những thuộc hạ với tâm cảnh nô lệ, hoàn toàn tuân phục Giáo hội. Trong bức "Thư Chung Năm 2001" của "Hội Đồng Giám MụcViệt Nam" gửi "Cộng Đồng Dân Chúa" để họ "Được Sống Dồi Dào", mục 4, các giáo dân được khuyến khích phải "quên mình trong vâng phục" theo đúng Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 44, nghĩa là phải tuyệt đối vâng phục những điều "Giáo hội dạy rằng...". Do đó, bất cứ Giáo hội giảng dạy ra sao, bất kể những điều giảng dạy này có đúng sự thực hay không, có thuận lý hay không, có hợp với trình độ hiểu biết của nhân loại ngày nay hay không v..v.., tín đồ đều phải vâng phục và tin theo. Đây là truyền thống tín ngưỡng của Ca-Tô Giáo Rô-ma. Thật vậy, Truyền thống trong Ca-Tô Giáo Rô-ma được tóm tắt trong câu (J. Sheatsley, The Pope's Catechism, p.80):
Tín đồ Ca-Tô phải tin tất cả những gì Thiên Chúa đã mạc khải và tất cả những gì Giáo hội Ca-Tô dạy, bất kể là những điều đó có hay không có trong Thánh Kinh.
Vì Truyền Thống Ca-Tô (nghĩa là những gì giáo hội dạy) và Thánh Kinh đều do Thiên Chúa mạckhải.
(A Catholic must believe all that God has revealed and the Catholic Church teaches, whether it is contained in Holy Scripture or not.
Because Catholic Tradition and Holy Scripture were alike revealed by God)
Bản chất của Tin Lành cũng không khác gì Ca-Tô Giáo. Họ chỉ thay những lời "Giáo hội dạy rằng.." của Ca-Tô Giáo bằng câu "Thánh Kinh viết rằng..." và điều kiện tiên quyết để theo Tin Lành là phải tuyệt đối tin vào Thánh Kinh và huyền thoại cứu rỗi của Giê-su. Trong Tin Lành, thẩm quyền của Giáo hội trong Ca-Tô Giáo được thay thế bằng thẩm quyền của Thánh Kinh. Mục sư Tin Lành Rubem Alves viết trong cuốn "Protestantism and Repression", trang 62 như sau về đức tin trong đạo Tin Lành: "Nếu những sự kiện khoa học, nhân văn, xã hội v..v.. hay thực tế ở ngoài đời (real life) mà trái ngược với Thánh Kinh thì những sự kiện này đương nhiên phải dẹp bỏ." (If the facts oppose the text (of the Scriptures), abolish the facts). Nếu khoa học mà phù hợp với Thánh Kinh thì đó là khoa học tốt (Good science). Nếu khoa học mà không phù hợp với Thánh Kinh thì đó là khoa học xấu (Bad science). Truyền thống trong Tin Lành cũng là phải tuyệt đối tin rằng con người sinh ra trong tội lỗi (born in sin) và do bản chất đó, con người không thể làm gì tốt (by nature, incapable of doing good), phải bị đày đoạ vĩnh viễn (To be a sinner is to be destined to eternal damnation), và cách duy nhất để được cứu rỗi là phải tin vào quyền năng của Giê-su (Justification by Faith). Vì vậy, Rubem Alves viết: "Chúng ta không bao giờ thấy Tin Lành giải thích hay biện minh cho thẩm quyền của Thánh Kinh bằng sự hiểu biết hay xuyên qua những thực tế ở ngoài đời. (Ibid., p.34: We will never see Right Doctrine Protestantism trying to explain or justify biblical authority in terms of understanding or comprehension of existence that it offers.)
Do đó, thảm trạng của nhân loại ngày nay là, gần một phần tư dân số trên thế giới vẫn tiếp tục sống trong bóng tối của một ý thức hệ mà thực chất không còn phù hợp với trình độ trí thức của con người trong thời đại thông tin điện tử này. Họ là nạn nhân của một nền Thần học tinh vi, dựa trên nhiều ngụy tạo và gian dối, một nền Thần học có tác dụng giữ họ trong bóng tối của đức tin thời Trung Cổ. Luận cứ này sẽ được chứng minh trong những phần sau của cuốn sách này.
Cho nên, nếu chúng ta đặt một câu hỏi then chốt: Giê-su là ai? thì câu trả lời thật là dễ dàng đối với những tín đồ Ki Tô Giáo, Ca-Tô cũng như Tin Lành: “Chúa tôi.”, vì họ chỉ được dạy như vậy và tin có vậy. Nhưng nếu chúng ta hỏi tiếp: “Chúa