Giê-su nằm trong hai câu ý nghĩa y hệt nhau: “Hãy thống hối, tin vào Kinh Thánh” hoặc, một nơi khác “Hãy thống hối, Nước Thiên Đàng sắp tới". Nhưng quan niệm về nước Chúa hay nước thiên đàng của Giê-su lại không phù hợp với quan niệm của người dân Do Thái, không đáp ứng được sự khao khát của dân Do Thái được giải phóng khỏi ách lệ của La Mã, cho nên dân Do Thái mới không tin Giê-su cứu tinh của dân tộc họ. Và, khi Giê-su bắt đầu đi lang thang thuyết giảng về những cái gọi phúc âm tự nhận mình con Thần Gia-vê, đấng cứu thế v..v.. thì thánh kinh viết gia đình ông nhiều người cùng thời cho ông ta điên. Thánh kinh cũng viết, nơi khi ông tới, dân làng kéo ra ngoài làng đuổi ông đi, không cho ông vào làng. Những lời rao giảng của ông không phù hợp với sự mong ước về một anh hùng dân tộc, cứu dân Do Thái ra khỏi vòng tối tăm lệ, của dân Do Thái. Tuy không đến nỗi phản quốc như Trần Lục của Việt Nam, mang giáo dân đi hỗ trợ quân xâm lăng để tiêu diệt kháng chiến quân, trong thời đó Giê-su chỉ một nhúm người theo ông, nhưng ông cũng không chủ trương gây nên một phong trào kháng chiến để chấm dứt sự đô hộ của La Mã, trong vài trường hợp, ông còn chủ trương tuân phục sự thống trị của La (Cái của Ceasar hãy trả lại cho Ceasar). vậy, dân Do Thái không công nhận ông đấng cứu tinh (Messiah) của Do Thái vẫn tiếp tục không công nhận cho tới ngày nay. Họ cho rằng ông không tinh thần quốc gia dân tộc, đã nhận xằng những danh hiệu cứu thế cũng như Con Thiên Chúa nên khi ông bị đóng đinh trên thập giá họ còn buông lời chế riễu. Theo kết quả nghiên cứu của Peter Jennings trên đài ABC trong chương trình The Search for Jesus gần đây, số người tin theo ông không quá 15 người, kể cả 12 người gọi tông đồ, không một người nào trung thành với ông, tất cả đều bỏ trốn khi ông bị bắt cũng như bị hành hình.

Một câu hỏi được đặt ra là, tại sao Giê-su lại những lập trường, tác phong hành động như vậy? Ngày nay, các học giả nghiên cứu Thánh Kinh cổ sử đã tìm ra giải đáp. Đó đầu óc Giê-su không được bình thường, bị ám ảnh nhiều bởi những chuyện trong Cựu Ước đưa đến một tâm bệnh hoang tưởng, cộng với cái mặc cảm về thân thế không mấy tốt đẹp của mình. những tưởng hành động của Giê-su bắt nguồn từ những chứng bệnh tâm thần như trên. không làm chủ được chính mình nên những tưởng của Giê-su không nhất quán, trước sau không giống nhau, chứa nhiều mâu thuẫn, lời nói thường không đi đôi với việc làm như chúng ta đã biết, nhất ông toàn nói về những chuyện trên trời dưới bể, không thực tế, không thể áp dụng được, trong thời ông cũng như trong thời nay. Sau đây chúng ta sẽ đi vào phần chứng minh.

Đối với quan niệm về quốc gia, Giê-su phân chia thế giới làm hai phần: nước của cha ông trên thiên đường cho những người theo ông, tất cả các nước khác trên trái đất. Chúng ta không biết Giê-su biết được trên thế giới bao nhiêu nước. Với kiến thức của những người viết Thánh Kinh, với quan niệm trái đất phẳng dẹt như cái đĩa, trên vòm trời bằng đồng thau những cánh cửa các thiên thần mở ra để cho mưa rơi xuống, thì tôi tin rằng sự hiểu biết của Giê-su về các quốc gia trên thế giới chắc cũng không hơn sự hiểu biết của Thánh Augustine mấy thế kỷ sau, người được coi cha đẻ của nền thần học Ca-Tô được Ca Giáo tôn sùng, coi như trí tuệ "siêu việt", nhưng cũng người không tin trái đất hình cầu phán rằng: "Không thể nào chuyện người phía bên kia của trái đất, Thánh Kinh không ghi lại bất cứ giống người nào như vậy trong các hậu duệ của Adam" (It is impossible there should be inhabitants on the opposite side of the earth, since no such race is recorded by Scripture among the descendants of Adam).