một loại “dân chủ
của quần chúng” chống-Cộng mà sự khác biệt lớn nhất đối với người anh em
song sinh Cộng sản Bắc Việt Nam là thái độ hành trì Ca-Tô và là sở hữu
chủ của những đồn điền cao su.”
(Of the men who came to power with
Diem in 1954-55, NOT ONE still held a cabinet portfolio when he was
murdered in 1963. Some were sent into exile in France or the US, and a
few simply retired and maintained a "wait-and-see" attitude in Saigon.
Another imitation of Communist totalitarian methods was Ngo Dinh Nhu's
Can-Lao Nhan-Vi Cach Mang Dang, which became the perfect hierarchie
paralle’le, with its secret membership and five-men cells whose members
knew only each other, and "action groups" that could swiftly and quietly
do away with bothersome oppositionists...As it was, the Diem regime
erred on both counts: Its army never became really proficient, and its
officer corps remained disloyal to its civilian masters and connived in
their demise.
In his description of the Can Lao,
John C. Donnell defined the Can-Lao as a "powerful elite political party
whose members are commonly believed to belong to other political parties
also and to dominate them." In other words, it did within its own
system exactly what a Communist Party would do: It spied on its own
friends, infiltrated its own allies, and acted as a "state within a
state" in its own government's machinery. If nothing else, this would
brand the South Vietnamese regime as a sort of anti-Communist "people's
democracy" whose major difference from its Communist North Vietnam TWIN
was its attitude toward the practice of Catholicism and the ownership of
rubber plantations.)
11. "An Eye For The Dragon" by
Dennis Bloodworth; Farrar, Straus & Giroux, New York 1970, p. 209:
“Cho tới năm 1963 mật vụ của Diệm
đã bắt giữ hoặc đẩy vào tay những kẻ thù hầu như mọi người quốc gia có
tên tuổi đã chiến đấu cho tự do của đất nước trong 20 năm trước. Hắn và
gia đình hắn đã đàn áp mọi đối lập, chất đầy nhà tù, bịt miệng báo chí,
gian lận bầu cử, và bám vào quyền lực.”
(...By 1963 Diem's secret police had
picked up or pushed into the arms of his enemies nearly every prominent
nationalist who had fought for the freedom of his country during the
previous 20 years. He and his familly suppressed all opposition, filled
the jails, muzzled the press, rigged the elections, and clung to all
power..)
12. " Intervention and Revolution"
by Richard J. Barnet, A Meridian Book, New York 1972, pp. 233-235:
“Khuyến cáo rằng “nếu bầu cử được
tổ chức ngày nay (1956) thì tuyệt đại đa số dân Việt sẽ bầu cho Cộng
sản,” Cherne tuyên bố rằng uy tín của Mỹ ở Á Châu tùy thuộc vào sự ngăn
chận cuộc bầu cử này. Phương pháp giải quyết là củng cố lớp người Ca Tô
ở miền Nam Việt Nam, chỉ có những người này mới có lý do thuộc về lý
tưởng chống Cộng. Nhà văn Ca Tô người Anh, Graham Greene, đã mô tả việc
Mỹ sử dụng giáo hội Ca Tô trong cuộc chiến tranh lạnh ở Việt Nam như
sau:
Chính cái ý hệ Ca Tô đã giúp làm
cho chế độ của ông Diệm sụp đổ, vì sự sùng tín của ông ta đã bị các cố
vấn Hoa Kỳ khai thác cho đến khi giáo hội Ca Tô ở Việt Nam ở trong cơ
nguy cùng chung số phận bất thiện cảm của người dân Việt đối với
Mỹ...Những khoản tiền to lớn được dùng để tổ chức những cuộc đón tiếp
quan khách ngoại quốc và tạo nên ý niệm giáo hội Ca Tô là của Tây phương
và là đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến tranh lạnh. Trong những trường
hợp hiếm hoi mà Diệm đi kinh lý những vùng trước đây bị Việt Minh chiếm,
bao giờ cũng có một linh mục ở bên cạnh, và thường là một linh mục Mỹ...
Điều quan tâm chính của chính
quyền Diệm là sự an toàn của chính quyền. Chính quyền Diệm sợ rằng cuộc
bầu cử dự định tổ chức vào tháng 7, 1956 đưa đến sự thắng lợi của Hồ Chí
Minh và chấm dứt quyền lực của những chính trị gia không Cộng sản..
Những ước tính của cơ quan tình
báo quốc gia CIA, soạn trong tháng 2, 1957, mô tả chế độ Diệm như sau:
Chế độ Diệm phản ánh ý nghĩ của
Diệm. Một bộ mặt chính quyền đại diện cho dân được duy trì, nhưng thực
chất chính quyền là độc tài. Quyền lập pháp của quốc hội bị hạn chế
gắt gao; quyền tư pháp chưa phát triển và tùy thuộc quyền hành pháp; và
những nhân viên trong ngành hành pháp không gì hơn là những tay sai của
Diệm. Không có một tổ chức đối lập nào, dù trung thành hay không, được
phép thành lập, và mọi chỉ trích chính quyền đều bị đàn áp...Quyền lực
và trách nhiệm tập trung nơi Diệm và một nhóm nhỏ gồm có những thân nhân
của Diệm, những người quan trọng nhất là Nhu và Cẩn.”
