Nhưng Thánh Kinh lại chứng tỏ rằng Giê-su rất nhiều sai lầm. Vậy thực ra những lời nói của Giê-su cũng chỉ những lời nói của một người thường, với sự hiểu biết giới hạn của một người thường, trình độ của một người dân thường trong vùng dân Do Thái cách đây 2000 năm. như vậy, Giê-su đã phạm tội nói láo lừa dối, ông ta khẳng định rằng những lời nói của ông của Thiên Chúa không thể sai lầm. Kết luận: Giê-su chỉ thể đóng một trong hai vai trò: Thiên Chúa hay một người thường phạm tội nói láo lừa dối chứ không thể cùng lúc cả hai. Vậy vai trò nào vai trò đích thực của Giê-su?

Điều này không khó, chúng ta chỉ cần mở Thánh Kinh ra đọc thì sẽ thấy ngay. Chúng ta đã biết trong chương trên, bác Nguyễn Văn Thọ cũng như học giả Rubem Alves, dựa trên Thánh Kinh, đều viết rằng Giê-su tin khẳng định rằng Moses (Môise) tác giả của Ngũ Kinh trong khi thực sự thì Moses không viết. Huyền thoại về Moses được viết ra khoảng 3, 4 trăm năm sau khi Moses đã chết, trong 2 phẩm Xuất Ê-Díp-Tô (Exodus) Dân Số (Numbers). Đây kết quả nghiên cứu của những chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh chính giáo hội Ca-Tô cũng phải chấp nhận. Bằng chứng? Tên các vị Vua xứ Edom viết trong Sáng Thế 36 những vị Vua sống trong những thời kỳ sau khi Moses đã chết từ lâu. Trong Phục Truyền 34 kể cả chuyện Moses chết ra làm sao, chẳng lẽ Moses lại tả chuyện chính mình chết? Cho nên Moses không thể tác giả của Ngũ Kinh. Vậy, nếu Giê-su đã sai lầm về một sự kiện lịch sử nhỏ nhặt như trên, không biết đến cả tác giả Ngũ Kinh ai lại cho đó Moses, thì làm sao chúng ta thể tin được những lời nói về những chuyện trên trời, nhất những lời tự tôn của Giê-su, cho mình chính Thiên Chúa toàn năng, toàn trí, những lời đó chính của Thiên Chúa? Kết luận, những câu khẳng định về cái "Ta" của Giê-su chẳng qua cũng chỉ những điều hoang tưởng bệnh hoạn, không khác những hoang tưởng của David Koresh, James Jones số người khác trong thời đại này.

Thứ ba, nếu Giê-su tự cho mình chính Thiên Chúa, Thiên Chúa đây phải hiểu Thiên Chúa trong Cựu Ước, thì Giê-su lại bị kẹt trong vấn đề đạo đức. trong Cựu Ước, Thiên Chúa được tả như một vị Thần chiến tranh, ác độc, ghen tuông, ưa ủng hộ dân này chém giết dân kia. Thật vậy, Thiên Chúa trong Cựu Ước dạy dân Israel của Ngài "Vậy các ngươi sẽ ăn cướp của người Ai cập" (Exodus 3, 22: So you shall plunder the Egyptians) dân ngài đã tuân theo lệnh của Ngài như được kể trong Xuất-Ê-Díp-Tô (Exodus) 12, 35-36; Ngài dạy Moses: "Hãy báo thù dân Midian cho dân Israel" (Numbers 31, 2: Take vengeance for the children of Israel on the Midianites), Moses tuân lệnh dạy dân mình: "Các ngươi hãy mang binh khí đi đánh dân Midian để trả thù cho Thiên Chúa" (Numbers 31, 3: So Moses spoke to the people, saying, "Arm yourselves for the war, and let them go against the Midianites to take vengeance for the Lord); "và chúng giao chiến cùng dân Midian, đúng như lời Chúa ra lệnh cho Moses, giết sạch mọi người Nam" (Numbers 31, 7: And they warred against the Midianites, just as the Lord commanded Moses, and they killed all the males); "Và dân Israel bắt tất cả đàn Midian, con nhỏ của họ, cướp hết thảy súc vật, bày chiên, của cải của họ. Chúng cũng đốt sạch những thành phố, thành trì dân Midian ở. đem theo tất cả đồ cướp được, người súcvật" (Numbers 31, 9-11: And the children of Israel took all the women of Midian captive, with their little ones, and took as spoil all their cattle, all their flocks, and all their goods. They also burned with fire all the cities they dwelt, and all their forts. And they took all the spoil and all the booty, both of man and beast). Đọc tiếp những phần sau trong chương Numbers này chúng ta thấy Moses còn ra lệnh cho thuộc hạ giết hết đàn con trai chỉ để lại trinh nữ. Sau đó mục chia chác những "chiến lợi phẩm", Thiên Chúa cũng phần như sau: 675 con chiên, 72 con bò, 61 con lừa, 32 trinh nữ. Một Thiên Chúa như vậy đáng để cho chúng ta kính trọng hay không, khoan nói đến việc thờ phụng. Thờ phụng Thiên Chúa hay thờ phụng Giê-su thì cũng chẳng khác nhau Giê-su