NHẬT KÍ TÌM HIỂU THỰC TRẠNG ĐỘC THÂN

CỦA NHÂN VẬT LỊCH SỬ HỒ CHÍ MINH

Trần Xuân An


28 tháng 2, 2009

 

 

Đánh giá một con người, căn cứ vào mức độ cống hiến của người ấy cho dân tộc và nhân loại, chứ không phải căn cứ vào sự bình thường hay không bình thường của bộ phận nào đó trong cơ thể. Người xưa thường nói "nhân bất thập toàn". Nhưng điểm tật về chức năng một bộ phận cơ thể của nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh và anh chị ruột của Người chỉ minh định thể trạng hiền nhân thuần khiết bẩm sinh của họ, như nhân dân Nam Đàn, Nghệ An ca ngợi: "Nam Đàn sinh Thánh". Hồ Chí Minh là thánh nhân cần thiết phải xuất hiện trong tình hình đấu tranh cận - hiện đại, đặc biệt là đấu tranh về tôn giáo, ý thức hệ, trước các thủ đoạn xuyên tạc, bôi nhọ ngày càng tinh vi, thâm độc.

Bài viết này góp phần vào việc phê bình trong tinh thần dân chủ đối với cuốn "Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh" và phê phán tiểu thuyết "Đỉnh cao chói lọi" của nhà văn sa-đích Dương Thu Hương.

Trong bài viết, khi phân tích tư liệu sấm kí "Nam Đàn sinh Thánh", tôi có đề cập đến giai đoạn lịch sử từ khoảng cuối thế kỉ mười bảy (XVII) đến khoảng cuối thế kỉ mười chín (XIX). Trong quãng thời gian lịch sử này, công lao của các chúa Nguyễn và những thành tựu nội trị, phương cách đối phó trước thách đố do tình thế chung của vương triều Nguyễn vẫn được khẳng định, đề cao, mặc dù tôi không viết thành câu chữ (bởi đã viết nhiều lần ở những bài khác, sách khác). Nhưng cũng không phải công lao, thành tựu và phương cách đối phó cùng tư thế đứng trước thách đố của thời thế ấy không ở trong bối cảnh "Đàng Trong - Đàng Ngoài" tại nước ta, và càng không phải ở ngoài toàn cảnh thế giới trước hiểm họa "truyền đạo" đi đôi với "tìm đất" của thực dân Phương Tây, Âu Mỹ...

 

1.

Nhật kí ngày 12-01 HB9 (2009)

Cuộc sống độc thân trọn đời của nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh, từ mấy mươi năm trước, không một ai trên đất nước Việt Nam không biết. Cũng như vậy, nhiều người trên thế giới đã biết đến, như lâu nay chúng ta từng tiếp xúc với nhạc sĩ thiên tài Trịnh Công Sơn. Và lòng ngưỡng mộ trong nước, ngoài nước về Hồ Chí Minh không vì thế mà suy giảm hay tăng lên. Nhưng trong thời gian gần đây, nhất là khi cuốn “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh” tung ra trên mạng toàn cầu, kế đến là xuất hiện tiểu thuyết “Đỉnh cao chói lọi” của Dương Thu Hương với bản điện tử và bản in giấy, vấn đề trở nên ồn ào đáng lưu ý.

Tôi không muốn viết một điều gì về sử học, về người thật, việc thật, nếu không có đầy đủ tư liệu gốc, tư liệu khả tín trong tay. Những trang viết suy diễn, dựa vào những gì “nghe nói”, nghe kể”, chỉ tổ làm mất uy tín của người cầm bút mà thôi.

Trước đây, tôi đã từng đọc và suy ngẫm nhiều về một khổ thơ của Nguyễn Đình Thi, vốn được ông viết từ 1950, trước chiến thắng Điện Biên Phủ, và đã tái bản nhiều lần:

“Nơi đây sống một người tóc bạc

Người không con mà có triệu con

Nhân dân ta gọi Người là Bác

Cả đời Người là của nước non”

(“Quê hương Việt Bắc” - 1950)

Gần đây, tôi cũng tìm được trên một trang thông tin điện tử văn bản lá thư Hồ Chí Minh gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng, bộ trưởng Bộ Thương binh – Cựu binh (từ 1947 đến 1959). Xin lưu ý rằng, đây là lá thư gửi cho một bác sĩ y khoa, tín đồ Thiên Chúa giáo, nguyên giám đốc Nha Y tế Bắc Bộ trước 1945 (lưu dung). Văn bản này chắc vẫn còn đươc lưu trữ; và hiện nay, hẳn rất thuận lợi để giám định khoa học thực nghiệm lá thư ấy (bản thủ bút). Nó là một văn bản thuộc loại tư liệu gốc, có giá trị khả tín cao nhất, chỉ sau những hồ sơ theo dõi sức khỏe của Hồ Chí Minh. Nhưng rất đáng tiếc là tôi chỉ được biết qua bản sao nguyên văn (1) hoặc lời dẫn như sau:

“Cuộc đời Bác còn có gì đặc biệt? Trong thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng, Bác đã tự nhận là người không có gia đình và không có con nhưng “gia đình tôi là Việt Nam, con cái tôi là các thanh niên Việt Nam” (1).