Chế độ độc tài của Diệm, dựa trên
một mạng lưới mật vụ, tòa án quân sự, và công chức tham nhũng, tuyên bố
không những chiến đấu chống Cộng mà cho tới năm 1957 Cộng sản vẫn chưa
có hoạt động gì, mà còn chống bất cứ nhóm nào không chắc là trung thành
với Diệm. Thật vậy, nhiều người không-Cộng-sản vào tù hơn là người Cộng
sản.
...Sự chuyên chế của Diệm, sự
thiên vị trơ trẽn của hắn đối với những người Ca Tô tị nạn từ ngoài Bắc
vào so với phần còn lại của dân chúng, và sự bạo hành của hắn đối với
mọi người không đồng quan niệm chính trị với hắn đã tạo nên một sự liên
kết chống hắn mà hắn rất sợ.”
(Warning that "if the elections were
held today the overwhelming majority of Vietnamese would vote
Communist," Cherne declared that American prestige in Asia was dependent
upon preventing that result. The answer was to strengthen the Catholic
faction in South Vietnam, who alone among Vietnamese had ideological
reasons to be against the communists. The British Catholic writer
Graham Greene has described the American use of the Catholic Church
in fighting the Cold War in Vietnam:
It is a Catholicism which has
helped to ruin the government of Mr. Diem, for his genuine piety...has
been exploited by his American advisors until the Church is in danger of
sharing the unpopularity of the US...Great sums are spent on
organized demonstration for the visitors, and an impression is given
that the Catholic Church is occidental and an ally of the US in the
cold war. On the rare occasions when Mr. Diem has visited the areas
formerly held by the Viet Minh, there has been a priest at his side, and
usually an American one.
...The major interest of the Diem
government was its own security. It feared that the elections scheduled
for July, 1956, would spell a victory for Ho Chi Minh and the end of
power for noncommunist politicians....
The CIA national intelligence
estimates prepared in February, 1957, described the Diem regime in these
words:
Diem's regime reflects his idea.
A facade of representative government is maintained, but the government
is in fact essentially authoritarian. The legislative powers of the
National Assembly are strictly circumscribed; the judiciary is
underdeveloped and subordinate to the executive; and the members of the
executive branch are little more than the personal agents of Diem. No
organized opposition, loyal or otherwise, is tolerated, and critics of
the regime are often repressed...The exercice of power and
responsibility is limited to Diem and a very small circle mainly
composed of his relatives, the most important being Nhu and Can.
...Diem's dictatorship, supported with
a network of informers, military tribunals, and corrupt functionaries,
declared war not only on the communists, who until 1957 were quiescent,
but also against any group whose personal loyalty was not assured.
Indeed, more non-communists than communists ended up in Diem's jails.
...Diem's despotism, his shameless
favoring of Catholic refugees from the North over the rest of the
population, and his persecution of all political dissidents produced the
coalition against him that he dreaded.)
13. "Vietnam Revisited" by
David Dellinger, p. 35:
Ngay từ lúc đầu Diệm đã có khuynh
hướng toàn trị và gia đình trị mà 8 năm sau dư luận quần chúng lên án
chính quyền của hắn.
“Khuynh hướng toàn trị” của Diệm
đã đưa đến việc thành lập một đảng chính trị riêng tư, đảng cần Lao, một
đảng duy nhất.
Đảng Cần Lao cũng phục vụ hắn như
là mật vụ, dập theo khuôn mẫu của Nhật Bản trong Thế Chiến II – mà Diệm
đã nghiên cứu kỹ chi tiết.
Như chúng ta đã thấy, đảng này đã
giết hại 90000 người và cầm tù 800000 trong đó có nhiều người bị tra
tấn.
..Khi Diệm về Việt Nam năm 1954,
một người CaTô theo lệnh của một thế lực ngoại quốc về cai trị một nước
mà 80% là Phật tử, CIA đã thuê vài trăm người để hoan hô hắn tại bến
tàu. Nhưng cả CIA lẫn những giới chức Mỹ ủng hộ Diệm đều không làm sao
làm ngược được sự kiện là Diệm không có sự ủng hộ của quần chúng, chính
sách đàn áp đẫm máu của Diệm đối với từ các nhà sư Phật giáo và các tín
đồ Hòa Hảo, Cao Đài cho tới những nông dân yêu nước, giới tư sản tôn
trọng luật pháp, trật tự và một chút công lý, và những tướng lãnh đối
thủ – “kéo theo (và đã xảy ra) tất cả những khó khăn vì một con người
với nhân cách như vậy.”
(From the very beginning Diem
displayed that tendency toward autocracy and family rule for which the
mass media would belatedly condemn his administration 8 years later.
Diem's "tendency toward autocracy"
led to the formation of a private political party, the Can Lao, which
was the only party.
The Can Lao also served as a secret
police, modeled after the system the Japanese used in Vietnam during
WWII - which Diem had studied in detail.
