|
13 tháng 1, 2011 |
Rồi các ngươi sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải thoát các ngươi.
(Then you will know the truth, and the truth will set you free.)
(Lời Chúa Giê-su trong Tân Ước; John: 8: 32)
۞۞۞
Cùng các độc giả tín đồ Ca-tô Rô-ma Giáo (Công Giáo):
Ca-tô Rô-ma Giáo có hai bộ mặt: Bộ mặt của "Giáo hội dạy tín đồ" và Bộ mặt theo những tài liệu nghiên cứu của chính một số vị trong hàng Giáo Phẩm và của các học giả, giáo sư đại học, chuyên gia nghiên cứu Tôn Giáo. Bài khảo luận về hai bộ mặt này giúp các bạn nhận rõ đâu là bộ mặt thật để đi đến giải thoát. Do đó, là thiện ý của một người bạn chứ không phải của một kẻ thù
I. Vài Lời Nói Đầu.
Lịch sử truyền đạo của Ca-tô Rô-ma Giáo trên thế giới, nhất là tại các nước bị thực dân đô hộ, đã gây nhiều ảnh hưởng tác hại đến trên các đất nước này. Cho nên, khi còn sống, Giáo hoàng John Paul II đã phải thực hiện trên 100 chuyến công du đi đến các nước trong thế giới thứ ba để xin lỗi những quốc gia này vì những tác hại và bất hạnh mà Ca-tô Rô-ma Giáo đã mang đến cho họ trong quá khứ. Trước ngưỡng cửa thế kỷ 21, Giáo hoàng cũng khuyên răn các con chiên của Ngài phải ăn năn thống hối về những tội ác của Ca-tô Rô-ma Giáo trong quá khứ. Rồi ngày 12 tháng 3 năm 2000, tại thánh đường Phê-rô, Vatican, Giáo hoàng John Paul II đã cùng với một số hồng y, tổng giám mục, trong đó có tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận, đã chính thức xưng thú trước thế giới 7 núi tội ác của bộ mặt “thánh thiện, tông truyền” của giáo hội Ca-tô Rô-ma đối với nhân loại trong những mục tổng quát như sau:
1. Xưng thú “tội ác chung”.
2. Xưng thú “tội ác trong khi phục vụ “chân lý””.
3. Xưng thú “tội ác đưa đến sự chia rẽ giữa các tín đồ Ki Tô”.
4. Xưng thú “tội ác trong sách lược bách hại dân Do Thái”.
5. Xưng thú “tội ác trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển”.
6. Xưng thú “tội ác trong sự kỳ thị phái nữ, coi thường phẩm giá phụ nữ”
7. Xưng thú “tội ác trong việc vi phạm những quyền căn bản của con người”.
Để vớt vát uy tín của Giáo hội qua việc xưng thú 7 núi tội ác này, Giáo hoàng phán: “Người ngoài sẽ khó mà hiểu được ý nghĩa tôn giáo linh thiêng của hành động thống hối”, trong khi thực sự có gì là linh thiêng và khó hiểu đâu, vì hành động thống hối này không phải là một hành động đặc thù Ca Tô, chỉ riêng Ca Tô Giáo mới có. Giáo hội giải thích, và con chiên Việt Nam phụ họa ca tụng: hành động xưng thú 7 núi tội ác trên là một hành động can đảm chưa từng có trong lịch sử với mục đích thanh tẩy ký ức để trở nên thánh thiện hơn. Nhưng hành động xưng thú tội ác của Giáo hội không phải là một hành động can đảm. Đó chẳng qua chỉ là sự thú nhận những điều mà thế giới đã biết rõ từ lâu, và vì trước công luận thế giới, trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, Giáo hội Ca Tô không có cách nào có thể bưng bít, che dấu sự thực được nữa. Ít người thấy được ý nghĩa thực sự của hành động “xưng thú 7 núi tội ác” này đã làm cho những lời tự nhận của giáo hội mà giáo hội thường đóng khuôn vào đầu óc tín đồ từ khi còn nhỏ, rằng Ca-Tô giáo là tôn giáo “thiên khải duy nhất”, “thánh thiện”, “mầu nhiệm”, “tông truyền”, “hôn thê của Chúa”, “cao quý”, “ánh sáng của nhân loại”, “bác ái”, “công bình” v..v.., những lời tự xưng tụng đó đã trở thành những lời nói láo vĩ đại nhất trong lịch sử các tôn giáo của loài người.
Giáo hoàng John Paul II cũng đã chính thức công nhận thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ, thuyết Tiến Hóa về nguồn gốc con người, và phủ nhận sự hiện hữu của một thiên đường trên các tầng mây cũng như một hỏa ngục dưới lòng đất. Giáo hoàng khuyên các con chiên “đừng sợ sự thật” và phải dùng “lý trí để hỗ trợ niềm tin”. Giáo hoàng John Paul II đã công khai phát động phong trào mở mang trí tuệ của các tín đồ, điều mà Giáo hội Ca-tô Rô-ma Giáo đã kiềm giữ chặt chẽ trong gần 2000 năm nay. Nhưng có vẻ như tuyệt đại đa số tín đồ của ông ta, nhất là các con chiên Việt Nam, chưa bao giờ biết đến những điều này, hoặc đã bị thuần hóa qua nhiều đời, nên không có khả năng mở mang trí tuệ, cho nên vẫn còn sống trong những cơn mê sảng triền miên, không thức tỉnh được.
Nếu các tín đồ thấp kém ở dưới không biết đến những điều trên, và các bề trên của họ cũng chẳng bao giờ nói cho họ nghe, thì tôi nghĩ tôi có thể giúp họ để họ hiểu biết thêm về tôn giáo của họ cũng là điều hay, nhưng họ có để cho tôi giúp không lại là chuyện khác, tùy họ. Hơn 10 năm trước đây tôi đã sưu tầm trên 300 tài liệu để hình thành cuốn Công Giáo Chính Sử: Một Khảo Luận Qua Các Tài Liệu. Cho đến năm 2000, cuốn sách trên đã tái bản hai lần và nay không còn nữa. Điều đặc biệt độc giả cần ghi nhận là, tuyệt đại đa số những tài liệu dùng để viết cuốn khảo luận về Ca-tô Rô-ma Giáo trên chủ yếu là tác phẩm của những bậc lãnh đạo cao cấp trong Ca-tô Rô-ma Giáo như Hồng Y, Tổng Giám mục, Giám mục, Linh mục cũng như của những nhà thần học nổi tiếng trong Ki Tô Giáo nói chung, và của một số vị trong giới khoa bảng như Giáo sư đại học, chuyên gia nghiên cứu về tôn giáo trong thế giới Âu Mỹ, nơi đây Ki Tô Giáo vẫn được coi như là chủ lực tinh thần của các xã hội, cho nên tính cách xác thực và khách quan của những tài liệu này khó ai có thể nghi ngờ bàn cãi.
Bài viết này là kết quả tìm hiểu về thực chất Ca-tô Rô-ma Giáo, phiên âm từ Roman Catholicism, mà gần đây người Việt thường biết dưới cưỡng từ Công giáo. Viết về thực chất của một tôn giáo đầy quyền lực thế tục và giàu có về tiền bạc, của cải vật chất như Ca-tô Rô-ma Giáo không phải là chuyện dễ làm, mà phải đắn đo suy nghĩ về giá trị thực sự của những tài liệu sử dụng. Với kinh nghiệm của gần 2000 năm, Giáo hội Ca-tô Rô-ma Giáo, qua những cán bộ truyền giáo (linh mục, giám mục, tổng giám mục v..v..), qua bộ máy tuyên truyền với đầy đủ phương tiện truyền thông và với một chính sách tẩy não mê hoặc tín đồ rất tinh vi, một hình ảnh khác hẳn với thực chất của Ca-tô Rô-ma Giáo đã được truyền bá trên toàn thế giới, đặc biệt là trong đám tín đồ kém hiểu biết, ít học, hay vô học. Do đó, khi đưa ra một hình ảnh không hợp với những điều "Giáo hội dạy rằng", người viết khó tránh được phản ứng của những tín đồ cuồng tín vẫn còn đức tin của thời Trung Cổ, còn sót lại trong một số địa phương, phần lớn ở trong những quốc gia nghèo khổ nhất trên thế giới. Ngoài ra, lại còn nhận thêm những lời xuyên tạc vu khống như: kẻ thù của giáo hội, chống phá tôn giáo, gây chia rẽ giữa các tôn giáo, bôi nhọ tôn giáo, hay chụp mũ Cọng sản v...v..., hoặc những lời chửi rủa hạ cấp, luôn luôn sẵn sàng để chụp lên đầu những ai viết ra những sự thực về bản chất Giáo hội, hoặc những sự kiện trái ngược với những điều Giáo hội đã cấy vào trong đầu óc của số tín đồ này.
Có một số người cho rằng: "Chúng ta không bao giờ nên phê phán, chỉ trích tôn giáo của người khác," dù nhiều khi những cái gọi là "phê phán" hay "chỉ trích" chỉ là những sự kiện lịch sử không ai có thể phủ nhận. Tôi tôn trọng quan niệm "không nên dính vào chuyện của người ta" của họ, tuy rằng nhiều khi quan niệm này bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết về vấn nạn tôn giáo trên thế giới và không còn thích hợp trong những xã hội văn minh tân tiến. Thật vậy, sống trong một xã hội mà mọi sự đều liên hệ tới nhau, và tôn giáo thường có ảnh hưởng tới mọi vấn đề xã hội, thái độ “mũ ni che tai” này có hại nhiều hơn là có lợi. Trong cuốn “Nền Tự Do của Mỹ và Quyền Lực Ca Tô” (American Freedom and Catholic Power), Paul Blanshard viết như sau (trang. 4):
"Tôi tin rằng mọi công dân Mỹ - Ca-tô và phi-Ca-tô - đều có bổn phận phải nói lên vấn nạn Ca-tô, vì những vấn đề liên hệ tới Ca-tô đi vào trọng tâm của nền văn hóa và quốc tịch của chúng ta. Nói thẳng về vấn nạn này có thể bị nhiều nguy hiểm cay đắng, hiểu lầm và ngay cả sự cuồng tín, nhưng những nguy hiểm của sự im lặng lại còn lớn hơn. Bất cứ người nào phê phán về những chính sách của hệ thống quyền lực Ca-tô đều phải gồng mình lên đội cái mũ "chống Ca-tô", vì đó là một phần trong sách lược chống đỡ của hệ thống Ca-tô: chụp cái nhãn hiệu này lên những người đối lập; và họ cũng phải cam chịu mang danh hiệu là kẻ thù của dân Ca-tô, vì hệ thống Ca-tô luôn luôn đồng hóa những tham vọng của giới giáo sĩ với những cái mà họ cho là ước muốn của tín đồ." (1)
Ý thức được những điều trên và chấp nhận những nhãn hiệu có thể chụp lên đầu và cả những lời trách cứ của những người không muốn dính vào "tôn giáo của người khác", sau đây tôi sẽ cố gắng đưa ra một số sự thực về Ca-tô Rô-ma Giáo, dựa theo những tài liệu khả tín hiện hữu. Làm công việc bạc bẽo này với mục đích gì? Chẳng qua tôi chỉ theo lời dạy của Đức Khổng Tử: "Thay vì ngồi nguyền rủa bóng tối, tốt hơn là thắp lên một ngọn đèn nhỏ". Hành động thắp lên một ngọn đèn nhỏ này tuyệt đối không có mục đích truy cầu bất cứ cái gì cho bản thân, nhất là ở cái tuổi 80, cũng như tuyệt đối không bắt nguồn từ quan niệm khác biệt tôn giáo, mà phát xuất từ lòng mong muốn khai sáng một vấn nạn quan trọng của lịch sử, ngõ hầu đưa tới một sự hiểu biết đúng đắn về vấn đề tôn giáo và do đó hi vọng có thể tránh được sự vấp lại những sai lầm lịch sử mà hậu quả là sự chia rẽ trong đại khối dân tộc. Tôi không hi vọng là ngọn đèn nhỏ này có thể xua đi bóng tối trong đầu óc của những người vốn đã bị nhồi sọ, cha truyền con nối nhiều đời, cho nên đã bị thuần hóa trong một ngục tù tâm linh, nhưng ít ra nó có thể soi sáng một khoảng nào đó trong đầu óc của những người có đôi chút khả năng suy tư. Tuy nhiên, có nhiều chi tiết về mọi mặt của Ca-tô Rô-ma Giáo mà tôi đã đưa lên Internet từ trước cho nên tôi sẽ không nhắc lại mà sẽ đưa ra những kết nối để bạn đọc nào muốn biết thêm chi tiết hơn có thể vào đó đọc. Sau đây chúng ta hãy đi vào chủ đề “Hai Bộ Mặt Của Ca-tô Rô-ma Giáo”
II. Bộ Mặt Thần Học Của Ca-tô Rô-ma Giáo:
Trước hết, xin có vài lời về bộ mặt của Ca-tô Rô-ma Giáo mà Giáo hội dạy các tín đồ phải tin và có nhiệm vụ phải đi rao truyền trong dân gian. Chúng ta có thể tóm tắt thực chất bộ mặt đó qua nhận định của một cựu Linh mục Dòng Tên Peter Doeswyck như sau:
“Toàn thể cấu trúc của Giáo hội Ca-tô Rô-ma được xây dựng trên những ngụy tạo, những lá thư tông đồ giả mạo, những bài giảng giả mạo, những phép lạ giả mạo, những di tích (của các Thánh) giả mạo, những công đồng giả mạo, và những sắc lệnh giả mạo của các giáo hoàng.” (2)
Quả thật vậy, ngày nay, qua những công cuộc nghiên cứu của các học giả Tây phương, ở trong cũng như ở ngoài Giáo hội Ca-tô, điển hình là các Linh mục Joseph McCabe, Emmett McLoughlin, James Kavanaugh, John Dominic Crossan, Peter de Rosa, John P. Meier v…v… và các nhà thần học Ca-tô nổi danh như Hans Kung, Uta Ranke-Heinemann v…v…; Giám mục Tin Lành John Shelby Spong, Mục sư Ernie Bringas; các tín đồ Ca-tô như Jodeph L. Daleiden, Randel Helms, Gary Wills… và nhiều học giả chuyên ngành, chúng ta biết rằng, tất cả những điều thuộc giáo lý Ca-tô sau đây mà Giáo hội gọi là tín lý (dogma), bắt các tín đồ phải tin, đều là do Giáo hội ngụy tạo để tạo quyền lực tinh thần cũng như vật chất cho “bề trên”, thuộc giới chăn chiên trên đám tín đồ thấp kém. Những “tín lý” ngụy tạo sau đây sẽ làm sáng tỏ điều này.
- Giáo hội Ca-tô là do chính Chúa Giê-su thành lập, bắt đầu từ Thánh Phê-rô (Peter) và các Giáo hoàng đều là những người kế vị Phê-rô, là đại diện của Chúa trên trần (Vicar of Christ) ở trên trời cũng như ở dưới đất.
- Linh mục là những Chúa thứ hai (Alter Christus), có quyền tha tội hay cầm giữ con người, ở trên trời cũng như ở dưới đất.
- 7 bí tích đều do Chúa Ki Tô thiết lập.
- Chúa Giê-su là con của Thánh Linh (Holy spirit)
- Chúa Giê-su là hiện thân của Gót (God) (Incarnation)
- Thuyết Chúa ba ngôi (Gót, Giê-su, Thánh linh chỉ là một)
- Đức mẹ vô nhiễm nguyên tội (tội tổ tông)
- Chúa Giê-su chịu đóng đinh trên thập giá để chuộc tội cho nhân loại
- Nhiệm vụ cứu rỗi của Chúa
- Chúa Giê-su sống lại vào ngày thứ ba sau khi bị đóng đinh trên cây thập giá và đã chết.
- Chúa Giê-su, sau khi đã chết, lại sống lại và dạy các tín đồ phải đi truyền đạo của ông ta trên khắp thế giới.
- Chúa bay lên trời 40 ngày sau khi sống lại.
- Những vụ hiện thân của Đức Mẹ, thí dụ ở Lourdes, Fatima, La Vang v…v…
- Chúa Giê-su sẽ trở lại trần (để làm sống lại những người chết trong ngày phán xét cuối cùng)
Ngoài ra, những điều Giáo hội tự khoa trương đánh bóng cũng đều sai sự thật (false claims):
- Giáo hội Ca-tô Rô-ma là giáo hội duy nhất, thiên khải, thánh thiện, tông truyền.
- Giáo hội là nguồn gốc của văn minh nhân loại ngày nay với những quan niệm về bình đẳng, tự do, dân chủ, nhân quyền.
- Ngoài giáo hội không có sự cứu rỗi.
- Giáo hội đi tiên phong trong khoa học, mở đầu cho những khám phá khoa học ngày nay.[Giáo hội kể ra những khoa học gia như Copernicus, Galilei, Mendel, Georges LeMaitre v…v… nhưng không hề nói rằng những công cuộc nghiên cứu của họ đã hoàn toàn phá sạch thuyết sáng tạo trong Thánh Kinh cùng vai trò chuộc tội và cứu rỗi của Giê-su]
Trên đây là đại khái bộ mặt của Ca-tô Rô-ma Giáo mà Giáo hội dạy tín đồ và tuyên truyền trong dân gian, đặc biệt là trong những cộng đồng nghèo khổ, dân chúng ít học hay vô học. Các nhà nghiên cứu Thánh Kinh và Ca-tô Rô-ma Giáo đã chứng minh rằng Giáo hội Ca-tô Rô-ma có cả một trường phái ngụy tạo (school of forgeries). Sau đây, chúng ta sẽ đi vào phần tìm hiểu bộ mặt thật của Ca-tô Rô-ma Giáo. Phần này khá dài nhưng không thể nói là đầy đủ, xin độc giả thông cảm.
III. VÀI NÉT VỀ CA-TÔ RÔ-MA GIÁO TRONG GIÒNG LỊCH SỬ:
Có thể nói Ca-tô Rô-ma Giáo (Công Giáo) là một tôn giáo có nhiều tín đồ nhất trên thế giới. Theo như thống kê 2009 của Giáo hội Ca-Tô thì tổng số tín đồ Ca-Tô là 1,166 tỉ người (chiếm 17,4% tổng dân số thế giới). Hơn 70% số tín đồ này thuộc các nước Phi Châu, Nam Mỹ, Phi Luật Tân và một vài vùng nhỏ ở Á Châu, những nơi mà trình độ dân trí thấp nhất và kỹ nghệ kém mở mang. Do đó, niềm tin tôn giáo và sự hiểu biết về lịch sử Giáo Hội Ca Tô cũng như về lịch sử truyền đạo của đa số tín đồ ở các nơi này khác hẳn niềm tin và sự hiểu biết của những tín đồ ở trong những nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ. Tuy nhiên, tình trạng chậm tiến này đã bắt đầu thay đổi vì sự phát triển của nền thông tin điện tử, do đó những sự thật về Ca-tô Rô-ma Giáo càng ngày càng được phổ biến rộng rãi và người dân càng ngày càng biết thêm về thực chất của Ca-tô Rô-ma Giáo.
Trong 17 thế kỷ, từ thời vua Constantine ở thế kỷ 4, Ca-tô Rô-ma Giáo đã phát triển và bành trướng trên khắp thế giới. Quyền lực của Ca-tô Rô-ma Giáo lên đến tột đỉnh suốt trong 10 thế kỷ, từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 15. Trong 10 thế kỷ này, tột đỉnh quyền lực với quyền sinh sát trong tay, chỉ đạo mọi hoạt động xã hội: giáo dục, y tế, khoa học v…v…, Ca-tô Rô-ma Giáo đã đưa Âu Châu xuống vực thẳm của trí thức và khoa học. Thời đại này được biết dưới tên Thời Trung Cổ (The Middle Ages), hay Thời Đại Đen Tối (The Dark Ages). Các học giả xưa và nay đều cho đó là một thời đại của sự man rợ và đen tối trí thức (The ages of barbarism and intellectual darkness). Bởi vì trong thời đại đó, Ca-tô Rô-ma Giáo đã hủy diệt những nền văn minh cổ xưa và giáng lên đầu nhân loại, đặc biệt tại Âu châu, 8 cuộc Thập Tự Chinh, những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo, những cuộc săn lùng phù thủy, tra tấn họ trong những ngục tù tăm tối với những hình cụ khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại, rồi mang họ đi thiêu sống trước cây thập giá để cứu vớt linh hồn họ. Số nạn nhân của Ca-tô Rô-ma Giáo lên đến nhiều triệu người, nếu không muốn nói là cả trăm triệu. Đây là những sự kiện lịch sử mà người Ca-tô không có cách giải thích nào có thể biện minh cho những vết nhơ như vậy, mà lại là những vết nhơ của một giáo hội tự nhận là “thiên khải, duy nhất, thánh thiện, tông truyền”.
