trong Thánh Kinh” của Tin Lành. Nhìn vào toàn bộ nền Thần học Ki Tô Giáo, chúng ta thấy nó giống như một cái áo cũ kỹ đã rách bươm nhiều chỗ, phải vá chằng vá chịt, dùng để che đậy một thân thể bệnh hoạn. Tại sao? Bởi vì nền thần học này dựa trên nhiều ngụy tạo và gian dối, như sẽ được chứng minh trong chương sau. Mỗi khi sự ngụy tạo và gian dối nào bị phanh phui, người ta lại phải thay đổi, dùng ngụy biện để che đậy nó đi bằng một luận điệu thần học khác. Vì vậy mà John E. Remsburg đã viết trong cuốn False Claims, trang 3, rằng:
Trong những giới thông minh ở Âu Châu và Mỹ Châu, nền thần họcKi-Tô trên thực tế đã chết.
(Among the intelligent classes of Europe and America, Christian theology is practically dead.)
Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận sự kiện là, nền thần học này cũng mang đến cho các tín đồ, tuyệt đại đa số thuộc thành phần thấp kém trong xã hội, một niềm hi vọng trong đời sống sau: Tới ngày phán xét cuối cùng (không biết bao giờ mới xảy ra tuy Chúa Giê-su đã hứa với các tông đồ là sẽ xảy ra trong ngay khi ông ta còn sống, và trong 2000 năm nay không biết bao nhiêu lần các bậc lãnh đạo Ki Tô Giáo đã tiên đoán sai lầm ngày tận thế sẽ xảy ra) Chúa sẽ hóa phép làm cho xác chết của họ sống lại đoàn tụ với linh hồn và sống cùng Chúa đời đời trên Thiên đường. Đó là cái bánh vẽ trên trời (từ của Linh mục Ernie Bringas: A Pie-in-the-sky) cộng với mồi vật chất (theo đạo có gạo mà ăn) để khuyến dụ họ tin theo đạo Chúa.
Những nhận xét ở trên không phải là không có căn bản, nhưng tuyệt đại đa số những tín đồ Ki Tô Giáo, Ca-Tô cũng như Tin Lành, đều không biết đến những sự thực này, do chính sách bưng bít của các giáo hội, và do chính họ không đủ khả năng để theo dõi những diễn biến ngay chính trong các giáo hội của họ.
Thật vậy, chính Mục Sư Tin Lành Rubem Alves, Giáo sư Thần Học tại đại học Campinas ở Ba Tây, trong cuốn Đạo Tin Lành và Sự Đàn Áp (Protestantism and Repression, Orbis Book) đã phải đưa ra nhận đinh như sau, phản ánh thực chất tình trạng Tin Lành truyền đạo ở Ba Tây, trang 44:
Có phải là kỳ cục không khi mà Chúa Ki-Tô không thể rao giảng cho những người cảm thấy mình an toàn và hạnh phúc, những người cảm thấy cuộc đời đáng sống, những người không đang ở trong một cơn khủng khoảng? Có phải là khác thường không khi mà Chúa Ki-Tô chỉ có thể tuyên dương và có nghĩa trong những tình trạng đau khổ vì bệnh hoạn của những người đang ở trong những hoàn cảnh lo lắng, cảm giác tội lỗi, và khủng khoảng hay chết chóc? Thật ra nhiệm vụ của nhà truyền giáo là gì? Nhiệm vụ của họ là đặt cho một cơn khủng khoảng những tên Thần Học mà thực ra nguồn gốc của nó là vấn đề tâm lý xã hội. Nhà truyền giáo tìm cách khơi động một cơn khủng khoảng mà con người có thể chưa cảm thấy, để rồi từ đó, và chỉ khi đó, họ mới có thể tuyên bố "Chúa Ki-Tô là sự giải đáp".
(Isn't it curious that Christ cannot be preached to people who feel secure and happy, to people who feel that life is worth living, to people who are not going through a crisis? Isn't it odd that Christ can only be proclaimed and meaningful in morbid situations where people are infected with existential anxiety, guilt feelings, and terror or death? What really is the task of the evangelist? His or her task is to give theological names to a crisis that could