It also produced, as we have seen,
the death of 90,000 opponents and the imprisonment of another 800,000,
with many of them tortured...
...When Diem first arrived in
Vietnam in 1954, a Catholic coming to rule at the behest of a foreign
power in a country whose population was 80% Buddhists, the CIA had hired
a crowd of several hundred "welcomers" to greet him at the dock.
But not even the CIA and Diem's more
respectable US backers could permanently counteract his lack of an
indigenous base, his bloody suppression of all opposition, from Buddhist
monks and members of the Hoa Hao and Cao Dai indigenous religions to
peasant patriots, bourgeois devotees of law, order and a modicum of
justice, and rival generals - "all the difficulties the presence of such
a personality would [and did] entail.")
14. "Vietnam: Why Did We Go?"
by Avro Manhattan, Chick Publication, California 1984, pp. 56 & 89:
“Tổng thống Ngô Đình Diệm của Nam
Việt Nam là một ngưòi theo đạo Ca Tô cai trị Nam Việt Nam bằng một bàn
tay sắt. Hắn ta thật tình tin rằng Cộng sản là ác và giáo hội Ca Tô là
duy nhất. Hắn đã được hồng y Spellman và giáo hoàng Pius XII trồng và
cái ghế tổng thống. Hắn đã biến cải ngôi vị tổng thống thành một nhà
độc tài Ca Tô, tàn nhẫn nghiền nát những đối lập chính trị và tôn giáo.
Nhiều nhà sư Phật giáo tự thiêu để phản đối những sự bạo hành tôn giáo
của hắn. Sự bạo hành kỳ thị đối với người phi-CaTô, đặc biệt là các
Phật tử, đã gây nên sự rối loạn trong chính phủ và trong quân đội thì
quân nhân đào ngũ hàng loạt. Điều này đưa đến sự can thiệp quân sự của
Mỹ.
Trong chính sách khủng bố này hắn
được sự phụ giúp của hai người anh em Ca Tô, người đứng đầu mật vụ (Ngô
đình Nhu) và tổng giám mục ở Huế (Ngô đình Thục).
Người ta ghi nhận rằng, và những
con số sau đây tuy không được chính quyền chính thức khẳng định nhưng có
thể coi là đáng tin cậy, là trong thời gian kinh hoàng từ 1955 đến 1960
– ít nhất là có 24000 người bị thương, 80000 bị hành quyết hay bị ám
sát, 275000 người bị cầm tù, thẩm vấn hoặc với tra tấn hoặc không, và
khoảng 500000 bị đưa đi các trại tập trung. Đây chỉ là những con số ước
tính bảo thủ, khiêm nhường.
Đặt quyền lợi quốc gia ra đàng sau
để đẩy mạnh quyền lợi tôn giáo của hắn, kết quả là tên độc tài Diệm đã
đưa đất nước xuống vực thẳm.”
(President Ngo Dinh Diem of South
Vietnam was a practicing Catholic who ruled South Vietnam with an iron
fist. He was a genuine believer in the evil of Communism and the
uniqueness of the Catholic Church. He had originally been "planted"
into the presidency by Cardinal Spellman and Pope Pius XII. He
transformed the presidency into a virtual Catholic dictatorship,
ruthlessly crushing his religious and political opponents. Buddhist
monks committed suicida by fire, burning themselves alive in protest
against his religious persecutions. His discriminatory persecution of
non-Catholics, PARTICULARLY BUDDHISTS, caused the disruption of the
government and mass desertions in the army. This eventually led to US
intervention in South Vietnam.
In this terrorization he was aided
by his two Catholic brothers, the Chief of the Secret Police and the
Archbishop of Hue.
...It has been reckoned, and the
figures although lacking any official confirmation are considered to be
concretly reliable, that during this period of terror - that is from
1955 to 1960 - at least 24,000 were wounded, 80,000 people were executed
or otherwise murdered, 275,000 had been detained, interrogated with or
without torture, and about 500,000 were sent to concentration or
detention camps. This is a conservative estimate.
...With the result that by relegating
the interest of his country to the background, so as to further the
interests of his religion, dictator Diem finally brought his land into
the abyss.)
15. "Nobody Wanted War" by Ralph
K. White, A Doubleday Anchor Book, New York 1970, p. 91:
“Diệm, người em dở điên và vợ hắn
(Nhu và vợ), đã làm cho mọi nhóm quan trọng trong nước, kể cả nhóm chống
Cộng thực tế nhất, nhóm này đã thấy rõ gia đình Diệm đã hạ thấp và làm
yếu đi cuộc tranh đấu chống Cộng, và sau cùng cả những sĩ quan cao cấp
trong quân đội, những người mà mọi tên độc tài không được lòng người
phải trông cậy vào họ để sống còn, xa lìa.
Theo Malcolm Browne, chế độ Diệm
đã bị cả nước oán ghét. Nếu nhà Ngô còn cầm quyền cho đến ngày nay
(1965) thì chắc chắn là Việt Nam sẽ hoàn toàn là Cộng sản.”
