trong 4 Phúc Âm: Ma-thêu (Matthew), Mác-cô (Mark), Lu-ca (Luke), và Giăng (John) trong Tân Ước. Đây là nguồn tài liệu đáng tin cậy nhất. Những lời giảng về Giê-su của giới chăn chiên Ki Tô hay những sách vở do giáo hội xuất bản không thể tin cậy được, vì đó chỉ là những trích dẫn vụn vặt chọn lựa từ Thánh Kinh, ngoài toàn bộ vấn đề (out of context), và thường diễn giảng với luận điệu thần học một chiều, méo mó, ngụy biện, và thường không bao giờ nói đến những mâu thuẫn và phi lý trong Thánh Kinh, hay những đoạn trong Thánh Kinh trái ngược với hình ảnh của Giê-su do nền thần học Ki Tô tạo dựng lên.. Trước khi đi vào phần phân tích để kiếm ra một giải đáp cho câu hỏi trên, có lẽ chúng ta cũng nên biết đến bản chất và cốt tủy của Ki Tô Giáo, nhất là Ca-Tô giáo Rô-ma.
Trong cuốn BướcQua Ngưỡng Cửa Hy Vọng, trang 76, để trả lời câu hỏi "Tại sao nhân loại cần cứu rỗi?", giáo hoàng John Paul II đã trích dẫn một câu trong Phúc Âm John làm luận điểm giải thích, John 3:16: “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban Con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.”. Câu trên không phải là lời giải thích cho câu hỏi "Tại sao nhân loại cần đến sự cứu rỗi?" mà là một khẳng định về đức tin Ca-Tô gồm có hai mặt: 1) huyễn hoặc những người nhẹ dạ cả tin, mê mẩn về một sự sống đời đời, sau khi chết, ở trên một thiên đường giả tưởng, bằng cách tin vào một nhân vật đầy tính chất huyền thoại do nền thần học Ki Tô Giáo tạo dựng lên; và 2) hù dọa những người đầu óc yếu kém về một sự luận phạt phi lý và hoang đường.
Điều này thật là rõ ràng khi gần đây chúng ta thấy Giáo Hoàng John Paul II, trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, đã phải công nhận là "không làm gì có thiên đường trên các tầng mây" và "không làm gì có lửa hỏa ngục, hỏa ngụckhông phải là một nơi chốn trong lòng đất".
Phủ nhận sự hiện hữu của một thiên đường trên trời và một hỏa ngục trong lòng đất, giáo hoàng cũng đã phủ nhận luôn sự cứu rỗi và luận phạt của Chúa, một sự hứa hẹn thuộc một đời sau do đó không ai có thể kiểm chứng, và một sự đe dọa cùng loại, hoang đường, mà giáo hội vẫn tiếp tục dùng cho tới ngày nay để nhốt tín đồ vào trong vòng mê tín. Đa số tín đồ Ca-Tô không biết đến sự phủ nhận thiên đường và hỏa ngục của giáo hoàng. Những thuộc hạ của giáo hoàng giải thích: che dấu sự thực là điều cần thiết để giữ đức tin của tín đồ, để cho niềm tin của họ khỏi bị chao đảo. Người ngoài giáo hội thì cho đó là hành động bất lương trí thức (intellectual dishonesty), vì giáo hội đã biết là không làm gì có thiên đường hay hỏa ngục, mà vẫn dụ tín đồ bằng cái bánh vẽ cứu rỗi, và hù dọa họ bằng một hỏa ngục giả tưởng.
Tuy rằng ngày nay Giáo hội đã dùng học thuật Ca-Tô, giải thích lại ý nghĩa của thiên đường và hỏa ngục với giới trí thức như những trạng thái của tâm, hiệp thông với Thiên Chúa hay xa lìa Thiên Chúa, nhưng khối tín đồ ở dưới vẫn ít biết đến điều này. Hơn nữa, quan niệm về Thiên Chúa của Ki Tô Giáo không thể có một định nghĩa rõ rệt, khoan kể là quan niệm này đã phải thay đổi nhiều qua thời gian với hi vọng có thể phù hợp với sự tiến bộ trí thức của nhân loại. Mặt khác, mỗi Thần giáo đều có quan niệm riêng về Thiên Chúa của tôn giáo mình. Cũng vì vậy mà nữ học giả Judith Hayes đã viết một cuốn sách nhan đề "Chúng Ta Đặt Niềm Tin Vào Thiên Chúa! Nhưng Mà Là Thiên Chúa Nào?" (In God We Trust! But Which One?). Giáo