Những thông tin đó không có gì mới. Như đã nói, toàn dân và thế giới đều biết. Vấn đề là từ chỗ chúng ta hoàn toàn tin tưởng, nay bỗng thấy nên kiểm tra lại sự tin tưởng của chúng ta, trước những cuốn sách chứa đựng những điều trái ngược, mặc dù chúng cũng cũ mèm nhưng gây nhiều chấn động bởi phương tiện truyền thông hiện đại.

Tôi lại tiếp tục tìm kiếm, và tìm thấy những bài sấm kí quá quen thuộc, đã khắc vào trí nhớ tôi từ gần 30 năm trước, hồi tôi còn dạy học ở một vùng rừng khai hoang. Chúng thuộc loại tư liệu dân gian, sấm kí (không thuộc loại sử liệu có giá trị khả tín cao) rất phổ biến ở Nghệ An và trên toàn quốc:

“Đụn Sơn phân giái (:giới)

Bò Đái thất thanh

Thủy đáo Lam Thành

Nam Đàn sinh (:sanh) Thánh”

(dịch nghĩa:

Núi Đụn nứt hai [: chia ranh giới]

Bò Đái mất tiếng

Nước lụt đến Lam Thành

Nam Đàn sinh ra thánh nhân).

Thử tìm hiểu lại bài sấm kí này, trước hết, về hiện tượng thiên nhiên được miêu tả.

Theo báo điện tử Vĩnh Phúc (bài của Mai Hiên): “Núi Đụn chính là núi Hùng Sơn ở phía tây huyện Nam Đàn. Năm 722, Mai Thúc Loan (tức là vua Mai Hắc Đế) xây dựng kho quân lương ở trên núi để chống giặc Đường nên gọi là Núi Đụn. Khe Bò Đái (tên gọi trong dân gian) chảy từ vách đá dựng đứng ở Rú Kia (còn gọi là Cơ Sơn), nước chảy ồ ồ và tung bọt trắng xóa. Trong một trận động đất, núi Đụn bị phân đôi, khe Bò Đái cũng bị rạn nứt, nước chảy nhưng bị thẩm thấu lan toả nhiều vào lòng đất đá nên không phát ra tiếng ồ ồ như trước” (2).

 

Xem bản đồ và thông tin ở cuối bài

 

Bây giờ, chúng ta thử ngẫm nghĩ các từ ngữ, hình ảnh.

“Phân giái” còn có dị âm là phân giới và ở một dị bản là phân giải. Chữ giới có âm khác là giái, giái hợp vần với chữ đái ở câu dưới hơn. Còn “phân giải”, nghĩa đen là tách ra, tan rã, nhưng trong Hán văn cũng như trong tiếng Việt đều dùng với nghĩa là phân trần, giải thích, hòa giải; riêng trong ngành hóa học, dùng với nghĩa phân tích, hóa phân (3). “Thất thanh” (trong tiếng Việt) còn có nghĩa là tiếng kêu thảng thốt, kinh ngạc, đến mức kêu không thành tiếng, như trước một trận động đất dữ dội chẳng hạn.

Lam Thành là tên khác của núi Hùng Sơn. Nhiều dị bản không có câu thứ 3 này, nhưng theo tôi, câu thứ 3 này vừa hợp với thể thơ (4 câu), vừa miêu tả thêm về lưu lượng và dung lượng của nguồn nước lũ lụt phi thường.

Hình ảnh thơ nổi bật và tạo ngay ấn tượng cho người đọc là các biểu tượng âm dương (sông núi); dùng hình tượng núi non, suối khe để miêu tả sinh thực khí (linh vật linga, yoni; nõn [nõ], nường) của trời đất.

Địa danh “Bò Đái” (chữ Nôm) lại là cách so sánh ngầm (ẩn dụ) có tính cụ tượng, trực quan sinh động. Trong ngữ cảnh này, người đọc nhận ra hình tượng Bò thần Nandin [Nandi], biểu tượng của thần Hủy diệt và Sáng tạo Shiva (Isana): quyền lực và sinh nở, trong tôn giáo Bà La Môn (tiền thân của tôn giáo Hindu [Ấn Độ giáo]).