[Bọn Ca Tô hoài Ngô ngày nay vẫn còn đưa ra luận điệu “Còn cụ thì không
mất nước”]
(Diem, his half-mad brother Nhu and
his brother's wife had alineated one by one every important group in the
country, including most of the realistic anti-Communists who saw how the
Ngo family was debassing and weakening the anti-Communist struggle, and
at last including the upper echelon of the armed forces, on which every
unpopular dictator must rely for survival.
According to Malcolm Browne, there
was a "sweeping hatred" of the regime throughout the country. If the
Ngo family had remained in charge there is little doubt that Vietnam
would be entirely Communist today. (1965).)
16.
"The Political Economy
of Human Rights. Vol I" by
Noam Chomsky and Edward S. Herman, Black Rose Books, Canada 1979, pp.
30, 302-303:
“Joseph Buttinger, một cố vấn của
Diệm lúc đầu và là người đã bày tỏ sự ủng hộ Diệm nồng nhiệt nhất trong
thập niên 1950, khẳng định là gọi Diệm là phát xít thì không thích hợp
vì, tuy chế độ Diệm có tất cả những sự xấu xa của chế độ phát xít, Diệm
thiếu cơ sở quần chúng mà Hitler và Mussolini đã có thể tập hợp được.
..Theo Jeffrey Race, một cựu cố
vấn quân sự Mỹ cho Nam Việt Nam có rất nhiều tài liện về lịch sử Việt
Nam cận đại, chính quyền Diệm đã khủng bố người dân nhiều hơn là phong
trào cách mạng nhiều – thí dụ, thủ tiêu các cựu kháng chiến quân Việt
Minh, bắn pháo binh vào những “làng cộng sản” và bắt bớ những người “có
thiện cảm với cộng sản”. Cũng chính vì những chiến thuật đó mà lực
lượng của phong trào cách mạng càng ngày càng gia tằng ở Long An từ 1960
đến 1963.
..Sử gia của Ngũ Giác Đài viết về
“bệnh gần như hoang tưởng của Diệm lo lắng về vấn đề an ninh,” đưa đến
những chính sách “khủng bố toàn diện nông dân Việt Nam, và làm suy giảm
trầm trọng sự ủng hộ chế độ của quần chúng.”
Sự dùng bạo lực quá mức và trả
thù những người cựu kháng chiến của Diệm là sự vi phạm trắng trợn Hiệp
Định Genève (Khoản 14c), cũng như là sự từ chối không thi hành điều
khoản tổng tuyển cử trên toàn quốc (vào tháng 7, 1956) của Diệm. Lý do
chính mà Diệm từ chối không thi hành điều khoản này vào những năm
1955-56 (tổ chức và tổng tuyển cử trên toàn quốc) thật là hiển nhiên:
viên quan lại ly hương nhập cảng từ Mỹ vào chỉ có một sự ủng hộ tối
thiểu của quần chúng và ít có hi vọng thắng trong một cuộc tổng tuyển
cử...Diệm là mẫu người điển hình của một tên bạo chúa phát xít, dùng
khủng bố để bù đắp cho sự thiếu hụt sự ủng hộ của quần chúng..”
(Joseph Buttinger, an early advisor
to Diem and one of his most outspoken advocates in the 1950s, contends
that the designation "fascist" is innapropriate for Diem because,
although his regime had most of the vicious characteristics of fascisme,
he lacked the mass base that a Hitler or Mussolini could muster.
...According to Jeffrey Race, a former
US Army advisor in South Vietnam who had access to extensive
documentation on recent Vietnamese history, ..the government terrorized
far more than did the revolutionary movement - for example, by
liquidations of former Vietminh, by artillery and ground attacks on
"communist villages" and by roundups of "communist sympathizers". Yet
it was just these tactics that led to the constantly increasing
strength of the revolutionary movement in Long An from 1960 to 1963.
...The Pentagon historian refers to
"Diem's nearly paranoid preoccupation with security," which led to
policies that "thoroughly terrified the Vietnames peasants, and
detracted significantly from the regime's popularity."
...Diem's extensive use of violence and
reprisals against former Resistance fighters was in direct violation of
the Geneva Accords (Article 14c), as was his refusal to abide by the
election proviso. The main reason for Diem's refuse to abide by this
mode of settlement in 1955-56 was quite evident: the expatriate mandarin
imported from the US had minimal popular support and little hope for
winning in a free election...Diem was a typical subfascist tyrant,
compensating for lack of indigenous support with extra doses of
terror..)
17. "The American Pope" by John
Cooney, A Dell Book, New York 1984, pp. 309-312:
“Lập trường của (hồng y) Spellman
về Việt Nam phù hợp với những mong ước của giáo hoàng. Malachi Martin,
một cựu tu sĩ dòng tên phục vụ tại Vatican trong những năm Mỹ leo thang
chiến tranh ở Việt Nam, nói rằng giáo hoàng muốn Mỹ ủng hộ Diệm vì giáo
hoàng đã bị người anh của Diệm, Tổng giám mục Thục, ảnh hưởng. “Giáo
hoàng quan tâm đến sự càng ngày càng thắng lợi của Cộng sản do đó làm
suy yếu giáo hội,” Malachi xác nhận rằng: “Giáo hoàng ra lệnh cho
Spellman khuyến khích Mỹ tham chiến ở Việt Nam.”