Nhờ sách lược bạo tàn, tàn nhẫn, và sau này làm tiên phong hay đồng hành với các thế lực thực dân từ các nước theo Ki Tô Giáo như Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ca-tô Rô-ma Giáo đã bành trướng trên khắp thế giới, tới đâu cũng vơ vét tài sản, cướp bóc đất đai với sự đồng lõa của các con chiên bản xứ, những người đã bị mê hoặc bởi một cái bánh vẽ trên trời và do đó trở thành một bộ phận phi dân tộc, phản bội tổ quốc. Sự thành công của Ca-tô Rô-ma Giáo phần lớn là do những thủ đoạn trong sách lược truyền bá đạo chứ không phải nội dung của đạo có gì hay ho, như học giả Ca Tô Joseph L. Daleiden đã tóm tắt lịch sử truyền bá đạo của Ca-tô Rô-ma Giáo như sau trong cuốn The Final Superstition:
"Nói tóm lại, những bằng chứng tràn ngập cho thấy sự truyền bá Ki Tô Giáo [nghĩa là Ca-tô Rô-ma Giáo] trong thế giới xưa và nay phần lớn dựa vào sự cưỡng bách, bạo hành và đàn áp. Xuyên suốt lịch sử, từ những cuộc diệt trừ những người lạc đạo ngay từ thuở ban đầu của Giáo hội, cho tới những cuộc thánh chiến, những tòa án xử dị giáo, sự trấn áp những nền văn hóa khác trên khắp thế giới, Ki Tô Giáo đã chứng tỏ những giá trị có tính cách hủy diệt chống nhân loại của tôn giáo này." (3)
Helen Ellerbe cũng viết trong cuốn Cái Mặt Đen Tối Của Lịch Sử Ki Tô Giáo (The Dark Side of Christian History), trang 50:
“Giáo hội Ca Tô đã có những tác động tàn phá trên xã hội. Khi Giáo hội nắm được vai trò lãnh đạo, hoạt động trong những ngành y khoa, kỹ thuật, khoa học, giáo dục, lịch sử, nghệ thuật và thương mại đều sụp đổ. Âu Châu đi vào những Thời Đại Đen Tối. Tuy Giáo hội vơ vét được một tài sản to lớn trong những thế kỷ đó, hầu hết những gì định nghĩa cho văn minh đã biến mất.” (4)
Và Robert G. Ingersoll đã nhận định như sau:
"Khi Ca-tô Rô-ma Giáo có được quyền lực thì tôn giáo này phá hủy mọi tượng thần mà nó có thể đặt những bàn tay vô minh của nó lên trên. Nó hủy hoại và xóa bỏ mọi họa phẩm, phá hủy mọi công sự đẹp đẽ, đốt sạch những tác phẩm Hi Lạp và La Tinh, triệt tiêu mọi lịch sử, thơ phú, triết lý và thiêu rụi mọi thư viện mà nó có thể đốt được. Kết quả là, màn đêm Trung Cổ đã phủ lên nhân loại. Nhưng vì tình cờ, vì may mắn, vì bỏ sót, một vài tác phẩm đã thoát được sự ác liệt của cuồng nhiệt tôn giáo, và những tác phẩm này trở thành cái nhân mà quả của nó là nền văn minh của chúng ta ngày nay." (5)
Thế mà ngày nay chúng ta vẫn thấy đám con chiên trí thức Việt Nam lên tiếng ca tụng rằng Ca-tô Rô-ma Giáo là nguồn gốc của văn minh, tự do và nhân quyền trên thế giới, và dù Giáo hội đã phạm 7 núi tội ác như trên, Giáo hội vẫn là … “thánh thiện”. Thật là đáng thương cho những đầu óc như vậy, vì họ bị giáo hội nhồi sọ, thuần hóa, mà họ không biết, cho nên họ càng ca tụng bao nhiêu về những cái không thật trong tôn giáo của họ thì họ càng chứng tỏ cho độc giả thấy trình độ thấp kém, thiếu hiểu biết, và nhất là tinh thần nô lệ tâm linh của họ bấy nhiêu.. Họ không hề biết rằng, chủ trương của Ca-tô Rô-ma Giáo là tiêu diệt tất cả những tín ngưỡng và nền văn hóa khác, bắt đầu bằng một chính sách man rợ và phản tiến hóa nhất của nhân loại: cấm mọi thảo luận triết lý trong dân gian; đốt tất cả mọi sách vở, sử liệu, chứng tích lịch sử liên hệ đến các tín ngưỡng khác và tiêu hủy mọi thông tin liên hệ đến những sự thật về KiTô giáo và nhân vật Giê-Su; và thay thế vào đó cái ý hệ độc tôn "man rợ và đen tối trí thức" của Ca-tô Rô-Ma Giáo bằng những tư liệu ngụy tạo, những giáo điều huyễn hoặc dựa trên quyền lực v...v... Lịch sử ghi:
Sau nhiều năm các tín đồ Ca-tô Rô-ma Giáo đi phá hủy sách vở và thư viện, Thánh John Chrysostom, Giáo Phụ nổi tiếng của Giáo hội, hãnh diện tuyên bố, “Mọi dấu vết về văn học và triết lý cổ của thời trước đã biến mất khỏi mặt trái đất.” (6)
Những tài liệu ở trên chứng tỏ Giáo hội Ca-tô Rô-ma, ngay từ đầu, đã theo đuổi chính sách muốn thống trị hoàn cầu bằng sách lược làm cho người dân ngu muội, tối tăm, để dễ bề kiểm soát đầu óc của đám tín đồ thấp kém. Và chính sách này được kéo dài cho đến ngày nay. Giáo hoàng đương nhiệm, Benedict XVI, nguyên là Hồng Y Thiết Giáp Ratzinger, đứng đầu Bộ Tín Lý và Đức Tin của Công Giáo, đã cấm đoán hoặc cất chức những nhà thần học nổi tiếng trên thế giới như Teilhart de Chardin, Edward Schillebeeckx, Hans Kung, Charles E. Curran, Raymond Hunthausen, Uta Ranke-Heinemann v..v..., và nhất là những nhà thần học trong phong trào Thần Học Giải Phóng, chủ trương phục vụ con người thay vì phục vụ Thiên Chúa [thực ra là phục vụ Giáo hoàng], điển hình như Leonardo Boff, Gustavo Gutíerez, Juan Luis Segundo v..v.. , cấm họ không được viết sách hay dạy học trong những trường học Ca-tô, vì những người trên đã có những ý kiến không phù hợp với những điều ngu dốt “giáo hội dạy rằng…”. Riêng trong cộng đồng giáo dân Việt Nam hải ngoại thì các bề trên đều cấm đoán tín đồ đọc những sách vở viết lên những sự thật lịch sử về giáo hội Ca-tô Rô-ma Giáo, đặc biệt là hơn 40 đầu sách do Giao Điểm xuất bản, bằng những lời đe dọa thuộc thời bán khai đã mất thời gian tính như dọa Chúa sẽ đọa đầy xuống hỏa ngục hay bị Giáo hội tuyệt thông, không cho hiệp thông với Chúa để hưởng một cái bánh vẽ trên trời sau khi chết. Ratzinger cấm thì cứ cấm, những nhà thần học nổi danh như Hans Kung, Uta Ranke-Heinemann, Leonardo Boff v..v.. thản nhiên không coi sự cấm đoán của Ratzinger vào đâu, vẫn tiếp tục dạy học và viết sách, vì trong thời đại này, giáo hội không còn khả năng để giết họ hay đưa họ lên dàn hỏa nữa.
Tiến hóa là một quy luật thiên nhiên, và sự tiến bộ trí thức của con người đã đưa Âu Châu ra khỏi Thời Đại Đen Tối trên. Quyền lực Ca-tô Rô-ma Giáo suy giảm dần dần và cuối cùng thì “những thanh gươm để giết người, và những bó củi để thiêu sống người đã bị tước khỏi những bàn tay đẫm máu của Giáo hội Ca-tô.” [Xin đọc John Remsburg, “False Claims” p. 24: The fagot and the sword have been wrested from her bloody hands]. Ca-tô Rô-ma Giáo bắt đầu suy thoái và tình trạng suy thoái thê thảm của Ca-tô Rô-ma Giáo ở Âu Châu và trên khắp thế giới, trừ một số ốc đảo chậm tiến, đã là một sự kiện.
Yếu tố chính làm cho Ca-tô Rô-ma Giáo nói riêng, Ki Tô Giáo nói chung, suy thoái là, Ca-tô Rô-ma Giáo với những cấu trúc quyền lực, với những giáo lý dựa trên Thánh Kinh, và với những giáo lý bịa đặt ngoài Thánh Kinh, đã không còn phù hợp với thế giới văn minh tiến bộ ngày nay. Thật vậy, nghiên cứu kỹ vấn đề, chúng ta thấy thật ra sự suy thoái của Ca-tô Rô-ma Giáo không phải trong thời đại này mới xảy ra mà đã bắt nguồn từ sự tiến bộ trí thức của con người, ít ra là từ cuộc Cách Mạng Khoa Học (The Scientific Revolution) vào thế kỷ 16-17, từ Thời Đại Lý Trí (The Age of Reason) và Thời Đại Khai Sáng (The Age of Enlightenment) trong thế kỷ 18, rồi qua các Thời Đại Của Các Hệ Thống Tư Tưởng (The Age of Ideology) trong thế kỷ 19, đến Thời Đại Phân Tích (The Age of Analysis) trong thế kỷ 20, của một số đông triết gia và khoa học gia, phần lớn là những người sống trong những xã hội Ki Tô Giáo hoặc các bậc lãnh đạo Ki Tô Giáo. Những thời đại này đã kéo con người Tây phương ra khỏi Thời Đại Của Đức Tin (The Age of Faith), một thời đại mà sự thống trị của Ca-Tô Rô-ma Giáo đã đưa Âu Châu vào Thời Đại Của Sự Man Rợ Và Đen Tối Trí Thức (The age of barbarism and intellectual darkness). Điểm chung của các thời đại này là, một số đông tư tưởng gia và khoa học gia tin tưởng rằng lý trí và khoa học sẽ đưa đến sự hiểu biết chân thực, chứ không phải là tin vào những giáo điều của Ki Tô Giáo, và do đó sẽ thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại. Và ngày nay chúng ta thấy rõ như vậy.
Từ thế kỷ 17, khoa học đã tiến một bước dài, và ngày nay, trước những khám phá của khoa học về mọi bộ môn để giải thích thiên nhiên như nó là như vậy, từ thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ cho đến thuyết Tiến Hóa về nguồn gốc con người, từ cấu trúc của các vị sao đến các “gen” trong cơ thể con người, thuyết sáng tạo cũng như những huyền thoại về Giê-su như là con của một ông Thiên Chúa, “chuộc tội” cho nhân loại, “cứu rỗi”, “Cứu Thế” v..v… đã không còn bất cứ một giá trị nào trong giới trí thức hiểu biết. Độc giả muốn biết thêm chi tiết về sự phát triển trí thức trên có thể đọc những bài sau đây, đã đăng trên www.sachhiem.net và www.giaodiemonline.com :
◘ https://www.sachhiem.net/TCN/TCNkh/TCNkh00.php: Nguồn Gốc Vũ Trụ: Thuyết Big Bang.
◘ https://www.sachhiem.net/TCN/TCNkh/TCNkh00a.php: Nguồn Gốc Con Người: Thuyết Tiến Hóa
◘ https://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN36.php: Huyền Thoại Cứu Rỗi [The Salvation Myth] của Linh mục James Kavanaugh.
◘ https://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN37.php: Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ” (Jesus As Rescuer: An Image That Has To Go) của Giám mục Tin Lành John Shelby Spong.
Sau đây chúng ta hãy duyệt qua những sự kiện chính trong những thời đại trên. Nếu chúng ta đọc về những triết gia như Lord Edward Herbert (1583-1648), Baruch Spinoza (1632-1677), Pierre Bayle (1647-1706), John Toland (1670-1720), Anthony Collins (1676-1729), David Hume (1711-1776) v..v…, chúng ta thấy rằng họ đều phủ nhận tư cách thần thánh của Giê-su, bác bỏ mọi phép lạ Giê-su làm, và phủ nhận sự can thiệp của Gót (God) vào những việc thế gian hay sự vận hành của vũ trụ.
[Raymond Martin, The Elusive Messiah, p. 32: They denied the validity of religious claims based on revelation or on the teachings of any church. They accepted there is a God, but denied that God intervenes in the world, so they rejected, except as potentially instructive myths, all New Testament stories of miracles and prophesies fulfilled].
Chúng ta hãy lấy một thí dụ điển hình. Theo Spinoza thì “đức tin chỉ là sự cả tin và thành kiến hợp lại với nhau làm cho con người thoái hóa từ một sinh vật có đầu óc suy lý xuống thành một dã thú và hoàn toàn bóp chết khả năng phán xét hợp lý” (Faith is a mere compound of credulity and prejudices which degrade man from rational being to beast and completely stifle the power of his rational judgment). Spinoza bác bỏ mọi phép lạ với lý luận đại khái như sau:
1. Phép lạ vi phạm luật thiên nhiên trong vũ trụ, sản phẩm sáng tạo của Gót (a violation of universal law of nature created by God.)
2. Phép lạ cũng do Gót tạo ra.
3. Vậy phép lạ vi phạm chính luật của Gót.
4. Chúng ta không thể nghĩ rằng một Gót toàn năng toàn trí lại hành động một cách mâu thuẫn như vậy.
5. Do đó phép lạ không thể xẩy ra, không phải là vì không có Gót, mà chính là vì có một Gót (Miracles cannot occur not because there is no God, but because there is one)
Với lý luận như vậy thì các tín đồ Ki Tô, nếu tin là có Gót thì không thể tin có phép lạ, hay ngược lại. Hiển nhiên là các tín đồ Ki Tô Giáo đều tin là có Gót, vì họ mơ tưởng một cuộc sống đời đời bên Gót, lẽ dĩ nhiên sau khi chết. Do đó, thực chất các phép lạ như Giê-su đi trên nước, biến nước thành rượu, làm cho người chết sống lại, chết rồi sống lại bay lên trời, hay những chuyện như Đức Mẹ “đồng trinh” sau khi đã sinh ra Giê-su và 6, 7 đứa em, hoặc hiện thân ở Lourdes, Fatima, La Vang v…v… chỉ là những luận điệu thần học hoặc những màn dàn dựng lừa bịp của Giáo hội để mê hoặc con chiên. Nói tóm lại, sự hiện hữu của một Gót và các phép lạ không thể tương hợp [incompatible] với nhau. Vấn nạn của các tín đồ Ki Tô là, nếu bỏ các phép lạ đi thì Gót của họ không còn là Gót, Giê-su không còn là Giê-su, Gót trở về nguyên vị của một Thần ác ôn của dân tộc Do Thái, và Giê-su trở về nguyên vị của một người thường, với tất cả những giới hạn về trí tuệ và đạo đức của một người thường [Tân Ước viết rõ còn kém cả người thường]... Đây chính là kết luận của các học giả Tây phương, ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô, trong vòng hơn 200 năm nay, sau khi họ đã nghiên cứu về cuốn Thánh Kinh và nhân vật Giê-su trong Tân Ước. Nhưng với đầu óc của con chiên thì họ có thể tin bất cứ cái gì, dù mâu thuẫn đến đâu. Và câu họ thường nói mà không hề biết là nó vô nghĩa đến chừng nào: “Gót là bậc toàn năng, đã sáng tạo ra vũ trụ muôn loài, vậy thì làm gì chẳng được” !!!
Sau đây chúng ta hãy nói đến các khoa học gia. Một số chi tiết về một số nhân vật điển hình trong các thời đại trên đã được trình bày trong bài “Tại Sao Ki-tô Giáo Phải Suy Thoái” https://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN99_1.php. Ở đây tôi chỉ trình bày những nét đại cương về diễn tiến của sự tiến bộ trí thức và khoa học qua các thởi đại.
Từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 16 ở Âu Châu, triết học và khoa học đều nằm trong tay Giáo hội Ca-tô. Quan niệm về thế giới của mọi tư tưởng gia thời đó là luận cứ thần học của Plato và Aristotle. Thế kỷ 16 mở đầu cho cuộc cách mạng khoa-học, rồi tới thế kỷ 17, với những thành quả khoa học của Isaac Newton, khoa học vật lý hiện đại (modern physical science) bắt đầu ló dạng và phát triển thật kỳ diệu cho đến ngày nay và còn đang tiếp tục phát triển. Trước thế kỷ 16, vấn đề tín ngưỡng đều dập theo những lý luận thần học về thẩm quyền của sự mạc khải của Gót. Nhưng từ thế kỷ 16, một số tư tưởng gia và khoa học gia cho rằng đức tin phải tranh đua (compete) với những khám phá của khoa học. Trước đó thì toàn thể Âu Châu tin rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ, vì Thánh Kinh viết vậy. Theo luận điệu thần học của Ki Tô Giáo thì chính Gót đã sáng tạo ra vũ trụ để làm trú sở cho con người. Do đó con người phải ở trung tâm của vũ trụ vì đó là mục đích của Gót khi tạo ra vũ trụ.
Nhưng Nicolaus Copernicus (1473-1543), một nhà thiên văn học Ba Lan, lại đưa ra một khám phá mới: đó là, không phải là mặt trời và các hành tinh quay xung quanh trái đất, mà chính là trái đất và các hành tinh quay xung quanh mặt trời. Copernicus xuất bản cuốn: "Chuyển động quay của các thiên thể" (Revolutions of the Heavenly Bodies) trong đó có ghi những khám phá của ông.Copernicus còn cho rằng mặt trời đứng yên và ở gần trung tâm của vũ trụ. May cho Copernicus, trước khi Giáo hội đưa ra biện pháp trừng trị đối với ông thì ông qua đời.


Tranh vẽ Nicolaus Copernicus và Giordano Bruno
Rồi đến Giordano Bruno (1548-1600), một linh mục dòng Dominique người Ý, không những đồng ý với Copernicus mà còn táo bạo hơn, đưa ra quan niệm là ngoài thế giới chúng ta đang sống có thể còn có nhiều thế giới tương tự khác nữa. Bruno không những chỉ cho rằng trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ mà còn cho rằng, trung tâm của vũ trụ là một quan niệm vô nghĩa (senseless). Quan niệm của Bruno về vũ trụ là không có trung tâm, vì nhìn từ bất cứ điểm nào, vũ trụ cũng trải rộng ra đến vô tận. Vì trường hợp của Bruno khá đặc biệt cho nên tôi muốn thêm vài chi tiết.
Những quan điểm của Bruno trái với lời mạc khải của Thiên Chúa trong Thánh Kinh: Trái đất là trung tâm của thế giới duy nhất mà chúng ta đang sống. Do đó, Giáo hội đã ra tay. Robert G. Ingersoll, một nhà tư tưởng tự do vĩ đại nhất của nước Mỹ, đã viết về Giáo hội Ca-tô ra tay đối với Bruno như sau:
“Ông ta [Bruno] tin là trong vũ trụ có nhiều thế giới, về chuyển động quay [xung quanh mặt trời] của trái đất, và thuyết mặt trời là trung tâm. Vì những tội ác này, và chỉ vì những tội ác này, ông ta bị bắt giam trong 6 năm. Sau cùng, vì từ chối không chịu chấp nhận những điều trái với niềm tin bắt nguồn từ những kết quả nghiên cứu khoa học vững chắc mà ông cho là đúng dù rằng nếu chấp nhận là sai ông sẽ được tự do, ông bị đưa ra tòa án xử dị giáo, kết án, dứt phép thông công và bị tuyên án tử hình bằng cách thiêu sống. Ông bị các Linh Mục, những người có lòng thương yêu kẻ thù (theo như lời dạy của Giê-su trong Thánh Kinh. TCN), dẫn từ nhà tù ra nơi hành hình. Ông bị cột vào một cọc xung quanh có chất củi. Rồi các Linh Mục, đệ tử của Chúa Ki-Tô, châm lửa và thiêu sống vị Thánh tử đạo vĩ đại nhất, hoàn hảo nhất này.” (7)
Năm 1616, kính thiên văn đầu tiên của Galileo Galilei (1564-1642) đã làm cho vòm trời trong Thánh Kinh rớt ra từng mảng. Công cuộc khảo cứu của Galileo Galilei dựa trên sự quan sát thiên văn qua hàng loạt những kính thiên văn ngày càng tân kỳ hơn, đã thực chứng quan niệm của Bruno và đồng thời khẳng định thuyết của Copernicus, nghĩa là trái đất quay xung quanh mặt trời, như là một chân lý khoa học. Chúng ta đã biết, năm 1633, dưới triều Giáo Hoàng Urban VIII, bạn của Galilei, tòa án xử dị giáo đã buộc Galilei phải sửa đổi khám phá khoa học của ông cho phù hợp với Thánh Kinh, nghĩa là mặt trời quay xung quanh trái đất, và dù vậy ông ta vẫn bị biệt giam tại nhà cho đến khi chết vào năm 1642. Trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, 359 năm sau vụ án khoa học gia Galileo Galilei, tòa thánh Vatican dưới triều John Paul II đã chính thức công nhận sự sai lầm của Giáo hội Ca-tô Rô-ma Giáo, nhưng không hề nhắc đến vụ thiêu sống Bruno.


Poster về Galileo Galilei và hình vẽ Johannes Kepler với các hành tinh trong Thái Dương hệ
Ngoài ra, cùng thời với Galilei còn có nhà thiên văn và toán học người Đức là Johannes Kepler (1571-1630). Không những Kepler đồng ý với Copernicus và Galilei mà ông còn đưa ra 3 định luật về cơ học các thiên thể (celestial mechanics) để mô tả một cách vô cùng chính xác sự chuyển động của các hành tinh, trong đó có trái đất, trên các quỹ đạo xung quanh mặt trời.
