(resurrection) của Giê-su và gọi đó là sự sống lại của tinh thần (spiritual resurrection).
Thứ đến, tất cả các chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh ngày nay đã cho rằng câu mà giáo hội đặt vào miệng Giê-su sau khi ông ta đã nằm yên dưới mồ là do chính giáo hội thêm thắt vào Thánh Kinh sau này để thực hiện âm mưu bành trướng đạo với mục đích chính yếu là tạo quyền lực trên đám dân ngu dốt và vơ vét của cải thế gian. Chúng ta chỉ cần nhìn vào tâm cảnh nô lệ Vatican của các tín đồ và tài sản của giáo hội trên khắp thế giới là thấy ngay nhận định như trên của các học giả không phải là vô căn cứ.
Ngoài ra, trong phần phân tích bằng chứng ngụy tạo thứ hai ở trên, chúng ta đã thấy rõ, Thánh Kinh viết rằng Giê-su tin rằng ngày tận thế sắp tới, sẽ xảy ra ngay trong thời đại của ông, vậy bảo các tông đồ đi truyền đạo trên thế giới để làm gì?
Sau cùng, ngay trong Thánh Kinh cũng có nhiều điều trái ngược hẳn với tinh thần của câu ngụy tạo trên. Chứng minh?
Thứ nhất, tín đồ Ki Tô Giáo nói chung tin rằng Thánh Kinh là những lời mạc khải không thể sai lầm của Chúa, Chúa Cha cũng như Chúa Con. Thánh Kinh viết rằng trái đất phẳng và dẹt, đứng yên một chỗ, ở trên có một vòm trời bằng đồng thau v..v.. Vậy, ngay cả Chúa Cha cũng không biết là quả đất tròn và cho đến thế kỷ thứ 4, Thánh Augustine, bậc Thánh của Ca-Tô Giáo được coi là ông tổ của nền Thần học Đức Tin Ca-Tô, có trí tuệ siêu việt v..v.. cũng còn không quan niệm nổi một trái đất có hình cầu qua lời phát biểu: “Không thể nào có chuyện có người ở phía bên kia của trái đất, vì Thánh Kinh không ghi lại bất cứ một giống người nào như vậy trong các hậu duệ của Adam” (It is impossible there should be inhabitants on the opposite side of the earth, since no such race is recorded by Scripture among the descendants of Adam). Vậy, trước đó gần 400 năm, Chúa Con (Giê-su) bảo các tông đồ đi đến “mọi quốc gia” thì đó là những quốc gia nào? Hiển nhiên đó không phải là những quốc gia ở phía bên kia của một trái đất hình cầu, mà chỉ là những quốc gia giới hạn trong tầm nhìn của Giê-su, nghĩa là không ra ngoài những quốc gia trong miền Trung Đông. Điều này thật là rõ ràng khi chúng ta đọc nhận định sau đây của giáo sư thần học Uta Ranke-Heinemann:
Giê-su không hề có ý định thành lập một “giáo hội”, nhất lại là
một “giáo hội phổ quát”. Thí dụ chân thực về quan điểm của Giê-su,
chúng ta hãy xét đoạn văn trong Thánh Kinh, Matthew 10: 5-6, nội
dung đối ngược hẳn với nhiệm vụ truyền giáo trên thế giới: “Mười hai
tông đồ Giê-su phái đi để truyền đạo với lời dặn dò: “Không được đi
đến nơi nào có dân Gentiles, và không được vào thành phố nào của
dân Samaritan, mà chỉ đi đến những con dân Do Thái bị lạc” (nghĩa là
chỉ đi rao truyền đạo Chúa trong dân Do Thái mà thôi. Và câu tiếp theo trong
Thánh Kinh, Matthew 10:7 là “Trong khi đi hãy rao truyền tin Nước Trời
đã gần đến rồi”. TCN). Hai đoạn khác là trong Matthew 15:24: “Ta
được phái xuống trần chỉ để cứu đàn chiên Do Thái bị lạc mà thôi”, và
10: 23: “Ta bảo đảm với các ngươi, các ngươi chưa đi hết các thành
phố của Do Thái thì Con của Người (nghĩa là Ta: Giê-su)đã đến rồi”.
Chính Giê-su - và ngày nay mọi nhà thần học đều biết vậy – tin
rằng Nước Chúa sắp tới. Điều này đối ngược với nhiệm vụ truyền bá
đạo một cách đại qui mô trên thế giới.
25
Cũng vì những bằng chứng không thể chối cãi được ở ngay trong Thánh Kinh mà khi được hỏi rằng: “Giê-su có ý định thành lập một tôn giáo mới, tôn giáo mà ngày nay chúng ta gọi là Ki Tô Giáo, hay ít nhất là tạo ra một giáo hội Ki Tô tách biệt (ra khỏi Do Thái giáo. TCN) không?” (Did Jesus intend to found a