Do đó Spellman xếp đặt một chiến
dịch kỹ càng để dựng lên chế độ Diệm. Qua báo chí và vận động trong hậu
trường ở Washington, vấn đề đối đầu chống Cộng ở Đông Dương được phổ
biến rộng rãi ở Mỹ.
Spellman và Kennedy cũng còn giúp
lập lên một nhóm vận động hậu trường Washington. Chủ trương của sự đồng
minh này là chống Cộng và phát huy ý hệ Ca Tô.
..Do đó, rất nhiều người Mỹ tin
rằng Việt Nam là một quốc gia phần lớn là Ca Tô. Một phần của cái ấn
tượng sai lầm này là kết quả của việc Diệm lên cầm quyền. Với sự giúp
đỡ của CIA tổ chức cuộc bầu cử gian lận năm 1955, Diệm hủy bỏ chế độ
quân chủ và Bảo Đại bị cưỡng bức phải sống trong cảnh lưu đầy. Cái màu
sắc Ca Tô đậm đà trong cuộc vận động hậu trường Việt Nam cũng góp phần
tạo nên quan niệm sai lầm trên. Còn một yếu tố khác là sự đặt mình vào
trong đường lối trên của Spellman.
...Sự tuyên truyền của Spellman
về bản chất Ca Tô của chính quyền Diệm đã làm rõ rệt thêm hình ảnh không
đẹp về vị thế của giáo hội ở Việt Nam. Cái bản chất tôn giáo của chính
quyền Diệm và những vấn đề chính quyền đó tạo ra đã được ghi nhận bởi
Graham Greene, một tín đồ Ca Tô, trong một bài viết từ Saigon, in trong
tờ London Sunday Times ngày 24 tháng 4, 1955:
“Một cuộc viếng thăm không thích
hợp của Hồng y Spellman đã được tiếp nối bởi những cuộc viếng thăm của
Hồng y Gillroy và Tổng Giám mục ở Canberra. Những số tiền lớn lao đã
được dùng để tổ chức những cuộc biểu tình đón tiếp những vị khách này,
đưa ra một ấn tượng là giáo hội Ca Tô là của Tây phương và là đồng minh
của Mỹ trong cuộc chiến tranh lạnh.
...Nam Việt Nam, thay vì đối đầu
với chế độ toàn trị của miền Bắc bằng những bằng chứng về tự do, lại rơi
vào một chế độ độc tài bất hiệu lực: dẹp bỏ báo chí, kiểm duyệt chặt
chẽ, lưu đầy bằng lệnh của chính quyền thay vì phải được xét xử ở tòa
án. Thật là bất hạnh khi một chính quyền như vậy lại đồng nhất hóa với
một đức tin. Ông Diệm rất có thể đã để lại trên đất nước có tinh thần
khoan nhượng này một gia tài chống-CaTô.”
(Spellman's Vietnam stance was in
accordance with the wishes of the Pope. Malachi Martin, a former Jesuit
who worked at the Vatican during the years of the escalating US
committment to VN, said the Pope wanted the US to back Diem because the
Pope had been influenced by Diem's brother, Archbishop Thuc.
"The Pope was concerned about
Communism making more gains at the expense of the Church," Martin
averred. "He turned to Spellman to encourage American committment to
Vietnam."
Thus Spellman embarked on a carefully
orchestrated campaign to pop up the Diem regime. Through the press and
a Washington lobby, the problem of confronting anti-Communism in
Indochina became widely known in America.
Spellman and Kennedy also helped
form a pro-Diem lobby in Washington. The rallying cries were
anti_Communism and Catholicism.
...To a large extent, many Americans
came to believe that Vietnam was a preponderantly Catholic Nation. This
misimpression resulted partly from Diem's emergence as ruler. With the
help of CIA-rigged election in 1955, Diem abolished the monarchy and Bao
Dai was forced to live in exile. The heavily Catholic hue to the
Vietnam lobby also accounted for much of the widespread belief. Still
another factor was Spellman's identification with the cause.
...Spellman's propagandizing of the
Catholic nature of Diem's regime reinforced a negative image of the
Church's position in Vietnam. The sectarian nature of Diem's government
and the problems of that government were noted by the writer Graham
Greene, himself a Catholic, in a dispatch from Saigon printed in the
London Sunday Times on April 24, 1955:
An unfortunate visit by Cardinal
Spellman has been followed by those of Cardinal Gillroy and the
Archbishop of Canberra. Great sums are spent on organizing
demonstrations for the visitors, and an impression is given that the
Catholic Church is occidental and an ally of the US in the cold war.
...The South, instead of confronting
the totalitarian North with the evidence of freedom, has slipped into an
inefficient dictatorship: newspapers suppressed, strict censorship, men
exiled by administrative order and not by judgement of the courts. It
is unfortunate that a government of this kind should be identified with
one faith. Mr. Diem may well leave his tolerant country a legacy of
anti-Catholicism.)