Cả cụm hình tượng ở 3 câu 1, 2 và 3 vừa thể hiện sự thiêng liêng (thánh hóa) vừa cho người đọc cảm nhận trần tục (thậm chí vật hóa), để đi đến câu kết (câu 4), thể hiện hiện tượng siêu phàm: “Nam Đàn sinh Thánh” — thánh nhân thường được hiểu là thuần khiết tuyệt đối (không vợ không chồng). Đây là một cách tôn vinh theo phong cách sấm kí, ngôn ngữ dân dã.

Nếu không chấp nhận cách giải mã nghệ thuật này, sẽ không hiểu vì sao lại sử dụng địa danh “Bò Đái” trong khi nó có tên khác trang nhã hơn: Vũ Nguyên; và cả câu 2 có thể là: “Nguồn Vũ” thất thanh hay Vũ bộc thất thanh.

Thử đọc cả câu 1, câu 2 theo cách đó:

“Hùng Sơn [Hùng Lĩnh?] phân cốc,

Vũ bộc thất thanh”

(Núi Hùng chia hang,

Thác Vũ mất tiếng).

“Bò Đái” rõ ràng có chức năng nghê thuật là một nhãn từ (nhãn tự: chữ mắt)! Xin nhớ là “Đại Nam nhất thống chí” đã ghi rõ là suối Vũ Nguyên còn có tên thường gọi là khe Bò Đái, và nguyên văn trong sách: “Ngạn ngữ có câu: “Bò Đái thất thanh’” (4). Đó là một câu không phải thuộc loại đã bị thay đổi, sửa chữa.

Ngoài ra, việc không dùng địa danh Hùng Sơn (hay Hùng Lĩnh?) mà dùng địa danh núi Đụn (đụn thóc, gạo…: quân lương thời Mai Hắc Đế [gốc Chăm?]), trong ngữ cảnh nhất định này, còn gợi cho người đọc ý niệm ước muốn phồn thực, với nghĩa cụ thể là thực phẩm dồi dào (không chỉ sinh con đẻ cháu đông đúc mà còn no ấm).

Thánh nhân (thuần khiết) ra đời từ ước vọng ấm no, hạnh phúc, sum vầy. Phải là bậc thánh nhân (thuần khiết) như thế mới cứu được đất nước, lo được cho nhân dân như ước vọng ấy. Phải chăng đó là ý tưởng xuyên suốt và bao trùm bài tứ tuyệt tứ ngôn sấm kí dân dã trên (vốn xuất hiện vài ba trăm năm trước đây)?

Là con người, cho dù là Phật, Chúa, Tiên, Thánh, tất cả đều được sinh ra từ sinh thực khí (linga [nõn / nõ] - yoni [nường], riêng yoni [nường] bao gồm cả hai bầu sữa của người mẹ). Vì vậy, khi thánh thiêng hóa, vật thiêng hóa sinh thực khí, đồng nhất hóa sinh thực khí với núi non, sông suối quê hương, là đã tôn vinh, tôn vinh trong niềm ước vọng, về một Thánh nhân sẽ ra đời, cứu dân, cứu nước hay tế độ chúng sinh.

Điểm cuối, xin minh định rằng, nguyên văn bài sấm kí dân dã trên đúng y như thế. Chính vì sững sờ bởi địa danh “Bò Đái”, được dùng như nhãn từ, nên tôi thử đưa ra một cách giải mã dựa trên tín ngưỡng tôn thờ sinh thực khí thánh thiêng hóa của người Chăm (theo đạo Bà La Môn [Hindu, Ấn Độ]) và ở nhiều vùng khác tại Bắc Bộ, Trung Bộ nước ta (hiện vẫn còn tín ngưỡng nõn nường thánh thiêng hóa hoặc đang ảnh hưởng như một nếp văn hóa vô thức). Đây chỉ là một cách giải mã thử nghiệm, nếu có gì sơ suất, xin niệm tình lượng thứ.

Tôi thấy mình nên ngừng lại, nhưng rồi không thể không tìm hiểu thêm.

Cũng từ báo điện tử Vĩnh Phúc: “Theo thuyết phong thuỷ trong dân gian ở vùng Nam Đàn vẫn truyền tụng câu: “Bạch tượng uyển hồ, Hồ trung nhất huyệt, nhất đại đế vương” (nghĩa là ở trên con voi trắng trong xứ Ao Hồ có một huyệt đạo, phát làm vua một đời)” (2).

Liệu tác giả Mai Hiên viết và chép đã đúng chưa? Tôi giở sách để tra cứu.