Khoảng cuối thế kỷ 17, Isaac Newton (1642-1727) chứng minh rằng những chuyển động của các thiên thể có thể hiểu được qua 3 định luật về cơ học và định luật vạn vật hấp dẫn (gravitation). Newton đã chứng tỏ rằng thiên nhiên có thể tự vận hành chính xác mà không cần đến sự nhúng tay của Gót (Newton had shown that Nature, without God’s intervention, could work quite well on its own.)
Chúng ta nên để ý là những khoa học gia nổi danh trên như Copernicus, Bruno, Galilei, Kepler, và Newton, đều là những người tin là có Gót. Vào thời đó thì ở Âu Châu mọi người ai cũng phải tin là có Gót nếu không muốn bị bạo hành. Cũng vì vậy mà Ca-tô Rô-ma Giáo thường nêu lên tên tuổi của những khoa học gia xuất chúng trong mọi ngành, khoa trương là chính họ đã đề xuất ra các ngành khoa học tân tiến ngày nay. Chúng ta hãy đọc một đoạn của họ trên:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Giáo_hội_Công_giáo_Rôma:
Những giáo sĩ khoa học của Giáo hội (nhiều người trong số họ thuộc Dòng Tên) đã khai sáng ra nền thiên văn học, di truyền học, khí tượng học, địa chấn học và khoa học vũ trụ trở thành “cha đẻ” của các môn khoa học này [cầndẫnnguồn]. Các giáo sĩ đã đánh dấu tên tuổi của mình trong nền khoa học thế giới như là Gregor Mendel thuộc Dòng Augustin (đi tiên phong trong nghiên cứu di truyền học), Georges Lemaître (đề xuất thuyết Vụ Nổ Lớn). Thậm chí nhiều người Công giáo cũng bị thu hút vào khoa học: Henri Becquerel khám phá ra chất phóng xạ; Luigi Galvani, Alessandro Volta, André-Marie Ampère, Guglielmo Marconi mở đường trong lĩnh vực điện năng và viễn thông; Antoine Lavoisier – “cha đẻ” của hoá học hiện đại; Vesalius khai sinh ra ngành giải phẫu học; Augustin Louis Cauchy - một trong những nhà toán học đặt nền tảng về đại số. Những vị trí này đã làm thay đổi cách nhìn của nhiều triết gia khai sáng cho rằng những học thuyết của Giáo hội là mê muội và cản trở sự tiến bộ của nền văn minh nhân loại. Một trong những dẫn chứng then chốt của các triết gia này là về Galileo Galilei. Năm 1633, ông bị Giáo hội kết án vì khẳng định thuyết vạn vật nhật tâm, do Nicolaus Copernicus đề xuất trước đó (có lẽ cũng là một linh mục)[32]. Sau đó, Tòa án La Mã mở một cuộc xử án, Galileo bị nghi ngờ là rối đạo (tà giáo) nhưng sự thật là ông bị tố cáo oan và thuyết nhật tâm đến nay đã chứng minh là đúng. Galileo bị ép buộc chối bỏ thuyết nhật tâm và những năm cuối đời ông bị quản chế. Ngày 31 tháng 10 năm 1992, Giáo hoàng Gioan Phalô II đã công khai lấy làm tiếc vì những hành xử của người Công giáo đối với Galileo trong cuộc xử án đó[33].
Những lời khoa trương trên thật là lố bịch và vô nghĩa vì những tên tuổi nêu trên, ngoại trừ Copernicus và Galilei còn ở trong guồng máy độc tài toàn trị của Giáo hội Ca-tô, là những khoa học gia, từ sau cuộc cách mạng khoa học, đã không còn ở trong vòng kiềm tỏa của Giáo hội Ca-tô. Những khám phá khoa học của họ là do khả năng tư duy cá nhân, hoàn toàn không phải do kiến thức đến từ, hay ảnh hưởng của, nền thần học Ki Tô Giáo, một bộ môn không biết gì về khoa học. Nhưng những lời khoa trương trên chỉ để quảng cáo những điều tự nhận trơ trẽn của Ca-tô Rô-ma Giáo cho đám tín đồ thấp kém, chứ đối với giới trí thức hiểu biết thì thật là lố bịch, vì thực tế là, những kết quả khám phá khoa học trên đã phá sập toàn bộ nền tảng thần học của Ki Tô Giáo. Thật vậy, Di truyền học của Mendel, Vụ nổ lớn của Georges Lemaitre, thuyết Nhật Tâm của Copernicus v..v…đã phá tan thuyết sáng tạo trong Cựu Ước và những huyền thoại trong Tân Ước, thí dụ như Thánh Linh làm cho cô bé Mary mang thai, hay Chúa bay lên trời ngồi bên tay phải của Cha ông ta v…v…, do đó vai trò của Gót cha và Gót con đã bị đặt ra ngoài lề xã hội. Chúng ta hãy duyệt qua sự tiến bộ trí thức của nhân loại.
Những khám phá khoa học của Copernicus, Bruno, Galilei, Kepler, và Newton đã tạo nên một cuộc cách mạng khoa học (The scientific revolution). Người ta gọi đó là 1 cuộc cách mạng khoa học, bởi vì nhờ đó mà Tây phương thoát ra khỏi cảnh tăm tối đã kéo dài gần 1000 năm, từ năm 476 tới năm 1473. Chính trong thời đại này, Tây phương đã nằm dưới quyền thống trị của Ca-tô Rô-Ma Giáo. Những giáo điều, tín lý của Ca-tô Rô-Ma Giáo, tôn giáo của Tây phương, cộng với quyền hành của các lãnh tụ tôn giáo ở địa vị nắm quyền, hay liên kết với những chính quyền đương thời, đã ngăn chặn sự phát triển khoa học và tự do tư tưởng của con người. Mọi khám phá khoa học, mọi tư tưởng trái ngược với Thánh Kinh đều bị lên án là “lạc đạo" (heretics), phải diệt trừ. Do đó, cũng chính trong khoảng thời gian này, Tây phương phải chịu đựng 8 cuộc Thập Ác Chinh (Crusades) và hàng trăm ngàn các vụ xử án dị giáo (Inquisitions), với kết quả là nhiều triệu người gồm già, trẻ, lớn, bé, trai, gái đã bỏ mạng vì, hoặc bị tàn sát, có khi tập thể; hoặc bị tra tấn bởi những dụng cụ tra tấn kinh khủng nhất trong lịch sử nhân loại (Hơn 40 dụng cụ tra tấn dã man này hiện được trưng bầy trong 1 bảo tàng viện nhỏ tên là Medieval Dungeon trên đường Jefferson, khu Fisherman Warf, tại San Francisco, và trong một bảo tàng viện ở Hà Lan); hoặc bị treo cổ, hoặc bị đốt sống v...v..., tất cả chỉ vì họ không chấp nhận hay có những tư tưởng ngược với Thánh Kinh. Đó là những vết tỳ ố không sao tẩy xóa được trong lịch sử loài người, dù ngày nay Giáo hội Ca-tô Rô-Ma đã làm hết sức để quảng cáo cái bộ mặt giả nhân giả nghĩa ngụy trang dưới những chiêu bài như nhân quyền, từ thiện, bác ái v..v.. với hi vọng làm cho thế giới quên đi cái lịch sử tàn bạo của Giáo hội, đẫm máu và nước mắt của hàng triệu người vô tội.


Tranh vẽ Thánh chiến và Mộc bản mô tả một Phòng tra tấn Dị giáo
Cuộc cách mạng khoa học đã gây nên hai ảnh hưởng to lớn: Trong giới khoa học, đó là khởi điểm của các tiến bộ khoa học hiện đại, vì từ đó các khoa học gia đã thoát ra khỏi sự thống trị tư tưởng của tôn giáo; trong xã hội đại chúng, đó là khởi điểm của sự đạp đổ nền độc tài tôn giáo và những giáo điều lỗi thời, vì những khám phá khoa học mới đã có tác dụng mở mang dân trí, chấm dứt 1000 năm tăm tối, giải phóng con người khỏi sự chuyên chế độc tài của giới giáo sĩ, điển hình là cuộc cách mạng năm 1789 tại Pháp mà kết quả là tước bỏ quyền hành của giới lãnh đạo Ca-tô Rô-ma giáo trong quần chúng.
Âu Châu bước sang thế kỷ 18, được gọi là Thời Đại Của Lý Trí và Khai Sáng (The Age of Reason & Enlightenment). Thế kỷ 18 nổi tiếng với những triết gia như David Hume, Thomas Paine và những nhà đại văn hào của Pháp như Voltaire, Victor Hugo v..v…
Giữa thế kỷ 18, Voltaire đã nhận định: “vô thần là thói xấu của một số ít những người thông minh” (Atheism is the vice of a few intelligent people) để đối chiếu với số đông những người “hữu thần” ngu dốt tin nhảm tin nhí vào một thần trong thời đó ở Âu Châu, tuyệt đại đa số là tín đồ Ki-Tô Giáo, Ca-tô Giáo cũng như Tin Lành.
Victor Hugo cũng đưa ra hai nhận định rất nổi tiếng trong thời đó:
“Chỉ có hai tội phạm: César và Phê-rô (Peter), César thì giết người (hủy diệt thân xác), Phê-rô thì nói láo (hủy diệt tư duy của con người). Người linh mục đã, hoặc có thể, bị thuyết phục và thành thật [tin vào những điều mê tín hoang đường]. Chúng ta có nên trách họ không? Không! Chúng ta có nên chống họ không? Nên!”
(Il n'y a que deux coupables, César et Pierre; César qui tue, Pierre qui ment. Le prêtre est, ou peut être, convaincu et sincère. Doit-on le blâmer? Non. Doit-on le combattre? Oui.)
“Nền văn minh, ánh sáng này, có thể bị tắt đi bởi hai cách nhận chìm nó, hai sự xâm lăng nguy hiểm đối với nó: sự xâm lăng của các quân lính và sự xâm lăng của các linh mục. Sự xâm lăng của các quân lính đe dọa mẹ chúng ta: tổ quốc; sự xâm lăng của các linh mục đe dọa con chúng ta: tương lai.”
(La civilisation, cette lumière, peut être éteinte par deux modes de submersion, deux invasions lui sont dangereuses, l’invasion des soldats et l’invasion des prêtres. L’une menace notre mère: la patrie; l’autre menace nos enfants: l’avenir)
Thomas Paine xuất bản cuốn Thời Đại Của Lý Trí làm ba phần, vào những năm 1794, 1785, và 1807. Nội dung phê bình chỉ trích định chế tôn giáo của Ki Tô Giáo và chất vấn về tính chính đáng (legitimacy) của cuốn Kinh Thánh. Ông ta vạch ra sự đồi bại của Giáo hội Ki Tô [corruption of the Christian Church] và chỉ trích những nỗ lực của Giáo hội để có những quyền lực chính trị. Paine cổ võ việc sử dụng lý trí thay vì tin vào mạc khải, bác bỏ mọi phép lạ trong Ki Tô Giáo và coi cuốn Kinh Thánh như là một văn phẩm bình thường chứ không phải là một cuốn sách linh khải bởi thần thánh. Ảnh hưởng của Thomas Paine thấy rõ trong những nhà tư tưởng tự do (freethinkers) trong những thế kỷ 19 và 20, điển hình là trong những tác phẩm của Christopher Hitchens.
Đến cuộc cách mạng của người dân Pháp vào năm 1789, trong đó người dân Pháp đã nhìn Ca-tô Rô-Ma Giáo như là một hiểm họa cho quốc gia và đã có những biện pháp cực đoan đối với Giáo hội Ca-tô ở Pháp. Theo Linh mục Dòng Tên Malachi Martin, Giáo sư tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh Của Giáo Hoàng, và đã phục vụ trong Vatican dưới triều Giáo hoàng John XXIII thì: Pháp, Trưởng Nữ của Giáo Hội Ca-tô Rô-ma, trong cuộc Cách Mạng 1789, đã chính thức đưa Lý Trí lên bàn thờ Chúa, đã tàn sát trên 17000 Linh Mục, 30000 Nữ Tu và 47 Giám Mục, và đã dẹp mọi Trường Dòng, Trường Học Ca-tô, những Dòng Tu, đốt phá nhà thờ, thư viện của Giáo hội v..v.. [Xin đọc The Decline and Fall of The Roman Church, trang 196: “France, “eldest daughter of the Church”, enthroned Reason officially as supreme deity, massacred over 17,000 priests and 30,000 nuns as well as 47 bishops, abolished all seminaries, Catholic schools, religious orders, burned churches and libraries...”]
Nước Pháp vào cuối thế kỷ 18 có thể gọi là toàn tòng Ca-tô. Nền giáo dục quốc gia nằm trong tay giới giáo sĩ. Nếu Ca-tô Giáo thực sự là một lực lượng tinh thần của dân chúng, nếu Ca-tô Giáo là một “hội thánh” được chỉ đạo về luân lý đạo đức bởi các giới giáo sĩ và nữ tu, nếu Ca-tô Giáo thực sự mang phúc lợi đến cho quốc gia v..v.. , thì tại sao lại lại có thể xảy ra những vụ tàn sát như trên trong cuộc cách mạng 1789? Câu trả lời thật là đơn giản. Vì Ca-tô Giáo là một hiểm họa của quốc gia.
Các trí thức Pháp đã nhận thức được sự quan trọng của một nền giáo dục khai phóng, tiến bộ, yêu nước, cho nên họ đã cương quyết chống lại nền giáo dục của giáo hội Ca-tô trên nhiều phương diện, và họ đã thành công, qua cuộc cách mạng 1789, trong mục đích “Giật con em ra khỏi bàn tay giáo dục của những linh mục, vạch trần những sự đạo đức giả của Giáo hội.” (Arracher l’enfant au moine, dévoiler les hypocrisies de l’Église). Họ lên án Ca-tô Giáo, như lời tuyên bố của Charles Dupuy, Bộ Trưởng Giáo Dục Pháp: “Không thể nhân nhượng trong chiều hướng giáo dục tự do, cho bất cứ ai lại có thể dạy dỗ những đứa trẻ để chống lại tổ quốc của chúng và cản sự tiến bộ của chúng” (Il nous parait intolérable qu’à la faveur de la liberté d’enseignement, qui que ce soit élever les enfants contre leur pays et contre leur temps).
Chúng ta biết rằng, “dạy dỗ những đứa trẻ để chống lại tổ quốc của chúng và cản sự tiến bộ của chúng” chính là hai sắc thái đặc thù của Ca-tô Rô-Ma Giáo trong các trường học Ca-tô trên khắp thế giới, đặc biệt trong thời thịnh hành của chế độ Thực Dân như ở Việt Nam và các nước trong thế giới thứ ba. Ở Việt Nam, Ca-tô Rô-ma Giáo đã tạo nên những Việt gian nổi danh như Nguyễn Trường Tộ, Pétrus Ký, Paulus Của, Trần Bá Lộc, Nguyễn Thân, Trần Lục, Tam Đại Việt gian đạo gốc dòng họ Ngô Đình, Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, Hoàng Quỳnh v..v.. Họ là ai? Toàn là Việt gian bán nước, theo giặc chống lại tổ quốc, hoặc cuồng tín, nô lệ Vatican như Ngô Đình Diệm?
Sang đến thế kỷ 19 là Thời Đại Của Các Hệ Thống Tư Tưởng (The Age of Ideology)
Thế kỷ 19 có ba vĩ nhân làm thay đổi bộ mặt của Ki Tô Giáo qua những nghiên cứu khoa học và xã hội: Charles Darwin, Karl Marx, và Robert G. Ingersoll. Charles Darwin là một khoa học gia người Anh, Karl Marx là một triết gia người Đức, còn Robert G. Ingersoll là một nhà tư tưởng tự do (freethinker) nổi tiếng nhất của nước Mỹ.
■ Năm 1859, Charles Darwin (1809-1882) cho ra đời cuốn Về Nguồn Gốc Các Chủng Loại Do Chọn Lọc Tự Nhiên (On the Origin of Species By Means of Natural Selection). Then chốt của thuyết này là ở phần cuối tên cuốn sách: “Chọn Lọc Tự Nhiên”. Chỉ hai chữ “Chọn lọc” (Selection) đã bác bỏ một lý luận chống đối rất kém của Ki Tô Giáo, cho rằng tiến trình Tiến Hóa là do sự ngẫu nhiên hay tình cờ, để bác bỏ. Darwin không phải là người đầu tiên có tư tưởng về Tiến Hóa (Evolution). Nhưng những dữ kiện khoa học của ông ta đã là căn bản cho sự phát triển thuyết Tiến Hóa sau này trong hầu hết các bộ môn khoa học. Và ngày nay, Tiến Hóa đã là một sự kiện mà chính Giáo hoàng John Paul II cũng phải công nhận. Sau đây là nhận định về thuyết Tiến Hóa của một Linh mục và một Mục sư:


Linh mục dòng Tên Teilhard de Chardin trong The Phenomenon of Man:
Tiến Hóa là một thuyết, một hệ thống, hay một giả thuyết? Nó còn nhiều hơn nữa: nó là một điều kiện tổng quát mà mọi thuyết, mọi giả thuyết, mọi hệ thống phải cúi đầu trước nó và phải phù hợp với nó nếu chúng muốn được nghĩ tới và coi là đúng.. Tiến Hóa là một ánh sáng soi sáng mọi sự kiện, một đường cong mà mọi đường thẳng phải theo nó... (8)
Mục sư Ernie Bringas trong cuốn: Going By The Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority:
Thuyết Tiến Hóa là một trong những cấu trúc tuyệt vời và thành công nhất của tư tưởng con người. Mọi ngành khoa học đều tiếp tục ủng hộ và kiểm chứng quan niệm về sự tiến hóa. Thuyết Tiến Hóa , giống như Thuyết Tương Đối, không còn là một "thuyết" theo nghĩa thông thường nữa, mà là một nguyên lý khoa học đặt căn bản trên rất nhiều bằng chứng không còn phải bàn cãi nữa. (9)
■ Karl Marx (1818-1883) là một triết gia vĩ đại trong thế kỷ 19. Vị trí của Marx trong số những tư tưởng gia vĩ đại của thế giới là như thế nào?
1. “Theo kết quả thăm dò ý kiến thính giả đài BBC Radio 4 trong tháng 7, 2005 thì, trong số 20 tư tưởng gia được biết đến, được kính trọng, và có ảnh hưởng nhiều nhất, Marx lại được coi như là một triết gia vĩ đại nhất của mọi thời đại”??. [BBC Press Release: 13-7-2005: Out of a shortlist of twenty of the best known, most respected and influential philosophical thinkers, nominated by the In Our Time audience, Karl Marx has been voted the Greatest Philosopher of all time by BBC Radio 4 listeners.] Theo bảng kết quả thì David Hume, một nhà nhân bản, xếp hạng 2, Nietzshe hạng 4, Kant hạng 6, và Aquinas của Ki-tô Giáo hạng 7.
2. “Kết quả chọn vĩ nhân của Đức Quốc, với con số tham dự trên 5 triệu người, Karl Marx đứng hàng thứ 3 trong 100 ứng viên, Albert Einstein đứng hàng thứ 10 ( www.unserebesten.zdf.de).
Ở đây tôi không bàn đến vấn đề người ta đã áp dụng chủ thuyết Marxism đúng hay sai trong những bối cảnh lịch sử địa phương. Tôi cũng không bàn đến lý thuyết về “kinh tế chính trị” (political economy) đã tạo nên những ảnh hưởng to lớn trên các xã hội Tây phương như thế nào, thí dụ như thành lập nghiệp đoàn, thiết lập những quyền lợi của công nhân v…v…. Nội dung bài này là viết về những ảnh hưởng của những tiến bộ trí thức trên Ki Tô Giáo. Không thể phủ nhận là Marx đã chống tôn giáo, đúng ra là Ki Tô Giáo của Tây phương (vì Marx hầu như không biết gì về Tôn giáo Đông phương). Khi Marx nói nói “tôn giáo là thuốc phiện” thì tôn giáo đây là Ki Tô Giáo mà Marx biết rõ chứ không phải nói về mọi tôn giáo [Marx phát triển quan điểm của Feurbach trong cuốn “Bản chất Thiên Chúa giáo” phát hành năm 1841]. Và đây là một nhận định rất chính xác.
Nhiều nhà thần học CaTô cũng đã nghiên cứu về ý chí chống tôn giáo của Marx, điển hình là sự phân tích của Linh mục John Courtney Murray, một nhà Thần Học Ca Tô nổi danh thuộc hiệp hội Giê-Su (S.J. = Society of Jesus), trong cuốn "Vấn nạn về Gót" ("The Problem of God", Yale University Press, New Haven & London, 1964). Tôi đã tóm tắt sự phân tích này trong bài “Phật Giáo Việt Nam Giữa Hai Ý Hệ Công và Cộng”, đăng trên giaodiemonline.com trước đây. [https://giaodiemonline.com/2009/04/pgvn.htm]
■ Robert G. Ingersoll (1833-1899) là một nhân vật rất đặc biệt trong lịch sử Hoa Kỳ. Ông ta mang cấp bậc Đại Tá trong cuộc nội chiến, và sau đó làm Chưởng Lý (Attorney General), bang Illinois. Tượng kỷ niệm Ingersoll hiện nay còn ở Periora, Illinois. Chỉ cần vào Google, đánh chữ Robert G. Ingersoll là chúng ta có thể thấy tất cả những gì chúng ta muốn biết về ông ta.
