một số học giả trong ngành phân tâm học thì những điều Giê-su tự nhận như: “con duy nhất của Thiên Chúa”, “có khả năng chuộc tội cho nhân loại”, “đấng cứu thế”, “sẽ trở lại trần phán xét thiên hạ trong tương lai gần thời Giê-su” v..v.. đều là những ảo tưởng của một người bị bệnh tâm thần, mắc bệnh chứng hoang tưởng (paranoia). Bệnh chứng này bắt nguồn từ một nguồn gốc lý lịch không mấy tốt đẹp của Giê-su, một tâm cảnh cuồng tín tôn giáo của Giê-su khi ông đọc và tuyệt đối tin những điều trong Cựu Ước, sinh ra nhiều ảo giác và tự cho mình những quyền năng thần thánh, vai trò cứu thế, rửa sạch tội lỗi nhân loại v..v.. Đó là kết luận của những nhà phân tâm học như các bác sĩ George de Loosten, William Hirsch, Binet-Sanglé, tiến sĩ Emil Rasmussen v..v.. Công cuộc nghiên cứu về vấn đề tâm thần của Giê-su các các khảo cứu gia như trên thường là dài và đi vào nhiều chi tiết để chứng minh. Hiển nhiên là tôi không thể nào trình bày đầy đủ những kết quả nghiên cứu sâu rộng của họ. Cho nên sau đây tôi chỉ tóm tắt những điểm chính.
Trong cuốn Sự Nghiên Cứu Về Tâm Thần Của Giê-su bác sĩ Albert Schweitzer viết:
Trong thập niên qua sự nghiên cứu lịch sử càng ngày càng nhận
thức ra rằng niềm tin chắc về sự trở lại trần (second coming) của một
đấng cứu tinh (của dân tộc Do Thái. TCN) là trọng điểm trong ý nghĩ của
Giê-su. Tư tưởng này ngự trị cảm tính, ý chí và hành động của ông ta
chặt chẽ hơn là là chúng ta trước đây thường tưởng...Giê-su tự coi như
là đấng cứu tinh và tin chắc rằng ông ta sẽ trở lại trần trong sự huy
hoàng từ những đám mây trên trời.
32
Công cuộc nghiên cứu của bác sĩ George De Loosten cũng đưa tới những kết quả tương tự chính như sau:
Giê-su hiển nhiên là một đứa con lai giống (hybrid: có nghĩa là mẹ
Giê-su, bà Maria, là người Do Thái nhưng bố Giê-su không phải là người Do
Thái), nhơ nhuốc do di truyền (tainted from birth by heredity), ý thức bản
thân quá lố, do đó ít phát triển ý niệm về gia đình. Ý thức bản thân của
ông ta dần dần đi lên đến độ thành một hệ thống hoang tưởng cố định
mà những đặctính của nó được xác định bởi những khuynh hướng tôn
giáo mãnh liệt trong thời đại của ông ta và sự bận tâm một chiều của
ông ta về những điều viết trong Cựu Ước. Do sự xuất hiện của Gioan
Ba-ti-xi-ta (John the Baptist), Giê-su bị thúc đẩy để phát biểu những tư
tưởng của mình. Rồi từng bước một, sau cùng ông ta đi đến độ đặt
chính mình vào những lời hứa hẹn trong Cựu Ước, những lời này đã
trở thành chủ yếu vì sự bất hạnh của quốc gia (Do Thái), và sự hoàn
thành một cách vinh quang những hứa hẹn này mà mọi người Do Thái
đều trông đợi,
Giê-su tự coi mình như là một đấng siêu nhiên. Chỉ như vậy
chúng ta mới hiểu được cách xử sự của Giê-su khi ông ta tự nhận vơ
những thần quyền thí dụ như quyền tha mọi tội lỗi. (Matt. 9:2; Mark 2:5-
12; Luke 5:20, 7:48)
33
Nghiên cứu kỹ hơn về tâm bệnh của Giê-su, William Hirsch nhận định như sau:
Chúng ta thấy một đứa trẻ với những khả năng tâm linh đặc biệt,
tuy nhiên, trong đầu hắn đã có sẵn những nhiễu loạn tinh thần, và dần
dà những hoang tưởng được lập thành. Hắn dùng toàn thể những thì
giờ nhàn rỗi vào việc nghiền ngẫm Cựu Ước, điều này tất nhiên góp
phần vào tâm bệnh của hắn. Khi hắn bắt đầu xuất hiện trước quần