Theo “Đại Nam nhất thống chí” (tập 2, sđd.), ở Nghệ An có một gò đất gọi là Gò Hồ. Phải chăng Uyển Hồ chính là Gò Hồ này? Uyển, theo chữ Hán, là khu vườn hoặc là nơi có cây cối xanh tốt; “Uyển Hồ” là địa danh theo kết cấu tiếng Việt, như Thành Vinh, Thành Hà Nội, Thành Huế? Vì không có bản chữ Hán trên tay để mở từ điển tra lại mặt chữ, tôi nghĩ, chắc hẳn không phải “uyển”, mà là “uyên”: vực sâu; Uyên Hồ (kết cấu theo Hán ngữ): xứ Hồ có vực sâu (vì bài báo vừa dẫn đã đưa ra câu dịch nghĩa, trong đó có địa danh là Ao Hồ)? Nhưng chắc chắn hơn, “bạch tượng uyển hồ” (con voi trắng – hồ nước ở khu đất tươi tốt) chỉ là tên gọi một dạng thế đất tốt để làm huyệt mộ, theo thuật địa lí - phong thủy?

Nhưng điều cần chú ý hơn là câu cuối: “Nhất đại đế vương”. Theo ngữ nghĩa, câu nói theo thuyết phong thủy này không nhằm nói đến chế độ dân chủ. Chế độ dân chủ không theo lệ phong kiến cha truyền, con nối. Chắc hẳn câu sấm chỉ nói đến vị thánh thuần khiết (không vợ con) của Nam Đàn: Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Quay lại với bài sấm, như bài báo “Lời sấm đất Nam Đàn” trên Trang thông tin huyện Nam Đàn, Nghệ An (5), câu thứ 4 của bài sấm vừa được đề cập ở phần trên là “Song Ngư thủy biển (:thiển)”, về sau được các nhà nho cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX sửa lại là “Nam Đàn sinh Thánh”.

Theo đó, chúng ta có thể thấy rằng, cả bài sấm đã được phân tích ở trên và câu nói theo thuyết phong thủy vừa bàn đến, đều nhắm đến Nguyễn Ái Quốc (chủ tịch Hồ Chí Minh về sau). Ngay Phan Bội Châu cũng nghĩ như vậy.

Thực ra, tôi không bao giờ mê tín vào loại sấm kí, phong thủy ở góc độ huyền bí. Nếu thuật phong thủy vẫn còn có giá trị là ở phương diện thẩm mĩ, nó có thể giúp ta chọn được cuộc đất đẹp, thì sấm kí còn có giá trị chăng là ở chỗ phán đoán được xu thế thời đại, gồm xu thế chính trị, kinh tế, quân sự, mà thường một người ưu thời mẫn thế có thể tổng hợp thông tin, đưa ra lời ước đoán khá chính xác (tuyệt nhiên không có chút nào huyền bí trong đó). Trong trường hợp bài sấm cũng như câu nói theo thuyết phong thủy trên, chúng ta còn rút ra được một lượng thông tin là sự ghi nhận thực tại nhãn tiền chứa đựng trong chúng nữa. Nói giản đơn hơn, người ta thấy Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thuần khiết (không vợ không con) nên người ta sửa chữa sấm kí, câu nói theo thuyết phong thủy lại cho phù hợp. Thế thôi. Ngoài ra, cũng có người dựa vào sự đồng âm Hán – Việt, cho rằng sau khi ông Nguyễn Sinh Khiêm cải táng di cốt mẹ là bà Hoàng Thị Loan ở xứ Gò Hồ này, nên Nguyễn Ái Quốc (già Thu) lấy họ Hồ; còn tên ghép Chí Minh là để nhớ ơn Hầu Chí Minh, khi bị giam tù tại Trung Quốc (1942-1943); nhưng có thể đây chỉ là sự suy diễn hoặc ngẫu nhiên, tuy hợp lí hơn giả thuyết nguyên gốc họ Hồ làng Quỳnh Đôi trong tiểu thuyết “Búp sen xanh” của nhà văn Sơn Tùng.

Ở đề mục này, tôi muốn khai thác bài sấm kí và câu nói theo thuyết phong thủy trên về phương diện ghi nhận sự thật về Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh theo cách sửa chữa câu chữ cho phù hợp như vừa trình bày.

Rốt lại, với tư liệu thuộc loại cần tra cứu kĩ, vốn có trong trí nhớ và trên mạng toàn cầu, đáng tin cậy nhất vẫn là hai tư liệu dưới đây:

1) Tư liệu gốc: Thư Hồ Chí Minh gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng (1). Cần tìm ra bản gốc ở Bảo tàng Cách mạng Việt Nam và tiến hành giám định thực nghiệm văn bản này.

2) Tư liệu thứ cấp: Khổ thơ Nguyễn Đình Thi, viết năm 1950, đã xuất bản và tái bản nhiều lần.

Tìm hiểu (không thể nói là nghiên cứu) với những tư liệu như vậy, thật không yên tâm chút nào. Thế mà có người dám viết bừa đến mấy trăm trang sách, không viện dẫn được một nguồn tư liệu nào! Thật đáng sợ.

 

(Mời xem tiếp )

Trang Lịch Sử