Giáo chỉ chiếm 7% dân chúng nhưng được hợp thức hóa là một tôn giáo trong khi Phật Giáo, chiếm khoảng 80% dân chúng, chỉ được coi như là một hiệp hội, và do đó về pháp lý không khác gì một hội như hội quần vợt.
Nhìn rõ vấn đề tôn giáo trong xã hội, học giả Paul Blanshard đã viết như sau trong cuốn Nền Tự Do Của Mỹ và Quyền Lực Ca-Tô (American Freedom and Catholic Power), trang 4, như sau:
"Anh không bao giờ nên chỉ trích tôn giáo của người khác", cái giáo lý nghe có vẻ vô hại đó, phát xuất từ những tình cảm cao quý, nhưng thật là nguy hại cho lối sống dân chủ. Nó không để ý đến bổn phận phải bênh vực sự thật trong mọi ngành tư duy của mọi công dân tốt. Nó không xét đến sự kiện là phần lớn cái mà con người gọi là tôn giáo cũng là chính trị, lành mạnh xã hội và kinh tế. Giữ yên lặng về "tôn giáo của người khác" có thể đưa đến nền y tế hạng hai, nền giáo dụcthấp kém, và chính quyền phản dân chủ."
(You should never criticize another man's religion", that innocent- sounding doctrine, born of the noblest sentiments, is full of danger to the democratic way of life. It ignores the duty of every good citizen to stand for the truth in every field of thought. It fails to take account of the fact that a large part of what men call religion is also politics, social hygiene and economics. Silence about "another man's religion" may mean acquiescence in second-rate medicine, inferior education and anti democratic government.)
Mặt khác, về vấn đề chia rẽ tôn giáo, nếu chúng ta nhìn kỹ lịch sử thì chúng ta sẽ thấy rằng, trong mấy trăm năm nay, từ khi Ca-Tô giáo Rô- ma du nhập Việt Nam, và cho tới tận ngày nay, sự chia rẽ tôn giáo không phát xuất từ đại khối dân tộc, mà từ một tín ngưỡng thuộc thiểu số, vào khoảng 7% dân số: tín ngưỡng Ca-Tô, dựa trên thế lực ngoại bang và cường quyền. Lịch sử Việt Nam, từ khi Ca-Tô Giáo du nhập Việt Nam năm 1533, trong thời Pháp thuộc, và trong 20 năm, từ 1955 đến 1975, ở miền Nam Việt Nam, đã chứng tỏ như vậy. Thật vậy, chính Linh mục Lương Kim Định cũng phải thú nhận trong cuốn Cẩm Nang Triết Việt, trang 57, rằng:
"...sự truyền đạo Thiên Chúa vào Việt Nam...đã đưa đến sự chia khối dân tộc đang thống nhất thành hai phe lương giáo làm cho sự liên lạc giữa đôi bên trở nên nhức nhối đầy e dè nghi kỵ. Đấy là một tai nạn lịch sử mà thời gian tuy có giảm đi nhưng xem ra không sao xóa sạch được."
Không nhức nhối và e dè nghi kỵ làm sao được khi mà tín đồ Ca-Tô tỉnh ngộ Charlie Nguyễn đã phải đau lòng viết sách tố cáo tinh thần nô lệ của Hội Đồng Giám Mục Ca-Tô Việt Nam, và nêu lên sự kiện là cho tới tận ngày nay, trong các sách bổn, kinh cầu nguyện, kinh nhựt khóa của giáo dân Ca-Tô Việt Nam v..v.., vẫn còn chứa những câu có tính cách xúc phạm đến toàn thể dân tộc Việt Nam, đến ông bà tổ tiên chúng ta, đến Phật Giáo và tất cả những tôn giáo khác v..v.., những câu như: "Kẻ dữ là kẻ chẳng có đạo"; "Xin Chúa đoái thương dân tộc Việt Nam đang còn ngồi trong bóng tối tăm ngoại giáo"; "..đang ở nơi tối tăm thờ lạy bụt (Phật)thần ma quỉ"; "Ông Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e phá tan đạo Bụt Thần"; "Ông Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e là lịnh rao truyền tiếng Đức Chúa Thánh Thần cho những dân mọi rợ." v..v.. (Xin đọc "Công