Ingersoll là nhà tư tưởng tự do [a freethinker] nổi danh nhất nước Mỹ, một chiến sĩ tiền phong trong chủ trương giải phóng đầu óc con người khỏi những cùm xích của vô minh và mê tín Ki Tô Giáo (free men’s minds from the shackles of ignorance and Christian superstition). Trong công cuộc giải hoặc Ki Tô vào cuối thế kỷ 19, khi mà các nhà lãnh đạo Ki Tô Giáo còn nhiều quyền thế và người dân còn trong vòng mê tín, Ingersoll đã phải đối diện với rất nhiều nguy hiểm. Ông ta đã bị bôi bẩn, nhục mạ, vu khống, chụp mũ, chế giễu, xa lánh, tẩy chay và đe dọa đến tính mạng (He was maligned, insulted, slandered, libeled, caricatured, shunned, ostracized, and his life threatened.) Nhưng ông ta đã không thoái lui, đứng vững như bàn thạch. Và ông ta đã đi rất nhiều nơi để thuyết trình. Điểm đặc biệt là muốn nghe ông thuyết trình phải trả 2 đô-la (vào khoảng 1890 là một số tiền lớn) cho mỗi đầu người, nhưng bao giờ phòng cũng đông nghẹt người. Nhiều giáo dân đã bỏ đi lễ nhà thờ để đến nghe ông thuyết trình “chống đạo” của họ.
Hai bài đặc sắc của Ingersoll là “Những Lời Châu Ngọc Về Ki Tô Giáo” đã được dịch và đưa lên trang nhà Sách Hiếm trước đây [https://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN72.php] và bài Những Lời Châu Ngọc về Thánh Kinh" (Gems Concerning the Holy Bible) trong cuốn Công Giáo Chính Sử, Chương V:
https://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/CGchinhsu/CGCS5.php


Tượng kỷ niệm Ingersoll ở thành phố Periora, tiểu bang Illinois
Thế kỷ 20 là Thời Đại Phân Tích, một thế kỷ với những tiến bộ vượt bực về kiến thức của nhân loại trong mọi lãnh vực. Vì có quá nhiều khám phá trong mọi bộ môn kiến thức của nhân loại, cho nên chúng ta không thể kể ra hết. Cuối thế kỷ 20, những nhà vô thần nổi danh như Sam Harris với những tác phẩm “The End of Faith”, “The Moral Landscape: How Science Can Determine Human Values”; Christopher Hitchens với “God Is Not Great: How Religion Poisons Everything”; Richard Dawkins với “The God Delusion” v…v… đã công khai thách thức Ki Tô Giáo về bản chất của Gót, về những tai họa mà Ki Tô Giáo đã giáng lên đầu nhân loại. Tất cả những khám phá khoa học trong mấy thế kỷ qua và sự thách thức công khai của những người vô thần đã phá đổ toàn bộ thuyết sáng tạo của Ki Tô Giáo trong đó Gót của Ki Tô Giáo mới sáng tạo ra vũ trụ và con người cách đây khoảng 6000 năm, một thế giới thường hằng không bao giờ thay đổi, và tạo ra con người theo hình ảnh của Gót mà Gót, sau khi nặn ra từ đất sét, đã tự khen là tác phẩm của mình rất tốt đẹp (very good). Ngoài ra Mạng Thông Tin Toàn Cầu (World Wide Web) đã giúp cho con người tìm hiểu bất cứ vấn đề gì, và những sự thật về Ki Tô Giáo không còn có thể che dấu được nữa.
IV. TÌM HIỂU CA-TÔ RÔ-MA GIÁO NHƯ LÀ MỘT TÔN GIÁO.
Ngày nay, Ki-Tô Giáo chỉ nói phớt về Cựu Ước nếu cần, vì phần lớn nội dung của Cựu Ước là nói về lịch sử của một dân tộc du mục bán khai ở miền Trung Đông, thống trị bởi một Thần tàn bạo, dã man, ác độc, ngoài những chuyện hoang đường. Ki Tô Giáo tập trung vào Tân Ước, lấy chuyện con người sa ngã trong Cựu Ước để tạo nên vai trò chuộc tội và cứu rỗi của Giê-su mà họ gọi là Chúa. Các tín đồ Ki Tô Giáo nói chung đều tin vào Giê-su như là đấng cứu rỗi cho họ. Do đó, Giám Mục James A. Pike, Trưởng Ban Tôn Giáo, Đại Học Columbia [Chairman of the Department of Religion, Columbia Universsity], đã nhận định:
…TRONG THỜI HIỆN ĐẠI, TÔN GIÁO CỦA NHIỀU NGƯỜI RẤT CÓ THỂ ĐƯỢC XẾP VÀO LOẠI “ĐẠO GIÊ-SU”
(Bishop JAMES A. PIKE: IN MODERN TIMES THE RELIGION OF MANY COULD WELL BE CATEGORIZED AS “JESUSISM”) [A Time For Christian Candor, p. 108]
Nếu chúng ta muốn tìm hiểu một tôn giáo như Ca-tô Rô-ma Giáo thì chúng ta phải tìm hiểu như thế nào, tìm hiểu về những gì của tôn giáo đó? Theo tôi thì có bốn tiêu chuẩn mà chúng ta có thể dựa trên đó để mà tìm hiểu và đánh giá một tôn giáo. Bốn tiêu chuẩn đó là:
1. Trí tuệ và đạo đức của Giáo Chủ.
2. Giáo lý tôn giáo để hướng dẫn tâm linh con người.
3. Lịch sử phát triển để truyền bá giáo lý tôn giáo, mang phúc lợi đến cho nhân loại.
4. Thành phần tín đồ và đạo đức tôn giáo của những bậc lãnh đạo tinh thần trong tôn giáo đó.
1. Trí tuệ và đạo đức của Giáo Chủ.
Theo Giáo hội Ca-tô Rô-ma thì Giáo chủ của Ca-tô Rô-ma Giáo là Chúa Giê-su, vì Chúa Giê-su chính là vị thành lập ra Giáo hội Ca-tô Rô-ma ngày nay. Điều ngụy tạo này đã bị chính những người nổi danh trong Giáo hội như Linh mục Joseph McCabe, Giáo sư thần học Hans Kung, Nữ giáo sư thần học Uta Ranke-Heinemann, giáo sư đại học Du Page, Linh mục John Dominic Crossan, và nhiều trí thức khác dứt khoát bác bỏ. Nhưng ở đây chúng ta không cần trở lại vấn đề này, chúng tôi đã phân tích kỹ vấn đề này trong một số bài trước đây rồi. Vậy trước hết chúng ta hãy tìm hiểu về trí tuệ và đạo đức của Chúa Giê-su.
Về nhân vật Giê-su trong Tân Ước, trước đây tôi đã nghiên cứu tương đối sâu rộng và viết cuốn “Chúa Giê-su Là Ai? Giảng Dạy Những Gì?”, Giao Điểm xuất bản năm 2002. Độc giả có thể đọc toàn bộ cuốn sách này trên https://www.sachhiem.net/TCN/ TCNtg/Giesu/Giesulaai.php. Điểm đặc biệt về cuốn sách này là, chỉ hơn một tháng sau khi sách được xuất bản ở Mỹ thì ở bên Việt Nam sách đã được in chui lại ở T.P. Hồ Chí Minh, vào tháng 5, 2002. Có người gửi cho tôi một cuốn, giấy xấu, hình ảnh không được rõ. Tôi không biết sách đã được in ra bao nhiêu cuốn và ai in. Nhưng đây không phải là vấn đề cần quan tâm mà là sách, cũng như cuốn “Công Giáo Chính Sử” trước đó, đã được in lại và phổ biến ngầm ở Việt Nam.
Tất cả những gì chúng ta biết về nhân vật Giê-su là ở trong Tân Ước, phần lớn nằm trong 4 Phúc Âm Matthew, Mark, Luke và John. Vậy việc đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu là nghiên cứu Phúc Âm để tìm ra lẽ thật trong đó. Điều này các học giả trí thức Tây phương ở trong các Giáo hội Ki Tô Giáo đã làm từ trên 200 năm nay. Sau đây là vài sự kiện lịch sử.
Trong Thời Đại Khai Sáng (The Age of Enlightenment) các trí thức Âu Châu đã thoát ra khỏi quyền năng không thể sai lầm của Thánh Kinh, và sự chuyên chế của các Giáo hội Ki Tô, Ca-tô Rô-ma và Tin Lành, và đi vào lãnh vực nghiên cứu Thánh Kinh, đặc biệt là Tân Ước, vì trong thời đại đó, Giê-su như là một thứ bùa mê đối với đám tín đồ Ki Tô ở dưới. Những nhà nghiên cứu Tân Ước thường gặp những khổ nạn vì công việc nghiên cứu của họ. Một khuôn mặt điển hình và có thể coi như là tiên phong trong việc nghiên cứu Tân Ước, điều mà Giáo hội Ca-tô cấm, là Herman Samuel Reimarus, giáo sư ngôn ngữ Á Đông tại Đại Học Hamburg, Đức quốc (professor of Oriental languages at Hamburg University). Năm 1760, Reimarus viết một cuốn sách trong đó ông ta thách thức những sự thật lịch sử trong Phúc Âm. Nhưng sợ bị Giáo hội trả thù ông ta đã dàn xếp để cuốn sách đó xuất bản sau khi ông ta chết (fearing reprisals, he arranged to have it published after his death). Reimarus cho rằng, những người viết Tân Ước, cũng như viết về Giê-su, không phải là để giảng dạy về một tôn giáo chân thật hợp lý trí, mà cho những tham vọng ích kỷ của họ, cổ súy điều họ trình bày về một sự tổ hợp kỳ lạ của sự gian trá nồng nhiệt có ý thức [The design of the writers of the New Testament, as well as that of Jesus, was not to teach true rational religion, but to serve their own selfish ambitions, in promoting which they exhibit an amazing combination of conscious fraud and enthusiasm.]

Năm 1835, một trí thức Đức khác, David Friedrich Strauss, xuất bản một cuốn sách đồ sộ “Khảo sát cặn kẽ về đời Sống của Giê-su” (The Life of Jesus Critically Examined) trong đó ông ta dùng những phương pháp nghiên cứu, phê bình để xác định là các Phúc Âm không phải là do các tông đồ của Giê-su viết, mà là do những tín đồ Ki Tô về sau, đan lẫn những sự kiện với những truyền thuyết và ảo tưởng vào với nhau. Ông ta bị cấm không cho dạy môn Thần Học trong suốt cuộc đời của ông ta [The gospels were written not by followers of Jesus but by later Christians who wove fact, legend, and fantasy together, he was barred from teaching theology for the the rest of his life.]
Bước sang thế kỷ 20, sự khám phá ra những cuộn kinh nơi Biển Chết (The Dead Sea Scrolls) song song với kỹ thuật định tuổi vật chất cùng nhiều khám phá khác trong ngành khảo cổ đã giúp cho những nhà nghiên cứu rất nhiều trong công cuộc đi tìm những sự thực trong Thánh Kinh. Rồi đến thập niên 1960, những khoa dạy môn Thần học trong các trường đại học Ki Tô bắt đầu xuống dốc vì càng ngày càng ít người học, nhiều học giả đã bỏ các trường đại học Ki Tô để sang dạy tại các trường đại học công, nơi đây họ có nhiều tự do hơn trong việc khảo cứu.
Một cuốn sách điển hình về hiện tượng giải hoặc Ki Tô Giáo này là của Uta Ranke-Heinemann, người phụ nữ đầu tiên trên thế giới chiếm được ngôi vị giáo sư thần học Ca-Tô của giáo gội Ca-Tô [the first woman in the world to hold a chair of Catholic theology], cuốn “Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con” (Putting Away Childish Things, HarperCollins, 1995). Những chuyện trẻ con nào? Tác giả trích dẫn câu 1 Corinthians 13:11 ở ngay đầu cuốn sách: “Khi tôi còn là một đứa trẻ, Tôi nói như một đứa trẻ, tôi hiểu như một đứa trẻ, tôi nghĩ như một đứa trẻ; Nhưng khi tôi trở thành một người trưởng thành, tôi dẹp bỏ những chuyện của trẻ con” [When I was a child, I spoke as a child, I understood as a child, I thought as a child; But when I became an adult, I put away childish things.] Những chuyện của trẻ con nào phải dẹp bỏ? Đó là những tín lý căn bản của Ca-Tô Giáo:
- “Tư cách thần thánh của Chúa Ki Tô” [The divinity of Christ]
- “Sinh ra từ một nữ trinh” [The Virgin mother]
- “Ngôi mộ trống”[Empty Tomb]
- “Ngày Thứ Sáu tốt đẹp”[ Easter, Good Friday]
- “Phục sinh”[ Resurrection]
- “Thăng Thiên” [Ascension]
- “Bị hành quyết để chuộc tội” [Redemption by execution]
- “Hỏa ngục” [Hell].
Trong cuốn Một Ki Tô Giáo Mới Cho Một Thế Giới Mới (A New Christianity For A new World), xuất bản năm 2001. Giám Mục Spong liệt kê ra 5 tín điều căn bản của Ki Tô Giáo như sau:
- Thánh Kinh là những lời mạc khải của Thiên Chúa.
- Tư cách thần linh của Giê-su vì sinh ra từ một Nữ Trinh.
- Cái chết của Giê-su là để chuộc tội cho nhân loại, và máu của Giê-su là năng lực cứu rỗi (saving power of his blood).
- Thân xác Giê-su sống lại. Ngôi mộ trống là một sự thật cũng như chuyện Giê-su hiện ra sau khi chết.
- Giê-su sẽ trở lại để phán xét nhân loại.
Và Giám mục Spong đưa ra nhận định như sau:
Ngày nay, tôi thấy những tín lý căn bản này mà chúng ta thường hiểu theo truyền thống, không những chỉ là ngây ngô mà còn có thể phải dứt khoát loại bỏ. Trong thế hệ của chúng ta, không một tín điều nào ở trên được các học giả Ki Tô danh tiếng xác nhận. (10)
Ngoài ra còn có Hội Nghiên Cứu Giê-su (The Jesus Seminar) gồm nhiều học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô, đã phối hợp các kỹ thuật nghiên cứu tân tiến nhất như khảo cổ, cổ sinh vật học, phương pháp định tuổi vật chất, với phương pháp phân tích ngữ học, cổ ngữ học, xã hội học, sử học v..v.. để phân tích từng câu, từng lời, từng sự kiện viết trong phúc âm.
Nhưng thật là khó tin, một khuôn mặt đặc biệt trong ngành nghiên cứu Tân Ước lại chính là một linh mục Ca-Tô: John P. Meier, giáo sư Thần học, chuyên về Tân Ước, ở đại học Ca-tô Mỹ (The Catholic University of America) rồi ở đại học Notre Dame (University of Notre Dame). Trong tác phẩm Một Người Do Thái Không Đáng Kể: Nghĩ Lại Về Nhân Vật Giê-su Lịch Sử (A Marginal Jew: Rethinking The Historical Jesus), tập 1, 2 và 3, nhà xuất bản Doubleday tại New York phát hành năm 1991 và 1994, và 2001, với sự duyệt và phê chuẩn (imprimatur) của Vatican, tuy còn dè dặt trong những điểm tế nhị khác thuộc về đức tin Ca-Tô, linh mục Meier đã thẳng thắn luận về những bằng chứng chứng tỏ Giê-su là đứa con hoang, đã lấy vợ, và nhiều chủ đề khác có thể gây ngỡ ngàng trong một giáo xứ (He discusses evidence that the historical Jesus was illegitimate, that he was married, and various topics that might raise eyebrows in a parish house). Hơn thế nữa, Meier đồng ý với các đồng nghiệp trong ngành, bác bỏ những chuyện có tính cách siêu nhiên trong Tân Ước như là các sự thực lịch sử – Giê-su đi trên sóng, biến đổi nước thành rượu, và các phép lạ khác v..v.. Linh mục Meier cũng bàn đến một vấn đề quan trọng khác liên hệ đến tín lý then chốt “Maria đồng trinh” của Ca-Tô giáo, và đưa ra nhiều bằng chứng trong Thánh Kinh chứng tỏ là bà Maria đã sinh nở ít ra là 7 lần, với Giê-su là đứa con đầu lòng. Khi đề tên bộ sách là “Người Do Thái Không Đáng Kể…”, Meier có vẻ như đồng ý với Linh mục John Dominic Crossan và nhiều tác giả khác: Giê-su “không là ai cả”. [Raymond Martin, Ibid., p. 69: Interestingly, in Meier’s characterization of the ways in which Jesus was a “marginal Jew”, he seems to agree with Crossan and others that Jesus was a definite “nobody”.]
Thật vậy, Giám Mục John Shelby Spong, trong cuốn Sinh Ra Từ Một Người Đàn Bà: Một Giám Mục Nghĩ Lại Chuyện Giê-su Sinh Ra Đời (Born of a Woman: A Bishop Rethinks The Birth of Jesus, 1992) đã đưa ra nhận xét, trang 41:

Ông ta (Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này. Chẳng có ai biết cha ông ta là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con hoang. Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những trái mìn chưa kiếm ra và chưa nổ .
(Joh'n Shelby Spong, Born of a Woman: A Bishop Rethinks the Birth of Jesus, p. 41: He was a nobody, a child of Nazareth out of which nothing good was thought to come. No one seemmed to know his father. He might well have been illegitimate. Hints of that are scattered like undetected and unexploded nuggets of dynamite in the landscape of the early Christian tradition.)
Lẽ dĩ nhiên, tuyệt đại đa số tín đồ Ki Tô không hề biết đến những kết quả nghiên cứu sâu rộng này.
Tác phẩm “The Marginal Jew” của linh mục John P. Meier nói lên một sự kiện rất đặc biệt, vì Vatican đã duyệt và phê chuẩn tác phẩm đó. Điều này có nghĩa là những bậc lãnh đạo cao cấp trong Vatican, kể cả Giáo hoàng, đã chấp nhận những kết quả nghiên cứu của Meier về Giê-su và những tín điều căn bản trong Ca-tô Rô-ma Giáo, vì tất cả đều là sự thật bất khả phủ bác. Chúng ta nên nhớ rằng Vatican nắm quyền cho phép hay không tác phẩm của một thuộc cấp được xuất bản. Nhưng vấn đề liên quan đến bộ mặt thật của Giáo hội là chính Giáo hoàng và các thuộc hạ của ông ta ở các địa phương vẫn tiếp tục nhồi sọ đám tín đồ thấp kém những điều mà chính giáo hội đã không còn tin. Vào những trang nhà của Ca-tô Giáo Việt Nam như VietCatholic hay Tiếng Nói Giáo Dân chúng ta thấy rõ như vậy. Đó là bộ mặt đạo đức giả của Giáo hội và chứng tỏ sách lược truyền đạo của Giáo hội là che dấu sự thật, lừa dối, mê hoặc đám tín đồ thấp kém ở dưới. Vì vậy mà Robert G. Ingersoll mới đưa ra nhận xét là giới chăn chiên Ca-tô thật là xảo quyệt. Chỉ tội nghiệp cho đám tín đồ, cứ tưởng mình ở trong một “hội thánh” cầm đầu bởi “đức thánh cha”, không biết rằng Giáo hội đã dùng một cái bánh vẽ trên trời (Từ của Mục sư Ernie Bringas = A-Pie-In-The-Sky) để nhử mình.

Linh mục John P. Meier
Trước những kết quả nghiên cứu về Giê-su, không lạ gì khi chúng ta thấy vài nhận định điển hình về Chúa Giê-su của một số trí thức ở trong cũng như ở ngoài các Giáo hội Ki Tô Giáo. Bertrand Russell, một thiên tài toán học và triết lý, đã được giải thưởng Nobel năm 1950, nói về trí tuệ và đức hạnh của giáo chủ Giê-su như sau:
"Xét về trí tuệ hay đức hạnh, tôi không thể nào cho rằng Đức Ki-Tô (Giê-su) cũng cao cả như vài người khác được biết trong lịch sử. Tôi nghĩ rằng, về trí tuệ hay đức hạnh, tôi phải đặt Đức Phật và Socrates lên trên Đức KiTô." (11)
Giám mục John Shelby Spong viết trong cuốn Hãy Cứu Cuốn Thánh Kinh Ra Khỏi Phái Bảo Thủ (Rescuing The Bible From Fundamentalism), trang 21:
“Có những đoạn trong 4 Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.” (12)
Và Jim Walker cũng viết trên Internet trong bài Chúng Ta Có Nên Kính Ngưỡng Giê-su Không? (Should We Admire Jesus?):
Nhiều tín đồ Ki-Tô-giáo không hề biết đến là nhiều đoạn trong các Phúc Âm trong Tân Ước, Giê-su được mô tả như là một con người đầy hận thù, xấu xa, bất khoan dung, và đạo đức giả. (13)
Thật vậy, Russell Shorto, điểm qua các công cuộc nghiên cứu về Giê-su trong vòng hơn 200 năm qua, đã viết trong cuốn Sự Thật Trong Phúc Âm (Gospel Truth) như sau:
Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Ca-Tô bảo thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại… Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường. (14)
Russell Shorto viết: Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng nhưng đó là ảo tưởng gì? Ảo tưởng của Giê-su chính là Tâm Lý Bệnh Hoạn về Những Ảo Tưởng Hão Huyền về Quyền Lực hay Toàn Năng [Megalomania = A psycho-pathological condition in which fantasies of wealth, power or omnipotence predominate] và cái tâm lý bệnh hoạn này đã tạo thành tâm điểm mà mọi hành động của Giê-su đều xoay quanh. Chính cái ảo tưởng này đã khiến cho Giê-su tưởng mình là “con duy nhất của Gót”, “có khả năng chuộc tội cho nhân loại”, “đấng cứu thế”, “sẽ trở lại trần phán xét thiên hạ trong tương lai rất gần thời Giê-su” v…v… Một số bác sĩ chuyên ngành phân tâm học như các bác sĩ George de Loosten, William Hirsch, Binet-Sanglé, Tiến sĩ Emil Rasmussen v..v..cho rằng những ảo tưởng trên là của một người bị bệnh tâm thần, mắc bệnh chứng hoang tưởng (paranoia). Bệnh chứng này bắt nguồn từ một nguồn gốc lý lịch không mấy tốt đẹp của Giê-su [là đứa con hoang], một tâm cảnh cuồng tín tôn giáo của Giê-su khi ông đọc và tuyệt đối tin những điều trong Cựu Ước, sinh ra nhiều ảo giác và tự cho mình những quyền năng thần thánh, vai trò cứu thế, rửa sạch tội lỗi của dân tộc Do Thái, chỉ dân tộc Do Thái mà thôi, để dân tộc này làm lành với Gót của họ v..v..Tóm tắt những khảo cứu về tâm bệnh của Giê-su như trên với nhiều chi tiết hơn đã được trình bày trong [https://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/Giesu/Giesulaai.php.], cuốn “Chúa Giê-su Là Ai? Giảng Dạy Những Gì?”