18. “The Final Superstition” by
Joseph L. Daleiden, Prometheus Books, New York, 1994, p. 62):
"Spelllman là người chủ chốt của
giáo hoàng làm cho Mỹ tham chiến sâu đậm ở Việt Nam. Theo một bức thư
chính thức của Vatican, giáo hoàng "dùng Spellman để khuyến khích Mỹ
tham chiến ở Việt Nam."
Mọi viện trợ nhân đạo cho miền
Nam đều đi qua các cơ sở của giáo hội Ca Tô và chỉ có những người Ca Tô
là được Diệm bổ nhiệm vào trong chính phủ. Tuy rằng những chính sách
như vậy đưa đến việc cải đạo hàng loạt, số tín đồ Ca Tô chỉ chiếm vào
khoảng từ 12 tới 13 phần trăm của dân số miền Nam. Không lạ lùng gì mà
khối đa số Phật Giáo bất bình đưa đến việc công khai chống đối chính
sách của Diệm. Tình trạng ngày càng suy kém, Diệm đã dùng đến biện pháp
bắt giữ hàng loạt, đàn áp Phật tử, đóng cửa chùa chiền và tu viện. Qua
kinh nghiệm quá khứ, Giáo hội chắc hẳn đã biết rằng sự đàn áp chỉ làm
cho lý tưởng mạnh hơn. Trước sự quan sát kinh hoàng của thế giới, giới
Phật tử đã phải dùng tới hành động chống đối tiêu cực rốt ráo và nhiều
tăng sĩ đã tự thiêu. Trong những khoảng thời gian đáng sợ đó, tôi,
một tín đồ CaTô, không nhớ có một lời chỉ trích chính sách của Diệm
từ một linh mục hay giám mục CaTô nào. Tuy nhiên, sự việc đã lên quá
mức đối với Tổng Thống John Kennedy, ông ta thôi không ủng hộ Diệm nữa.
Ít lâu sau đó Diệm bị hành quyết trong một cuộc lật đổ chính quyền. Qua
cái diễn tiến kinh khủng này vai trò của giáo hội đã theo đúng cái
tiến trình lịch sử nhơ nhớp của giáo hội."
(Spellman was the papal point man to
lead America into deeper involvement in Vietnam. According to a
Vatican official letter, the pope "turned to Spellman to encourage
American commitment to Vietnam."
All US relief to the South was
funneled through the Catholic Church's agencies and only Catholics were
appointed to government positions by Diem. Although these policies
resulted in a wave of conversions, Catholics still made up only about 12
to 13 percent of the South Vietnamese population. Not surprisingly, the
resentment among the Buddhist majority soon resulted in their open
resistance to Diem's policies. As the situation deteriorated, Diem
resorted to mass arrests and suppression of the Buddhists, closing
shrines and monateries. As the Church should have known from its own
early experience, persecution can only strengthen a cause. As a
horrified world watched, the Buddhists resorted to the ultimate act of
passive resistance and several monks set themselves ablaze. During
these terrible times, when I, too, was a Catholic, I don't recall one
word of criticism of Diem's policies from a Catholic priest or bishop.
However, it finally became too much for President John Kennedy, who
withdrew US support for Diem. Diem was soon executed in a coup.
Throughout this dreadful ordeal the role of the Church followed true to
the course of its sordid history.)
19. "America's Longest War" by
George C. Herring, John Wiley & Sons, New York 1979, pp. 62-65:
“Để làm vui lòng các cố vấn Mỹ,
thỉnh thoảng Diệm cũng nói trên đầu môi chót lưỡi về dân chủ, nhưng
trong thực hành hắn nắm lấy những quyền lực tuyệt đối. Đích thân hắn
ngự trị ngành hành pháp của chính phủ, dành cho hắn và anh em hắn mà hắn
đã đưa ba người vào nắm ba chức trong nội các có sáu bộ, mọi quyền quyết
định.
Sự tấn công dữ dội của Diệm vào
những đối lập chính trị đã gây nên sự bất mãn trong các thành phố cũng
như ở thôn quê. Báo chí chỉ trích chính phủ bị đóng cửa ngay.. Dùng
quyền hành trong các sắc lệnh của tổng thống, chính quyền Diệm đã lùa
vào những “ trại cải huấn” nhiều ngàn người Việt Nam, cộng sản cũng như
không cộng sản, những người bị coi như là đe dọa cho trật tự công cộng.
Chương trình cải huấn lúc đầu nhắm vào các thành phần kháng chiến Việt
Minh ở lại miền Nam, nhưng rồi với thời gian chương trình này được áp
dụng cho bất cứ ai dám chống đối chính quyền.
...”Chính quyền có khuynh hướng
cai trị dân với lòng nghi ngờ và cưỡng bức”, một phúc trình tình báo của
Mỹ kết luận năm 1960, và “đã được đáp ứng bởi thái độ bất thiện cảm và
bất mãn của người dân”.
(To please his American advisors,
Diem occasionally paid lip-service to democracy, but in actual practice
he assumed absolute powers. He personally dominated the executive
branch of government, reserving to himself and his brothers, three of
whom were appointed to a cabinet of six, all power of decision-making.
