to you when all men speak well of you, For so did their fathers to the false prophets.)

Theo đúng lời Chúa không thể sai lầm như trên thì các tín đồ Ki Tô, Ca-Tô cũng như Tin Lành, nên mừng khi bị người ta ghét mới phải, đó chính phúc của Chúa ban cho họ. Bị người ta ghét con đường chắc chắn nhất để lên thiên đàng, lẽ nhiên, sau khi chết. Muốn được người ta ghét thì cũng dễ thôi, cứ tiếp tục đi theo con đường phi dân tộc, phản dân tộc như trong quá khứ, chỉ cần biết đến nước Chúa, không cần biết đến quốc gia dân tộc gì. Tại sao mỗi khi người nói hay viết những điều không hợp với những lời "giáo hội dạy rằng" thì các tín đồ Ki-Tô lại chụp lên đầu họ cái thù ghét chống Ki Giáo? Các tín đồ Ki-Tô không biết rằng người ta thù ghét hay chống Ki Giáo chính để giúp cho họ được hưởng phúc của Chúa, giúp họ được phần thưởng lớn trên thiên đàng hay sao, nếu họ tin những lời của Chúa phải đúng.

Các tín đồ Ki Giáo cũng thường hết lời ca ngợi Chúa của họ. Nhưng như vậy họ đã nguyền rủa Chúa Chúa đã khẳng định "Khốn cho những người được quần chúng ca ngợi, các tiên tri giả ngày xưa cũng từng được ca ngợi như thế ". thể họ tin rằng Chúa Giê-su của họ tiên tri thật chứ không phải tiên tri giả. Nhưng Thánh Kinh lại viết rõ, ngày nay tất cả các học giả nghiên cứu Thánh Kinh đều đồng ý điểm này, Giê-su tin rằng ngày tận thế đã gần kề, sẽ xảy ra ngay trong thời đại vài tông đồ của ông còn sống, khi đó ông sẽ trở lại trần để phán xét người sống cũng như người chết. (Xin xem lại chương I, trang 62-63). Điều này đã không xảy ra. Lại nữa, Matthew 12: 40 kể rằng: Chúa Giê-su nói: "Như Giô-na đã nằm trong bụng ba ngày ba đêm, Ta sẽ vào lòng đất ba ngày ba đêm" (For as Jonas was three days and three nights in the whale's belly; so shall I be three days and three nights in the heart of the earth). Khoan kể đến việc Giê-su tin vào câu chuyện hoang đường trong Cựu Ước: Jonas nằm trong bụng voi 3 ngày 3 đêm, đây lời tiên tri của Giê-su về cái chết giả của mình. Nhưng Thánh Kinh cũng lại viết rằng Giê-su chỉ "vào trong lòng đất" hai đêm một ngày, từ 3 giờ chiều thứ Sáu (Matthew 27: 46) đến sáng sớm Chủ Nhật, trời mới rạng đông (Matthew 28:1). Từ hai chuyện "tiên tri" trên của Giê-su trong Tân Ước, chúng ta bắt buộc phải kết luận: Giê-su chẳng qua cũng chỉ một nhà tiên tri giả. vẻ như không tín đồ Ki nào nghĩ ra điều hiển nhiên này nên họ vẫn tiếp tục ca ngợi Chúa Giê-su của họ cũng như ngày xưa, các tiên tri giả đã được ca ngợi.

Dựa vào những lời dạy trên của Giê-su, nền Thần học Ki Giáo giảng rằng đạo Giê-su đạo của người nghèo khổ, Chúa đã ban phúc cho những người nghèo. Tuy nhiên, một câu hỏi được đặt ra là, tại sao Chúa lại cần phải nguyền rủa người giàu? Một "lý luận" thần học khác là, nghèo khổ sự thử thách của Thiên Chúa về lòng tin Thiên Chúa của con người. luận này hạ thấp Thiên Chúa xuống hàng một cái máy đức tin (faith-detector). Thật ra thì, theo nhiều nhà phân tích Thánh Kinh, những lời dạy trên bắt nguồn từ những điều hoang tưởng hi vọng của chính Giê-su. Với những mặc cảm về thân phận của chính mình: một đứa con hoang, sinh ra trong sự nghèo khổ của gia đình một ông thợ mộc đông con, ít nhất Joseph Mary 7 người con, do đó đời sống vật chất khó khăn, cho nên Giê-su hi vọng rằng, cứ tin Thiên Chúa thì ngày Thiên Chúa sẽ đền xứng đáng. Đây cũng chẳng phải niềm tin riêng của Giê-su niềm tin của cả dân tộc Do Thái trong tâm trạng bị bắt làm lệ, đầy. Cho nên, thông điệp chính của Giê-su trong những lời giảng dạy trên suy diễn từ ước hi vọng của chính mình thành những lời mục đích khuyến khích những người nghèo khổ hãy an phận nghèo