chốn chim muông cầm thú mà không tự sát chết hết đi cho rồi để về quê thật mà hiệp với Vua David? Tại sao họ lại oán trách các Vua Triều Nguyễn đã bách hại giáo dân mà không hiểu rằng các ông Vua Triều Nguyễn đã giúp họ thoát khỏi cảnh chim muông cầm thú để họ có thể mau về với Vua David ở quê thật của họ? Những câu hỏi trên tôi chỉ đặt ra để cho những Ki Tô hữu của tôi suy nghĩ về câu kinh họ cầu chứ không phải là tôi man rợ đến độ thực tâm muốn cho họ chết hết, vì tôi biết rằng trải qua bao nhiêu đời, họ đã bị nhốt trong bóng tối dày đặc của ý thức hệ Rô-Ma (Dr. Barnado: In the thick darkness of Romanism), do đó nhiều khi họ chỉ đọc những kinh như con vẹt mà không hiểu gì cả, kinh viết bởi những người vốn cũng đã từng sống trong bóng tối dày đặc của ý thức hệ Rô Ma trong nhiều đời.
Chúng ta đã thấy, điều kiện cần để tin theo Giê-su là phải căm ghét cha mẹ, anh chị em, và ngay cả mạng sống của chính mình. Nhưng đó chưa phải là điều kiện đủ. Vì Giê-su còn dạy như sau:
Matthew 23: 9: Không được gọi ai trên trái đất này là Cha, vì các
ngươi chỉ có một Cha ở trên trời. (Do not call anyone on earth your Father, for
One is your Father, He who is in heaven.)
Vì tôi biết các tín đồ Ca-Tô Việt Nam, từ Hồng Y Nguyễn Văn Thuận trở xuống, rất ít ai đọc Thánh Kinh khoan nói đến chuyện đọc với một đầu óc sáng suốt, nên tôi xin giúp và nhắc nhở các Ki Tô hữu của tôi là, nếu quý vị gọi ông thân sinh ra mình cũng như gọi các linh mục là Cha thì quý vị đã làm ngược lại lời Chúa dạy, nghĩa là không tin Chúa. Tội không tin này to lắm, to hơn cả những tội như giết người, cướp của v..v.., vì giết người hay cướp của mà tin Chúa thì vẫn được Chúa cho hưởng cuộc sống đời đời, lẽ dĩ nhiên, sau khi chết, chứ còn không tin thì đến ngày phán xét quý vị đừng có hòng được Chúa cứu rỗi và ban cho cuộc sống đời đời, lẽ dĩ nhiên, sau khi chết.
Đọc Tân Ước, chúng ta thấy rằng Giê-su đã đưa ra nhiều điều tự nhận quá lố, những lời tiên tri không thành sự thực, và những lời hứa hẹn vô trách nhiệm đối với số tông đồ ít ỏi theo ông. Nhưng có lẽ vì hiểu rõ bản chất những tư tưởng của mình bắt nguồn từ một tâm bệnh hoang tưởng nên Giê-su đã mường tượng và tiên đoán được vài hậu quả. Trong một phần trên tôi đã trích dẫn từ Tân Ước, Matthew 10: 34-36 và Luke 12: 51-53, những đoạn mà Giê-su khẳng định là ông ta không xuống trần để mang lại hòa bình trên trái đất mà để gây chia rẽ giữa những người tin theo ông và những người không tin, ngay cả trong các gia đình.
Còn một lời tiên đoán khác của Giê-su cũng đã trở thành sự thực. Đó là câu trong Matthew24:9:
"Tất cả các dân tộc đều ghét các ngươi vì các ngươi theo ta." (And
you will be hated by all nations for my Name's sake.)
Thật vậy, lịch sử Ki Tô Giáo trên thế giới, Ca-Tô cũng như Tin Lành, đã chứng tỏ rằng tôn giáo này không thể phát triển và bành trướng nếu không dựa vào cường quyền và bạo lực, khởi đầu từ thời Constantine, dùng Ki Tô Giáo để củng cố quyền lực trong thế kỷ thứ tư. Trong cuốn Công Giáo Chính Sử, chương III và chương IV, tôi đã trình bày thực chất sự phát triển của Ca-Tô Giáo ở Âu Châu và trên thế giới như thế nào. Đó là một lịch sử với sách lược man rợ trí thức: đốt sách vở ngoại đạo và hủy diệt những nền văn hóa phi Ki-Tô; với những cuộc Thánh Chiến, những Tòa Hình Án để cưỡng bách con người phải theo Ki Tô Giáo; với 2000 năm bách hại dân Do Thái; và với chủ trương song hành với các thế lực thực dân để đi xâm chiếm và truyền đạo trong các nước kém mở mang ở Phi Châu và Á Châu.