Một câu hỏi được đặt ra: Dựa vào đâu mà những nhân vật trên đưa ra những nhận định như vậy về Chúa Giê-su, một người Do Thái mới sinh ra cách đây khoảng 2000 năm, và được trên một tỷ người tôn thờ? Có phải những nhận định trên vô căn cứ hay không? Trên đây chỉ là vài nhận định trong số nhiều nhận định tương tự khác của các học giả, trí thức Tây phương. Đó là vì các tác giả trên đã đọc kỹ Tân Ước về từng lời nói, từng hành động của Chúa Giê-su trong đó. Tôi không muốn đi sâu thêm về những nhận định này vì tôi nghĩ chừng đó cũng đủ rồi.
2. Về Giáo Lý Tôn Giáo.
Về phương diện giáo lý thì ai cũng biết giáo lý bắt nguồn từ kinh điển của mỗi tôn giáo. Ki-Tô Giáo thì có cuốn Thánh Kinh gồm Cựu Ước và Tân Ước. Nhưng hầu như chắc chắn là, những người tin vào cuốn Thánh Kinh qua những lời giảng của bề trên về cuốn Thánh Kinh là những người không hề đọc hết cuốn Thánh Kinh. Cũng hầu như chắc chắn là, nhà tín đồ Ki Tô Giáo nào cũng có ít nhất là một cuốn Thánh Kinh, nhưng không bao giờ đọc đến nó. Cũng vì vậy mà Ira Cardiff, một khoa học gia, đã đưa ra nhận xét sau đây:
"Hầu như không có ai thực sự đọc cuốn Thánh kinh. Cá nhân mà tôi nói đến ở trên (một tín đồ thông thường) chắc chắn là có một cuốn Thánh kinh, có thể là cuốn sách duy nhất mà họ có, nhưng họ không bao giờ đọc nó - đừng nói là đọc cả cuốn.
Nếu một người thông minh đọc cả cuốn Thánh kinh với một óc phê phán thì chắc chắn họ sẽ vứt bỏ nó đi." (15)
Đúng vậy, vì nếu đọc cả cuốn Thánh Kinh thì chúng ta phải thấy rằng trong đó những chuyện thuộc các loại sau đây chiếm phần lớn cuốn Kinh Thánh: bạo hành giết người (Violence & Murder), giết người hàng loạt (Mass Killing), loạn luân (Incest), ăn thịt người (Human Cannibalism), độc ác đối với trẻ con (Child cruelty), tục tĩu quá mức (Scatology), trần truồng (Nakedness), đĩ điếm (Harlotry), hiếp dâm (Rape), thù hận tôn giáo và chủng tộc (Religious & Ethnic Hatred), nô lệ (Slavery), say rượu (Drunkeness) v..v.. [Xin đọc cuốn Tất Cả Những Chuyện Tục Tĩu Trong Kinh Thánh (All The Obscenities Of The Bible) của Gene Kamar], chưa kể là những lời “mạc khải” của Thiên Chúa về vũ trụ, nhân sinh, đã chứng tỏ là hoàn toàn sai lầm trước những sự kiện khoa học bất khả phủ bác ngày nay. Thế mà gọi là Thánh Kinh.
Chắc có độc giả, nhất là những tín đồ Ki Tô, những người chưa từng đọc Thánh Kinh, không thể tin được như vậy. Xin hãy mở cuốn Thánh Kinh ra và đọc với một đầu óc chưa bị nhiễm độc, đọc từ đầu đến cuối, đừng bỏ sót phần nào. Đọc xong sẽ thấy rằng tất cả những chuyện không nên đọc như trên đều nằm trong Thánh Kinh. Bởi vậy chúng ta không lấy gì làm lạ khi thấy một số tác phẩm trong đó các tác giả đã trích dẫn sẵn những câu, những đoạn trong Thánh Kinh mà lẽ dĩ nhiên các tín đồ Ki Tô Giáo không bao giờ được nghe giảng trong nhà thờ, không bao giờ dám đọc vì sợ bị Chúa [thật ra là bề trên dọa] đầy xuống hỏa ngục. Những tác phẩm này có trong những tiệm sách lớn củng thư viện trong nước Mỹ:
- “Cuốn Thánh Kinh Thuộc Loại Dâm Ô: Một Nghiên Cứu Bất Kính Về Tình Dục Trong Thánh Kinh” [The X-Rated Bible: An Irreverent Survey of Sex in the Scripture, AA Press, Austin, Texas, 1989] của Ben Edward Akerley: cuốn sách dày hơn 400 trang, liệt kê những chuyện tình dục dâm ô, loạn luân trong Thánh Kinh.
- “Tất Cả Những Chuyện Tục Tĩu Trong Thánh Kinh” [All The Obscenities of the Bible, Kas-mark Pub., MN, 1995] của Kasmar Gene: cuốn sách dày hơn 500 trang, liệt kê tất cả những chuyện tục tĩu, tàn bạo, giết người, loạn luân v..v.. (Human sacrifice, murder and violence, hatred, sex, incest, child cruelty etc..) trong Thánh Kinh.
- “Sách Chỉ Nam Về Thánh Kinh” [The Bible Handbook, AA Press, Ausrin, Texas, 1986] của W. P. Ball, G.W.Foote, John Bowden, Richard M. Smith …: Liệt kê những mâu thuẫn (contradictions), vô nghĩa (absurdities), bạo tàn (atrocities) v..v.. trong Thánh Kinh.
- “Sách Hướng Dẫn Đọc Thánh Kinh Của Người Tái Sinh Nhưng Hoài Nghi” [The Born Again Skeptic’s Guide To The Bible, Freedom From Religion Foundation, Wisconsin, 1979] của Bà Ruth Hurmence Green: Bình luận những chuyện tàn bạo, dâm ô, kỳ thị phái nữ trong Thánh Kinh.
- “Một Trăm Điều Mâu Thuẫn Trong Thánh Kinh” [One Hundred Contradictions in the Bible, The Truth Seeker Company, New York, 1922] của Marshall J. Gauvin: Liệt kê 100 điều mâu thuẫn trong Thánh Kinh.
- “Lột mặt nạ Thánh Kinh” [The Bible Unmasked, The Frethought Press Association, New York, 1941] của Joseph Lewis: đưa ra những sai lầm trong Thánh Kinh.
- “Thẩm Vấn Ki Tô Giáo” [Christianity Cross-Examined, Arbitrator Press, New York, 1941] của William Floyd: Phân tích từng quyển một trong Thánh Kinh.
- “Ki Tô Giáo Và Loạn Luân” [Christianity and Incest, Fortress Press, MN, 1992] của Annie Imbens & Ineke Jonker: Viết về Ki Tô Giáo và vấn đề loạn luân, những sự kiện về loạn luân và kỳ thị phái nữ bắt nguồn từ Thánh Kinh.
Xin nhớ rằng, những cuốn sách khảo cứu về Thánh Kinh như trên mà tác giả đều là những người sống trong quốc gia phần lớn theo Ki Tô Giáo, Mỹ, đã được phổ biến rộng rãi trên đất Mỹ, và Ca-Tô Giáo cũng như Tin Lành, dù có nhiều quyền thế và tiền bạc, cũng không có cách nào dẹp bỏ những cuốn sách trên, hay đối thoại để phản bác, vì tất cả đều là sự thật.
Đối với Ki Tô Giáo thì ngày nay, vì những chuyện ác độc, loạn luân, giết người tàn bạo, cũng như những chuyện hoang đường trong Cựu Ước nên Ki Tô Giáo đã không còn đặt nặng vấn đề dùng Cựu Ước nữa, mà tập trung vào Tân Ước, đặc biệt là vai trò "cứu rỗi" của Giê-su. Vì thế ngày nay người ta đã cho rằng Ki Tô Giáo đã trở thành "đạo Giê-su" (Jesusism). Nhưng thực ra, cái mà chúng ta gọi là giáo lý tôn giáo, nghĩa là những điều giảng dạy trong tôn giáo, của Giê-su trong Tân Ước là giáo lý như thế nào? Chúng ta hãy đọc nhận định của một học giả Ca-tô, Joseph L. Daleiden, trong cuốn The Final Superstition, trg. 174, như sau:
Có rất ít, nếu có, điều sáng tác độc đáo trong giáo pháp mà người ta cho là của Giêsu. Giống như chính huyền thoại về Giêsu, những quan điểm mà Giêsu diễn đạt chỉ là một mớ hổ lốn những ngụ ngôn và luân lý mà chúng ta có thể thấy trong những đạo cổ xưa của Ai Cập, Babylon, Ba Tư, Hi Lạp, Phật, Khổng, Ấn Độ... Một điều rõ ràng: Ki Tô Giáo, một tôn giáo sinh sau đẻ muộn trong lịch sử các tôn giáo, chỉ cóp nhặt (đạo văn) những quan điểm, ý kiến của Do Thái Giáo và các tôn giáo gọi là dân gian. Trong cuốn "Nguồn Gốc Luân Lý Trong các Phúc Âm", Joseph McCabe (Một Linh Mục Ca Tô. TCN) đã trích dẫn những quan điểm luân lý trong Phúc Âm mà người ta cho là của Giêsu song song với những quan điểm luân lý tương đương và y hệt của các tác giả Do Thái và dân gian. (16)
Nếu cho rằng những lời rao giảng cóp nhặt của Giê-su về luân lý và đạo đức là "giáo lý của đạo Giê-su" thì đó là giáo lý của dân gian, của các tôn giáo khác có trước đạo Giê-su, trong đó có Phật Giáo, Khổng giáo, chứ đâu có phải của Giê-su? Vậy cốt tủy của đạo Giê-su là gì? Chính là huyền thoại về sự "cứu rỗi" của Giê-su mà các nhà truyền giáo thường gọi đó là “Tin Mừng Phúc Âm”.
Thật vậy, trong bức thư nhan đề: “Tôi nghe thấy và học được gì từ những cuộc gặp gỡ với Bộ Ngoại Giao và Bộ Truyền Giáo của Vatican trong hai ngày 1 và 2 tháng 6 năm 2010” của Hồng Y Phạm Minh Mẫn, chúng ta có thể đọc đoạn sau đây, chứng tỏ Vatican tiếp tục mê hoặc giáo dân Việt Nam, nhốt họ vào cái ngục tù tâm linh của Ca-tô Rô-Ma Giáo:
“Đồng thời, với kinh nghiệm 30 năm phục vụ ngành Ngoại Giao của Vatican trong nhiều nước như Việt Nam, Đức Hồng Y Dias có lưu ý đến nhiệm vụ của các giám mục trên đất nước Việt Nam hôm nay, nhiệm vụ loan Tin Mừng, dẫn dắt các tín hữu đi trong ánh sáng đức tin, xây dựng Giáo Hội hiệp thông và hiệp nhất trong tình bác ái huynh đệ. Và ngài có lời khuyên người công giáo Việt Nam trên thế giới hãy chuyên cần cầu nguyện với Đức Mẹ La Vang là Nữ Vương ban sự bình an.”
Chỉ trong một đoạn ngắn như trên chúng ta đã thấy rõ sự xảo quyệt của giới chăn chiên ở Vatican, mê hoặc đám giáo dân thấp kém ở Việt Nam, trong khi họ đã biết rõ những sự thật về thế nào là Tin Mừng, là đức tin, và sự thật về La Vang. Vatican chưa bao giờ công nhận sự hiện ra của Đức Mẹ ở La Vang nhưng vẫn dùng sự dàn dựng này để đẩy mạnh sự cuồng tín của đám con chiên thiếu hiểu biết ở Việt Nam.. Thật vậy, Vatican đã biết rõ là Mary không hề hiện ra ở La Vang như trong tờ Tuần-báo “L'Osservatore Romano”, tiếng nói chính-thức và có thẩm-quyền nhất của Tòa Thánh Vatican, trong số 32/33, tuần lễ 12-19/8/1998, đã xác định là: “Bất hạnh thay, không có một văn-bản tài-liệu nào về những lần hiện ra ở La Vang” [Unfortunately, there is no written documentation of these apparitions at La vang]. Cũng nhờ sách lược xảo quyệt này mà Ca-tô Rô-ma Giáo tồn tại trên thế giới, khai thác số đông tín đồ dễ mê tín, cả tin. Chẳng vậy mà cuối thế kỷ 19, Robert G. Ingersoll đã đưa ra một nhận định vô cùng chính xác ((Joseph Lewis, Ingersoll: The Magnificient, p. 140):
Ca-Tô Rô-Ma Giáo còn tồn tại lâu dài. Điều này chứng tỏ cái gì? Nó chứng tỏ rằng quần chúng thì không hiểu biết (ignorant) và các linh mục thì xảo quyệt [cunning]. [Roman Catholicism dies hard. What does that prove? It proves that the people are ignorant and that the priests are cunning].
Thật ra thì “Tin Mừng Phúc Âm” trong Ki Tô Giáo là như thế nào. Điều mà Ca-Tô Rô-Ma Giáo và Ki Tô Giáo nói chung gọi là “Tin Mừng Phúc Âm” thật ra chỉ là hai câu nhảm nhí nhất trong Tân Ước. Tin Mừng Phúc Âm không phải là những lời khuyên răn đạo đức hay bất cứ cái gì khác mà chỉ là hai câu trong Phúc Âm John, liên hệ đến huyền thoại sống lại và quyền phép “cứu rỗi linh hồn” của Giê-su, một huyền thoại mà không người nào có đầu óc ngày nay còn có thể tin được nữa. Hai câu trong Phúc Âm John như sau:
John 3: 16: “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban Con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.”, và câu tiếp theo, John 3: 18: “Người nào không tin vào Giê-su thì đã bị đầy đọa rồi, vì người đó không tin vào đứa con duy nhất của Thượng đế”
Đây chính là cốt tủy của đạo Giê-su. Ki Tô Giáo cho câu John 3:16 là “Tin Mừng”, thực ra chỉ là Tin Bịp, đối với người tin, còn câu dưới là “tin xấu”, mục đích chỉ để hù dọa những người đầu óc yếu kém, thực ra là vô giá trị, đối với người hiểu biết. Phúc Âm không hẳn là chỉ có Tin Mừng mà còn chứa rất nhiều tin xấu, nếu chúng ta chịu khó đọc kỹ cuốn Tân Ước. Nhưng đây cũng chính là câu mà giáo hoàng John Paul II đã trích dẫn để trả lời câu hỏi “Tại sao nhân loại cần cứu rỗi” trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng” năm 1995.
Chấp nhận thuyết Big Bang, thuyết Tiến Hóa, chấp nhận con người không phải là do Gót tạo ra tức thời mà chính là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần và lâu dài, thú nhận không làm gì có thiên đường (một cái bánh vẽ trên trời để dụ những người đầu óc mê mẩn, yếu kém), và hỏa ngục (một nơi để hù dọa những người không tin Chúa), Giáo hoàng đã chính thức bác bỏ thuyết “sáng tạo” của Ki Tô Giáo, phá tan huyền thoại về Adam và Eve là tổ tông loài người do Gót tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm gì có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông. Mà chẳng cần phải đến Giáo hoàng phá tan huyền thoại “sáng thế” và tội tổ tông. Nhân loại đã coi chuyện đó là một huyền thoại của thời bán khai, chứng tỏ đầu óc kém hiểu biết của những người viết Chương Sáng Thế trong Cựu Ước. Vậy thì ai cần ai “cứu rỗi”, cứu rỗi cái gì, và cuộc sống đời đời trên thiên đường chỉ là ước mơ hái hoa trong kính, hay mò trăng đáy nước.
Cũng vì vậy mà sau khi nghiên cứu cuốn Tân Ước, David Voas, Giáo sư đại học tiểu bang New Mexico (New Mexico State University), trong cuốn "Cuốn Thánh Kinh Mang Tới Tin Xấu: Cuốn Tân Ước" ("The Bad News Bible: The New Testament", trg. 1 - 2) đã viết về nội dung tổng quát của cuốn Tân Ước như sau:
"Vấn đề là người ta nghĩ rằng người ta biết ở trong Thánh kinh có những gì, hoặc ít nhất là Thánh kinh chứa loại tài liệu gì. Hầu hết đều lầm, họ chỉ quen thuộc với vài đoạn trích dẫn đã được giáo hội chấp thuận, và họ sẽ ngỡ ngàng khi thấy không những Gót trong Cựu Ước khủng khiếp dễ sợ như thế nào, mà con của hắn (nghĩa là Giê-Su; TCN) trong Tân Ước cũng còn ở dưới mức hoàn hảo khá xa. Thông điệp của Giê-su không hẳn toàn là tin mừng, thiên đường nhiều nhất là một viễn cảnh không chắc chắn. Xét về toàn bộ thì đó rất có thể là cuốn Thánh kinh mang tới tin xấu." (17)
Ngoài ra, Regina Schwartz, giáo sư dạy Thánh Kinh trong 20 năm qua tại hai đại học nổi tiếng ở Hoa Kỳ là đại học Northwestern, Illinois, và đại học Duke, North Carolina, sau nhiều năm suy tư và nghiên cứu, đã xuất bản cuốn Lời Nguyền của Cain: Di sản bạo tàn của Tôn Giáo Độc Thần (The Curse of Cain: The Violent Legacy of Monotheism), và dạy sinh viên bài học: "không làm gì có những chân lý trong Phúc Âm" (Northwestern University professor's lesson: There are no Gospel truths), nghĩa là, trong Phúc Âm không làm gì có Tin Mừng, chỉ có những huyền thoại mà thôi. Giáo sư Schwartz cũng nhận ra rằng sinh viên ngày nay tin rằng Gót là do con người tạo ra theo hình ảnh con người thay vì ngược lại. Nghĩa là, những tính nết của con người như tham lam, hẹp hòi, ghen tuông, và sợ hãi được gán cho Gót (...students come to believe that God is more often created in the image of man than the other way around. That is, mankind's greed, pettiness, jealousies and fears are often projected onto God).
Vì phần lớn giáo dân bị nhốt trong những ốc đảo ngu dốt [từ của LM Trần Tam Tĩnh] cho nên những tín đồ Ca-tô Việt Nam lại không biết là mình bị giáo hội bịp. Và các bậc trí thức Ca-tô cũng chỉ vì ham hố một cái bánh vẽ trên trời sau khi chết nên cũng tự giam mình trong sự lừa bịp của Giáo hội, với một niềm hi vọng hão huyền vào “Tin mừng Phúc Âm”.
Tại sao “Tin Mừng Phúc Âm” lại là một câu nhảm nhí như John 3:16? Tại vì câu này chỉ có thể áp dụng cho những người sinh sau Giê-su mà thôi. Lẽ dĩ nhiên chỉ có những người sinh sau Giê-su mới có thể biết đến Giê-su và tin Giê-su để không bị luận phạt và có cuộc sống đời đời, lẽ dĩ nhiên sau khi chết. Như được viết rõ trong Tân Ước, ngay cả bố mẹ Giê-su là Joseph và Maria, cùng các em trai em gái Giê-su cũng không tin Giê-su là đấng cứu thế, trái lại còn cho là Giê-su đầu óc bất bình thường (out of his mind), cho nên chắc chắn là họ đều bị Giê-su luận phạt và đày đọa xuống hỏa ngục vĩnh viễn? Lịch sử loài người đâu chỉ bắt đầu từ khi Giê-su sinh ra, chết đi và sống lại, nếu chúng ta có thể tin vào chuyện hoang đường này. Trước năm 1533, người Việt Nam không ai nghe và biết đến tên Giê-su, hiển nhiên không ai có thể tin Giê-su, vậy tất cả dân tộc Việt Nam trong mấy ngàn năm trước năm 1533 cũng bị luận phạt và đày xuống hỏa ngịc đời đời hay sao? Những người Việt Nam tân tòng Ca Tô Giáo có nghĩ đến các điều hoàn toàn vô nghĩa như trên hay không, vì trong số những người không biết đến và không tin Giê-su có cả những tiền bối hay tổ tiên xa của họ? Điều lạ là ngày nay mà các tín đồ vẫn còn tin theo cái tín lý quái gở cực kỳ vô lý đó với một tâm cảnh vô cùng ích kỷ, chỉ nghĩ đến đời sống đời đời sau khi chết của riêng mình, mà không hề nghĩ đến bản chất ác độc, phi lý, phản khoa học, hoang đường, bất khả áp dụng, của sự luận phạt mà Ca-tô Rô-MaGiáo đưa ra để hù dọa những người không tin Giê-su. Không những chỉ ích kỷ mà họ còn để lộ một tinh thần yếu kém, sợ sệt thần linh trong thời đại tiến bộ của khoa học kỹ thuật ngày nay mà quan niệm thần linh khi xưa đã không còn chỗ đứng.