...Diem's vigorous assault against
political opponents spawned rising discontent in the cities as well as
the countryside. Newspapers which criticized the government were
promptly shut down...Using authority handed down in various presidential
ordinances, the government herded into "reeducation centers" thousands
of Vietnamese, Communists and non-Communists alike, who were alleged to
be threats to public order. The reeducation program was originally
aimed at the Viet Minh "stay-behinds," but in time it was extended to
anyone who dared speak out against the government.
...The government "has tended to threat
the population with suspicion or coerce it," an American intelligence
report concluded in 1960, "and has been rewarded with an attitude of
apathy or resentment.”)
20. "Unwinding the Vietnam War:
From War Into Peace" by Reese Williams, The Real Comet Press,
Seattle 1987, p. 431:
Sau khi Pháp bị đánh bại và có vẻ
như nền độc lập (của Việt Nam) sẽ tới, theo hiệp định Genève. Nhưng
thay vào đó Mỹ đã nhảy vào, quyết định là Hồ (Chí Minh) không được thống
nhất đất nước đang tạm thời chia cắt, và những nông dân lại cảnh giác
khi chúng ta ủng hộ một trong những tên độc tài đồi bại nhất của thời
hiện đại – Thủ tướng Diệm, người chúng ta chọn. Người nông dân cảnh
giác và co rúm người lại khi Diệm tàn nhẫn dẹp mọi đối lập, hỗ trợ
những tên địa chủ bóc lột họ, và từ chối thảo luận với Bắc Việt về sự
thống nhất của đất nước
(After the French were defeated it
looked as if independence would come again through the Geneva
Agreements. But instead there came the US, determined that Ho should
not unify the temporarily divided nation, and the peasants watched again
as we supported one of the most vicious modern dictators - our chosen
man, Premier Diem. The peasants watched and cringed as Diem ruthlessly
routed out all opposition, supported their extortionist lanlords, and
refused even to discuss reunification with the North.)
(From an address delivered by Dr.
Martin Luther King in New York City on April 4, 1967).
Trên đây chỉ là 20 lời phê phán điển
hình về chế độ Ngô Đình Diệm của một số trí thức ngoại quốc: ký giả,
chính trị gia, giáo sư đại học, nhà quân sự, trong số hàng trăm lời phê
phán tương tự khác. Chúng ta cũng nên để ý là hơn phân nửa số tài liệu
trích dẫn ở trên được viết sau năm 1975. Nếu độc giả muốn đọc những lời
phê phán của người Việt, xin tìm đọc cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương
Tôi của cố Thiếu Tướng Đỗ Mậu, trong đó ở phần cuối có 100 lời phê
phán của các nhân sĩ, chính trị gia, tướng lãnh, giáo sư đại học, nhà
báo v..v.. về Ngô Đình Diệm và chế độ Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Cho
tới ngày nay, cuốn hồi ký chính trị này, với rất nhiều chi tiết lịch sử,
vẫn là cuốn sách có giá trị nhất trong những cuốn viết về chế độ Ngô
Đình Diệm và những diễn biến chính trị trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa..
Từ 20 lời phê phán của các tác giả
ngoại quốc trên, chúng ta có thể rút tỉa ra được những gì? Sau đây là
vài điểm chính.
1). Ngô Đình Diệm là người vô tài, vô
đức, nhu nhược, được Hồng Y Spellman, với sự phụ giúp của ngoại trưởng
John Foster Dulles cùng một vài chính khách Công giáo Mỹ khác, theo lệnh
của Vatican, vận động với Mỹ đưa Diệm về cầm quyền ở Nam Việt Nam vì
Diệm là người Công giáo, nên đương nhiên có thể tin cậy để chống Cộng
chết bỏ. Ngoài ra Vatican cũng còn góp phần vận động, thuyết phục Mỹ
tham chiến ở Việt Nam. Cái tội này của Vatican đối với Việt Nam sẽ được
ghi vào sử sách.
2). Chế độ Ngô Đình Diệm là một chế
độ bạo ngược, chuyên chế, không có sự hậu thuẫn của quần chúng. Đó là
một chế độ mà hầu hết những người nắm quyền hành chánh, quân sự là những
gia nô vô liêm sỉ.
3). Chính cái chất Công Giáo cuồng
tín, tổng hợp của ngu dốt, kiêu căng, huênh hoang, hợm hĩnh của Diệm đã
làm hại Diệm. Sách lược Công giáo hóa miền Nam bằng thủ đoạn tiêu diệt
các giáo phái khác của Diệm trong một nước mà Công giáo chỉ chiếm có 7%
là một sách lược ngu xuẩn, đi ngược lại tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên
của dân tộc, đã đưa đến sự oán ghét của tuyệt đại đa số người dân Việt
Nam. Sách lược này đã ghi thêm một chương ô nhục vào lịch sử giáo hội
Công giáo Việt Nam, một giáo hội vốn đã nổi tiếng là: “Hễ phi dân tộc
thì thể nào cũng phản bội dân tộc.”
