well be psychosocial in origin. The evangelist seeks to activate a crisis which might not have been sensed before, so that then, and only then, he or she can proclaim that "Christ is the answer".)
Nhận định của Giáo sư Rubem Alves ở trên quả thật đúng nếu chúng ta quan sát tình trạng Ki Tô Giáo nói chung ở các xã hội tân tiến Âu Mỹ. Con người Âu Châu nói riêng, trong các nước văn minh tiến bộ nói chung, vì đã có một đời sống kinh tế tương đối thoải mái, và vì thường xuyên đối diện với những tiến bộ của các bộ môn khoa học và tôn giáo học, đã tỉnh ngộ và thấy rõ thực chất của những lời hứa hẹn hoang đường như trên. Cho nên chúng ta không lấy gì làm lạ khi đa số chỉ mang danh là tín hữu Ki Tô theo truyền thống gia đình và xã hội của họ, nhưng chẳng còn tin những điều không còn phù hợp với sự tiến bộ trí thức và mức độ hiểu biết của quần chúng ngày nay. Những người ngày nay còn tin vào những điều hoang đường phi lý trí, phản khoa học v..v.. phần lớn thuộc những nước nghèo, chậm tiến, và thường là lớp người không mấy khi dùng đến đầu óc, hoặc đầu óc đã bị bố mẹ, linh mục, mục sư làm cho mê muội từ khi còn nhỏ, chưa đủ khả năng hiểu biết, do đó bị giáo hội dẫn vào và giữ trong bóng tối của mê tín, của vô minh, và trong hệ thống toàn trị của giáo quyền Ca-Tô và của Kinh Thánh Tin Lành.
Số báo Newsweek nêu trên đã đưa ra vài con số nói lên tình trạng của Ki Tô Giáo hiện nay: năm 1900, 80% tín đồ Ki Tô là dân Âu Châu và Bắc Mỹ, ngày nay 60% là dân các nước Á, Phi, và châu Mỹ La-Tinh (Newsweek, Ibid.: In 1900, 80% of Christians were either Europeans or North Americans. Today, 60% are citizens of Africa, Asia and Latin America). Điều nguy hại mà Ki Tô Giáo đã gây ra ở Á, Phi là các giáo hội Ki-Tô ở những địa phương này lại bảo thủ hơn những giáo hội trong các nước văn minh tiến bộ Tây phương (Newsweek, Ibid.: a rift between the liberal churches of the West and the eruption of more conservative churches in Africa and Asia). Vì vậy chúng ta thường thấy một số không nhỏ tín đồ Ca-Tô cũng như Tin Lành Việt Nam vẫn còn mang tâm cảnh cuồng tín, hung hăng về vấn đề tín ngưỡng hơn bất cứ tín đồ Âu, Mỹ nào. Họ cuồng tín và hung hăng vì họ được giữ chặt trong cái mà Tiến sĩ Barnado gọi là “bóng tối dày đặc của ý thức hệ Rô-Ma” (in the thick darkness of Romanism), hoặc trong chủ trương "Đức Tin biện minh cho tất cả" (Justification by Faith) của Tin Lành, hoặc trong những "ốc đảo ngu dốt" (từ của Linh mục Trần Tam Tĩnh chỉ các cộng đồng Ca-Tô Việt Nam như Bùi Chu, Phát Diệm, Vĩnh Sơn, Hố Nai, Gia Kiệm v..v..). Họ được nhồi sọ từ nhỏ để tuyệt đối tin vào một cái bánh vẽ trên trời (A pie-in-the-sky) hay một ảo tượng không chắc chắn (an uncertain vision) bất kể đến cái lịch sử tàn bạo đẫm máu của giáo hội Ca-Tô Rô-ma mà họ được dạy là một giáo hội thánh thiện, cũng như lịch sử tàn bạo diệt chủng dân da đỏ của Tin Lành. Họ không biết đến và dù có biết cũng không quan tâm đến những triều đại dâm loạn của những giáo hoàng mà họ thường gọi là “đức thánh cha”, cũng như vấn đề đạo đức quá suy đồi trong hàng giáo phẩm như hàng trăm linh mục, giám mục, mục sư can tội cưỡng bách tình dục trẻ em phụ tế và nữ tín đồ đến độ giáo hội phải bỏ ra đến cả tỷ đô la, theo ước tính của Jason Berry, để bồi thường cho các nạn nhân; linh mục Andrew Greeley, giáo sư xã hội học tại đại học Chicago cho rằng có tới 25% linh mục đồng giống luyến ái (gay priests) nhưng học giả Ca-Tô Jason Berry bảo con số này thực sự cao gấp đôi; số linh mục nghiện rượu cũng không phải là nhỏ; số linh mục chết vì bệnh AIDS có tỷ lệ cao gấp từ 4 đến 8 lần tỷ lệ trong quần chúng; và gần đây nhất, vấn đề linh mục cưỡng bách tình dục, danh từ phổ thông là “hiếp dâm”, một số nữ tu Ca Tô (sơ) trong 23 quốc gia, kể cả Hoa Kỳ, Ba-Tây, Phi Luật Tân, Ấn Độ, Ái Nhĩ Lan, Ý v..v..,và cưỡng bách một số phải uống thuốc ngừa thai hoặc phá thai, đã bị phanh phui và phổ biến trên tờ National CatholicReporter ở Kansas City ngày 16 tháng 3, 2001, và trên hãng thông tấn Adista ở bên Ý. Tòa