Trong thời đại mà các lý thuyết thần học của Ki Tô Giáo đã không còn ý nghĩa, tại sao họ vẫn còn có thể tin vào một “Thần” của người Do Thái mà bản chất cũng không khác gì những “Thần” trong dân gian trên khắp thế giới, được con người tạo dựng lên với hi vọng đáp ứng được những khao khát, ước muốn của mình. Do đó, tin Giê-su thì được có cuộc sống đời đời là một sự bịp bợm phi lý rất trắng trợn, như vậy mà không mấy người nhìn ra, và một số bậc lãnh đạo Ca-tô ngày nay vẫn ngu ngơ trích dẫn câu trên để truyền đạo, thí dụ như LM Ngô Tôn Huấn trong bài “Sự Thưởng Phạt Đời Đời”:
[https://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=30&ia=8215]
Ấy thế mà vẫn có vô số người tin vào những cái câu nhảm nhí này. Và Giáo Hoàng John Paul II vẫn dùng nó để mê hoặc con chiên.
3. Những phúc lợi mà tôn giáo đã mang đến cho nhân loại.
Về phương diện hành trì giáo lý thì chúng ta đã biết lịch sử của Ca-tô Rô-ma Giáo đã mang tới bao nhiêu bất hạnh cho nhân loại qua 1000 năm của thời kỳ đen tối (Dark Ages) ở Âu Châu với 8 cuộc Thánh Chiến, 400 năm của các tòa án xử dị giáo, bách hại dân Do Thái, làm tiền phong hay đồng hành với những đế quốc thực dân Tây phương xâm chiếm các nước kém mở mang ở Phi Châu, Châu Mỹ La Tinh, Nam Mỹ, Á Châu .. để truyền đạo với những sách lược như dựa vào quyền thế vua chúa, dựa vào những thế lực thực dân hay dùng bả vật chất để cưỡng ép những người ngoại đạo phải vào đạo, cùng phá hủy chùa chiền, miếu mạo của những người dân bản xứ, vo vét tài sản. Cái lịch sử ô nhục đầy máu và nước mắt này đã được giáo hoàng chính thức cáo thú cùng thế giới một cách đại cương vào ngày 12 tháng 3 năm 2000 tại tòa thánh Vatican. Cả thế giới đều biết trừ những tín đồ sống trong bóng tối nên vẫn tin rằng giáo hội Ca-tô Rô-ma là một hội thánh "thánh thiện".
Chúng ta hãy đọc một đoạn của Robert G. Ingersoll xem Ca-tô giáo đã thực hành giáo lý của họ như thế nào.
Trong cuốn “Ingersoll: The Magnificent” do Joseph Lewis xuất bản, Robert G. Ingersoll, một nhà tư tưởng tự do nổi tiếng nhất của Mỹ vào cuối thế kỷ 19, đã viết, trang 119:
“Nhân danh chúa Ki Tô, hàng triệu nam nữ đã bị tù đầy, tra tấn và giết hại, hàng triệu người đã bị làm nô lệ. Nhân danh hắn những tư tưởng gia, khảo cứu gia, bị coi như là những kẻ tội phạm, và những tín đồ theo hắn đã làm đổ máu của những người thông thái, giỏi nhất. Nhân danh hắn, sự tiến bộ của nhiều quốc gia bị chặn đứng cả ngàn năm. Trong Phúc Âm của hắn chúng ta thấy cái tín lý về sự đau khổ vĩnh viễn (đày hỏa ngục. TCN), và những lời của hắn đã thêm vào sự chết sự kinh khủng vô tận. Phúc Am của hắn chất đầy thế giới với thù hận và trả thù, coi sự lương thiện trí thức như một tội ác, hạnh phúc trên cõi đời là con đường dẫn xuống địa ngục, tố cáo tình yêu thương như là thấp hèn và như súc vật, thánh hóa sự nhẹ dạ cả tin, tôn vinh sự mù quáng và tiêu diệt tự do của con người. Nhân loại sẽ tốt hơn nhiều nếu cuốn Tân Ước chưa từng được viết ra – chúa Ki Tô theo quan niệm thần học chưa từng được sinh ra.” (18)
Giáo hội Ca-tô Rô-ma luôn luôn tự nhận là một “hội thánh” và tinh thần của Ca-tô Giáo là bác ái. Các tín đồ vô não, kể cả các bậc trí thức Ca-tô, cũng luôn luôn tin rằng mình ở trong một hội thánh và thường xuyên nhắc lại lời tự nhận đó như con vẹt. Lịch sử Ca-tô Rô-ma Giáo đã cho chúng ta biết thực chất của hội thánh đó là như thế nào. Chúng ta hãy đọc đoạn sau đây của Tiến sĩ Loraine Boettner trong cuốn “Roman Catholicism”, trang 27:
Giáo hội Ca-Tô Rô-ma tự khoác lên mình từ “thánh”, nhưng thật ra qua các thời đại và trong quyền lực của giáo hội Rô-ma, sự kiện là giáo hội đã phạm phải những tội ác khủng khiếp nhất, thực hành nhân danh tôn giáo, gồm có giết người, cướp bóc, bạo hành đủ mọi hình thức, hối lộ, gian xảo, lừa dối, và hầu hết mọi tội ác mà con người biết đến. Những tội ác như vậy không phải là chỉ do những giáo dân của giáo hội gây ra, mà là do các giáo hoàng, hồng y, giám mục, và linh mục, mà như sự nghiên cứu về lịch sử của giáo hội sẽ chứng tỏ, không còn chối cãi gì được nữa, họ đều là những kẻ ác.
John Calvin đã từng gọi giáo hội Rô-ma là con điếm điên dại thay vì là hiền thê của Chúa, vì mức tiêu chuẩn đạo đức quá thấp mà các linh mục của giáo hội hành xử và dung dưỡng. (19)
Nhưng thực ra thế nào là Thánh? Theo quan niệm của tuyệt đại đa số dân Việt Nam thì Thánh là những bậc đại nhân, đại đức, cao cả, thanh tịnh, trong sạch, thuần thiện, trí tuệ sáng suốt v...v... là những tấm gương để cho người đời soi vào để học hỏi, hoặc những bậc anh hùng vĩ đại có công cứu nước, giúp nước.
Còn Thánh trong Ca Tô Giáo ra sao? Như Thánh Tổ Phụ Abraham, lấy em ruột làm vợ rồi dâng vợ cho các Vua Ai Cập đổi lấy trâu bò đồng ruộng, sau cùng nghe lời Gót của ông ta xui dại, định ra tay giết đứa con ruột của mình? (Sáng Thế 20, 21); hay như Thánh Lot, dâng hai con gái còn trinh cho bọn cướp muốn làm gì thì làm nhưng bọn cướp từ chối, sau đó lại ngủ với cả hai đứa con gái ruột của mình làm cho chúng mang bầu cả hai? (Sáng Thế 19); hay như Thánh Moses, sản phẩm của một cuộc loạn luân (Exodus 6: bố của Moses lấy cô ruột của mình, sinh ra Moses và Aaron), theo lời Gót giết người không gớm tay, cùng ra lệnh cho quân dưới trướng phải giết sạch đàn ông, đàn bà và con nít trong một thị trấn, chỉ để lại gái trinh và dâng cho Chúa một phần là 32 trinh nữ? (Numbers 31); hay như thánh David, một tên tướng cướp, sau lên làm Vua hoang dâm vô độ, âm mưu giết thuộc hạ để cướp vợ; hay như chính Thánh Giêsu, với những lời ăn tiếng nói và hành động không có mấy đạo đức, hỗn hào với mẹ như viết rõ trong Tân Ước, và theo thuyết Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Ma là một, do đó vừa là cha, vừa là chồng, vừa là con của bà Maria? Chúng ta chưa kể đến những thánh Việt gian, thánh Hán gian và đủ mọi thứ thánh gian.
Và còn nhiều Thánh đặc biệt khác trong Ca Tô Giáo nữa, làm sao mà kể cho hết? Chúng ta hãy nghe vài lời “thánh phán” của vài thánh nổi danh trong Ca-tô Rô-ma Giáo để độc giả thấy rõ trí tuệ và đạo đức của họ, những người giáo dân thường tôn thờ là Thánh:
1. Thánh Ignatius of Loyola (1491-1536) (Người sáng lập dòng Tên):
"Chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng tin rằng trắng thực sự là đen, nếu hàng giáo phẩm trong Giáo hội quyết định như vậy."
(We should always be disposed to believe that which appears white is really black, if the hierarchy of the Church so decides.)
2. Thánh Augustine (354-430) (cha đẻ của nền Thần học Ca Tô và được Ca Tô Giáo tôn sùng, coi như là có trí tuệ "siêu việt", tác giả cuốn Đô Thị Thiên Chúa (City of God)):
a) "Nếu những đứa trẻ sơ sinh c ó trong trắng vô tội, ấy không phải vì chúng thiếu ý chí làm hại mà chỉ vì chúng không đủ sức thôi."
(If babies are innocent, it is not for lack of will to do harm but for lack of strength.)
b) "Không thể nào có chuyện có người ở phía bên kia của trái đất (không tin là trái đất có hình cầu), vì Thánh Kinh không ghi lại bất cứ giống người nào như vậy trong các hậu duệ của Adam."
It is impossible there should be inhabitants on the opposite side of the earth, since no such race is recorded bt Scripture among the descendants of Adam.)
c) "Nếu dẹp bỏ hết gái điếm đi, thế giới sẽ bị rối loạn bởi sự ham muốn"
(Do away with harlots, and the world will be convulsed with lust.)
d) "Người đàn bà, khi xét cùng với chồng, là hình ảnh của Gót.., nhưng khi xét riêng là đàn bà...thì không phải là hình ảnh của Gót, nhưng đối với người đàn ông xét riêng, thì đó là hình ảnh của Gót."
(The woman, together with her own husband, is the image of God..., but when she is referred to separately..the woman alone, then she is not the image of God, but as regards the man alone, he is the image of God.)
3. Thánh Bernard (1090-1153):
"Những lính chiến Ki Tô "phải tiến hành cuộc chiến tranh của Chúa Ki Tô mà không sợ phạm tội giết kẻ thù hay sợ bị kẻ thù giết, vì khi họ giết hay bị giết, họ không phạm tội ác nào, vì tất cả là để cho sự vinh quang của họ. Nếu họ giết, đó là cho sự lợi lộc của Chúa; nếu họ chết, đó là cho sự lợi lộc của chính họ."
(Christian soldiers "are to wage the war of Christ their master without fearing that they sin in killing their enemies or of being lost if they are themselves killed, since when they give or receive the death blow, they are guilty of no crime, but all is to their glory. If they kill, it is to the profit of Christ, if they die, it is to their own.")
4. Thánh Fulgentius (467-533):
"Những bào thai chết trong lòng mẹ, hoặc những trẻ mới sinh ra đã chết mà chưa chịu phép bí tích rửa tội ...phải chịu hình phạt đau đớn trong ngọn lửa không bao giờ tắt."
(Little children who have began to live in their mother's womb and have there died, or who, having just been born, have passed away from the world without the sacrament of holy baptism...must be punished by the eternal tortures of undying fire.)
5. Thánh John Chrysostom (347-407):
"Trong những thú dữ, không có con nào gây hại như một người đàn bà"
(Among savage beasts none is found so harmful as a woman)
6. Thánh Anthony (1195-1231):
"Khi các ngươi thấy một người đàn bà, hãy coi như là các ngươi đối diện với, không phải là một con người mà chính là một con quỷ. Tiếng nói của người đàn bà là tiếng phun phì phì của con rắn."
(When you see a woman, consider that you face not a human being, but the devil himself. The woman's voice is the hiss of the snake.)
7. Thánh Clement ở Alexandria (150-215): “Mọi phụ nữ đều nên cảm thấy mình nhục nhã vì nghĩ đến điều mình đã sinh ra là đàn bà” (Every woman should be filled with shame by the thought that she is a woman.]
8. Thánh Jerome (342-420): “Đàn bà là cửa ngõ của quỷ, của đường ác, cái chích của con bọ cạp, nói tóm lại, là một vật nguy hiểm.” (Woman is the gate of the Devil, the way of evil, the sting of the scorpion, in a word, a dangerous thing.)
9. Thánh Thomas Aquinas (1225-1274): “Thiên Chúa đã phạm phải một sai lầm khi sáng tạo ra người đàn bà: không nên tạo ra cái gì thiếu sót hoặc hư hỏng [như đàn bà] khi sáng tạo ra những vật đầu tiên; do đó đàn bà không nên được tạo ra khi đó.” (God had made a mistake in creating woman: nothing (deficient) or defective should have been produced in the first establishment of things; so woman ought not to have been produced then.
[Các nữ tín đồ Ca-tô nghĩ sao về những lời “thánh phán” về phụ nữ như trên?]
Bây giờ chúng ta hãy nghe vài lời mê sảng của vài trí thức Ca-tô về quan niệm “thánh” của họ:
- Phan Thiết là bút hiệu của Nguyen Kim Khanh (Nguyễn Kim Khanh? Khánh?), một trí thức Ca Tô có bằng Cử Nhân Luật đại học Saigon, vào khoảng 1965-66 gì đó. Ông ta tung hô Giê-su y hệt như giáo dân Ma Giáo tung hô giáo chủ Nhậm Ngã Hành (Kim Dung: Tiếu Ngạo Giang Hồ), trong cuốn Đất Việt, Người Việt, Đạo Việt như sau, trg. 357:
"Chúa vinh quang vì Chúa là Thánh. Chí Thánh, Cực Thánh, Rất Thánh, là bản thể của Chúa, ngoài Thiên Chúa thì chẳng có gì là Thánh. Tín đồ Thiên Chúa Giáo là dân Thánh Chúa...số lượng của họ đông vô vàn như sao trên trời và cát dưới biển."
Chỉ còn thiếu câu "Muôn năm trường trị, nhất thống sơn hà" là Phan Thiết có thể làm giáo dân Ma Giáo của Kim Dung được rồi. Còn nữa, chúng ta hãy đọc ông ta viết, Đất Việt..., trg. 358, để thấy sự cuồng tín của ông ta lên tới mức nào:
Những ai giữ nghĩa cùng Chúa cho đến hơi thở cuối cùng đều có quyền chia động từ "là Thánh": Tôi là thánh, Anh là thánh, Chúng ta là thánh...
Ý nghĩa chữ thánh trong đạo Thiên Chúa rộng rãi như thế..."
- Bà Đốc Nguyễn Thị Thanh : Thưa rằng chức Linh mục là chức thánh. Vì đó là chức Chúa Giêsu đặt ra vì lợi ích cho GHCG của người. Thánh ở chổ chức LM đến từ Chúa Giêsu, chứ không phải chức LM đến từ cá nhân LM. Chức LM luôn là chức thánh. Chức thánh không tùy vào người được hưởng là xấu hay tốt. Các phép Bí Tích trong GHCG đều là Thánh hết cả. Người CG đều là Thánh hết cả nếu họ sống theo Phúc Âm Chúa Giêsu.
Nếu những lời trên không phải là những lời mê sảng thì là gì? Ai có thể giải thích cho tôi?
Rất có thể người Ca-tô Rô-ma Giáo hãnh diện vì được nhồi sọ là đạo của họ là đạo bác ái, giầu lòng từ thiện, có nhiều cơ sở từ thiện để giúp người nghèo, trẻ mồ côi, người cùi v..v… Họ không biết gì về thực chất từ thiện của Ca-tô Rô-ma Giáo. Bác ái và từ thiện không phải là những đức tính riêng của Ca-tô Rô-ma Giáo mà là những đức tính phổ quát trong dân gian, hơn nữa người trong dân gian làm việc từ thiện với tấm lòng thành thực thương người. Nhưng phần lớn những công việc từ thiện của Ca-tô Rô-ma Giáo chỉ để quảng cáo, kiếm lời, và cãi đạo. Chúng ta có nhiều trường hợp và tài liệu để chứng minh điều này.
Một trong những sách lược tuyên truyền, quảng cáo của Giáo hội là thổi phồng việc làm của vài cá nhân trong Giáo hội, đánh bóng hình ảnh của họ và đưa đến tâm cảnh tôn sùng cá nhân giữa đám tín đồ. Gần đây, điều mà giáo hội CaTô quảng cáo nhiều nhất và ồn ào nhất là những công tác từ thiện của Giáo hội. Bất cứ có một cơ hội nào là Giáo hội và các con chiên ngoan đạo Việt Nam lại mang Mẹ Teresa, người mà Giáo hội tôn là Thánh Mẫu (Holy Mother), ra làm bình phong từ thiện, lạc dẫn dư luận, làm như Mẹ là con người rất mực thánh thiện, và tất cả tín đồ CaTô đều như Mẹ Teresa cả, và chỉ có mình Ca-tô Giáo là có tinh thần bác ái, làm từ thiện..
Nghiên cứu tường tận về các công việc từ thiện của Giáo hội từ xưa tới nay, chúng ta rất ít thấy ở đâu là thuần túy từ thiện, mà mục đích chính của các công việc từ thiện là dùng vật chất để truyền đạo, và chúng ta phải công nhận đây là nguyên nhân chính về sự thành công của CaTô giáo trong những thế kỷ qua. Mở đầu là Đại Đế Constantine, người đã dùng mọi cách và đã bỏ của cải ra mua toàn thể các tỉnh, các thị trấn để cho dân chúng đi theo đạo mới (Malachi Martin: "The Rise and Fall of The Roman Church", trg. 36: "True, Contanstine had used every one of these means to propagate Christianity. He even bought up whole towns and cities to ensure they accepted the new belief." Và từ đó cho đến ngày nay, của cải vật chất với nhãn hiệu từ thiện đã là vũ khí hữu hiệu nhất của Ca Tô giáo để thu nhặt tín đồ. Kinh nghiệm Việt Nam cho thấy từ thời các giáo sĩ thừa sai đầu tiên xâm nhập Việt Nam cho tới thời Ngô Đình Diệm ở miền Nam, bả vật chất đã là một phương tiện hữu hiệu để truyền đạo và thu nhặt tín đồ của Ca Tô Giáo. Dưới thời Ngô Đình Diệm, các Cha Việt Nam được toàn quyền xử dụng viện trợ từ thiện của Mỹ và dùng nó như một vũ khí để ép người vào đạo, khoan kể đến chuyện bắn pháo binh vào những làng không theo đạo để ép buộc dân trong làng theo đạo để đổi lấy sự an toàn của làng xóm. Người Việt Nam đâu đã có ai quên cái câu bất hủ được truyền tụng trong dân gian: "Theo đạo có gạo mà ăn." Cảnh này cũng lại tiếp diễn trong các trại tị nạn mà các Cha được sự viện trợ của các cơ quan từ thiện KiTô giáo, họ giữ chặt của viện trợ cho giáo dân và chỉ cho người ngoài khi bằng lòng theo đạo.
Tôi không nói là các việc từ thiện của Ca Tô giáo không có ích lợi gì, chúng góp phần rất nhiều để làm vơi bớt sự khó khăn mà con người gặp phải. Nhưng cái động cơ đằng sau những công việc từ thiện này và phương cách xử dụng thì chẳng thiện chút nào. Ít ai biết rằng một khi, vì vài bả vật chất nhỏ nhoi lúc đầu, một người đã rơi vào tròng của Ca-tô Giáo thì suốt đời họ sẽ phải đóng tiền cho Giáo hội bất kể lợi tức của họ là bao nhiêu. Điều này có nghĩa là Giáo hội bỏ ra một và thu lại mười hay cả trăm. Khi xưa Giáo hội thu cả tiền của các cô gái ăn sương. Luật của Giáo hội ở Âu châu khi xưa là phải nộp cho Giáo hội 10% của lợi tức hàng năm [Tithe = A tenth part of one’s annual income, either in kind or money due as a tax for the support of the clergy or church], để giữ một cái vé lên thiên đường mù. Giáo hội cũng còn bán phép giải tội bịp [Indulgence = The remission of punishment still due for a sin that has been sacramentally absolved] , lấy tiền xây nhà thờ. Đây chính là điều đã tạo nên giáo phái Tin Lành, không chấp nhận quyền hành của giáo hội và ghê tởm những hành động khai thác sự mê tín của quần chúng để kiếm tiền.