Kết Luận:
Trước sách lược “Công giáo hóa miền Nam” ngu xuẩn, bạo tàn, hại dân, hại
nước của chính quyền Ngô Đình Diệm, tay sai của Vatican và Mỹ, Phật Giáo
Việt Nam không còn có thể chọn lựa con đường nào khác ngoài con đường
tranh đấu, không riêng gì cho Phật Giáo mà còn cho cả dân tộc. Những
bằng chứng tràn ngập về tính cách bạo tàn, kỳ thị tôn giáo của chính
quyền Ngô Đình Diệm, đã chứng minh một cách hùng hồn là cuộc tranh đấu
của Phật Giáo cách đây 40 năm ở miền Nam Việt Nam là có chính nghĩa, hợp
với lòng dân.
Thật vậy, tuy Phật Giáo phát động
phong trào chống chế độ Ngô Đình Diệm nhưng lòng dân oán ghét chế độ bạo
tàn phi dân chủ này đã âm ỉ từ lâu. Chúng ta không nên quên là ông Diệm
đã bị ám sát hụt tại Ban Mê Thuột ngay từ năm 1957, ngày 21 tháng 5.
Rồi đến cuộc đảo chánh thất bại của lực lượng nhảy dù ngày 11 tháng 11,
1960, vụ dội bom dinh độc lập của 2 sĩ quan VNCH ngày 27 tháng 2, 1962.
Và sự kiện là, trong cuộc tranh đấu Phật Giáo 1963, không phải chỉ có
Phật tử mới tham gia tranh đấu mà gồm đủ mọi thành phần dân tộc, từ các
em học sinh trung học đến các sinh viên đại học, các giới sĩ, nông,
công, thương, kể cả những người Công giáo tiến bộ gồm một số linh mục và
tín đồ Công giáo.
Phật Giáo là tôn giáo hòa bình.
Những bậc tôn đức trong cuộc tranh đấu Phật Giáo 1963 không chủ trương
lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm bằng bạo động. Nhưng không ai có thể
phủ nhận là cuộc tranh đấu này đã góp phần lớn lao đưa đến sự cáo chung
của chế độ Công giáo trị, gia đình trị Ngô Đình Diệm vào ngày 1 tháng
11, 1963. Ý thức được lòng dân, chính quân đội Việt Nam, chỉ huy bởi
nhiều tướng lãnh, trước đã theo và ủng hộ ông Diệm, đã đứng lên làm tròn
sứ mạng dẹp bỏ một chế độ Công giáo độc tài, phi dân tộc, phi tổ quốc.
Như đã từng nhiều lần có công với dân tộc trong nhiệm vụ bảo vệ, giữ
nước, cuộc tranh đấu 1963 của Phật Giáo ở miền Nam cũng đã góp được
nhiều công to lớn cho dân tộc. Ngoài việc đưa đến sự chấm dứt một chế
độ ác ôn đã mất đi lòng dân, chính yếu là cuộc tranh đấu của Phật Giáo
đã thành công trong việc bảo vệ được nền văn hóa truyền thống và tôn
giáo dân tộc, tôn giáo dân tộc ở đây phải được hiểu theo nghĩa tôn giáo
của tuyệt đại đa số người dân trong nước, thí dụ như Ki Tô Giáo ở Mỹ,
ngăn chận được hiểm họa của Ca Tô Giáo trong toan tính đưa toàn dân Việt
Nam xuống hàng súc vật (con chiên), cúi đầu tuân phục một định chế có
thủ phủ đặt tại Vatican mà lịch sử đen tối ô nhục của nó đã không còn là
một vấn đề xa lạ đối với thế giới ngày nay.
Chỉ đáng tiếc là, sau cuộc chính
biến ngày 1 tháng 11, 1963, thay vì quay về xây dựng nội bộ, đào tạo
tăng, ni tài đức, tổ chức gia đình Phật tử theo tinh thần Phật Giáo,
một số các vị lãnh đạo Phật Giáo đã đi ngược lại tinh thần Phật Giáo.
Thay vì theo đường lối của các bậc tôn đức Phật Giáo khi xưa: “Tham gia
chính sự nhưng không tham gia chính quyền” thì các vị này lại đi nghe
mấy tên đầu cơ chính trị nhân danh Phật Giáo, đi vào con đường “Tham gia
chính quyền mà không biết gì về chính sự”. Kết quả là đi đến chia rẽ,
phân hóa nội bộ, làm suy yếu Phật Giáo. Mong rằng cái kinh nghiệm đắt
giá này sẽ là một bài học cho Phật Giáo Việt Nam trong việc hoạch định
đường hướng tương lai theo đúng tinh thần Phật giáo: buông bỏ chấp ngã,
chấp danh, chấp tướng, thực hiện đoàn kết, và ý thức được sức mạnh của
Phật Giáo là sức mạnh tinh thần, sức mạnh đạo đức của các bậc tu hành,
sức mạnh của chuyển hóa v..v.. chứ không phải là sức mạnh của danh, lợi,
địa vị, quyền lực, của cải thế gian v..v...