Vũ khí hữu hiệu nhất của Ca Tô Giáo là dùng bình phong “bác ái, từ thiện” đi kèm với phương tiện truyền thông để tô hồng quảng cáo cho Ca Tô Giáo trong khi thực chất của việc từ thiện không phải là do lòng bác ái mà là để thu nhặt tín đồ và khai thác lòng nhân từ của quần chúng để vơ vét tiền bạc cho Vatican. Trường hợp điển hình là về dòng “Thừa sai bác ái” của bà Teresa mà cái tên của nó đã nói lên thực chất sử dụng “bác ái” làm một vũ khí truyền đạo, và được Giáo hội quảng cáo hết mình.. Những sự thực đàng sau dòng “Thừa Sai Bác Ái” này tôi đã nghiên cứu và trình bày trong bài “Đâu Là Sự Thực: Bộ Mặt Khác Của Thánh Mẹ Teresa” [https://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN66_2.php]. Trong bài này tôi đã đưa ra nhiều tài liệu về bộ mặt khác của bà Teresa, khác với bộ mặt mà Giáo hội quảng cáo. Sau đây chỉ là vài điểm chính:
Tài liệu sau đây là của một học giả chuyên gia viết tiểu sử, Anne Sebba. Tác giả đã sang tận Calcutta và nhiều nơi khác để quan sát những "cơ sở từ thiện" của bà Teresa và tìm hiểu sự thực về những "công cuộc từ thiện" của bà Teresa. Kết quả nghiên cứu trong nhiều năm được viết thành cuốn Mẹ Teresa: Ngoài Cái Hình Ảnh Được Tạo Nên (Mother Teresa: Beyond The Image), Doubleday, New york, 1997, trong đó tác giả đã dùng hơn nửa cuốn sách dày gần 300 trang để viết về một số những sự thực về cái gọi là "công cuộc từ thiện" của bà Teresa mà chính tác giả đã đích thân đến tận nơi quan sát, tìm hiểu cùng qua nhiều cuộc phỏng vấn những nhân vật có thẩm quyền như bác sĩ, nữ tu, những người đứng đầu các cơ quan từ thiện, những nhân viên thiện nguyện và cả những cựu nữ tu trong dòng "Thừa Sai Bác Ái" (Missionaries of Charity) của bà Teresa (I am full of questions and have put as many as I can to people qualified to answer them including doctors, nuns, heads of charities, volunteers and former Missionaries of Charity).
* Công việc từ thiện của bà Teresa không bắt nguồn từ chính lòng từ thiện mà động cơ thúc đẩy chính là để làm sáng danh Chúa và để truyền đạo. Ngay cái tên của dòng "Thừa Sai Bác Ái" cũng đã nói lên rõ ràng mục đích truyền đạo của các thừa sai trong những thế kỷ qua. Bà Teresa biết rõ về lịch sử truyền đạo ở Ấn Độ và toan tính KiTô hóa quốc gia này trong 400 năm qua. Bà Teresa đã khẳng định rằng công việc bà làm là để phục vụ Chúa, không phải phục vụ con người, phục vụ Chúa bằng cách kiếm thêm nhiều tín đồ cho Chúa mà những sự đau khổ, bất hạnh của con người là những cơ hội để bà làm "việc thiện", chứng tỏ "lòng nhân từ" của Bà. Bà không phải là cứu tinh của nhân loại, những việc bà làm chỉ có tính cách tượng trưng bề ngoài.
* "đạo đức giả, ve vãn giới truyền thông, thân cận với một số lãnh tụ độc tài trên thế giới, bất minh về vấn đề tiền bạc, nhận tiền thụt két nhà băng của một tên lừa đảo (Charles Keating) và khi Tòa án viết thơ khuyên Bà nên trả lại số tiền đó thì lờ đi không trả lời, dùng tiền của thiên hạ đổ vào các tu viện thay vì nhà thương và để cho các cơ sở từ thiện rất thiếu thốn, mù quáng theo lệnh của Vatican chống mọi kế hoạch hóa gia đình v..v.."
Tài liệu trong cuốn The Happy Heretic của nữ học giả Judith Hayes:
* Bà Teresa huấn luyện những sơ dưới quyền bà hỏi những bệnh nhân sắp chết là có muốn một "vé lên thiên đường" hay không? Nếu họ trả lời muốn thì sẽ có ngay một lễ rửa tội cấp bách để kéo họ vào trong Ca Tô Giáo.
Sơ Susan Shields, trước đã làm trong dòng Thừa Sai Bác Ái dưới quyền bà Teresa, trong tờ Free Inquiry, số mùa đông 1998, tiết lộ rằng:
* Một phần nhiệm vụ của sơ là giúp trong việc giữ sổ sách về số tiền, lên đến nhiều triệu đô la, do những người có từ tâm đóng góp để bà Teresa làm việc "từ thiện" vì tin ở những lời tuyên truyền quảng cáo của dòng tu "Thừa sai bác ái", nhưng hầu hết những số tiền đó lại để trong nhiều ngân hàng khác nhau mà không dùng gì đến, trong khi các sơ hàng ngày phải đi ăn mày (beg) thức ăn của các thương gia địa phương, vì bà Teresa chủ trương "nghèo khổ" là một đức tính. Ngày nào xin không đủ thì các em mồ côi hoặc các bệnh nhân dưới sự "săn sóc" của hội "thừa sai bác ái" phải ăn đói. Đó là từ thiện hay sao? Với hàng triệu đô la nằm ì trong các ngân hàng mà bà Teresa vẫn thường xuyên kêu gọi đóng góp thêm cho công cuộc từ thiện của bà, thật là hoàn toàn vô nghĩa. (Judith Hayes trong The Happy Heretic, p. 66-67)
* Đối với những người theo chủ nghĩa nhân bản, chức vị Thánh thật chẵng có nghĩa gì. Riêng tôi, tôi không tìm thấy bất cứ cái gì trong đời sống hoặc ký ức của bà Teresa để mà tôn kính, xét đến sự đau khổ mà bà ta đã tạo ra cho hàng triệu người.
"Nhân danh Thiên Chúa" bà Teresa đã thu được hàng triệu đô la rồi vội vàng dấu kín nó đi như một con sóc để dành thức ăn cho mùa Đông. "Nhân danh Thiên Chúa", bà ta cũng cải đạo nhiều người trước khi họ tắt hơi... Tôi tự hỏi, trong cái tầm nhìn thô thiển của bà ta, có phải là bất cứ bà làm điều gì cho Thiên Chúa là để cho bà được điểm cao
Chúng ta nên nhớ, theo định chế của Ca Tô Giáo Rô Ma thì những chương mục này thuộc tài sản của Vatican. Chúng ta cũng đừng quên là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng đã đệ đơn lên chính quyền Việt Nam đòi lại những cơ sở của Ca Tô Giáo ở Việt Nam (phần lớn là do toa rập với thực dân Pháp, chiếm đất Chùa trong thời đô hộ của thực dân Pháp, trong đó có đất của nhà thờ lớn Hà Nội, đất của nhà thờ Đức Bà ở Saigon, và đất của nhà thờ La Vang v..v.., và do thực dân Pháp trước kia và chính quyền Ca Tô Ngô Đình Diệm sau này ở Nam Việt Nam lạm dụng cường quyền cấp cho) với luận cứ đó là tài sản thuộc Vatican, một luận cứ đần độn, vong bản, phi lý, phản ánh tâm cảnh nô lệ của HĐGM Việt Nam. Với tâm cảnh này thì khi người Ca Tô lên cầm quyền ở Việt Nam tất nhiên mọi đất đai tài sản quốc gia sẽ đều thuộc Vatican hết.
Đó là thực chất những công việc "bác ái, từ thiện" của Mẹ Teresa, người mà các tín đồ Ca Tô được nhồi vào trong đầu óc hình ảnh của một Thánh nhân. Thực ra thì những hành động của bà Teresa được phanh phui ở trên cũng không lấy gì làm khó hiểu vì chúng nằm trong sách lược đi kiếm linh hồn cho Chúa của Giáo hội trên khắp thế giới. Nếu chúng ta theo rõi những vụ kiện các cơ sở từ thiện, viện mồ côi của Ca Tô Giáo ở Canada, Mỹ, Ireland,và Úc Châu v..v.. thì chúng ta sẽ không lấy gì làm lạ trước những hành động "bác ái" của bà Teresa ở Calcutta. B. S. Rajneesh, tác giả cuốn Linh Mục và Chính Trị Gia: Những Mafia của Linh Hồn (Priests & Politicians: The Mafia of the Soul), đã viết như sau, trang 25:
Nếu con người nghèo đói, họ có thể dễ bị dụ vào Ki Tô Giáo, đặc biệt là Ca Tô Giáo. Những trường học, nhà thương, và viện mồ côi của họ chẳng qua cũng chỉ là những xưởng để dụ người ta trở thành tín đồ Ca Tô (20)
Rajneesh đã không nhắc đến sự kiện là với những sự trợ cấp của chính phủ và sự đóng góp của những người có từ tâm, nhiều cơ sở "từ thiện" đã là những nguồn kinh tài cho giáo hội, vơ vét tiền bạc trên sự đau khổ của các trẻ em mồ côi và những người xấu số. Sơ Lê Thị Tríu ở Phi Luật Tân cũng đã hốt được 2 triệu đô-la để thành lập “làng Việt Nam ma” ở Phi Luật Tân.
Tưởng chúng ta cũng nên biết thêm một sự kiện về những tổ chức "từ thiện" của Vatican. Sách vở, báo chí và TV Âu Mỹ đã phanh phui ra vụ Vatican dùng những cơ quan từ thiện như Caritas International, Red Cross và một số tu viện làm những đường giây gọi là "Giây chuột" (Ratlines) với những dịch vụ như cấp căn cước giả, thông hành giả, tài chánh v..v.. cho nhiều tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã ẩn náu trong các tu viện Ca-tô chờ cơ hội chuồn sang Nam Mỹ, phần lớn là sang Á Căn Đình (Argentina). [Xin đọc tài liệu trong cuốn Ba Ngôi Tội Lỗi (Unholy Trinity) của Mark Aarons và John Loftus, xuất bản năm 1990]
Nói tóm lại, những lời khoa trương về “bác ái” và “từ thiện” của Ki Tô Giáo, Ca Tô Giáo cũng như Tin Lành, chỉ là những sơn phết màu mè che dấu những âm mưu đen tối đàng sau. Tuy vậy, những lớp sơn phết này cũng đánh lừa được nhiều người, kể cả những chính quyền phi Ki-Tô không biết rõ bản chất “từ thiện” của Ki Tô Giáo.
Tới đây, hẳn chúng ta đã thấy thực chất những công việc "từ thiện" cỡ quốc tế của Tòa Thánh Vatican. Điều hiển nhiên là ở trên trái đất này không phải chỉ có Ca Tô Giáo mới làm việc từ thiện. Bất cứ nơi nào có những cảnh khổ trong xã hội bất cứ vì lý do gì, thiên tai, lụt lội, đói kém, bệnh tật v..v.. lòng con người lại mở để góp phần làm vơi bớt những nỗi đau khổ của đồng loại. Trong hầu hết các xã hội khác, tôn giáo khác, việc từ thiện bao giờ cũng phát xuất từ những tấm lòng, thương người vị tha. Chỉ có Ca Tô giáo làm việc thiện cho những mục đích bất thiện: dùng bả vật chất để khuyên dụ người đi đạo, làm việc thiện để lấy tiếng, kiếm thêm tín đồ cho Chúa, hoặc với mục đích chính trị nhơ nhớp như vừa được trình bày ở trên. Ở đây tôi chỉ nói đến sách lược chung của Giáo hội chứ không nói đến cá nhân tín đồ Ca Tô trong đó chắc chắn có nhiều người có lòng bác ái thuần túy không thua gì những người trong các tôn giáo khác.
Ai cũng biết Giáo hội Ca-Tô Rô-ma là một tổ chức giàu có nhất thế giới với đầy đủ các phương tiện truyền thông để tạo nên một hình ảnh theo ý Giáo hội về các công cuộc "từ thiện" mà giáo hội muốn cho quần chúng, và nhất là những tín đồ ở các nước kém mở mang, phải tin và tôn thờ. Nhưng ở thế giới văn minh Âu Mỹ này thì không gì có thể qua mắt được những chuyên gia đầy đủ khả năng về mọi vấn đề, những người có tinh thần tôn trọng tuyệt đối sự thực và quyền tự do phát biểu ý kiến. Cho nên, thường thường trước sau gì rồi cái mặt trái của một chiếc mề đay cũng phải phơi bày. Cổ nhân đã dạy: muốn cho người khác không biết thì đừng có làm. Chân lý này không bao giờ thay đổi.
Một chiêu bài khác để quảng cáo cho Ca-tô Rô-ma Giáo là nhận vơ nền văn minh Tây phương là nền văn minh Ki Tô Giáo. Những nhà thờ hoành tráng, những bài nhạc tôn giáo, những tranh ảnh tôn giáo chỉ là những đóng góp nhỏ trong lãnh vực nghệ thuật cho nên văn minh, chứ tự thân chúng không phải là nền văn minh. Đã đành rằng, trong hàng giáo phẩm Ca Tô cũng có những vị đóng góp cho nền văn minh Âu Mỹ qua những công cuộc khảo cứu về khoa học và xã hội nhưng chúng ta đã biết trong lịch sử Giáo hội đã ngăn chận sự tiến bộ trí thức của nhân loại như thế nào. Giáo hội cấm tín đồ đọc Thánh Kinh, cấm tín đồ đọc những tác phẩm nào mà Giáo hội kiểm duyệt, và Giáo hội đã hoặc khai trừ họ bằng điều mê tín “dứt phép thông công”, hoặc thiêu sống họ (Bruno), hoặc giam giữ họ (Galilei) v…v…vì những đóng góp của họ không phù hợp với những giáo điều Ca Tô, cho nên phải nói rằng, nền văn minh Âu Mỹ không phải là nền văn minh Ki Tô như Giáo hội thường nhập nhằng tự nhận, không có một nền văn minh nào xứng đáng với danh từ văn minh mà có thể gọi là nền văn minh KiTô.
Sự nhập nhằng vơ nền văn minh Tây phương vào làm nền văn minh KiTô là sách lược quen thuộc của CaTô giáo để khuyên dụ những người kém hiểu biết trong những quốc gia nghèo khổ, những người không hề biết gì về lịch sử cũng như bản chất của CaTô Rô-ma giáo. Để có một nhận định chính xác hơn về mối tương quan giữa nền văn minh Âu Mỹ và KiTô giáo, chúng ta hãy đọc đoạn sau đây của John E. Remsburg trong cuốn "Những lời nhận vơ sai sự thực" ("False Claims", trg. 16-17 ):
"KiTô giáo có liên quan gì tới nền văn minh của dân tộc này? Chắc chắn là không; và nếu không có đám mây thiên kiến trước mắt họ, những tín đồ KiTô sẽ thấy rõ rằng KiTô giáo không tạo nên nền văn minh của chúng ta. Họ sẽ thấy rằng thay vì giáo hội văn minh hóa thế giới, chính cái thế giới duy lý trong nhiều thế kỷ đã từ từ văn minh hóa giáo hội.
Chính ngay cái bản chất của KiTô giáo đã loại bỏ cái khả năng tiến bộ như là một nguyên lý tự hữu của tôn giáo này; và bất cứ có sự tiến bộ nào, ở trong hay ở ngoài giáo hội, đều do những nguyên nhân mà giáo hội không kiểm soát được. Giáo hội tự cho là nắm giữ chân lý, chân lý toàn diện, chỉ là chân lý. Mọi đề nghị thay đổi, mọi khám phá mới, đối với giáo hội là sai sự thực, và, do đó, giáo hội chống đối. Giả thử giáo hội thành một đế quốc trên toàn thế giới, mọi tiến bộ sẽ phải ngưng ngay lập tức. Những Huxley và Haeckels của chúng ta sẽ bị diệt trừ thẳng cánh, ngọn đuốc Lý Trí sẽ bị tắt ngấm, và lòng tin mù quáng sẽ là sự chỉ đạo duy nhất của chúng ta. Giáo hội đã cho ta những bằng chứng quyết định về sự thực này. Trong nhiều thế kỷ, quyền lực của giáo hội ở Âu Châu là cao nhất, nhưng ngay cả những văn sĩ KiTô cũng phải gọi những thế kỷ đó là thời đại đen tối.
Chỉ khi chủ thuyết duy lý khai sinh, khi khoa học bắt đầu phát triển, và KiTô giáo bắt đầu suy thoái, nền văn minh hiện đại mới ló dạng. Lecky nói rằng: "Trong hơn 3 thế kỷ, sự suy thoái của những ảnh hưởng thần học là một trong những dấu hiệu không thể chối cãi để đo sự tiến bộ của chúng ta." Carlyle nói rằng: "Kiến thức càng tăng, lòng tin càng giảm." Strauss nói rằng: "Thời Trung Cổ tín ngưỡng tôn giáo thì tỷ lệ thuận với sự ngu tối và man rợ. Tôn giáo và văn minh không ở cùng vị thế mà trái ngược đối với nhau, cho nên với sự văn minh tiến bộ, Ki Tô giáo phải lui." (21)
Chúng ta hãy đọc thêm một tài liệu về sự tiến triển tư duy ở Tây phương. Sau đây là vài đoạn của James A. Haught trong cuốn “2000 Years of Disbelief: Famous people with the Courage to Doubt”, trang 11-14, về lịch trình phát triển “vô thần” ở Tây phương:
“Những người thông minh, có học thức, thường không tin là có đấng siêu nhiên. Cho nên chẳng lấy gì làm ngạc nhiên nếu chúng ta thấy một tỷ lệ cao những người nghi ngờ tôn giáo (Tây phương) trong số những tư tưởng gia, khoa học gia, văn gia, những nhà cải cách, học giả, tiền phong trong dân chủ, và những nhà thay đổi thế giới – những người thường được gọi là danh nhân.
Sự tiến triển của nền văn minh Tây phương đã là một phần của câu chuyện chiến thắng từ từ trên tôn giáo đàn áp (Ca Tô giáo). Sự nổi giậy của thuyết nhân bản đã chuyển trọng tâm của xã hội ra khỏi sự tuân phục các giám mục và vua chúa để đi tới những quyền của cá nhân và điều kiện sinh sống của con người. Phần lớn sự tiến bộ này đã được thúc đẩy bởi những con người, nam cũng như nữ, không cầu nguyện (Gót), không quỳ trước bàn thờ (trong những nhà thờ), không đi hành hương (các thánh địa của Ca Tô Giáo), không đọc những Kinh Tin Kính.
Nền văn hóa Tây phương đã đi theo một hành trình thất thường. Hi Lạp và La Mã cổ xưa đã đồng hành với sự tìm hiểu trí thức giữa quan niệm tôn giáo đa thần. Thế rồi Thời Đại Đức Tin của Ca Tô Giáo đã mang lại sự tối tăm trong nhiều thế kỷ. Thời đại Phục Sinh đã làm sống lại chủ thuyết cá nhân và quyền suy tư tự do, bay bổng lên trong Thời Đại Lý Trí và Thời Đại Khai Sáng. Với sự nở rộ của khoa học trong thế kỷ 19, nhiều tư tưởng gia đã cho rằng tôn giáo huyền bí (tức Ki Tô Giáo) sẽ phải tan biến, và đại cương thì điều này đã xảy ra trong giới trí thức.
Dần dần, lối suy nghĩ khoa học tiến triển, và tôn giáo thoái lui, quyền tự do không tin đã nhô lên ở Tây phương..
Cuối cùng, quyền không tin đã được thiết lập. Tự do suy tư nở rộ trong giới trí thức Âu Châu và Mỹ, đạt tới thời vàng son vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Những người không tin như Robert Ingersoll đã thực hiện những chuyến du thuyết thách đố chủ thuyết siêu nhiên. Những nhà báo như H. L. Mencken công khai tấn công “sự mê tín” (của Ki Tô Giáo).
Thật là một điều mâu thuẫn lạ lùng: một phần đáng kể dân chúng khắp thế giới vẫn còn thờ phụng những Gót không ai nhìn thấy, đôi khi còn giết người cho những Gót này – trong khi hầu hết những tư tưởng gia, khoa học gia, văn gia, và những giới trí thức khác thường là đã loại bỏ đấng siêu nhiên.
Đối với bất cứ ai duyệt qua quá khứ và quan sát thế giới ngày nay, hầu như không thể nào tìm ra được một người có tiếng tăm – ngoại trừ đối với các giáo hoàng, tổng giám mục, vua chúa và các nhà cầm quyền đi kiếm hậu thuẫn của quần chúng - lại có thể nói rằng mục đích của đời sống con người là được “cứu rỗi” bởi một Giê-su vô hình và lên một thiên đường vô hình. Nhưng thật là dễ dàng tìm được rất nhiều người không tin cái tín lý căn bản này trong số những danh nhân.” (22)
4. Đạo Đức Của Những Bậc Lãnh Đạo Tôn Giáo và Thành Phần Tín Đồ.
Vấn đề đạo đức của những bậc lãnh đạo tinh thần Ca-tô Rô-ma Giáo thì khỏi cần nói, nếu chúng ta đọc lịch sử của các giáo hoàng. Trước đây tôi đã viết một bài về lịch sử các giáo hoàng: “ĐÂY !! NHỮNG ‘ĐỨC THÁNH CHA’ ĐẠI DIỆN CỦA CHÚA KI-TÔ”, đăng trên https://giaodiemonline.com/2007/06/duccha.htm; [https://www.sachhiem.net/TCNtg/TCN20.php]
Tôi nghĩ không cần phải nhắc lại ở đây làm gì.
Chúng ta cũng chỉ cần đọc những bài trong đề mục Vấn Đề Loạn Dâm Trong Giới Linh Mục Công Giáo trên trang nhà Giao Điểm https://giaodiemonline.com/2010/ 05/loandam.htm hoặc trên https://www.sachhiem.net/TONGIAO/tgS/SH15.php là chúng ta có thể biết thực chất đạo đức tôn giáo của một số không nhỏ các bậc lãnh đạo Ca-Tô giáo, từ giáo hoàng trở xuống là như thế nào. [Một webpage của người Công giáo Mỹ tên là Clergy Abuse, tổ chức dưới hình thức một văn khố điện tử, đúc kết – và cập nhật hàng ngày - mọi thông tin liên quan đến tình hình lạm dụng (tình dục) của các linh mục Công giáo trên toàn thế giới từ gần một thế kỷ nay. Ai muốn làm một luận án tiến sĩ về đề tài nầy, xin click vào đây: https://www.rickross.com/groups/clergy.html ]
Chúng ta nên nhớ, Giáo hoàng và Linh mục không phải là những người thường như chúng ta, Giáo hoàng là “đại diện của Chúa trên trần” (Vicar of Christ), và Linh mục là Chúa thứ hai (Alter Christus), khoan nói những người thường như chúng ta chẳng có mấy ai can những tội khủng khiếp như một số giáo hoàng và loạn dâm như một số lớn linh mục.
Về phương diện tín đồ, theo nhận xét của Malachi Martin, nguyên giáo sư tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh ngay tại Vatican, trong cuốn The Keys of This Blood , 1990, thì:
"Tự bao giờ, Ca Tô Giáo Rô Ma chỉ nảy nở trong đám dân chúng nghèo khổ và ít học."
(Catholicism has always flourished only in poor population of low educational quality)
Cùng một ý tưởng, Adrian Pigott viết trong cuốn Freedom's Foe - The Vatican:
"Họ (giáo dân) được nuôi nấng trong cái mà Tiến Sĩ Barnado gọi là "Bóng tối dày đặc của ý thức hệ La Mã".. Thất học luôn luôn thịnh hành trong các nước theo Ca Tô Rô Ma Giáo - nhờ đó mà tập đoàn linh mục có thể nảy nở" (23)
và ở Việt Nam thì Toàn Quyền Đông Dương J. L. de Lanessan, cách đây hơn 100 năm, trong cuốn Les Missions et leur Protectorat, trích dẫn bởi Patrick J. N. Tuck, cũng đưa ra một nhận xét như sau:
"Thật ra, trong hơn 2 thế kỷ mà các Hội Truyền Giáo Ca Tô hoạt động ở Trung Hoa và bán đảo Đông Dương, có lẽ họ không cải đạo được quá 10 học giả. Toàn thể giới cầm quyền có học của dân chúng đã tránh né sự truyền đạo của họ. Đại cương thì các nhà truyền giáo chỉ tuyển mộ được tín đồ trong những giai cấp thấp nhất, và phần lớn là những kẻ, vì lý do này hay lý do khác, đã bị xã hội An-Nam ruồng bỏ." (24)
Như vậy, ngày nay Ki Tô Giáo nói chung phát triển ở đâu thì đó là dấu hiệu chứng tỏ nơi đó dân trí còn thấp kém và đời sống kinh tế còn khó khăn, và sự xảo quyệt của giới chăn chiên vẫn còn hữu hiệu. Điều này chúng ta thấy rõ vì những người cầm đầu Ca-tô Rô-Ma Giáo ở Vatican vẫn ra công khuyến khích các thuộc hạ ở các nước chậm tiến phải tích cực tiếp tục mê hoặc tín đồ những thứ đã không còn giá trị mà chính các chức sắc cao cấp của Giáo hội đã không còn tin, và các thuộc hạ địa phương vẫn nhắm mắt theo “đức vâng lời”..
Với sự phân tích 4 tiêu chuẩn để xác định giá trị tốt đẹp của một tôn giáo như Ca-tô Rô-ma Giáo ở trên, tôi nghĩ quý độc giả đã có thể nhận định "giá trị" của một tôn giáo nằm ở đâu. Chúng ta có thể dựa vào số đông tín đồ để đánh giá "giá trị" của một tôn giáo hay không, tôi xin để cho quý độc giả tự quyết định.
5. Vài Lời Kết.
Chúng ta thấy rằng, những tín đồ Ca Tô giáo quả là đáng thương vì bị đưa vào một cấu trúc quyền lực giả tạo mà họ tin rằng đó là một “hội thánh”. Chúng ta không thể và không nên trách họ. Đầu óc họ bị nhào nặn từ khi mới sinh ra đời và có thể khả năng hiểu biết của họ không cho phép họ biết rằng mình đã bị lừa dối bởi những lời nói láo vĩ đại. Vì đã được nhào nặn trong một khuôn đúc đức tin không cần biết không cần hiểu cho nên họ không thể tin được và không thể chấp nhận những gì không phù hợp với đức tin của họ, bất kể là những điều này đúng với sự thật như thế nào. Điều duy nhất mà chúng ta có thể làm được ngày nay là giúp họ hiểu rõ thêm về chính tôn giáo của họ được chừng nào hay chừng ấy. Vấn đề chính là chỉ có chính họ mới giúp được họ mà thôi. Điều này tùy thuộc nhiều vào căn trí của mỗi người.
Chúng ta có thể kết luận như thế nào về bộ mặt thật của Ca-tô Rô-ma Giáo, một tổ chức thường tự gọi là một “hội Thánh”, một tôn giáo thường tự nhận là “thiên khải, duy nhất, thánh thiện, tông truyền”? Ngay cả cái bộ mặt “bác ái, từ thiện” mà Ca-tô Giáo cố quảng cáo phần lớn cũng chỉ là những bình phong đạo đức giả để che đậy những mục đích đen tối thấp hèn ở đàng sau.
- Lịch sử Ca-tô Rô-ma Giáo đã chứng tỏ đó là một tôn giáo không phục vụ con người mà mục đích chính là phục vụ cho những quyền năng thế tục của giới chăn chiên và vơ vét của cải thế gian.
- Đó cũng là một lịch sử ô nhục đẫm máu mà chính Giáo hội đã phải xưng thú cùng thế giới 7 núi tội ác của giáo hội đối với nhân loại. Một mình Ki Tô Giáo, phần lớn là do Ca-tô Rô-ma Giáo cho đến thế kỷ 16, rồi sau đó có cả Tin Lành, đã giết khoảng 200 triệu người trong đó có cả những phụ nữ và trẻ con. [ Lloyd M. Graham in “Deceptions and Myths In The Bible” p.463: “Wars, tyranny and oppression of Christian nations since the day of Constantine have caused the death of more than 200 million people”]
- Đó cũng là một tôn giáo mà một số không nhỏ các chủ chăn mà các tín đồ gọi là “đức thánh cha” đã phạm đủ các tội, từ giết người cho đến loạn luân, loạn dâm, ấu dâm, gian dối, ngụy tạo v…v….
- Đó cũng là một tôn giáo mà trong đó cho tới ngày nay đã có trên 5000 giới chăn chiên mà tín đồ gọi là “linh mục” can tội loạn dâm, ấu dâm, mà giáo hội đã phải bỏ ra trên 2 tỷ đô la để bồi thường cho các nạn nhân tình dục của các “Chúa thứ hai”.
- Đó cũng là giáo hội mà các “Chúa thứ hai” tự do hiếp dâm các chị em tâm linh của họ (sơ) trên 27 quốc gia rồi đưa họ đến các nhà thương Ca-tô để phá thai.
- Đó cũng là giáo hội mà trong đó các sơ quản trị các viện mồ côi ở Gia Nã Đại, Úc, Ái Nhĩ Lan đã hành hạ, bóc lột sức lao động của các trẻ mồ côi xấu số.
- Đó cũng là giáo hội đã toa rập với Phát xít Đức và Ý, và sau khi chiến tranh chấm dứt đã chuồn các tội phạm chiến tranh ra ngoại quốc qua đường giây chuột (Rat Lines) của những cơ sở từ thiện bác ái và các tu viện của Ca-tô Rô-maGiáo.
- Đó cũng là giáo hội đã làm tiên phong và đồng hành với các thế lực thực dân Âu Châu để đi “văn minh hóa” [sic] các dân tộc kém mở mang.
- Riêng đối với Việt Nam, đó cũng là giáo hội đã thành công tẩy não tín đồ để cho họ không còn tuân phục luật pháp quốc gia, phản bội dân tộc, giúp thực dân Pháp thực hiện được nền đô hộ trên đất nước Việt Nam, và đặt giáo luật lên trên luật pháp quốc gia.
- Và sau cùng, Giáo hội Ca-tô Rô-maGIáo bản chất là một tổ chức buôn thần bán thánh, khai thác lòng mê tín của quần chúng thấp kém ở dưới để vơ vét tài sản, tiền bạc. Chúng ta hãy đọc lời thú nhận của Giáo hoàng Leo X trong một bữa tiệc. Nâng cao ly rượu, Giáo hoàng Leo phán lời chúc mừng [Raising a chalice of wine into the air, Pope Leo toasted]:
Chúng ta dư biết sự mê tín vào chuyện hoang đường về đấng Ki-Tô đã mang lại cho chúng ta biết bao nhiêu lợi nhuận.

Đây là những sự kiện lịch sử với đầy đủ tài liệu về bộ mặt thật của Ca-tô Rô-ma Giáo. Ai không đồng ý xin mời lên tiếng. Chúng ta nên nhớ rằng, nghiên cứu kỹ vấn đề thì tất cả những hành động của Giáo hội ở trên là bắt nguồn từ sự tin vào những lời mạc khải của Gót trong cuốn Thánh Kinh chứ không phải là “vài người theo đạo làm sai” [sic]:
Cuối cùng tôi có một thắc mắc đã nêu lên từ lâu, và đã nhiều lần, nhưng tuyệt đối không thấy một giải đáp nào từ phía các trí thức hay không trí thức Ca-tô Rô-ma Giáo hoàn vũ và Việt Nam.
Tại sao một giáo hội do chính Chúa thành lập, thường tự xưng là "thiên khải, duy nhất, thánh thiện, tông truyền", là một “hội thánh”, là "ánh sáng của nhân loại", là quán quân về "công bằng và bác ái", được "thánh linh" hướng dẫn trong mọi hướng hoạt động của Giáo hội v...v... lại có thể phạm những tội ác vô tiền khoáng hậu trong suốt 2000 năm nay đối với nhân loại đến nỗi “Tòa Thánh” Vatican phải công khai xưng thú trước thế giới 7 núi tội ác của Giáo hội đối với nhân loại, mang trên bờ vai cái chết của mấy trăm triệu nạn nhân vô tội gồm cả già trẻ lớn bé và phụ nữ, tràn ngập mùi máu và mùi thịt nướng, trong khi các đạo khác, thí dụ như đạo Phật, thường bị Ki Tô Giáo, và ngay chính Giáo hoàng John Paul II trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng”, chụp cho cái mũ vô thần lên đầu, lại không hề làm đổ một giọt máu hoặc gây nên bất cứ một phương hại nào cho con người trong quá trình truyền bá trải dài hơn 2500 năm, từ trước Ki Tô Giáo hơn 500 năm?
Từ thắc mắc trên lại đưa đến cho tôi một thắc mắc khác: Vậy thì người Việt Nam theo đạo Giê-su là vì cái gì? Mong rằng có cao nhân nào đó giải thích rõ cho tôi biết.
Chú Thích:
1. I believe that every American - Catholic and non-Catholic - has a duty to speak on the Catholic question, because the issues involved go to the heart of our culture and our citizenship. Plain speaking on this question involves many risks of bitterness, misunderstanding and even fanaticism, but the risks of silence are even greater. Any critic of the policies of the Catholic hierarchy must steel himself to be called "anti-Catholic," because it is part of the hierarchy's strategy of defense to place that brand upon all its opponents; and any critic must also reconcile himself to being called an enemy of the Catholic people, because the hierarchy constantly identifies its clerical ambitions with the supposed wishes of its people.
2. Ex-Jesuit Priest, Peter Doeswyck: The entire structure of the Roman Church is built on forgeries, spurious epistles, spurious sermons, spurious miracles, spurious relics, spurious councils, and spurious papal bulls.
3. Joseph L. Daleiden, The Final Superstition, p.169: In summary, the evidence is overwhelming that the propagation of Christianity in both the Old World and the New was due in large measure to coercion, persecution and suppression. Throughout its history, from the earliest purges of heretics, through the crusades, the Inquisition, and repression of other cultures throughout the world, Christianity has demonstrated its destructive antihuman values.
4. Helen Ellerbe, The Dark Side of Christian History, p. 50: The [Catholic] Church had devastating impact upon society. As the Church assumed leadership, activity in the fields of medicine, technology, science, education, history, art and commerce all but collapsed. Europe entered the Dark Ages. Although the Church amassed immense wealth during these centuries, most of what defines civilization disappeared.
5. Lewis, Ingersoll: The Magnificent, trg. 125: When Christianity came in power it destroyed every statue it could lay its ignorant hands upon. It defaced and obliterated every painting; it destroyed every beautiful building; it burned the manuscripts, both Greek and Latin; it destroyed all the history, all the poetry, all the philosophy it could find, and reduced to ashes every library that it could reach with its torch. And the result was, that the night of the Middle Ages fell upon the human race. But by accident, by chance, by oversight, a few of the manuscripts escaped the fury of religious zeal; and these manuscripts became the seed, the fruit of which is our civilization today.
6. Helen Ellerbe, Ibid., trang 48: After Christians had spent years destroying books and libraries, St. John Chrysostom, the preeminent Greek Father of the Church, proudly declared, “Every trace of the old philosophy and literature of the ancient world had vanished from the face of the earth.
7. He believed in a plurality of worlds, in the rotation of this, in the heliocentric theory. For these crimes, and for these alone, he was imprisoned for six years. He was offered his liberty, if he would recant. Bruno refused to stain his soul by denying what he believed to be true. He was tried, condemned, excommunicated and sentenced to be burned. He was taken from his cell by the priests, by those who loved their enemies, led to the place of execution..He was chained to a stake and about his body the wood was piled. Then priests, followers of Christ, lighted the fagots and flames consumed the greatest, the most perfect martyr, that ever suffered death. ("Ingersoll The Magnificient" By Joseph Lewis).
8. Is evolution a theory, a system or a hypothesis? It is much more: it is a general condition to which all theories, all hypotheses, all systems must bow and which they must satisfy henceforth if they are to be thinkable and true. Evolution is a light illuminating all facts, a curve that all lines must follow...
9. The theory of evolution is among the most elegant and fruitful structures of human thought... All scientific disciplines continue to support and verify the concept of evolution. The theory of evolution, like the theory of relativity, is no longer a "theory" in the popular sense, but a scientific principle based on considerable, indisputable evidence.
10. Today I find each of these fundamentals, as traditionally understood, to be not only naïve, but eminently rejectable. Nor would any of them be supported in our generation by reputable Christian scholars.
11. I cannot myself feel that either in the matter of wisdom or in the matter of virtue Christ stands as high as some other people known to history - I think I should put Buddha and Socrates above him in those respects.
12. There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrowed-minded, vindictive, and even hypocritical.
13. Unbeknownst to many Christians, many times the Gospels of the New Testament portray Jesus as vengeful, demeaning, intolerant, and hypocritical.
14. Russell Shorto, Gospel Truth, Riverhead Books, N.y., 1997, p. 14: Most important, the impact of the scientific perspective is having now that even scholars working under a conservative Catholic imprimatur agree that much of what we know of Jesus is myth… Scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of anger. So the only ones left in the dark are ordinary Christians.
15. Virtually no one really reads the Bible. The above mentioned individual doubtless has a Bible, perhaps the only book he owns, but he never reads it - much less reads all of it.
If an intelligent man should critically read it all, he would certainly reject it.
16. There is very little, if anything, that is original in the teaching attributed to Jesus. Like the myth of Jesus itself, the sentiments he expresses are a hodgepodge of aphorisms and moral convictions that can be found in the ancient Egyptian, Babylonian, Persian, Greek, Buddhist, Confucian, and Hindu religions... But one thing is certain: Christianity, a late-comer in the history of religion, merely plagiarized sentiments from Judaism and the so called pagan religions. In his book Sources of Morality in the Gospels, Joseph McCabe quoted the moral views attributed to Jesus in the gospels and in parallel columns gave exact moral equivalents from Jewish and pagan writers.
17. The problem is that people think they know what's in the Bible, or at least what kind of material it contains. Most of them are wrong: they are only familiar with a few church-approved extracts, and are astonished not just how awful God is in the Old Testament, but also at how much less than perfect his son seems in the New. The message of Jesus isn't all good news; paradise is an uncertain prospect at best. Taken as a whole, it could well be The Bad News Bible.
18. In Christ name millions of men and women have been imprisoned, tortured and killed. In his name millions and millions have been enslaved. In his name the thinkers, the investigators, have been branded criminals, and his followers have shed the blood of the wisest and the best. In his name the progress of many nations was stayed for a thousand years. In his gospel was found the dogma of eternal pain, and his words added an infinite horror to death. His gospel filled the world with hatred and revenge, made intellectual honesty a crime,, made happiness here the road to hell, denounced love as base and bestial, canonized credulity, crowned bigotry and destroyed the liberty of man. It would be far better had the New Testament never been written – far better had the theological Christ never lived.
19. Loraine Boettner, Roman Catholicism, p. 27: The Roman Catholic Church applies to herself the term “holy”, but the fact is that through the ages and in he official capacity the Roman Church has been guilty of the most atrocious crimes, practiced in the name of religion, including murder, robbery, persecution of all kinds, bribery, fraud, deception, and practically every other crime known to man. Such crimes have been practiced not merely by church members, but by popes, cardinals, bishops, and priests who, as a study of church history will show, undeniably were evil men…
John Calvin called the church of Rome in his day a foul harlot rather than the spouse of Christ, because of the low moral standard practiced and tolerated by her priests.
20. If people are poor and hungry, they can be easily converted to Christianity, particularly into the Catholic Church. Their schools, their hospitals, their orphanages are nothing but factories for converting people into Catholics.
21. Now did Christianity have aught to do with the civilization of this people ? Certainly not; and were it not for the cloud of prejudice before his eyes, the Christians would clearly see that it did not produce our civilization. He wvould see that instead of the church having civilized the world, the Rationalistic world has for centuries been slowly civilizing the church.
The very nature of Christianity--I mean orthodox Christianity - precludes the possibility of progression as an inherent principle of itself; and whatever progress has been made, either in the church or outside of it, must be attributed to causes over which she has had no control. The church claims to have the truth, the whole truth, and nothing but the truth. Every proposed change, every new discovery, is to her a perversion of truth, and, hence, she opposes it. Were the church to sweep to universal empire, all progress would at once cease. Our Huxleys and Haeckels would be summarily disposed of, the torch of Reason would be extinguished, and the ignis-fatuus of Faith would become our only guide. Of the truth of this she has herself given conclusive evidence. For centuries her power in Europe was supreme, and even Christian writers denommate these centuries the Dark Ages.
Not until Rationalism was born, not until science commenced her career, and Christianity began to decay, did our modern civilization dawn. "For more than three centuries, " says Lecky, "the decadence of theological influence has been one of the most invariable signs and measures of our progress." Says Carlyle, "Just in the ratio that knowledge increases, faith diminishes." "The Middle Ages were more religious than ours," says Strauss, "in proportion to their ignorance and barbarism. Religion and civilization accordingly occupy, not an equal, but an inverted position regarding each other, so that with the progress of civilization, religion retreats."
22. Intelligent, educated people tend to doubt the supernatural. So it is hardly surprising to find a high ratio of religious skeptics among major thinkers, scientists, writers, reformers, scholars, champions of democracy, and other world changers – people usually called great.
The advance of Western civilization has been partly a story of gradual victory over oppressive religion. The rise of humanism slowly shifted society’s focus away from obedience to bishops and kings, onto individual rights and improved living conditions. Much of the progress was impelled by men and women who didn’t pray (to God), didn’t kneel at altars (in churches), didn’t make pilgrimages (to holy places), didn’t recite creeds.
Western culture has traveled an erratic journey. Ancient Greece and Rome teamed with intellectual inquiry, amid polytheism. Then the Christian Age of Faith brought darkness for centuries. The Renaissance revived individualism and free thingking, which soared in the Age of Reason and the Enlightenment. With the flowering of science in the nineteenth century, many thinkers assumed that mystical religion would vanish. Among intellectuals, it largely has done so..
Slowly, as scientific thinking grew and religion retreated, freedom of doubt emerged in the West..
Eventually, the right to disbelieve was established. Freethought blossomed among intellectuals in Europe and America, reaching a heyday at the end of the nineteenth century and the beginning of the twentieth. Doubters such as Robert Ingersoll conducted speaking tours to challenge supernaturalism. Newspaper writer such as H. L. Mencken openly assailed “superstition”...
It is a strange contradiction: A good part of people around the globe still still worship unseen gods, and sometimes even kill for them – yet most Western thinkers, scientists, witers, and other intellectuals generally reject the supernatural.
For anyone scanning the past and surveying the current world scene, it is nearly impossible to find any oustanding person – except for popes, archbishops, kings and other rulers seeking popular support – who says the purpose of life is to be saved by an invisible Jesus and to enter an invisible heaven. But ist is easy to find many among the great who doubt this basic dogma...
23. They have been brought up in what Dr. Barnado called "The thick darkness of Romanism".. Illiteracy is always prevalent in Romanist countries - to enable Priestcraft to flourish.
24. In fact during the two centuries and more that the Catholic Missions have been operating in China and the Indochinese peninsula they have probably not converted more than ten scholars in all. The entire educated and governing class of the population has evaded their proselytism. In general Catholic missionaries only recruit from among the lowest classes, and mainly among those who, for various reasons have been rejected by Annamese society.
Trần Chung Ngọc
Grayslake, Illinois
Ngày 1/1/11